NỘI DUNG
THEO QUY ĐỊNH CỦA BỘ LUẬT HÌNH SỰ VIỆT NAM
Tội phạm là một khái niệm quan trọng trong nhiều lĩnh vực khoa học, đặc biệt là trong luật hình sự, nơi nó được nghiên cứu kỹ lưỡng Khái niệm này không chỉ phản ánh bản chất giai cấp mà còn thể hiện các đặc điểm chính trị, xã hội và pháp lý của luật hình sự Ngoài ra, tội phạm còn được coi là điều kiện cần thiết để phân định rõ ràng giữa tội phạm và không phải tội phạm, cũng như giữa trách nhiệm hình sự và các trách nhiệm pháp lý khác.
Theo Khoản 1 Điều 8 Bộ Luật Hình sự năm 1999, tội phạm được định nghĩa là hành vi nguy hiểm cho xã hội, do người có năng lực trách nhiệm hình sự thực hiện, có thể là cố ý hoặc vô ý Những hành vi này xâm phạm đến độc lập, chủ quyền, thống nhất và toàn vẹn lãnh thổ của Tổ quốc, cũng như các lĩnh vực như chế độ chính trị, kinh tế, văn hóa, quốc phòng, an ninh, trật tự, an toàn xã hội Ngoài ra, tội phạm còn xâm phạm quyền và lợi ích hợp pháp của tổ chức, tính mạng, sức khỏe, danh dự, nhân phẩm, tự do, tài sản và các quyền lợi hợp pháp khác của công dân, ảnh hưởng đến trật tự pháp luật xã hội chủ nghĩa.
Quy định về tội phạm nêu trên thể hiện quan điểm của nhà nước ta một cách khoa học và tập trung Từ quy định này, có thể rút ra khái niệm tội phạm là hành vi nguy hiểm cho xã hội, có lỗi, vi phạm pháp luật hình sự và phải chịu hình phạt.
1.1.2 Tội trộm cắp tài sản
1.1.2.1 Tội trộm cắp tài sản theo quy định của Bộ luật hình sự Việt Nam năm 1985
Bộ luật Hình sự (BLHS) năm 1985, được Quốc hội thông qua vào ngày 27/6/1985, đã thể hiện sự phát triển lập pháp cao với việc trình bày hệ thống và toàn diện các quy định về tội phạm BLHS này không chỉ bảo vệ thành quả cách mạng và an ninh quốc gia mà còn bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của công dân Trong giai đoạn xây dựng nền kinh tế kế hoạch hóa tập trung, BLHS 1985 đã quy định hai loại hành vi xâm phạm sở hữu: xâm phạm sở hữu xã hội chủ nghĩa và xâm phạm sở hữu của công dân, được nêu rõ trong các chương tương ứng Cụ thể, Điều 132 quy định về tội trộm cắp tài sản xã hội chủ nghĩa, phản ánh sự chú trọng vào việc bảo vệ tài sản trong bối cảnh xã hội lúc bấy giờ.
Theo Điều 155 BLHS 1985, người trộm cắp tài sản xã hội chủ nghĩa có thể bị phạt cải tạo không giam giữ đến hai năm hoặc phạt tù từ sáu tháng đến năm năm Nếu phạm tội trong các trường hợp như có tổ chức, tính chất chuyên nghiệp, sử dụng thủ đoạn xảo quyệt, hành hung để tẩu thoát, chiếm đoạt tài sản có giá trị lớn hoặc tái phạm nguy hiểm, mức phạt có thể từ ba năm đến mười hai năm Trong trường hợp đặc biệt nghiêm trọng, hình phạt có thể lên đến mười năm, hai mươi năm, tù chung thân hoặc tử hình.
Người trộm cắp tài sản của người khác có thể bị phạt cải tạo không giam giữ đến một năm hoặc phạt tù từ ba tháng đến một năm Nếu phạm tội trong các trường hợp như có tổ chức, sử dụng thủ đoạn nguy hiểm, chiếm đoạt tài sản lớn hoặc tái phạm nguy hiểm, mức án có thể từ hai năm đến mười năm Đối với những trường hợp đặc biệt nghiêm trọng, hình phạt sẽ từ bảy năm đến hai mươi năm tù.
Bộ luật Hình sự (BLHS) năm 1985 đã đóng vai trò quan trọng trong việc xử lý tội phạm, nhưng vẫn tồn tại sự phân biệt giữa tội trộm cắp tài sản xã hội chủ nghĩa và tội trộm cắp tài sản của công dân, với mức xử lý nghiêm khắc hơn đối với tội trộm cắp tài sản XHCN Điều này thể hiện quan điểm của Nhà nước ta trong việc xử lý tội phạm trộm cắp Sau bốn lần sửa đổi, BLHS năm 1985 không còn phù hợp và cần một bộ luật mới, dẫn đến sự ra đời của BLHS năm 1999, kế thừa và phát triển để phù hợp với điều kiện xã hội hiện tại.
1.1.2.2 Tội trộm cắp tài sản theo quy định của Bộ luật hình sự Việt Nam năm 1999
Trong bối cảnh phát triển nền kinh tế hàng hóa nhiều thành phần theo định hướng xã hội chủ nghĩa, cần xem xét lại các tội phạm về kinh tế và sở hữu để điều chỉnh chính sách và pháp lý phù hợp, nhằm nâng cao hiệu quả trong công tác phòng chống tội phạm Ngày 21/12/1999, Quốc hội khóa IX đã thông qua Bộ luật Hình sự năm 1999, có hiệu lực từ ngày 1/7/2000, với những quy định cụ thể về tội xâm phạm sở hữu, bao gồm cả tội trộm cắp tài sản.
1999 quy định tội trộm cắp tài sản như sau:
Người trộm cắp tài sản có giá trị từ hai triệu đến dưới năm mươi triệu đồng, hoặc dưới hai triệu đồng nhưng gây hậu quả nghiêm trọng, sẽ bị phạt cải tạo không giam giữ đến ba năm hoặc phạt tù từ sáu tháng đến ba năm Điều này áp dụng cho những người đã bị xử phạt hành chính hoặc kết án về tội chiếm đoạt tài sản mà chưa xóa án tích và tiếp tục vi phạm.
Nếu phạm tội trong các trường hợp như có tổ chức, tính chất chuyên nghiệp, tái phạm nguy hiểm, sử dụng thủ đoạn xảo quyệt, hành hung để tẩu thoát, hoặc chiếm đoạt tài sản có giá trị từ 50 triệu đến dưới 200 triệu đồng, thì sẽ bị phạt tù từ hai năm đến bảy năm.
Phạm tội trong các trường hợp sau đây sẽ bị phạt tù từ bảy đến mười lăm năm: chiếm đoạt tài sản có giá trị từ hai trăm triệu đến dưới năm trăm triệu đồng hoặc gây ra hậu quả rất nghiêm trọng.
Nếu phạm tội trong các trường hợp như chiếm đoạt tài sản có giá trị từ 500 triệu đồng trở lên hoặc gây ra hậu quả đặc biệt nghiêm trọng, người phạm tội sẽ bị phạt tù từ 12 đến 20 năm hoặc tù chung thân.
Người phạm tội có thể bị phạt tiền từ 5 triệu đến 50 triệu đồng Đặc biệt, đối với tội xâm phạm sở hữu và tội trộm cắp tài sản, Bộ luật Hình sự năm 1999 đã có những thay đổi quan trọng so với các quy định trước đó.
Năm 1999, Bộ luật Hình sự đã có sự thay đổi quan trọng trong quy định về tội trộm cắp tài sản, khi không còn phân chia thành hai tội riêng biệt là trộm cắp tài sản xã hội chủ nghĩa và trộm cắp tài sản của công dân Thay vào đó, tội trộm cắp tài sản được quy định thống nhất, với việc định lượng giá trị tài sản bị chiếm đoạt trở thành yếu tố quyết định tội danh và khung hình phạt, đánh dấu sự khác biệt cơ bản so với Bộ luật Hình sự năm 1985.
Theo Luật số 37/2009/QH12, mức định lượng tối thiểu để truy cứu trách nhiệm hình sự đối với tội trộm cắp tài sản đã được điều chỉnh từ 500.000 đồng lên 2.000.000 đồng, theo khoản 1 Điều 2 và khoản 1 Điều 138 Bộ luật hình sự.
Luật này đã được Quốc hội nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam khóa XII, kỳ họp thứ 5 thông qua ngày 19 tháng 6 năm 2009