QUAN TÀI LIỆU
Tình hình đái tháo đường trên thế giới và Việt Nam
Trong những năm gần đây, mô hình bệnh tật đã có sự thay đổi đáng kể; trong khi các bệnh nhiễm trùng đang giảm, thì các bệnh không lây nhiễm như bệnh tim mạch, tâm thần, ung thư, đặc biệt là bệnh đái tháo đường và các rối loạn chuyển hóa lại đang gia tăng.
Vào những năm cuối thế kỷ 20 và những năm đầu thế kỷ 21, các chuyên gia của
Tổ chức Y tế Thế giới dự báo rằng thế kỷ 21 sẽ chứng kiến sự gia tăng của các bệnh nội tiết và rối loạn chuyển hóa, đặc biệt là bệnh đái tháo đường, được coi là bệnh không lây lan phát triển nhanh nhất Theo thống kê năm 2010, bệnh đái tháo đường đứng thứ năm trong số các nguyên nhân gây tử vong hàng đầu trên toàn cầu Tỷ lệ mắc bệnh này đang gia tăng nhanh chóng, dẫn đến những hệ lụy nghiêm trọng về sức khỏe và kinh tế cho toàn xã hội.
Số người mắc đái tháo đường trên toàn cầu đã tăng đáng kể từ 171 triệu vào năm 2000 lên 366,2 triệu vào năm 2011, và dự kiến sẽ đạt từ 380 đến 399 triệu vào năm 2025 Theo thống kê mới nhất của Hiệp hội đái tháo đường quốc tế vào năm 2015, số người mắc bệnh này đã tiếp tục gia tăng.
Đến năm 2015, có 415 triệu người trưởng thành từ 20-79 tuổi mắc bệnh đái tháo đường, vượt xa dự báo năm 2025 Trong số này, 215.2 triệu là nam giới và 199.5 triệu là nữ giới, với 269.7 triệu người sống ở khu vực thành thị và 145.1 triệu người ở khu vực nông thôn Điều này có nghĩa là cứ 11 người lớn thì có 1 người mắc bệnh Liên đoàn đái tháo đường quốc tế dự báo đến năm 2040, số người mắc bệnh sẽ tăng lên 642 triệu.
Theo Quỹ đái tháo đường Thế giới (WDF), số người mắc bệnh đái tháo đường ở các nước phát triển đã tăng 42%, từ 51 triệu lên 72 triệu, trong khi ở các nước đang phát triển, con số này tăng tới 170%, từ 84 triệu lên 228 triệu Đái tháo đường type 2 chiếm 85 - 95% tổng số ca bệnh Trung Quốc, Ấn Độ và Mỹ là ba quốc gia có số lượng người mắc bệnh đái tháo đường cao nhất, với 109.6 triệu, 69.2 triệu và 29.3 triệu người Các quốc gia tiếp theo trong danh sách bao gồm Brazil, Nga, Mexico, Indonesia, Ai Cập, Nhật Bản và Bangladesh.
Số lượng người mắc đái tháo đường ở Đông Nam Á đạt 78.3 triệu, đứng thứ hai toàn cầu sau Tây Thái Bình Dương với 153.2 triệu Theo điều tra năm 2008 tại Philippines, tỷ lệ đái tháo đường là 7.2%, với 8.3% ở khu vực thành thị và 5.8% ở nông thôn Tại Indonesia, tỷ lệ này là 5.7% Đái tháo đường đang trở thành một vấn đề sức khỏe toàn cầu nghiêm trọng, đặc biệt ở các nước phát triển, do sự thay đổi nhanh chóng về văn hóa, xã hội, dân số lão hóa, đô thị hóa, chế độ ăn uống không lành mạnh và giảm hoạt động thể chất Tại Việt Nam, số bệnh nhân đái tháo đường đang gia tăng nhanh chóng, không chỉ ở thành phố mà còn ở vùng núi và nông thôn.
Tại thành phố Hồ Chí Minh, tỷ lệ người mắc bệnh đái tháo đường đã tăng từ 2.5% vào năm 1990 lên 6.9% vào năm 2012, ghi nhận là mức cao nhất cả nước Tương tự, tại Hà Nội, tỷ lệ này cũng gia tăng từ 1.2% năm 1990 lên 4% vào năm 2000 và đạt 7% ở nhóm tuổi trên 35.
Theo nghiên cứu của Trần Minh Long năm 2010 tại Nghệ An, tỷ lệ đái tháo đường type 2 ở người từ 30-69 tuổi là 9.4% Huỳnh Nhân Hải cũng cho biết, vào năm 2012, tỷ lệ đái tháo đường type 2 tại thành phố Vĩnh Long là 7.4% Tại tỉnh Trà Vinh trong cùng năm, tỷ lệ bệnh đái tháo đường ở người trên 45 tuổi đạt 9.5%.
Theo báo cáo của Bệnh viện Nội tiết Trung ương năm 2013 [1], trong năm
2002 cả nước chỉ có khoảng 2.7% dân số mắc bệnh đái tháo đường nhưng đến năm
Theo điều tra năm 2012 tại 6 vùng trên cả nước, tỷ lệ này đã tăng lên gần 5.7% Khu vực Tây Nam Bộ ghi nhận tỷ lệ cao nhất với 7.2% dân số, trong khi khu vực Tây Nguyên có tỷ lệ thấp nhất.
Tỷ lệ mắc bệnh đái tháo đường tại Việt Nam hiện nay đạt 3.8% dân số, với 4% tại các thành phố lớn như Hà Nội, Huế, Thành phố Hồ Chí Minh và Hải Phòng Đáng chú ý, tỷ lệ tiền đái tháo đường đã tăng từ 7.7% năm 2002 lên 12.8% năm 2012 Cuộc điều tra cho thấy 63.6% người mắc đái tháo đường không được phát hiện, cao hơn mức trung bình toàn cầu là 50% Nhóm tuổi từ 45-64 tuổi có tỷ lệ mắc bệnh cao nhất, và tình trạng trẻ hóa đang diễn ra Trong 10 năm qua, tỷ lệ mắc đái tháo đường ở Việt Nam đã tăng gấp đôi, một con số đáng báo động so với 15 năm ở các nước khác Hơn nữa, 75.5% người được hỏi có kiến thức rất thấp về bệnh đái tháo đường.
Năm 2015, tỉnh Điện Biên đã tiến hành khám sàng lọc cho 8.400 người, trong đó gần 50% có yếu tố nguy cơ mắc bệnh Tỷ lệ mắc bệnh đái tháo đường type 2 là 2.8% và tỷ lệ tiền đái tháo đường là 18.6% Tại Bệnh viện Đa khoa tỉnh, số lượt bệnh nhân được chẩn đoán đái tháo đường tăng qua các năm: 5.532 lượt năm 2013, 6.075 lượt năm 2014 và 6.132 lượt năm 2015.
Đái tháo đường
Hội Đái tháo đường Mỹ (ADA) định nghĩa đái tháo đường là một bệnh chuyển hóa, đặc trưng bởi tình trạng tăng đường huyết, xảy ra do sự kết hợp giữa kháng insulin và sự thiếu đáp ứng insulin.
Liên đoàn Đái tháo đường quốc tế (IDF) định nghĩa đái tháo đường là một bệnh mạn tính xảy ra khi cơ thể không sản xuất đủ insulin hoặc không thể sử dụng insulin hiệu quả Bệnh được chẩn đoán thông qua việc đánh giá mức độ glucose trong máu Đái tháo đường type 2 đặc trưng bởi tình trạng kháng insulin và thiếu insulin tương đối, với một trong hai rối loạn này có thể xuất hiện khi có triệu chứng lâm sàng.
1.2.2 Tiêu chuẩn chẩn đoán đái tháo đường[3],[13]
Tiêu chuẩn chẩn đoán bệnh đái tháo đường theo IDF năm 2015 dựa vào một trong các tiêu chí:
- Mức đường máu tương lúc đói ≥7.0mmol/l (≥126mg/dl) (Lúc đói được xác định là không dung nạp calo trong 8 giờ).
- Mức đường máu tương ≥ 11.1 mmol/l (200mg/dl) ở thời điểm 2 giờ sau nghiệm pháp dung nạp glucose bằng đường uống (Thực hiện như mô tả của Tổ chức
Y tế Thế giới, sử dụng đường có chứa tương đương với glucose khan 75g hòa tan trong nước).
- Có các triệu chứng của đái tháo đường (lâm sàng); mức đường máu tương ở thời điểm bất kỳ ≥ 11.1 mmol/l (200mg/dl).
1.2.3 Biến chứng của đái tháo đường [33]
Hạ đường huyết xảy ra khi mức đường máu giảm xuống dưới 3.6 mmol/l (65 mg/dl), có thể do quá liều thuốc hạ đường, chế độ ăn uống kiêng khem quá mức, không ăn nhưng vẫn dùng thuốc, tập luyện quá sức hoặc uống nhiều rượu Dấu hiệu nhận biết bao gồm cảm giác đói cồn cào, mệt mỏi, run chân tay, bủn rủn, ra mồ hôi, choáng váng và hồi hộp với nhịp tim nhanh.
Khi có dấu hiệu hạ đường máu nhẹ và trung bình, bệnh nhân cần nhanh chóng tiêu thụ thực phẩm nhẹ như cháo loãng hoặc súp, uống một cốc nước đường, hoặc ăn một chiếc kẹo, sau đó nằm nghỉ ngơi trong không gian yên tĩnh.
Hôn mê do tăng đường máu là một tình trạng nguy hiểm, xảy ra khi mức đường huyết quá cao dẫn đến nhiễm toan ceton hoặc tăng áp lực thẩm thấu Đây là một biến chứng nghiêm trọng và có khả năng gây tử vong, vì vậy người bệnh cần được cấp cứu ngay lập tức.
Biến chứng ở mắt do đường máu cao có thể gây tổn thương hệ thống mao mạch ở đáy mắt, dẫn đến bệnh võng mạc và suy giảm thị lực, thậm chí mù lòa Ngoài ra, đái tháo đường còn làm tăng nguy cơ mắc các bệnh về mắt khác như đục thủy tinh thể, tăng nhãn áp và phù hoàng điểm.
Để phòng ngừa các vấn đề về mắt, người bệnh cần kiểm soát tốt đường máu và khám mắt ít nhất một lần mỗi năm Nếu có dấu hiệu giảm thị lực đột ngột, nhìn mờ, cảm giác có ruồi bay trước mắt, hoặc đau nhức khi ấn vào quầng mắt, cần phải đi khám ngay lập tức.
Đái tháo đường gây tổn thương tế bào nội mạc, dẫn đến rối loạn chức năng của lớp nội mạc mạch máu, nơi tiếp xúc giữa thành mạch và máu Khi chức năng này bị suy giảm, cholesterol dễ dàng xâm nhập vào lớp nội mạc, kết hợp với sự gia tăng khả năng kết dính của tế bào bạch cầu, từ đó hình thành mảng vữa xơ động mạch Sự tiến triển nhanh chóng của mảng vữa xơ dẫn đến hẹp lòng mạch, gây ra các triệu chứng của bệnh thiếu máu cục bộ mạn tính Đồng thời, tổn thương lớp nội mạc cũng tạo điều kiện cho sự hình thành cục huyết khối, gây tắc mạch cấp tính và các biểu hiện nghiêm trọng như cơn đau thắt ngực không ổn định, nhồi máu cơ tim, nhồi máu não, đe dọa tính mạng người bệnh.
Để phòng ngừa hiệu quả, cần kiểm soát chặt chẽ các chỉ số đường máu, mỡ máu và huyết áp trong giới hạn cho phép Bên cạnh đó, chế độ ăn uống hợp lý và luyện tập thể dục khoa học cũng đóng vai trò quan trọng trong việc duy trì sức khỏe.
Bệnh thần kinh ngoại biên ảnh hưởng đến các dây thần kinh, gây ra cảm giác đau, nóng hoặc tiếp xúc, đồng thời cũng tác động đến thần kinh kiểm soát vận động và di chuyển cơ bắp.
+ Bệnh thần kinh tự chủ: Ảnh hưởng đến dây thần kinh kiểm soát hoạt động tự chủ như nhịp tim, nhịp thở, tuyến tiết (mồ hôi, dịch tiết)…
Cách phòng ngừa: Kiểm soát tốt đường máu, vệ sinh và chăm sóc bàn chân đúng cách hàng ngày là cách tốt nhất để phòng ngừa biến chứng.
Lượng đường trong máu cao có thể gây tổn thương cho hàng triệu vi mạch tại thận, dẫn đến suy giảm chức năng lọc và bài tiết của thận Nếu không được kiểm soát, tình trạng này có thể tiến triển thành suy thận không hồi phục.
Để phòng ngừa bệnh thận ở người bệnh đái tháo đường type 2, cần duy trì đường máu và huyết áp ở mức bình thường, kết hợp với chế độ ăn uống giảm muối và giảm đạm Ngoài ra, người bệnh nên thực hiện xét nghiệm microalbumin trong nước tiểu ít nhất một lần mỗi năm để phát hiện sớm các tổn thương thận.
Đường huyết cao tạo điều kiện thuận lợi cho sự phát triển của vi khuẩn và làm suy yếu hệ miễn dịch, dẫn đến nguy cơ cao mắc các bệnh nhiễm trùng như nhiễm trùng răng miệng, đường tiết niệu, sinh dục và vết loét lâu lành Tình trạng viêm nhiễm này thường kéo dài, dai dẳng và khó khăn trong việc điều trị.
Để phòng ngừa, cần kiểm soát đường huyết trong giới hạn an toàn và duy trì vệ sinh cơ thể sạch sẽ, đặc biệt là ở các vùng dễ bị nhiễm khuẩn như răng miệng, sinh dục và đường tiết niệu.
Nếu bạn gặp phải các dấu hiệu nhiễm trùng như sốt, dịch âm đạo có mùi khó chịu, đau khi đi tiểu, nước tiểu đục, có máu hoặc mùi hôi, hoặc có vết thương và xây xước nhỏ lâu lành, hãy nhanh chóng liên hệ với bác sĩ để được tư vấn kịp thời.
Gánh nặng của đái tháo đường
Bệnh đái tháo đường là một căn bệnh nguy hiểm, đe dọa đến tính mạng và gây ra nhiều biến chứng nghiêm trọng Theo Hiệp hội Đái tháo đường Quốc tế, đây là nguyên nhân phổ biến thứ tư gây tử vong tại nhiều quốc gia phát triển Khoảng 50% người mắc bệnh đái tháo đường phải đối mặt với các biến chứng như bệnh mạch vành, bệnh tim mạch, đột quỵ, bệnh lý thần kinh, cắt cụt chi, suy thận và mù mắt, những biến chứng này có thể dẫn đến tàn tật và giảm tuổi thọ.
Bệnh võng mạc đái tháo đường ảnh hưởng đến 35% người mắc bệnh đái tháo đường, dẫn đến 1.9% trường hợp khiếm thị toàn cầu và 2.6% trường hợp mù vào năm 2010.
Theo thống kê từ 54 quốc gia, 80% trường hợp bệnh thận giai đoạn cuối liên quan đến bệnh đái tháo đường, tăng huyết áp hoặc sự kết hợp của cả hai Tỷ lệ bệnh thận giai đoạn cuối do bệnh đái tháo đường dao động từ 12-55%, cho thấy người mắc bệnh đái tháo đường có nguy cơ cao gấp nhiều lần.
10 lần so với người không có bệnh.
- Người có tiền sử bệnh đái tháo đường có tỷ lệ mắc bệnh tim mạch cao hơn 2-3 lần người không bị đái tháo đường.
Bệnh đái tháo đường làm tăng nguy cơ cắt cụt chi dưới do nhiễm khuẩn không được điều trị đúng cách, với tỷ lệ cắt cụt chi cao gấp 10-20 lần so với những người không mắc bệnh Đây là một thách thức kinh tế lớn cho hệ thống y tế và nền kinh tế toàn cầu, với chi phí chăm sóc sức khỏe cho bệnh đái tháo đường ước tính chiếm từ 3 đến 11.6% tổng chi tiêu y tế toàn cầu vào năm 2010 Dự báo chi phí ngăn ngừa và điều trị các biến chứng sẽ tăng từ 379 tỷ USD lên hơn 490 tỷ USD Khoảng 80% chi phí này đến từ các nước phát triển, trong khi các quốc gia trung bình và kém phát triển chỉ chiếm dưới 20% Chi phí điều trị còn thay đổi theo độ tuổi và giới tính, với ba phần tư chi tiêu toàn cầu năm 2010 dành cho nhóm tuổi từ 50 đến 80, và chi phí chăm sóc cho phụ nữ thường cao hơn so với nam giới.
Tự chăm sóc trong đái tháo đường type 2
Tự chăm sóc là một khái niệm đa chiều với nhiều định nghĩa khác nhau, trong đó định nghĩa của Orem được coi là nhất quán hơn Orem cho rằng tự chăm sóc là hoạt động cá nhân nhằm duy trì sức khỏe và phòng ngừa biến chứng bệnh Điều này bao gồm việc quản lý lối sống lành mạnh qua các lĩnh vực như hoạt động thể chất, dinh dưỡng, sử dụng thuốc và kiểm soát bệnh Ngoài ra, Orem còn nhấn mạnh rằng tự chăm sóc liên quan đến khả năng tự đánh giá, giám sát và ra quyết định trong các tình huống cuộc sống của mỗi cá nhân Tự chăm sóc là một quá trình liên tục.
Cooper định nghĩa tự chăm sóc trong quản lý bệnh đái tháo đường là quá trình phát triển kiến thức và nhận thức để thích ứng với những phức tạp của bệnh trong bối cảnh xã hội Anderson và các cộng sự cũng nhấn mạnh tầm quan trọng của việc học hỏi trong việc quản lý bệnh, nhằm nâng cao chất lượng cuộc sống cho người bệnh.
Tự chăm sóc trong bệnh đái tháo đường là yếu tố quan trọng để kiểm soát bệnh, với khoảng 95% việc chăm sóc được thực hiện bởi bệnh nhân hoặc gia đình họ, bao gồm tự theo dõi đường máu, dinh dưỡng, hoạt động thể chất và tuân thủ thuốc Theo Herschbach, tự chăm sóc không chỉ là thực hiện các hoạt động mà còn cần xem xét mối quan hệ giữa chúng để thực hiện các thay đổi phù hợp trong cuộc sống Để thực hiện tự chăm sóc, bệnh nhân cần có kỹ năng thể chất, nhận thức và kiến thức về tự chăm sóc, trong đó kỹ năng nhận thức giúp giải quyết vấn đề thông qua suy nghĩ.
Tự chăm sóc là một quá trình học tập, trong đó người bệnh nỗ lực tìm hiểu các chiến lược tự chăm sóc phù hợp với lối sống và điều kiện của họ Mặc dù tuân thủ tự chăm sóc không luôn đảm bảo kiểm soát chuyển hóa tốt, nhưng việc thiếu tự chăm sóc có thể dẫn đến kiểm soát chuyển hóa kém Nghiên cứu của Nauck và cộng sự nhấn mạnh rằng chăm sóc bệnh đái tháo đường cần được cá nhân hóa, bao gồm việc theo dõi đường máu, tuân thủ điều trị và duy trì lối sống lành mạnh.
Các hành vi tự chăm sóc thiết yếu cho người bệnh đái tháo đường bao gồm sử dụng thuốc đúng cách, duy trì chế độ ăn uống lành mạnh, tham gia hoạt động thể lực, phòng ngừa biến chứng và theo dõi lượng đường trong máu Những hành vi này có mối liên hệ tích cực với việc kiểm soát đường huyết, giảm nguy cơ biến chứng và nâng cao chất lượng cuộc sống Tham gia vào tự chăm sóc đã được chứng minh là có tác động tích cực trong việc làm chậm sự phát triển của bệnh Do đó, cần có một cách tiếp cận hệ thống, đa dạng và tích hợp để khuyến khích thực hành tự chăm sóc, nhằm ngăn ngừa các biến chứng lâu dài cho người bệnh đái tháo đường.
Quản lý đái tháo đường chủ yếu dựa vào lối sống lành mạnh, nhưng chỉ riêng điều này không đủ để kiểm soát lượng đường trong máu Do đó, việc sử dụng thuốc uống hạ đường máu hoặc insulin là cần thiết, kết hợp với chế độ sinh hoạt hợp lý để đạt hiệu quả tốt nhất.
Sử dụng thuốc điều trị cho bệnh nhân đái tháo đường type 2 giúp kiểm soát hiệu quả mức đường huyết, với khả năng bình thường hóa đường máu của insulin và giảm HbA1C từ 0.5-2% khi áp dụng thuốc uống.
Sự tuân thủ dùng thuốc có thể bị ảnh hưởng tiêu cực bởi nhiều yếu tố, trong đó bao gồm sự phức tạp của các phác đồ điều trị, tác dụng phụ của thuốc, và mức độ nghiêm trọng của bệnh trầm cảm.
[29] và thiếu niềm tin của các người bệnh vào những lợi ích trước mắt và trong tương lai của thuốc.
Dinh dưỡng đóng vai trò quan trọng trong việc phòng ngừa và quản lý bệnh đái tháo đường Hiệp hội Đái tháo đường Mỹ khuyến nghị rằng mỗi cá nhân nên tuân theo chế độ dinh dưỡng do chuyên gia dinh dưỡng xây dựng, nhằm hỗ trợ quá trình điều trị và đạt được các mục tiêu sức khỏe.
Béo phì ảnh hưởng nghiêm trọng đến khả năng kháng insulin, do đó, giảm cân là yếu tố thiết yếu trong điều trị cho những người thừa cân và béo phì mắc tiền đái tháo đường hoặc đái tháo đường Nghiên cứu cho thấy việc giảm khoảng 5% trọng lượng cơ thể ở bệnh nhân đái tháo đường type 2 có liên quan đến việc giảm đề kháng insulin, giảm đường huyết và huyết áp.
Nghiên cứu cho thấy, để kiểm soát huyết áp, người cao huyết áp nên tăng cường tiêu thụ trái cây và rau quả (8-10 phần ăn mỗi ngày), sử dụng sản phẩm từ sữa ít chất béo (2-3 phần ăn mỗi ngày), giảm lượng natri và hạn chế uống rượu, điều này có thể giúp hạ huyết áp một cách đáng kể.
Một số nguyên tắc trong chế độ ăn [2],[4]
- Người bệnh thừa cân, béo phì cần giảm ít nhất 5% so với cân nặng ban đầu.
- Năng lượng: 30 kcal/kg cân nặng lý tưởng/ngày.
- Đảm bảo cung cấp cân đối năng lượng giữa protein, glucid và lipid theo tỷ lệ:
+ Glucid: 55 - 65% tổng năng lượng Nên sử dụng các glucid phức hợp, glucid có chỉ số đường máu thấp.
+ Lipid: 20- 30% tổng năng lượng Axid béo chưa no một nối đôi chiếm 1/3, nhiều nối đôi chiếm 1/3 và axid béo no chiếm 1/3 trong tổng số lipid.
Nên ưu tiên sử dụng các loại carbohydrate hấp thu chậm như gạo lức, bánh mì đen, ngô và khoai lang Mỗi ngày, lượng carbohydrate tối thiểu cần thiết là khoảng 130 gam, nhưng không nên vượt quá 60% tổng năng lượng tiêu thụ.
- Đạm khoảng 1-1.5 gam/kg cân nặng/ngày ở người không suy giảm chức năng thận Nên ăn cá ít nhất 3 lần/tuần.
- Nên chú trọng dùng các loại chất béo chứa acid béo không bão hòa như dầu ô liu, dầu mè, dầu lạc, mỡ cá.
- Hạn chế muối < 6 gam/ ngày.
Để duy trì sức khỏe, bạn nên thực hiện ăn chậm và nhai kỹ, đồng thời chia thành 4-6 bữa ăn mỗi ngày Nếu do điều kiện lao động và sinh hoạt chỉ có thể ăn 3 bữa/ngày, hãy phân phối năng lượng hợp lý cho từng bữa ăn.
Tập thể dục đều đặn không chỉ cải thiện kiểm soát đường máu mà còn giảm nguy cơ mắc bệnh tim mạch và hỗ trợ giảm cân Người bệnh đái tháo đường nên thực hiện hoạt động thể chất ít nhất 150 phút mỗi tuần với cường độ vừa phải Nghiên cứu cho thấy, việc tập luyện ít nhất 8 tuần có thể giúp giảm HbA1C xuống dưới 0.66% ở bệnh nhân đái tháo đường type 2, và cường độ tập luyện có mối liên hệ chặt chẽ với sự thay đổi của HbA1C.
Để duy trì hoạt động thể chất, cần lựa chọn những bài tập dễ thực hiện và có thể trở thành thói quen hàng ngày, phù hợp với thời gian của bạn Một số hình thức tập luyện sức bền phổ biến bao gồm chạy bộ, đạp xe, và bơi lội.
Mức độ kiến thức tự chăm sóc của người bệnh đái tháo đường type 2
Mức độ kiến thức của bệnh nhân đái tháo đường type 2 đã được nghiên cứu ở nhiều khu vực và các thiết lập lâm sàng khác nhau Một nghiên cứu của Al-Adsani và cộng sự trên 5114 bệnh nhân Kuwait cho thấy điểm trung bình về kiến thức chỉ đạt 58,9% trong môi trường chăm sóc sơ cấp Đặc biệt, sự thiếu hụt kiến thức chủ yếu tập trung vào các vấn đề liên quan đến chế độ ăn uống.
Tại châu Phi, sự hiểu biết về bệnh đái tháo đường của người bệnh còn hạn chế, với một nghiên cứu của Odili và cộng sự cho thấy 96% trong số 100 bệnh nhân đái tháo đường type 2 ở Nigeria có mức kiến thức trung bình chỉ đạt 39% ± 16,7% khi sử dụng 14 mục trong bài test kiến thức về đái tháo đường Nghiên cứu chỉ ra rằng người bệnh thiếu hụt kiến thức quan trọng về chế độ ăn uống và tự theo dõi đường máu, trong đó thời gian nhận thức bệnh là yếu tố duy nhất có liên quan đáng kể đến mức độ kiến thức của họ.
Baumann và cộng sự tại Kampala, Uganda đã thực hiện một nghiên cứu về tự chăm sóc ở 340 bệnh nhân đái tháo đường type 2, phát hiện rằng chỉ dưới 40% người bệnh nhận biết các dấu hiệu và triệu chứng của hạ đường máu Tương tự, Moodley và cộng sự đã chỉ ra rằng trong môi trường chăm sóc chính ở Nam Phi, người Châu Phi có mức kiến thức về bệnh đái tháo đường khá thấp, với điểm trung bình chỉ đạt 52,2%, so với 75,9% của các đối tác Ấn Độ.
Mức độ hiểu biết của bệnh nhân ảnh hưởng đáng kể đến chất lượng chăm sóc bệnh tiểu đường Những người có kỹ năng đọc viết kém thường gặp khó khăn trong việc tuân thủ hướng dẫn của bác sĩ và sử dụng thuốc đúng cách Ngoài ra, bệnh nhân thiếu kiến thức về quản lý bệnh tiểu đường có nguy cơ cao gặp phải các vấn đề sức khỏe nghiêm trọng hơn.
Nghiên cứu của Padma và cộng sự tại Ấn Độ đã chỉ ra rằng kiến thức và tự chăm sóc đóng vai trò quan trọng trong quản lý bệnh đái tháo đường type 2 ở 117 bệnh nhân Kết quả cho thấy những người bệnh này có mức độ cao về bệnh đái tháo đường, đồng thời thực hành tốt chế độ ăn uống, hoạt động thể chất, thuốc và các biện pháp tự chăm sóc có liên quan đáng kể đến việc kiểm soát đường huyết, với mức đường huyết lúc đói dưới 110mg/dl.
Ayele và cộng sự tại Ethiopia đã sử dụng một bảng câu hỏi có cấu trúc, cho thấy 93% bệnh nhân có kiến thức chung về bệnh đái tháo đường cũng như kiến thức cụ thể về chăm sóc bản thân.
Hầu hết các nghiên cứu hiện tại tập trung vào các biện pháp can thiệp tự chăm sóc, nhưng chưa chú trọng đến yếu tố góp phần vào việc tự chăm sóc ở bệnh nhân tiểu đường type 2 Do đó, cần thiết tiến hành nghiên cứu tổng quan hệ thống về kiến thức tự chăm sóc Chương trình quản lý giáo dục giúp bệnh nhân hiểu nguyên nhân, triệu chứng và biến chứng của bệnh, từ đó thực hiện các biện pháp chăm sóc nhằm đạt được mục tiêu sức khỏe Đồng thời, chương trình cũng trang bị kỹ năng cần thiết và tạo động lực cho bệnh nhân để thay đổi lối sống tích cực, giúp họ đối phó hiệu quả với bệnh Người bệnh tự chịu trách nhiệm về hành vi tự chăm sóc của mình, và những lựa chọn hàng ngày của họ có ảnh hưởng lớn hơn đến kết quả sức khỏe so với can thiệp từ chuyên gia y tế.
Khung lý thuyết
-Nguồn tiếp nhận thông tin
Kiến thức tự chăm sóc bệnh đái tháo đường type 2
Một số đặc điểm của địa bàn nghiên cứu
Điện Biên là tỉnh miền núi biên giới phía Tây Bắc Việt Nam, giáp với tỉnh Lai Châu ở phía Bắc, Sơn La ở phía Đông và Đông Bắc, và Vân Nam (Trung Quốc) ở phía Tây Bắc Tỉnh cũng tiếp giáp với hai tỉnh Luông Pha Băng và Phong Xa Lỳ của Lào ở phía Tây và Tây Nam Với địa hình phức tạp, 50% diện tích của Điện Biên có độ cao trên 1000m so với mặt biển và 70% có độ dốc trên 25 độ Tỉnh có diện tích tự nhiên là 9,562.9 km² và dân số năm 2007 đạt 468.282 người, trong đó dân tộc Thái chiếm 40.4%, dân tộc H’Mông 28.8%, dân tộc Kinh khoảng 19.7%, và các dân tộc khác chiếm phần còn lại.
Điện Biên, nơi sinh sống của các dân tộc như Khơ Mú, Dao, Hà Nhì, Hoa và Kháng, có mật độ dân số khoảng 49 người/km² Vùng đất này có khí hậu nhiệt đới núi cao, được chia thành hai mùa rõ rệt: mùa mưa từ tháng 4 đến tháng 10 và mùa khô từ tháng 11 đến tháng 3 năm sau.
Giai đoạn 2004 – 2007, kinh tế tăng trưởng 10.5% với sự chuyển dịch cơ cấu rõ rệt, nâng cao đời sống người dân tại thành phố và trung tâm thị trấn, từ lao động chân tay sang lao động trí óc Hệ thống giao thông được nâng cấp, kết nối xã, huyện với trung tâm tỉnh thành, tạo điều kiện thuận lợi cho giao thương và nâng cao chất lượng cuộc sống Tuy nhiên, người dân vùng sâu vùng xa, đặc biệt là các dân tộc thiểu số, vẫn gặp nhiều khó khăn, sống chủ yếu nhờ vào nông sản như ngô, khoai, sắn và phải lao động nặng nhọc Họ cũng hạn chế tiếp cận dịch vụ y tế, với cơ sở vật chất và trang thiết bị nghèo nàn, dẫn đến việc chăm sóc sức khỏe chưa đầy đủ Công tác tuyên truyền phòng chống dịch bệnh còn yếu kém về nội dung và phương pháp, ảnh hưởng đến nhận thức của người dân.
Bệnh viện đa khoa tỉnh Điện Biên là cơ sở y tế hàng đầu trong tỉnh, cung cấp dịch vụ cấp cứu, khám và điều trị nội trú cũng như ngoại trú cho mọi bệnh nhân Bệnh viện còn hợp tác với các cơ sở y tế tuyến dưới để thực hiện các chương trình chăm sóc sức khỏe ban đầu trên toàn địa bàn tỉnh Tôi đã chọn bệnh viện này làm địa điểm nghiên cứu nhằm đánh giá tổng quan kiến thức tự chăm sóc của bệnh nhân đái tháo đường type 2 tại các khu vực trong tỉnh Điện Biên.
ĐỐI TƯỢNG VÀ PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU
Đối tượng nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu là những bệnh nhân đã được chẩn đoán mắc bệnh đái tháo đường type 2 theo tiêu chuẩn của Bộ Y tế năm 2011 và đang điều trị ngoại trú tại Bệnh viện đa khoa tỉnh Điện Biên trong khoảng thời gian từ ngày 01/06/2016 đến 31/08/2016.
+ Người bệnh đồng ý tham gia nghiên cứu.
+ Người bệnh có thể nghe, nói, đọc, viết bằng tiếng Việt.
+ Người bệnh có khả năng tham gia trả lời phỏng vấn.
+ Người bệnh từ chối tham gia nghiên cứu.
+ Người bệnh quá mệt, không thể tham gia trả lời phỏng vấn
+Người bệnh điếc, câm, rối loạn tâm thần, lú lẫn.
+ Người bệnh phải chuyển vào điều trị nội trú.
Thời gian và địa điểm nghiên cứu
- Thời gian nghiên cứu: Từ 01/4/2016 đến 15/10/2016
- Thời gian thu thập số liệu: Từ 01/6/2016 đến 31/8/2016
- Địa điểm: Phòng khám - Bệnh viện đa khoa tỉnh Điện Biên, phường Noong Bua, thành phố Điện Biên Phủ, tỉnh Điện Biên.
Thiết kế
Là nghiên cứu mô tả cắt ngang.
Cỡ mẫu
Cỡ mẫu ước lượng được tính toántheo công thức:
Để ước tính độ lệch chuẩn của số điểm trung bình về kiến thức ở những người bệnh đái tháo đường, ta sử dụng công thức Z 2 α/2 σ 2 n d 2, trong đó σ là độ lệch chuẩn với giá trị 16.7% [50] Sai số chính xác mong muốn được đặt là 2.5%, trong khi mức ý nghĩa thống kê α được xác định là 0.05.
Zα/2-Giá trị Z thu được từ bảng Z ứng với giá trị α được chọn Z = 1.96
Cỡ mẫu của nghiên cứu tính được là 171 người bệnh đang điều trị ngoại trú đái tháo đường type 2.
Phương pháp chọn mẫu
Phương pháp chọn mẫu ngẫu nhiên hệ thống.
Tại Bệnh viện đa khoa tỉnh Điện Biên, có 358 bệnh nhân đái tháo đường type 2 được đăng ký quản lý Danh sách bệnh nhân này đã được lập và đánh số thứ tự Để tiến hành nghiên cứu, mẫu được chọn với khoảng cách mẫu k = 2, với k được tính bằng công thức k = N/n = 358/171.
Số người tham gia nghiên cứu tại địa điểm được xác định là N, trong đó n là cỡ mẫu cần thiết Đối tượng nghiên cứu đầu tiên được chọn ngẫu nhiên từ 1 đến k thông qua phương pháp bốc thăm Các đối tượng tiếp theo sẽ được xác định theo nguyên tắc số thứ tự, bằng cách cộng số thứ tự của đối tượng trước với hệ số k cho đến khi đạt đủ cỡ mẫu nghiên cứu.
Bốc thăm được đối tượng đầu tiên có số thứ tự là 1 Như vậy các đối tượng tiếp theo có số thứ tự lần lượt là 1, 3, 5, 7, 9………335, 337, 339,341.
Nếu đối tượng được chọn không đáp ứng đủ tiêu chuẩn và điều kiện tham gia nghiên cứu, chúng ta sẽ chuyển sang đối tượng tiếp theo trong danh sách.
Phương pháp thu thập số liệu
2.6.1 Công cụ thu thập dữ liệu
Công cụ thu thập dữ liệu bao gồm bộ câu hỏi thiết kế sẵn với ba phần chính Phần đầu tiên tập trung vào thông tin cá nhân như tên, tuổi, giới tính, dân tộc, trình độ học vấn, khu vực sinh sống, tần suất khám bệnh và thời gian bị bệnh Ngoài ra, trọng lượng và chiều cao của người bệnh cũng được ghi nhận để tính toán chỉ số khối cơ thể.
Bài viết này cung cấp kiến thức tự chăm sóc bệnh đái tháo đường type 2 thông qua hai dạng câu hỏi: 21 câu hỏi đúng sai được phát triển từ bộ công cụ đo lường kiến thức tự chăm sóc bệnh đái tháo đường type 2 tại Nigeria của tác giả Maxwell O Adibe và cộng sự, cùng với 17 câu hỏi trắc nghiệm chọn đáp án đúng nhất dựa trên Test trắc nghiệm kiến thức bệnh đái tháo đường (DKT) của trung tâm đào tạo và nghiên cứu khoa học về đái tháo đường thuộc trường đại học Michigan.
Phần thứ ba là khảo sát nguồn tiếp nhận thông tin tự chăm sóc bệnh đái tháo đường type 2 của người bệnh.
2.6.2 Thử nghiệm trước bộ công cụ nghiên cứu
Hai tuần trước khi bắt đầu thu thập dữ liệu, sẽ tiến hành thử nghiệm bộ công cụ nghiên cứu Trong giai đoạn này, một cuộc điều tra thử sẽ được thực hiện với 30 đối tượng đáp ứng tiêu chuẩn lựa chọn.
30 đối tượng này sẽ không tham gia vào 171 đối tượng nghiên cứu sẽ được điều tra để xác định tính khả thi của bộ thu thập dữ liệu, khả năng áp dụng của quá trình lấy mẫu, và đánh giá sự hiểu biết, độ dài, cũng như khả năng chấp nhận của bộ công cụ Kết quả thu được sẽ được sử dụng để chỉnh sửa và cập nhật bộ công cụ, điều chỉnh các câu hỏi và lựa chọn câu trả lời mà ban đầu chưa rõ ràng.
2.6.3 Phương pháp thu thập thông tin/dữ liệu
Dữ liệu sẽ được thu thập trong khoảng thời gian từ 01/06/2016 đến 31/08/2016 Người thu thập thông tin tại phòng khám sẽ sử dụng bộ câu hỏi tự thiết kế để khảo sát những bệnh nhân mắc bệnh tiểu đường đủ tiêu chuẩn trước khi họ được khám và điều trị.
Tiến trình thu thập thông tin/dữ liệu
- Bước 1: Lựa chọn những đối tượng đủ tiêu chuẩn tham gia nghiên cứu vào thời điểm trước khi người bệnh được khám và điều trị.
Bước 2: Những người đủ điều kiện sẽ được thông tin về mục đích, nội dung, phương pháp nghiên cứu và quyền lợi khi tham gia Nếu họ đồng ý tham gia, sẽ ký vào bản đồng thuận (phụ lục 1) và được hướng dẫn về cách trả lời các câu hỏi trong bộ khảo sát.
Trong bước 3 của nghiên cứu, các đối tượng tham gia sẽ trả lời bộ câu hỏi liên quan đến kiến thức tự chăm sóc đái tháo đường (phụ lục 2) Mỗi cuộc phỏng vấn sẽ kéo dài khoảng 20 phút Nếu có nhiều bệnh nhân đủ tiêu chuẩn, việc phỏng vấn sẽ được thực hiện lần lượt trước khi khám và trong thời gian chờ đợi kết quả.
Các biến số nghiên cứu
-Tuổi:đơn vị là năm, được tính bằng 2016 trừ đi năm sinh.
- Giới: có hai giá trị là nam và nữ.
- Dân tộc: Kinh, Thái, H’Mông và các dân tộc ít người khác.
Trình độ học vấn của cá nhân được phân loại theo bậc giáo dục cao nhất đã đạt được, bao gồm các mức độ như không biết chữ, tiểu học, trung học cơ sở, trung học phổ thông, trung cấp chuyên nghiệp, cao đẳng, đại học và sau đại học.
-Thời gian bị bệnh:đơn vị tính là năm, là khoảng thời gian kể từ ngày được chẩn đoán bệnh lần đầu tiên đến thời điểm lấy số liệu.
- Nguồn tiếp nhận thông tin:Người bệnh có được kiến thức tự chăm sóc đái tháo đường type 2 từ nguồn nào.
Mức độ kiến thức tự chăm sóc bệnh đái tháo đường type 2:bao gồm điểm của người bệnhthu được qua bộ câu hỏi.
Tiêu chuẩn đánh giá
Điểm số được tính bằng cách cho 1 điểm cho mỗi câu trả lời đúng và 0 điểm cho câu trả lời sai hoặc không biết, với tổng điểm tối đa là 38 Tỉ số điểm được tính bằng cách chia điểm đạt được cho 38 Để đánh giá kiến thức tự chăm sóc bệnh đái tháo đường, người bệnh được phân loại thành ba nhóm: ≥75% tổng điểm là kiến thức tốt, 60-74% là kiến thức trung bình, và ≤59% là kiến thức kém Các điểm số này giúp xác định mức độ kiến thức tổng thể của người bệnh.
Phương pháp phân tích số liệu
Dữ liệu thu thập được được bảo quản an toàn nhằm ngăn chặn mất mát và vi phạm bí mật Mỗi ngày, các nhà nghiên cứu chính thực hiện việc làm sạch, xác nhận, mã hóa, xử lý và lưu trữ tất cả dữ liệu này.
Sử dụng phần mềm thống kê SPSS phiên bản 22.0 để phân tích.
- Đối với các biến số định lượng liên tục, nếu biến số là hàm phân phối chuẩn, mô tả bằng giá trị trung bình, độ lệch chuẩn.
- Đối với các biến số định tính (biến nhị phân, biến định danh, biến thứ tự): mô tả bằng tần suất và tỷ lệ.
- Tìm yếu tố liên quanthông qua phân tích tương quan Pearson và Chi- square.
Vấn đề đạo đức của nghiên cứu
Nghiên cứu này được thực hiện với sự chấp thuận của Hội đồng đạo đức và lãnh đạo Trường Đại học Điều dưỡng Nam Định, cũng như sự cho phép của bệnh viện Đa khoa tỉnh Điện Biên Tất cả người bệnh tham gia nghiên cứu đã ký đồng ý bằng văn bản, và mục tiêu nghiên cứu đã được giải thích rõ ràng cho họ Những rủi ro, lợi ích và vấn đề bảo mật đã được truyền đạt trước khi họ đồng ý tham gia, và sự tham gia là tự nguyện; người bệnh có quyền rút lui bất cứ lúc nào mà không ảnh hưởng đến việc chăm sóc của họ Cuộc phỏng vấn có thể dừng lại nếu người bệnh không thể tiếp tục trả lời vì lý do sức khỏe Ngoài ra, lời khuyên về kiến thức tự chăm sóc bệnh đái tháo đường đã được cung cấp, và thông tin cá nhân của người bệnh được bảo mật trong quá trình thu thập dữ liệu.
Hạn chế của nghiên cứu, sai số và biện pháp khắc phục sai số
- Có hạn chế của một nghiên cứu cắt ngang Không nghiên cứu được các thời điểm trước đó.
Nghiên cứu này là bước đầu tiên nhằm điều tra và đánh giá kiến thức của bệnh nhân đái tháo đường type 2 về tự chăm sóc, mà không thực hiện bất kỳ can thiệp hỗ trợ nào.
Để giảm thiểu sai số trong quá trình thu thập thông tin, chúng tôi thực hiện phỏng vấn thử với người bệnh nhằm điều chỉnh bộ câu hỏi và kiểm tra chất lượng dữ liệu trước khi bắt đầu nghiên cứu.
3.1 Thông tin chung của đối tượng nghiên cứu
Bảng 3.1: Phân bố tuổi và giới của đối tượng nghiên cứu
Nhận xét: Đối tượng nghiên cứu phần lớn nằm trong nhóm tuổi từ 50-60, chiếm
43.3%; nhóm tuổi trên 60 tuổi chiếm 38.6%; nhóm tuổi từ 40 - 50 tuổi chiếm tuổi cao nhất là 79 tuổi.
Biểu đồ 3.1: Phân bố dân tộc của đối tượng nghiên cứu
Nhận xét: Trong nhóm đối tượng nghiên cứu, nhiều nhất là dân tộc Kinh chiếm
72.5%; đứng thứ hai là dân tộc Thái chiếm 21.6%; và các dân tộc khác chiếm 5.9%.
Biểu đồ 3.2:Trình độ học vấn của đối tượng nghiên cứu
Nhóm đối tượng nghiên cứu có trình độ học vấn Phổ thông chiếm tỷ lệ cao nhất với 33.9%, tiếp theo là Tiểu học 19.3%, Trung học cơ sở 17.5%, Đại học trở lên 15.8%, Trung cấp và Cao đẳng 12.9%, trong khi có 0.6% người không biết chữ.
Thành phố Thị xã Huyện khác
Biểu đồ 3.3: Phân bố khu vực sống của đối tượng nghiên cứu
Nhận xét: Đối tượng trong nhóm nghiên cứu chủ yếu sống ở khu vực thành phố, chiếm 53.2%, 44.4% sống ở các huyện quanh thành phố và 2.3% là sống ở thị xã.
Bảng 3.2: Chỉ số khối cơ thể của đối tượng nghiên cứu
Nhận xét: 93.0% trong nhóm đối tượng nghiên cứu có thể trạng trung bình; 5.3% thừa cân và 1.8% có thể trạng gầy BMI trung bình là 22.747 ± 1.6042
Bảng 3.3: Người cùng sống và bảo hiểm y tế của đối tượng nghiên cứu
- 97.1% trong nhóm đối tượng nghiên cứu có người cùng sống; 2.9% là sống một mình.
- 91.8% trong nhóm đối tượng nghiên cứu có bảo hiểm y tế; 8.2% là không có.
Bảng 3.4 Tần suất khám sức khỏe định kỳ của đối tượng nghiên cứu
Trong nhóm đối tượng nghiên cứu, 72.5% thường xuyên đi khám sức khỏe định kỳ mỗi tháng, trong khi 15.2% khám từ 2-3 tháng một lần Chỉ có 1.2% đi khám sau 4 tháng và 11.1% không bao giờ thực hiện khám sức khỏe định kỳ.
Bảng 3.5:Thời gian bị đái tháo đường type 2 của đối tượng nghiên cứu
Nhận xét: Trong nhóm đối tượng nghiên cứu có 60.8% là có thời gian bị bệnh từ trên
Thời gian mắc bệnh của người tham gia khảo sát cho thấy 25.7% có thời gian từ trên 5 năm đến 10 năm, 11.7% mắc bệnh trong khoảng thời gian nhỏ hơn hoặc bằng 1 năm, và 1.8% có thời gian mắc bệnh trên 10 năm Trung bình, thời gian mắc bệnh là 4.28 ± 2.4332 năm, với thời gian ngắn nhất là 7 tháng và thời gian dài nhất lên đến 13 năm.
3.2 Mức độ kiến thức tự chăm sóc trong đái tháo đường type 2 và những thiếu hụt trong kiến thức của đối tượng nghiên cứu
Bảng 3.6: Kiến thức về chế độ ăn của người bệnh tham gia nghiên cứu
5 Hút thuốc lá có thể làm trầm trọng thêm bệnh đái tháo đường.
22 Chế độ ăn uống trong bệnh đường.
23 Xác định thực phẩm chứa lượng tinh bột cao nhất.
24 Xác định thực phẩm chứa lượng chất béo cao nhất.
27 Ảnh hưởng của đường đến đường máu.
Nhận xét: Đa số đối tượng nghiên cứu còn thiếu kiến thức về việc lựa chọn và tác dụng của các loại thực phẩm.
Bảng 3.7: Kiến thức về dùng thuốc của người bệnh tham gia nghiên cứu
6 Khi người bệnh đái tháo đường cảm thấy khỏe thì không cần dùng thuốc.
7 Uống rượu bia trong khi đang sử dụng các loại thuốc điều trị đái tháo đường không phải là một vấn đề nghiêm trọng.
10 Việc sử dụng thuốc điều trị đái tháo đường không cần phải duy trì suốt đời.
35 Cách xử trí khi quên tiêm Insulin trước bữa ăn sáng.
37 Mức đường trong máu sẽ thay đổi như nào khi dùng Insulin buổi sáng nhưng lại bỏ qua bữa sáng.
Nhận xét: Phần lớn đối tượng nghiên cứu đã biết được tác dụng, tầm quan trọng và cách sử dụng thuốc.
Bảng 3.8: Kiến thức về hoạt động thể chất của người bệnh tham gia nghiên cứu
2 Hoạt động thể chất (đi bộ nhanh, làm việc nhà…) 20-30 phút mỗi lần và ít nhất là 3 ngày một tuần là rất cần thiết.
8 Chế độ ăn uống và tập thể dục không quan trọng bằng thuốc kiểm soát bệnh đái tháo đường.
29 Ảnh hưởng của tập thể dục đến đường máu đối với một người kiểm soát đường máu tốt.
Nhận xét: Đối tượng nghiên cứu đã có nhận thức về tầm quan trọng của hoạt động thể chất đối với bệnh đái tháo đường type 2.
Bảng 3.9: Kiến thức về phòng ngừa và xử trí biến chứng của người bệnh tham gia nghiên cứu
12 Người bị bệnh đái tháo đường nên chăm sóc cẩn thận bàn chân của mình đặc biệt là khi cắt móng chân.
13 Người bị bệnh đái tháo đường nên sử dụng loại tất mềm, có độ đàn hổi tốt, không được bó chặt chân.
14 Người bị bệnh đái tháo đường nên chăm sóc răng miệng bằng bàn chải và chỉ nha khoa mỗi ngày.
17 Người bị bệnh đái tháo đường nên báo cáo với bác sĩ bất kỳ sự thay đổi nào về thị lực của mình.
19 Run rẩy, lú lẫn, thay đổi hành vi và đổ mồ hôi là dấu hiệu của lượng đường trong máu tăng cao.
23 Duy trì đường máu cao trong thời gian dài có thể gây ra các vấn đề về mắt bao gồm cả mù lòa.
28 Xác định thực phẩm không được dùng để xử trí hạ đường máu. máu.
31 Cách tốt nhất để chăm sóc đôi bàn chân
32 Ăn thức ăn ít chất béo làm giảm nguy cơ mắc bệnh gì
33 Tê bì và ngứa là triệu chứng của bệnh nào.
34 Vấn đề nào thường không liên quan đến bệnh đái tháo đường
Đối tượng nghiên cứu chủ yếu đã nắm vững kiến thức về phòng ngừa, tuy nhiên vẫn còn thiếu sót trong việc phát hiện và xử trí các biến chứng.
Bảng 3.10: Kiến thức về tự theo dõi đường máu của người bệnh tham gia nghiên cứu
15 Khi lượng đường trong máu gần bình thường, người bệnh có thể sẽ có nhiều năng lượng hơn, cảm thấy ít khát nước và đi tiểu ít hơn bình thường
16 Chỉ có bác sĩ và các nhân viên y tế mới có thể kiểm tra lượng đường trong máu và huyết áp của người bệnh đái tháo đường.
18 Tự theo dõi đường máu cho phép một người bị bệnh đái tháo đường có thể giám sát và phản ứng với những thay đổi của lượng đường trong máu của họ.
21 Kiểm soát huyết áp không quan trọng bằng kiểm soát đường máu ở người bệnh đái tháo đường.
26 Phương pháp tốt nhất trong việc kiểm tra đường máu.
36 Nguyên nhân dẫn đến đường máu thấp.
38 Nguyên nhân dẫn đến đường máu cao.
Bảng 3.11: Kiến thức về theo dõi chăm sóc bệnh đái tháo đường type 2 của người bệnh tham gia nghiên cứu
1 Chỉ nhân viên y tế mới có thể lập kế hoạch để giúp một người bệnh đái tháo đường đạt được mục tiêu của mình.
3 Duy trì cân nặng lý tưởng là không quan trọng trong quản lý bệnh đái tháo đường.
4 Người bệnh đái tháo đường chỉ đến các cơ sở y tế khi họ cảm thấy ốm yếu.
9 Kiểm tra sức khỏe thường xuyên là không cần thiết khi một người mắc bệnh đái tháo đường cảm thấy khỏe.
11 Người bệnh đái tháo đường cần nhận được lời khuyên thích hợp về tự chăm sóc ngay từ lúc bắt đầu được chẩn đoán là đái tháo đường
Nhận xét: Đối tượng còn thiếu kiến thức liên quan để xây dựng kế hoạch chăm sóc riêng cho bản thân.
Bảng 3.12: Kiến thức tự chăm sóc đái tháo đường type 2 củangười bệnh tham gia nghiên cứu
Tự theo dõi đường máu
Phòng và xử trí biến chứng
Trong nghiên cứu, 64.9% đối tượng có kiến thức tự chăm sóc bệnh đái tháo đường type 2 ở mức trung bình, trong khi 19.9% đạt mức tốt và 15.2% ở mức kém Điểm trung bình của kiến thức là 25.57 ± 3.259, với điểm thấp nhất là 18 và cao nhất là 33.
Người bệnh có kiến thức tốt về hoạt động thể chất và chăm sóc sức khỏe, nhưng lại thiếu hụt kiến thức quan trọng về chế độ ăn uống, tự theo dõi đường máu, cũng như phòng ngừa và xử trí biến chứng Mặc dù họ nắm vững các khía cạnh khác, việc cải thiện hiểu biết về dinh dưỡng và quản lý đường huyết là cần thiết để nâng cao sức khỏe tổng thể.
3.3 Sự liên quan của một số yếu tố và kiến thức tự chăm sóc trong đái tháo đường type 2 của đối tượng nghiên cứu
Biểu đồ 3.4:Sự tương quan giữa tuổi và mức độ kiến thức của đối tượng
Nhận xét: Không nhận thấy có sự tương quan giữa tuổi và mức độ kiến thức của đối tượng nghiên cứu.
Bảng 3.13: Sự tương quan giữa giới của đối tượng và mức độ kiến thức
Nhận xét: Không nhận thấy có sự khác nhau về mức độ kiến thức giữa hai giới nam và nữ của đối tượng nghiên cứu.
Bảng 3.14: Sự tương quan giữa dân tộc của đối tượng và mức độ kiến thức
Bảng 3.15: Sự tương quan giữa trình độ học vấn và mức độ kiến thức của đối tượng
Trình độ học vấn Không biết chữ
Trung cấp, đẳng Đại học trở lên r p
Có một mối tương quan tích cực giữa trình độ học vấn và mức độ kiến thức của đối tượng nghiên cứu, với hệ số tương quan là 0.379 Điều này cho thấy rằng khi trình độ học vấn tăng lên, mức độ kiến thức cũng tăng theo.
Biểu đồ 3.5: Sự tương quan giữa thời gian bị bệnh và mức độ kiến thức của đối tượng
Có sự tương quan tích cực giữa thời gian mắc bệnh và mức độ kiến thức của đối tượng nghiên cứu Cụ thể, số năm mắc bệnh càng lâu thì mức độ kiến thức về bệnh càng cao, với hệ số tương quan r là 0.382.
Bảng 3.16: Sự tương quan giữa nguồn tiếp nhận thông tin của đối tượng và mức độ kiến thức
Chưa từng nhận được thông tin
Từ các phương tiện truyền thông: sách báo, tạp chí, đài phát thanh, internet và các phương tiện thông tin đại chúng khác.
Từ các buổi thông giáo dục sức khỏe.
Từ bạn bè, người thân.
Nghiên cứu cho thấy có mối liên hệ giữa nguồn tiếp nhận thông tin và mức độ kiến thức của người bệnh Cụ thể, những bệnh nhân nhận tư vấn trực tiếp từ nhân viên y tế có kiến thức cao hơn so với những nguồn thông tin khác, với hệ số tương quan r = -0.206.
Bảng 3.17: Nguồn thông tin đối tượng nghiên cứu mong muốn được tiếp nhận
Từ cán bộ y tế: bác sĩ, điều dưỡng.
Từ các phương tiện truyền thông: sách báo, tạp chí, đài phát thanh, truyền hình, internet và các phương tiện thông tin đại chúng khác.
Từ các buổi tập huấn, truyền thông giáo dục sức khỏe.
Từ bạn bè, người thân.
Kết quả nghiên cứu cho thấy 88.0% đối tượng tham gia mong muốn nhận thông tin về tự chăm sóc bệnh đái tháo đường type 2 từ cán bộ y tế Trong khi đó, 8.0% mong muốn nhận thông tin qua các buổi tập huấn và truyền thông giáo dục sức khỏe, và 4.0% còn lại muốn tiếp cận thông tin qua các phương tiện truyền thông như sách báo, tạp chí, đài phát thanh, truyền hình, internet và các phương tiện thông tin đại chúng khác.
4.1 Thông tin chung của đối tượng nghiên cứu Đối tượng nghiên cứu phần lớn nằm trong nhóm tuổi từ 50-60, chiếm 43.3% vàtrên 60 tuổi chiếm 38.6%; Tuổi trung bình của nhóm đối tượng nghiên cứu là 58.86 ± 9.674tuổi, người có tuổi thấp nhất là 34 tuổi, người có tuổi cao nhất là 79 tuổi.Tỷ lệ này phù hợp với thống kê của Liên đoàn đái tháo đường quốc tế là bệnh đái tháo đường type 2 gặp nhiều ở độ tuổi từ 50-60 Theo nghiên cứu của Jacksontại 2 bang của Nigeria, tỷ lệ đái tháo đường type 2 ở nhóm tuổi 50-60 là 38.9% và trên 60 là 29.4% [27].
Tỷ lệ nam, nữ trong nghiên cứu của chúng tôi tương đối đều nhau, nam giới chiếm 49.7%, nữ giới chiếm 50.3%.