CƠ SỞ LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN
Cơ sở lý luận
1.1.1 Khái niệm và phân loại tăng huyết áp
1.1.1.1 Khái niệm tăng huyết áp
Theo Tổ chức Y tế Thế giới (WHO), một người được chẩn đoán mắc tăng huyết áp (THA) khi có huyết áp tối đa (huyết áp tâm thu) ≥ 140mmHg và/hoặc huyết áp tối thiểu (huyết áp tâm trương) ≥ 90mmHg Để xác định tình trạng này, cần thực hiện ít nhất 2 lần đo liên tiếp và tính trung bình cộng theo phương pháp chuẩn Khái niệm này hiện đang được Bộ Y tế và các chương trình y tế tại Việt Nam áp dụng.
1.1.1.2 Phân loại tăng huyết áp
Có 2 cách phân loại THA thường được sử dụng, gồm: (1) phân loại dựa trên nguyên nhân tìm được và (2) phân loại dựa trên mức chỉ số huyết áp
Phân loại theo nguyên nhân tìm được: thường được sử dụng trong lâm sàng gồm 2 nhóm: THA nguyên phát (hay THA vô căn) và THA thứ phát
- Nhóm THA nguyên phát: được phân độ theo mức chỉ số huyết áp, chia thành
Huyết áp được phân loại thành 3 nhóm: độ 1 (140-159 mmHg/90-99 mmHg), độ 2 (160-179 mmHg/100-109 mmHg) và độ 3 (≥ 180 mmHg/≥ 110 mmHg) Ngoài ra, còn có nhóm THA tâm thu đơn độc, chỉ ra những trường hợp có huyết áp tâm thu từ 140 mmHg trở lên trong khi huyết áp tâm trương dưới 90 mmHg (Bảng 1.1).
Bảng 1.1 Phân độ huyết áp theo WHO (2003)
Phân loại Huyết áp tâm thu
(mmHg) Huyết áp tâm trương
Huyết áp bình thường cao 130-139 85-89
THA tâm thu đơn độc ≥140 ≤90
Nguồn: Theo World Health Organization (2003), [30]
Nguyên nhân gây tăng huyết áp thứ phát bao gồm hẹp động mạch chủ, bệnh mạch máu thận, suy thận, hội chứng cường Aldosterol và u tủy thượng thận.
1.1.2 Cơ chế bệnh sinh, biến chứng và một số yếu tố nguy cơ tăng huyết áp 1.1.2.1 Cơ chế bệnh sinh
Huyết áp động mạch được điều chỉnh thông qua cơ chế thần kinh và cơ chế thể dịch, và sự thay đổi của hai cơ chế này có ảnh hưởng trực tiếp đến mức huyết áp.
Tăng hoạt động của hệ thần kinh giao cảm dẫn đến việc tăng cường hoạt động của tim và thể tích tim trong một phút Điều này gây ra phản ứng co thắt toàn bộ hệ thống động mạch ngoại vi và động mạch thận, làm gia tăng sức kháng ngoại vi, cuối cùng dẫn đến tình trạng tăng huyết áp động mạch.
- Vai trò của hệ Renin - Angiotensin - Aldosteron (RAA)
Giảm chất điều hòa huyết áp, cụ thể là prostaglandin E2 và kalikrein có trong thận, có vai trò quan trọng trong việc điều chỉnh huyết áp, hạ canxi máu và tăng canxi niệu Sự thiếu hụt hoặc ức chế các chất này có thể dẫn đến tình trạng tăng huyết áp (THA).
- Quá trình tự xơ vữa động mạch làm giảm đàn hồi thành mạch, gây THA
1.1.2.2 Biến chứng hoặc các tổn thương cơ quan đích do tăng huyết áp
Bệnh tăng huyết áp (THA) có thể gây ra nhiều biến chứng nghiêm trọng, từ nhẹ đến nặng, và thậm chí dẫn đến tử vong Dưới đây là một số biến chứng phổ biến mà người bệnh THA thường gặp phải.
- Nhồi máu cơ tim, cơn đau thắt ngực
- Phì đại thất trái, suy tim
- Bệnh mạch máu ngoại vi
- Xuất huyết hoặc xuất tiết võng mạc, phù gai thị
- Protein niệu, tăng creatinin huyết thanh, suy thận
- Đột quỵ, thiếu máu não thoáng qua, sa sút trí tuệ, hẹp động mạch cảnh
1.1.2.3 Một số yếu tố nguy cơ liên quan đến tăng huyết áp
Tuổi càng cao thì nguy cơ tăng huyết áp càng cao:
Nhiều nghiên cứu cho thấy tỷ lệ THA tăng theo tuổi
Nghiên cứu của Nguyễn Thị Hải Yến (2012) cho thấy tỷ lệ THA là 23,1% ở lứa tuổi dưới 60 tuổi và 76,9% ở lứa tuổi trên 60 [17]
Những người thừa cân hoặc béo phì có nguy cơ cao mắc bệnh tăng huyết áp (THA) Nghiên cứu của Lý Huy Khanh chỉ ra rằng có mối liên hệ thuận giữa tỷ số vòng eo/vòng mông (WHR) và phì đại thất trái ở bệnh nhân THA Cụ thể, nam giới có WHR lớn hơn 0,9 và nữ giới có WHR lớn hơn 0,8 có nguy cơ phì đại thất trái cao hơn, với tỷ lệ odds ratio (OR) là 2,51 (CI 95%: 1,26 – 4,99).
Nghiên cứu cho thấy có sự khác biệt về tỷ lệ tăng huyết áp (THA) giữa nam và nữ, với nam giới có tỷ lệ mắc THA cao hơn so với nữ giới trong nhóm người trưởng thành.
Tiền sử gia đình có người mắc bệnh tăng huyết áp (THA) là một yếu tố nguy cơ quan trọng Những cá nhân có bố, mẹ hoặc anh, chị, em bị THA có khả năng cao hơn trong việc phát triển bệnh này so với những người không có tiền sử gia đình Nghiên cứu của Nguyễn Minh Phương năm 2011 cho thấy 17,2% người mắc THA có tiền sử gia đình liên quan đến bệnh này.
Căng thẳng thần kinh, sang chấn tâm lý:
Khi gặp căng thẳng tâm lý, hệ thần kinh giao cảm hoạt động mạnh mẽ, dẫn đến việc giải phóng adrenalin và nor-adrenalin, làm tăng co bóp của tim, nhịp tim nhanh hơn, co mạch và tăng huyết áp Tuy nhiên, vẫn chưa có bằng chứng cho thấy những cơn tăng huyết áp tạm thời do stress nặng có thể gây ra bệnh tăng huyết áp mãn tính trong tương lai.
Ăn nhiều muối, hay còn gọi là ăn mặn, làm tăng nguy cơ huyết áp cao và đột quỵ ở những người mắc bệnh tăng huyết áp Nhu cầu hàng ngày về muối NaCl của cơ thể ước tính khoảng 4g, tương đương với 1,6g natri Những người tiêu thụ ít muối, dưới 3g NaCl mỗi ngày, thường có huyết áp trung bình thấp hơn và ít có xu hướng tăng theo độ tuổi.
Lười vận động, lạm dụng rượu bia, hút thuốc là những yếu tố làm tăng nguy cơ mắc THA:
Nghiên cứu tim mạch từ 2005 đến 2010 chỉ ra rằng việc tiêu thụ rượu vượt quá 3 lần/ngày (khoảng 148ml rượu vang hoặc một lon bia) có thể làm tăng nguy cơ huyết áp cao gấp 2-3 lần so với mức bình thường Ngược lại, giảm lượng rượu xuống dưới 3 lần/ngày (30ml rượu chưng cất) có thể giúp hạ huyết áp ở những bệnh nhân đang điều trị Cụ thể, việc giảm tiêu thụ rượu từ 450ml xuống còn 60ml/tuần có thể giảm huyết áp từ 3-5mmHg cho cả huyết áp tâm thu và tâm trương, mang lại hiệu quả tốt hơn so với chế độ ăn kiêng muối.
Hút thuốc lá không trực tiếp gây ra tăng huyết áp (THA), nhưng nó là một yếu tố nguy cơ quan trọng Những người mắc THA và hút thuốc có nguy cơ mắc bệnh mạch vành cao hơn từ 50 đến 60% so với những người THA không hút thuốc.
1.1.3 Nguyên tắc điều trị tăng huyết áp
Một số nguyên tắc cần đảm bảo trong điều trị THA [15]:
- Tăng huyết áp là bệnh mạn tính nên cần theo dõi đều, điều trị đúng và đủ hàng ngày, điều trị lâu dài
- Mục tiêu điều trị là đạt “huyết áp mục tiêu” và giảm tối đa “nguy cơ tim mạch”
Huyết áp mục tiêu cần đạt là dưới 140/90 mmHg, và có thể thấp hơn nếu bệnh nhân dung nạp tốt Đối với những người có nguy cơ tim mạch cao đến rất cao, huyết áp mục tiêu nên là dưới 130/80 mmHg Sau khi đạt được huyết áp mục tiêu, việc duy trì điều trị và theo dõi định kỳ là rất quan trọng để kịp thời điều chỉnh khi cần thiết.
- Điều trị cần hết sức tích cực ở người bệnh đã có tổn thương cơ quan đích
- Không nên hạ huyết áp quá nhanh để tránh biến chứng thiếu máu ở các cơ quan đích, trừ tình huống cấp cứu
1.1.4 Đánh giá tuân thủ điều trị tăng huyết áp
Cơ sở thực tiễn
1.2.1 Tình hình tăng huyết áp trên thế giới
Theo ước tính của Tổ chức Y tế Thế giới (WHO), hàng năm có khoảng 7 triệu người trên toàn cầu tử vong do tăng huyết áp (THA) Dự kiến đến năm 2025, số người mắc THA trên thế giới sẽ lên tới khoảng 1,56 tỷ.
Theo thống kê của CDC, tại Mỹ, tăng huyết áp (THA) là một trong bốn loại bệnh có tỷ lệ mắc cao nhất Nghiên cứu của Mozaffarian D năm 2012 cho thấy tỷ lệ THA ở nam và nữ trong độ tuổi 25-34 lần lượt là 8,6% và 6,2%; ở nhóm tuổi 35-44, tỷ lệ này tăng lên 22,6% cho nam và 18,3% cho nữ Đặc biệt, ở nhóm tuổi 65-74, tỷ lệ THA đạt 54,6% cho nam và 53,7% cho nữ, trong khi ở nhóm từ 75 tuổi trở lên, tỷ lệ THA gần 80% cho cả hai giới Nghiên cứu cũng chỉ ra sự khác biệt về tỷ lệ mắc THA giữa các chủng tộc, với người da đen có tỷ lệ cao hơn người da trắng, trong khi tỷ lệ thấp nhất được ghi nhận ở vùng Mexico, điều này đúng cho cả nam và nữ.
Năm 2010, nghiên cứu tại một số quốc gia Châu Âu cho thấy tỷ lệ người mắc tăng huyết áp (THA) trong độ tuổi từ 20-79 là khoảng 15%, với Đức ghi nhận 15,9% và Anh là 10,4% Đặc biệt, tỷ lệ này tăng lên gần 20% ở nhóm tuổi 40-49 và đạt từ 40-45% ở những người từ 60 tuổi trở lên.
Nghiên cứu tại Malaysia cho thấy tỷ lệ THA không ngừng tăng lên từ năm
Từ năm 1998 đến 2013, tỷ lệ người trên 25 tuổi mắc bệnh tăng huyết áp (THA) đạt khoảng 33% Tại Trung Quốc, vào năm 2014, tỷ lệ THA ở người lớn dao động từ 26,6% đến 41% Một nghiên cứu tổng quan năm 2014 tại Ấn Độ cho thấy tỷ lệ mắc THA là 29,8%, mặc dù Ấn Độ có cơ cấu dân số trẻ.
Một nghiên cứu tổng quan của Katherine T Mills và cộng sự (2016) cho thấy, vào năm 2010, 31,1% người trưởng thành toàn cầu mắc tăng huyết áp (THA), tương đương khoảng 1,39 tỷ người Tỷ lệ này là 28,5% ở các nước thu nhập cao và 31,5% ở các nước thu nhập thấp và trung bình Từ năm 2000 đến 2010, tỷ lệ mắc THA ở các nước thu nhập cao giảm 2,6%, trong khi tăng 7,7% ở các nước thu nhập thấp và trung bình Đồng thời, nhận thức về THA ở các nước thu nhập cao tăng từ 58,2% lên 67,0%, tỷ lệ điều trị tăng từ 44,5% lên 55,6%, và tỷ lệ kiểm soát huyết áp tăng từ 17,9% lên 28,4% Ngược lại, ở các nước thu nhập thấp và trung bình, tỷ lệ nhận thức chỉ tăng nhẹ từ 32,3% lên 37,9%, tỷ lệ điều trị từ 24,9% lên 29,0%, trong khi tỷ lệ kiểm soát huyết áp giảm từ 8,4% xuống 7,7%.
1.2.2 Tình hình tăng huyết áp tại Việt Nam
Năm 2011, nghiên cứu của Hà Anh Đức trên 2368 người từ 25 tuổi trở lên tại Thái Nguyên cho thấy tỷ lệ huyết áp cao (THA) đạt 23% Kết quả nghiên cứu chỉ ra sự khác biệt có ý nghĩa thống kê giữa nam và nữ, cũng như giữa các nhóm tuổi, với tỷ lệ THA cao hơn ở nhóm thừa cân và béo phì.
Nghiên cứu của Geleijnse JM và cộng sự (2014) cho kết quả tỷ lệ THA ở người Việt Nam từ 25-64 tuổi là 20,7 % (CI 95% = 19,4-22,1) [24]
Theo thống kê của Hội Tim mạch học Việt Nam năm 2015, trong số 5.454 người trưởng thành từ 25 tuổi trở lên trong quần thể 44 triệu người tại 8 tỉnh/thành, có 47,3% (20,8 triệu người) bị tăng huyết áp (THA) Đáng chú ý, 39,1% (8,1 triệu người) trong số này không biết mình mắc bệnh, 7,2% (0,9 triệu người) không được điều trị, và 69,0% (8,1 triệu người) chưa kiểm soát được huyết áp Điều tra năm 2016 cho thấy khoảng 48% người trưởng thành mắc THA, tăng đáng kể so với 16,3% năm 2000 và 25,4% năm 2009, cho thấy tình hình sức khỏe cộng đồng đang ở mức báo động.
Trong những năm qua, Việt Nam đã triển khai nhiều chương trình phòng chống tăng huyết áp (THA) với mục tiêu chính là nâng cao công tác điều trị tại các bệnh viện Từ năm 2012, Chương trình mục tiêu Quốc gia giai đoạn 2012-2015 đã được phê duyệt, trong đó có chương trình phòng chống THA, nhằm tăng 50% số người bệnh được quản lý và điều trị Các hoạt động can thiệp bao gồm nâng cao nhận thức của cộng đồng về THA, phát hiện sớm thông qua sàng lọc, đào tạo cán bộ y tế tại tuyến cơ sở và hỗ trợ điều trị ngoại trú Theo báo cáo, chương trình quốc gia phòng chống THA đã được triển khai rộng rãi tại các xã thuộc dự án, đánh dấu đây là chương trình can thiệp quy mô quốc gia lớn nhất tại Việt Nam cho đến nay.
Nhiều bệnh viện tuyến Trung ương và tỉnh hiện đang áp dụng mô hình quản lý và điều trị ngoại trú cho người bệnh, trong đó bệnh nhân tự đến khám mà không qua sàng lọc Họ thường đến từ các khoa Lão khoa hoặc các khoa khác sau khi phát hiện bệnh tại tuyến dưới Người bệnh được khám và xét nghiệm để chẩn đoán giai đoạn và mức độ cần điều trị, với chi phí khám tính theo chế độ bảo hiểm Tại Bệnh viện Bạch Mai, nhiều bệnh nhân sử dụng thẻ Bảo hiểm y tế (BHYT) và thường là những người có khả năng tự chi trả, sống tại khu vực thành thị gần Hà Nội Tuy nhiên, nghiên cứu cho thấy hơn 60% bệnh nhân bỏ điều trị sau 6 tháng, và vẫn thiếu các đánh giá rộng rãi về tỷ lệ bỏ điều trị trong nhóm bệnh nhân ngoại trú.
1.2.3 Nghiên cứu tuân thủ điều trị tăng huyết áp trên thế giới
Theo các nghiên cứu trên thế giới, tỷ lệ kiểm soát được huyết áp không cao chính là do tuân thủ điều trị thấp
Nghiên cứu của Manal Ibrahim Hanafi Mahmoud tại Đại học Taibah năm 2012 cho thấy tỷ lệ tuân thủ điều trị tăng huyết áp (THA) chỉ đạt 35,1% Trong đó, bệnh nhân có mức độ tuân thủ kém nhất là trong việc tập thể dục Các yếu tố như giới tính, thu nhập thấp, trình độ văn hóa, tình trạng công việc và thói quen hút thuốc đều ảnh hưởng đến mức độ tuân thủ điều trị Đặc biệt, có đến 83% bệnh nhân mắc thêm các bệnh kèm theo có tỷ lệ tuân thủ điều trị thấp.
Nghiên cứu cắt ngang của Nandini Natarajan năm 2013 đã điều tra tuân thủ thuốc hạ huyết áp và các yếu tố liên quan ở 527 bệnh nhân mắc tăng huyết áp và đái tháo đường loại 2 Kết quả nghiên cứu cung cấp cái nhìn sâu sắc về mức độ tuân thủ điều trị và các yếu tố ảnh hưởng đến sức khỏe của bệnh nhân.
Theo nghiên cứu trong 6 tháng, phương pháp tự khai báo dựa trên thang điểm Morisky cho thấy 77% bệnh nhân tuân thủ việc sử dụng thuốc Ngoài ra, những bệnh nhân duy trì thói quen tập thể dục đều đặn và thực hiện chế độ ăn lành mạnh, giảm muối có mối liên quan tích cực đến điểm tuân thủ điều trị cao.
1.2.4 Nghiên cứu tuân thủ điều trị tăng huyết áp tại Việt Nam
Nghiên cứu tại Việt Nam cho thấy rằng việc tuân thủ điều trị của bệnh nhân tăng huyết áp (THA) bị ảnh hưởng bởi nhiều yếu tố bên ngoài, như thói quen ăn uống chung với gia đình và sở thích ăn mặn, khiến việc giảm muối và chất béo trở nên khó khăn Ngoài ra, một số bệnh nhân không thể từ chối việc hút thuốc khi được mời bởi bạn bè Đặc biệt, tâm lý chủ quan của bệnh nhân cũng là nguyên nhân chính dẫn đến việc nhiều người không tuân thủ chế độ điều trị THA một cách hiệu quả.
Nghiên cứu của Nguyễn Minh Phương năm 2011 ở người bệnh THA từ 25 đến
Một nghiên cứu tại 4 phường thành phố Hà Nội cho thấy có 44,8% người từ 60 tuổi trở lên tuân thủ điều trị tăng huyết áp (THA), trong đó 34% theo dõi huyết áp thường xuyên và 67,2% uống thuốc THA, nhưng chỉ 43,6% uống đủ liều Ngoài ra, 36% tuân thủ chế độ ăn uống, 66,4% hạn chế rượu/bia, 64% thực hiện chế độ sinh hoạt hợp lý và 62,8% thường xuyên tập thể dục Phân tích cho thấy giới tính, nhóm tuổi, trình độ học vấn, tình trạng hôn nhân, bảo hiểm y tế (BHYT) và kiến thức về THA có mối liên quan đến tuân thủ điều trị Cụ thể, nữ giới tuân thủ cao hơn 2,59 lần so với nam; người trên 55 tuổi có tỷ lệ tuân thủ cao hơn 1,86 lần; những người có trình độ học vấn từ phổ thông trung học tuân thủ cao hơn 2,3 lần; người có vợ/chồng tuân thủ cao hơn 3,16 lần so với người chưa có; người có BHYT tuân thủ cao hơn 1,95 lần so với người không có; và người có kiến thức đạt về THA tuân thủ cao hơn 15,32 lần so với người không có kiến thức Tuy nhiên, khi phân tích mô hình logistic, chỉ có giới tính và kiến thức về THA là có liên quan đến tuân thủ điều trị.
Nghiên cứu cắt ngang của Nguyễn Thị Hải Yến năm 2012 tại bệnh viện E cho thấy tỷ lệ tuân thủ chế độ ăn của 260 bệnh nhân THA chỉ đạt 40,4% Phân tích hồi quy logistic đa biến chỉ ra rằng kiến thức về bệnh và chế độ điều trị, cùng với sự giải thích của nhân viên y tế về THA và các nguy cơ liên quan, là hai yếu tố có ảnh hưởng thống kê đến việc tuân thủ chế độ ăn.
MÔ TẢ VẤN ĐỀ CẦN GIẢI QUYẾT
Thực trạng tuân thủ điều trị tăng huyết áp của người bệnh ngoại trú khoa Khám bệnh, bệnh viện Bạch Mai
2.1.1 Đối tượng và phương pháp nghiên cứu
Người bệnh điều trị ngoại trú tại Khoa Khám bệnh, Bệnh viện Bạch Mai tháng 9 và tháng 10 năm 2020
Tiêu chí lựa chọn: đáp ứng đầy đủ các tiêu chí sau:
- Đủ 18 tuổi trở lên (tính theo ngày, tháng, năm sinh dương lịch);
- Được chẩn đoán mắc THA vô căn (nguyên phát);
- Tại thời điểm nghiên cứu, người bệnh không có biến chứng nặng do THA;
Người bệnh thuộc Chương trình quản lý tăng huyết áp, một phần của Dự án Phòng chống tăng huyết áp, nằm trong chương trình Mục tiêu Quốc gia về Y tế, được quản lý và điều trị một cách hiệu quả.
- Có khả năng nghe, nói, giao tiếp và trả lời phỏng vấn;
- Đồng ý tình nguyện tham gia nghiên cứu
Tiêu chí loại trừ bao gồm những người bệnh không đáp ứng đầy đủ các tiêu chí lựa chọn đã nêu Để xác định cỡ mẫu, chúng tôi sẽ áp dụng công thức tính cỡ mẫu ước lượng cho một tỷ lệ trong nghiên cứu mô tả.
Trong đó: n: cỡ mẫu tối thiểu cần nghiên cứu
Z: hệ số tin cậy, với ngưỡng xác suất α = 0,05, có Z(1 – α/2) = 1,96 p: tỷ lệ tuân thủ điều trị THA, ước lượng p = 0,334 (theo kết quả nghiên cứu của tác giả Đỗ Thị Bích Hạnh với người bệnh điều trị THA ngoại trú tại bệnh viện đa khoa tỉnh Bình Phước năm 2013) [6] d: sai số chấp nhận được của ước lượng, chọn d = 0,05 (5,0%)
Để tính toán số lượng mẫu cần thu thập, ta thay các giá trị vào công thức và nhận được n = 342 người Để dự phòng cho khoảng 10% đối tượng có thể bỏ cuộc hoặc phiếu thu thập không đủ thông tin (trên 50%), số lượng mẫu cần thu thập là 376, làm tròn thành 380.
Theo thống kê năm 2019 tại Khoa Khám bệnh, bệnh viện Bạch Mai, trung bình mỗi tháng có khoảng 5000 bệnh nhân tăng huyết áp (THA) đến khám và điều trị ngoại trú, tương đương khoảng 210 bệnh nhân mỗi ngày Hầu hết bệnh nhân được quản lý và điều trị theo Chương trình quản lý tăng huyết áp, với đa số đến khám vào buổi sáng theo lịch hẹn của bác sĩ Nhóm nghiên cứu đã áp dụng phương pháp chọn mẫu thuận tiện để phỏng vấn bệnh nhân, tiếp cận bất kỳ ai đáp ứng đủ tiêu chí lựa chọn trong thời gian nghiên cứu Quá trình chọn mẫu diễn ra liên tục trong tuần, không trùng lặp bệnh nhân, cho đến khi đạt đủ số lượng cần thiết cho nghiên cứu.
2.1.1.3 Biến số nghiên cứu và tiêu chuẩn đánh giá
Nhóm biến số thông tin chung của người bệnh bao gồm các yếu tố như đặc điểm nhân khẩu học, tiền sử tăng huyết áp (THA) trong gia đình và cá nhân, chỉ số khối cơ thể (BMI), chỉ số huyết áp hiện tại của bản thân, và việc tham gia vào các hoạt động của câu lạc bộ người THA tại bệnh viện.
- Nhóm biến số về kiến thức của người bệnh: kiến thức về bệnh THA; kiến thức về tuân thủ điều trị THA
Để nâng cao hiệu quả điều trị tăng huyết áp (THA), người bệnh cần tuân thủ các thực hành sau: sử dụng thuốc đúng theo chỉ định, duy trì chế độ ăn uống hợp lý, thực hiện lối sống lành mạnh và tập luyện thể lực thường xuyên Ngoài ra, cần tránh hút thuốc lá hoặc thuốc lào, giảm lượng rượu và bia tiêu thụ, đồng thời theo dõi chỉ số huyết áp định kỳ bằng cách đo, ghi lại và tham gia khám sức khỏe thường xuyên.
Một số tiêu chuẩn đánh giá sử dụng trong nghiên cứu:
Trong nghiên cứu này, chúng tôi đã sử dụng thang đo Morisky để phát triển bộ câu hỏi đánh giá “tuân thủ điều trị,” bao gồm 6 khía cạnh, trong đó có tuân thủ chế độ dùng thuốc.
Để duy trì sức khỏe tốt, bạn cần tuân thủ chế độ ăn uống hợp lý, kết hợp với lối sống lành mạnh và luyện tập thể lực thường xuyên Ngoài ra, việc không hút thuốc lá hoặc thuốc lào và giảm lượng rượu, bia tiêu thụ cũng rất quan trọng Đặc biệt, hãy chú ý theo dõi chỉ số huyết áp của mình bằng cách đo, ghi lại và đi khám định kỳ để đảm bảo sức khỏe tim mạch ổn định.
Bài viết đánh giá kiến thức về bệnh tăng huyết áp (THA) và chế độ điều trị của nó thông qua 16 câu hỏi, bao gồm 11 nội dung kiến thức cơ bản Mỗi nội dung có thể được kiểm tra bằng một hoặc nhiều câu hỏi, bao gồm cả câu hỏi một lựa chọn và nhiều lựa chọn Mỗi nội dung kiến thức có điểm tối đa là 01 điểm, với điểm cho mỗi lựa chọn đúng được tính bằng 1 điểm chia cho tổng số lựa chọn đúng của nội dung đó Tổng điểm tối đa cho kiến thức về THA và chế độ điều trị là 11 điểm, giúp xác định mức độ hiểu biết của người bệnh về bệnh lý này.
“Đạt” nếu đạt từ 7 điểm trở lên, dưới 7 điểm là “Chưa đạt”
Đánh giá thực hành tuân thủ điều trị tăng huyết áp (THA) của người bệnh được thực hiện qua 47 câu hỏi trong vòng một tháng, chia thành 06 nhóm thực hành khác nhau.
Bài viết đề cập đến 09 câu hỏi liên quan đến thực hành tuân thủ chế độ thuốc, trong đó có 03 câu hỏi phụ không tính điểm (C2, C8, C9) và 06 câu hỏi tính điểm với chỉ 01 đáp án đúng (C1, C3 đến C7) Mỗi câu trả lời đúng sẽ được 1 điểm Người bệnh sẽ được đánh giá là "Tuân thủ" chế độ thuốc nếu đạt từ 4 điểm trở lên; ngược lại, nếu đạt dưới 4 điểm, sẽ được đánh giá là "Không tuân thủ".
08 câu hỏi về thực hành tuân thủ chế độ ăn (C10 đến C17): Mỗi câu có 04 lựa chọn tương ứng với số điểm như sau: 1 Thường xuyên = 3 điểm; 2 Thỉnh thoảng
Người bệnh được đánh giá là "Tuân thủ" chế độ ăn nếu điểm số đạt ≤ 8, trong khi điểm số trên 8 được xem là "Không tuân thủ" Các mức điểm được quy định như sau: 2 điểm cho mức độ tuân thủ cao, 1 điểm cho hiếm khi tuân thủ và 0 điểm cho không bao giờ tuân thủ.
Trong bài viết này, chúng ta sẽ xem xét 06 câu hỏi liên quan đến việc tuân thủ điều trị đối với thói quen hút thuốc lá và thuốc lào (C18 đến C23) Câu hỏi quan trọng nhất là C.18, hỏi về việc liệu ông/bà có bao giờ hút thuốc lá hoặc thuốc lào hay không Nếu chọn đáp án 1 (Chưa bao giờ) hoặc 3 (Có, nhưng hiện tại đã bỏ/dừng), người trả lời sẽ được 1 điểm và được đánh giá là "Tuân thủ không hút thuốc lá/thuốc lào" Ngược lại, nếu chọn đáp án 2 (Vẫn còn hút), người trả lời sẽ không được điểm và bị đánh giá là "Không tuân thủ".
Người bệnh được coi là "Tuân thủ hạn chế uống rượu/bia" khi trả lời các câu hỏi C24, C28 và C32 với các lựa chọn như "Chưa bao giờ", "Có, nhưng hiện tại đã dừng", hoặc "Vẫn còn uống nhưng số lượng rượu/bia uống vào ngày nhiều nhất là ≤ 4 cốc chuẩn đối với nam và ≤ 3 cốc chuẩn đối với nữ" Ngoài ra, tổng lượng rượu/bia uống trong tuần không được vượt quá 14 cốc chuẩn đối với nam và 9 cốc chuẩn đối với nữ.
Các ưu, nhược điểm
Chương trình quản lý tăng huyết áp tại Bệnh viện Bạch Mai, được Bộ Y tế và lãnh đạo bệnh viện quan tâm, đã được triển khai từ năm 2003 Hiện nay, bệnh viện đang theo dõi hơn 5.000 bệnh nhân tăng huyết áp với các đợt khám định kỳ hàng tháng tại khoa Khám Bệnh Trong năm 2019, khoa đã thực hiện quản lý và điều trị ngoại trú cho 5.824 người bệnh.
- Người bệnh được nhân viên y tế tư vấn về kiểm soát huyết áp tại nhà, thực hiện chế độ ăn uống, luyện tập, cấp thuốc điều trị
Bệnh viện tổ chức các buổi cập nhật kiến thức và sinh hoạt câu lạc bộ để bác sĩ và bệnh nhân trao đổi kinh nghiệm Trong số 380 bệnh nhân THA tham gia nghiên cứu, có 189 người (49,7%) tham gia câu lạc bộ, trong đó 38,6% tham gia thường xuyên với thời gian trung bình là 5,5 năm Đặc biệt, 52,4% người tham gia đã gắn bó từ 5 năm trở lên Tất cả người tham gia đều cho rằng thông tin từ câu lạc bộ là hữu ích, và 97,9% đã áp dụng kiến thức vào quá trình điều trị THA.
Tỷ lệ đạt được huyết áp mục tiêu là 61,3%, cho thấy mức độ tuân thủ điều trị của người bệnh Nghiên cứu cho thấy chỉ số huyết áp tại nhà của người bệnh chủ yếu nằm trong khoảng bình thường (30,8%) và bình thường cao (30,5%), điều này phù hợp với kết quả 61,7% người bệnh đã đạt được huyết áp mục tiêu.
Khoa Khám bệnh của bệnh viện Bạch Mai đang phải đối mặt với tình trạng quá tải khi số lượng bệnh nhân đến khám vượt xa khả năng phục vụ của đội ngũ nhân viên y tế, với khoảng 120 nhân viên hiện có Trung bình mỗi năm, khoa tiếp nhận và điều trị ngoại trú cho 76.000 lượt người, trong đó có khoảng 3.500 lượt người đến khám mỗi ngày Đặc biệt, trong năm 2019, có 5.824 bệnh nhân tăng huyết áp thuộc Chương trình quản lý THA được điều trị ngoại trú tại khoa.
Nhiều người bệnh vẫn chưa chú trọng vào việc tìm hiểu kiến thức về sức khỏe và điều trị tăng huyết áp (THA) Theo kết quả khảo sát, có 5,8% bệnh nhân không tự tìm kiếm thông tin về THA, trong khi chỉ 37,1% thực hiện việc này một cách thường xuyên; phần lớn còn lại chỉ thỉnh thoảng quan tâm đến vấn đề này.
Hiệu quả truyền thông – giáo dục sức khoẻ tại bệnh viện và cơ sở y tế địa phương còn hạn chế, với chỉ 30,7% người bệnh tiếp cận thông tin qua tờ rơi và 40,8% qua trao đổi trực tiếp Gần một nửa số người bệnh tham gia câu lạc bộ THA, cho thấy cần tăng cường hoạt động truyền thông – giáo dục sức khoẻ để nâng cao kiến thức cho người bệnh và gia đình Vai trò của nhân viên y tế rất quan trọng trong việc quản lý khám, điều trị, tư vấn và cung cấp kiến thức cho người bệnh, vì họ là nguồn tin cậy cho bệnh nhân và gia đình.
- Thuốc trong danh mục bảo hiểm y tế còn chưa được đầy đủ.
Nguyên nhân của các việc làm được và chưa làm được
Sự ủng hộ mạnh mẽ từ Lãnh đạo bệnh viện và Khoa đã tạo điều kiện thuận lợi cho việc triển khai mô hình quản lý Tuy nhiên, vẫn còn thiếu sự đồng thuận cao với bảo hiểm y tế, dẫn đến một số hạn chế trong việc cấp phát thuốc cho bệnh nhân.
Trong nghiên cứu về kiến thức của bệnh nhân về bệnh tăng huyết áp (THA) và chế độ điều trị, có 11 nội dung được đánh giá, trong đó tỷ lệ người bệnh trả lời đúng dưới 60% chủ yếu ở các lĩnh vực như đặc điểm của bệnh THA (41,3%), biến chứng của bệnh (23,7%), biện pháp điều trị (45,3%) và việc đo, ghi chỉ số huyết áp cũng như khám định kỳ (56,3%) Mặc dù một số bệnh nhân có thể trả lời đúng một số câu hỏi, nhưng họ không đạt được từ 2/3 số đáp án đúng cần thiết Nhiều bệnh nhân vẫn nhầm lẫn cho rằng THA là bệnh cấp tính, chỉ gặp ở người trung niên và không nhận thức được những biến chứng nguy hiểm mà bệnh có thể gây ra Đặc biệt, họ không biết đến các biến chứng như suy thận hay xuất huyết võng mạc Hơn nữa, một số bệnh nhân không nhận ra lợi ích của việc đo huyết áp và khám định kỳ để đánh giá các yếu tố nguy cơ tim mạch, cũng như không hiểu rằng việc tập thể dục từ 30 – 60 phút mỗi ngày và theo dõi huyết áp là phương pháp điều trị THA hiệu quả Kết quả này cho thấy cần tăng cường cung cấp kiến thức cho bệnh nhân THA trong các hoạt động truyền thông, trong khi các nội dung kiến thức khác có tỷ lệ đạt khá cao.
- Về tuân thủ chế độ thuốc điều trị:
Kết quả nghiên cứu cho thấy tỷ lệ tuân thủ chế độ thuốc điều trị của bệnh nhân tăng lên đến 95,8%, vượt xa so với các nghiên cứu trước đó như của Nguyễn Minh Phương (67,2%), Nguyễn Thị Hải Yến (61,5%), Đỗ Thị Bích Hạnh (56,3%) và Nandini Natarajan (77%) Sự khác biệt này có thể xuất phát từ tiêu chí đánh giá khác nhau về thực hành tuân thủ hoặc do bệnh nhân trong nghiên cứu của chúng tôi có kiến thức về chế độ thuốc điều trị tốt hơn, đạt 99,1%.
Nguyên nhân chính khiến bệnh nhân không tuân thủ chế độ thuốc điều trị tăng huyết áp (THA) bao gồm việc quên uống thuốc (22,9%), tự ý ngừng thuốc khi cảm thấy khó chịu (13,9%) và ngừng thuốc khi huyết áp bình thường (8,9%) Một số nguyên nhân khác như không mang theo thuốc khi đi xa (3,2%), uống thuốc không đúng chỉ dẫn (2,1%) và tự ý mua thuốc (2,1%) cũng được ghi nhận Nghiên cứu của Đỗ Thị Bích Hạnh chỉ ra rằng tỷ lệ không tuân thủ còn cao hơn, phản ánh sự chủ quan trong việc chăm sóc sức khỏe của bệnh nhân Đặc biệt, 42,9% bệnh nhân không có ai nhắc nhở uống thuốc, cho thấy cần có sự phối hợp giữa nhân viên y tế, gia đình và các tổ chức xã hội để nâng cao ý thức và tuân thủ điều trị cho bệnh nhân THA.
- Về tuân thủ chế độ ăn:
Các nghiên cứu trước đây cho thấy tỷ lệ tuân thủ chế độ ăn của bệnh nhân dao động từ 20% đến 65%, nhưng nghiên cứu của chúng tôi ghi nhận tỷ lệ cao hơn, đạt 90,5% Nguyên nhân tỷ lệ tuân thủ thấp trong các nghiên cứu trước có thể do khó khăn trong việc thay đổi thói quen ăn uống, đặc biệt là ở người Việt Nam có xu hướng ăn mặn và sống cùng gia đình Tuy nhiên, trong nghiên cứu của chúng tôi, chỉ có 20,8% bệnh nhân ăn đồ chiên thường xuyên, 17,2% ăn dưa muối, 10,2% ăn lòng đỏ trứng, và 8,7% thêm gia vị khi ăn cùng gia đình Sự khác biệt này có thể do bệnh nhân trong nghiên cứu có kiến thức về chế độ ăn tốt hơn (86,8%) và đã có thời gian điều trị lâu hơn, dẫn đến việc thay đổi thói quen ăn uống theo hướng tích cực hơn.
- Về tuân thủ không hút thuốc lá/ thuốc lào:
Tỷ lệ tuân thủ không hút thuốc lá và thuốc lào của người bệnh trong nghiên cứu đạt 94,5%, cho thấy mức độ tuân thủ cao so với các chế độ điều trị khác Kết quả này tương tự như nghiên cứu của Nguyễn Thị Hải Yến với tỷ lệ 95,4% và cao hơn so với nghiên cứu của Đỗ Thị Bích Hạnh, chỉ đạt 84,7% Đáng chú ý, có 29% người bệnh đã từng hút thuốc nhưng hiện tại đã bỏ thuốc.
Theo khảo sát của 110 người từng hút thuốc, lý do chính khiến họ bỏ thuốc lá/thuốc lào là nhận thức về tác hại của thuốc lá đối với sức khỏe (97,8%), sự gia tăng huyết áp (56,4%) và lời khuyên từ người thân hoặc nhân viên y tế (8,2%) Kết quả này phản ánh hiệu quả của các chương trình truyền thông và giáo dục sức khỏe, cũng như các can thiệp giảm thiểu tác hại của thuốc lá đang diễn ra mạnh mẽ tại Việt Nam Sự khác biệt trong tỷ lệ tuân thủ không hút thuốc giữa nghiên cứu của chúng tôi và các nghiên cứu trước có thể do đối tượng nghiên cứu chủ yếu là người có trình độ học vấn từ PTTH trở lên và sống ở khu vực thành phố, nơi các chương trình truyền thông được tổ chức quy mô lớn hơn.
Trong nghiên cứu về tuân thủ hạn chế uống rượu/bia, tỷ lệ người bệnh tuân thủ đạt 96,1%, cao hơn nhiều so với các nghiên cứu trước đó của Nguyễn Thị Hải Yến (86,5%), Đỗ Thị Bích Hạnh (82,6%) và Nguyễn Minh Phương (66,4%) Sự khác biệt này có thể do đối tượng nghiên cứu chủ yếu là người bệnh trên 60 tuổi, những người đã có thời gian điều trị tăng huyết áp lâu dài, dẫn đến việc tự hạn chế lượng rượu/bia tiêu thụ hàng ngày và hàng tuần.
Trong nghiên cứu của chúng tôi, tỷ lệ người bệnh tuân thủ chế độ sinh hoạt và luyện tập thể lực chỉ đạt 39,7%, thấp hơn nhiều so với kết quả nghiên cứu của Nguyễn Minh Phương (khoảng 60%) và chỉ cao hơn so với nghiên cứu của Đỗ Thị Bích Hạnh (28,9%) và Nguyễn Thị Hải Yến (21,9%) Mặc dù 75,5% người bệnh có kiến thức đúng về chế độ sinh hoạt và luyện tập phù hợp khi bị tăng huyết áp (THA), nhưng vẫn tồn tại khoảng cách lớn giữa kiến thức và thực hành Điều này cho thấy cần có các hoạt động truyền thông – giáo dục sức khoẻ và can thiệp để thúc đẩy thay đổi hành vi Một phần nguyên nhân của khoảng cách này có thể do người bệnh phải làm việc, khiến họ khó sắp xếp thời gian tập luyện, hoặc do độ tuổi cao khiến họ chỉ thực hiện các bài tập nhẹ thay vì mức độ vừa cần thiết trong quá trình điều trị.
- Về tuân thủ việc đo, ghi lại chỉ số huyết áp và khám định kỳ:
Tỷ lệ tuân thủ của 380 bệnh nhân tăng huyết áp trong nghiên cứu đạt 58,2%, gần tương đương với tỷ lệ kiến thức là 56,3% Kết quả này cao hơn so với nghiên cứu của Đỗ Thị Bích Hạnh (31,3%) và Nguyễn Thị Hải Yến (20%), nhưng vẫn cho thấy tỷ lệ tuân thủ chưa cao, với chỉ 29,5% bệnh nhân ghi lại chỉ số huyết áp sau mỗi lần đo.
Nghiên cứu cho thấy nhiều người không đo huyết áp hàng ngày do thiếu máy đo tại nhà và bận rộn với công việc Khoảng 12,4% bệnh nhân tăng huyết áp không đi khám định kỳ, chủ yếu vì lý do công việc (66%), ngại đi khám (34%), lịch khám không phù hợp (6,4%) và cảm thấy không cần thiết (6,4%) Thực trạng này phản ánh những rào cản trong việc tuân thủ chế độ đo và khám sức khỏe định kỳ Tuy nhiên, với sự hỗ trợ từ gia đình, nhân viên y tế và các tổ chức xã hội, những rào cản này có thể được khắc phục thông qua việc trang bị máy đo huyết áp tại nhà, sắp xếp thời gian khám hợp lý và nâng cao nhận thức của bệnh nhân về tầm quan trọng của việc theo dõi sức khỏe và tái khám định kỳ.
- Về tuân thủ điều trị tăng huyết áp chung:
Nghiên cứu cho thấy chỉ có 25,5% bệnh nhân tuân thủ đầy đủ 06 nội dung chế độ điều trị tăng huyết áp (THA), trong khi 62,6% tuân thủ từ 05 nội dung trở lên và 90% tuân thủ ít nhất 04 nội dung Kết quả này cho thấy có nhiều lý do khiến bệnh nhân khó tuân thủ hoàn toàn Việc tuân thủ chế độ điều trị THA đòi hỏi sự kiên trì trong việc thay đổi thói quen để thiết lập hành vi sức khỏe tích cực Để nâng cao hiệu quả điều trị, cần sự hợp tác từ các bên liên quan như cơ sở y tế, nhân viên y tế, gia đình bệnh nhân và các tổ chức xã hội.
Theo tiêu chí đánh giá tuân thủ điều trị, bệnh nhân được coi là tuân thủ khi thực hiện từ 5 nội dung trở lên trong tổng số 6 nội dung của chế độ điều trị tăng huyết áp (THA) Tỷ lệ tuân thủ điều trị THA trong nghiên cứu đạt 62,6%, cao hơn so với các nghiên cứu trước đây của Nguyễn Đức Bảo (48,3% năm 2016) và Đỗ Thị Bích Hạnh (33,4% năm 2013).
[6], của Nguyễn Thị Hải Yến năm 2012 (43,4%) [17], của Nguyễn Minh Phương năm
Sự khác biệt về tỷ lệ tuân thủ điều trị tăng huyết áp (THA) giữa các nghiên cứu có thể xuất phát từ nhiều yếu tố, bao gồm tiêu chí đánh giá người bệnh, thiết kế nghiên cứu, thời gian và địa điểm thực hiện, cũng như công cụ nghiên cứu được sử dụng Ví dụ, nghiên cứu của Đỗ Thị Bích Hạnh năm 2013 xác định người bệnh tuân thủ nếu đáp ứng từ 04 nội dung trở lên Thêm vào đó, đặc điểm nhân khẩu học, quá trình phát hiện và điều trị bệnh, tình trạng sức khỏe hiện tại và kiến thức của người bệnh cũng có thể ảnh hưởng đến kết quả nghiên cứu, dẫn đến sự khác biệt trong tỷ lệ thực hành tuân thủ điều trị THA.
Nghiên cứu sử dụng phiếu phỏng vấn làm công cụ chính, do đó chất lượng dữ liệu phụ thuộc vào kỹ năng phỏng vấn của điều tra viên (ĐTV) và sự trung thực của người trả lời Để giảm thiểu sai số, nghiên cứu đã thử nghiệm phiếu phỏng vấn trước khi thu thập chính thức, nhằm điều chỉnh phù hợp với thực tế và nâng cao kỹ năng phỏng vấn của ĐTV Ngoài ra, ĐTV cũng được tập huấn kỹ lưỡng trước khi thu thập dữ liệu, với sự tham gia trực tiếp của nghiên cứu viên chính trong quá trình thu thập và giám sát.