Khái niệm nghèo đói
Nghèo được định nghĩa là tình trạng bần cùng hóa về phúc lợi, thường được hiểu là sự thiếu thốn về vật chất và sống với mức thu nhập thấp Khái niệm nghèo đói không có sự phân biệt rõ ràng giữa các quốc gia, vùng miền hay cộng đồng Các tiêu chí xác định nghèo đói chủ yếu dựa vào mức thu nhập hoặc chi tiêu để đáp ứng các nhu cầu cơ bản như ăn, ở, mặc, y tế, giáo dục, văn hóa, và giao tiếp xã hội Sự khác biệt thường nằm ở mức độ thỏa mãn các nhu cầu này, phụ thuộc vào trình độ phát triển kinh tế - xã hội và phong tục tập quán của từng khu vực.
Nhà kinh tế học Galbraith nhấn mạnh rằng con người được xem là nghèo khổ khi thu nhập của họ, dù đủ để tồn tại, vẫn thấp hơn rõ rệt so với mức thu nhập chung của cộng đồng Hệ quả là họ không thể tiếp cận những nhu cầu tối thiểu mà đa số người trong xã hội coi là cần thiết để sống một cách đúng mức.
Tại hội nghị Thượng đỉnh thế giới và phát triển xã hội năm 1995 ở Copenhagen, Đan Mạch, người nghèo được định nghĩa là những cá nhân có thu nhập dưới 1 đô la Mỹ mỗi ngày, số tiền này được xem là tối thiểu để đáp ứng nhu cầu cơ bản cho sự sống (N.T.Hoài, 2005).
Ngân hàng Thế giới (NHTG) đã có những cách tiếp cận khác nhau về nghèo đói qua các năm Năm 1990, họ định nghĩa nghèo đói là tình trạng "không có khả năng có mức sống tối thiểu", bao gồm việc thiếu thốn các sản phẩm và dịch vụ thiết yếu như giáo dục, y tế và dinh dưỡng Đến năm 2000 và 2001, NHTG mở rộng khái niệm này bằng cách thêm vào tình trạng bị gạt ra bên lề xã hội và dễ bị tổn thương Nghèo không chỉ đơn thuần là đói khát hay thiếu thốn nhà cửa, mà còn là sự khốn cùng về mặt phúc lợi, bao gồm bệnh tật, mù chữ và không có ai chăm sóc Đối với người nghèo, cuộc sống bần hàn còn mang nhiều ý nghĩa sâu sắc hơn, khi họ đặc biệt dễ bị tổn thương trước những sự kiện bất thường ngoài tầm kiểm soát.
Chính phủ Việt Nam đã công nhận định nghĩa về đói nghèo theo Hội nghị chống đói nghèo khu vực Châu Á - Thái Bình Dương do ESCAP tổ chức tại Băng Cốc, Thái Lan vào tháng 9/1993 Định nghĩa này cho rằng nghèo là tình trạng mà một bộ phận dân cư không được đáp ứng các nhu cầu cơ bản của con người, những nhu cầu này được xã hội thừa nhận tùy thuộc vào trình độ phát triển kinh tế - xã hội và phong tục tập quán của địa phương.
Nghèo đói có nhiều cách diễn giải, nhưng tất cả các định nghĩa đều phản ánh ba khía cạnh cơ bản của người nghèo.
- Có mức sống thấp hơn mức sống trung bình của cộng đồng dân cư;
- Không được thụ hưởng những nhu cầu cơ bản ở mức tối thiểu dành cho con người trong cộng đồng đó;
- Thiếu cơ hội lựa chọn tham gia vào quá trình phát triển của cộng đồng.
Nghèo về thu nhập thường đi đôi với nghèo về con người, thể hiện qua sức khỏe kém và trình độ giáo dục thấp Tình trạng này không chỉ ảnh hưởng đến cá nhân mà còn dẫn đến nghèo về xã hội, khiến họ dễ bị tổn thương trước các sự kiện bất lợi như bệnh tật, khủng hoảng kinh tế hay thiên tai Hơn nữa, những người nghèo thường thiếu tiếng nói trong các thể chế xã hội và cảm thấy bất lực trong việc cải thiện điều kiện sống của bản thân.
Trong nghiên cứu này, tác giả chọn định nghĩa của Ngân hàng Thế giới (NHTG) về nghèo, được hiểu là tình trạng thiếu khả năng đạt được mức sống tối thiểu.
Một cá nhân hoặc hộ gia đình được coi là nghèo tuyệt đối khi thu nhập của họ thấp hơn mức tối thiểu do quốc gia hoặc tổ chức quốc tế quy định trong một khoảng thời gian nhất định.
Tình trạng một cá nhân hoặc hộ gia đình không đáp ứng được các nhu cầu cơ bản cho cuộc sống như ăn, ở, mặc, chăm sóc sức khỏe, giáo dục cơ bản và các dịch vụ thiết yếu khác được xã hội công nhận, tùy thuộc vào mức độ phát triển kinh tế của từng quốc gia.
Bảng 1.1 : Tiêu chuẩn nghèo đói của Ngân hàng thế giới
Khu vực Tiêu chuẩn nghèo đói (Mức thu nhập hoặc chi tiêu USD/ ngày/người)
Các nước đang phát triển 1 USD hoặc 360 USD/năm
Châu Mỹ Latinh và Caribe 2 Đông Âu 4
Tiêu chuẩn của NHTG về nghèo dựa trên chi tiêu tiêu dùng bao gồm mức tiêu thụ thực phẩm tối thiểu (70%) và các chi tiêu phi thực phẩm (30%)
Bảng 1.2 : Tiêu chuẩn nghèo đói của Việt Nam
Khu vực Tiêu chuẩn nghèo đói Mức thu nhập (chi tiêu)/ người/ tháng
Nông thôn đồng bằng 120.000 đồng 200.000 đồng
Nông thôn miền núi hải đảo 80.000 đồng 150.000 đồng
Nguồn : Quyết định 143/2000 của Bộ LĐ TBXH.
Nghèo đói tương đối là tình trạng mà cá nhân hoặc hộ gia đình nằm trong nhóm có thu nhập thấp nhất trong xã hội, được xác định theo không gian và thời gian cụ thể.
Theo phân tích các Điều tra Mức sống dân cư ở Việt Nam giai đoạn 1993-1998, hộ gia đình được coi là nghèo nếu mức chi tiêu bình quân đầu người nằm trong 20% thấp nhất của dân số Phương pháp này giúp xác định rõ ràng các yếu tố phân biệt giữa hộ giàu và hộ có thu nhập gần bằng hoặc thấp hơn giá trị trung vị.
Như vậy, theo cách tính này thì người nghèo đói tương đối sẽ luôn hiện diện bất kể trình độ phát triển nào.
Các phương pháp xác định đối tượng nghèo hiện nay
1.2.1 Phương pháp xác định chuẩn đói nghèo quốc tế
Phương pháp xác định đường đói nghèo theo chuẩn quốc tế được thực hiện bởi Tổng cục Thống kê và Ngân hàng Thế giới thông qua các cuộc khảo sát mức sống dân cư ở Việt Nam trong các năm 1992-1993 và 1997-1998 Đường đói nghèo thấp, hay còn gọi là đường đói nghèo về lương thực, thực phẩm, được xác định dựa trên nhu cầu tối thiểu 2.100 Kcal/người/ngày theo tiêu chuẩn của Tổ chức Y tế Thế giới Những người có mức chi tiêu dưới mức cần thiết để đạt được lượng Kcal này được xem là nghèo về lương thực, thực phẩm Đường đói nghèo chung, cao hơn đường đói nghèo về lương thực, thực phẩm, tính thêm các chi phí cho các mặt hàng phi lương thực, thực phẩm, từ đó tạo ra cái nhìn toàn diện hơn về tình trạng nghèo đói.
1.2.2 Phương pháp xác định chuẩn đói nghèo theo chương trình xóa đói giảm nghèo quốc gia.
Phương pháp xác định đường đói nghèo theo chuẩn quốc tế được thực hiện bởi Tổng cục Thống kê và Ngân hàng Thế giới thông qua các cuộc khảo sát mức sống dân cư tại Việt Nam vào các năm 1992-1993 và 1997-1998 Đường đói nghèo được phân thành hai mức: đường đói nghèo về lương thực, thực phẩm và đường đói nghèo chung Đường đói nghèo về lương thực, thực phẩm được xác định dựa trên tiêu chuẩn tối thiểu 2.100 Kcal/người/ngày, theo quy định của Tổ chức Y tế Thế giới, và những người chi tiêu dưới mức này được coi là nghèo đói về lương thực Trong khi đó, đường đói nghèo chung không chỉ tính đến chi phí cho lương thực, thực phẩm mà còn bao gồm cả các chi phí cho hàng hóa phi lương thực, thực phẩm.
Kể từ năm 1993, Việt Nam đã nâng mức chuẩn nghèo 4 lần, với chuẩn nghèo giai đoạn 2006-2010 được xây dựng dựa trên ba yêu cầu chính: xóa đói giảm nghèo toàn diện, đảm bảo công bằng và hội nhập theo chuẩn nghèo quốc tế Hiện nay, hộ gia đình nông thôn có thu nhập dưới 200.000 đồng/người/tháng và hộ gia đình thành thị có thu nhập bình quân dưới 260.000 đồng/người/tháng được xem là hộ nghèo, theo phương pháp xác định của Bộ Lao động - Thương binh và Xã hội.
1.2.3 Thước đo chỉ số nghèo đói và bất bình đẳng
1.2.3.1 Chỉ số đếm đầu (Po)
Chỉ số đếm đầu, ký hiệu là P0, là thước đo phổ biến nhất để xác định tỷ lệ người nghèo trong một cộng đồng Công thức tính chỉ số này đơn giản, giúp đánh giá mức độ nghèo đói một cách hiệu quả.
- N là tổng số hộ hay tổng dân số và
Hàm chỉ thị I(yi ≤ z) có giá trị 1 khi chi tiêu (yi) nhỏ hơn chuẩn nghèo (z), tức là hộ gia đình được coi là nghèo Ngược lại, nếu chi tiêu lớn hơn hoặc bằng chuẩn nghèo, hàm sẽ có giá trị 0, xác nhận rằng hộ gia đình đó không thuộc diện nghèo.
- Np là tổng số người nghèo.
Chỉ số đếm đầu người là công thức dễ tính toán và dễ hiểu, phản ánh những đặc trưng quan trọng Tuy nhiên, chỉ số này không thể hiện mức độ nghiêm trọng của đói nghèo, cũng như không phản ánh đúng sự chênh lệch giữa chi tiêu và mức chuẩn nghèo.
1.2.3.2 Chỉ số khoảng cách nghèo
Thước đo nghèo phổ biến, được biết đến là chỉ số khoảng cách nghèo (P1), phản ánh mức độ thiếu hụt thu nhập hoặc chi tiêu của hộ nghèo so với chuẩn nghèo Chỉ số này được tính bằng phần trăm trung bình của sự thiếu hụt so với chuẩn nghèo.
Khoảng cách nghèo (Gi) là sự chênh lệch giữa chuẩn nghèo (z) và thu nhập thực tế (yi) của người nghèo Đối với những người không thuộc diện nghèo, khoảng cách này được coi là bằng không Công thức tính Gi được thể hiện là Gi = (z – yi)*I(yi ≤ z).
Thước đo này phản ánh tỷ lệ khoảng cách nghèo bình quân trong dân cư, trong đó người không nghèo có khoảng cách bằng không Nó cũng có thể được xem là chi phí giảm nghèo đói tương đối so với chuẩn nghèo, cho thấy số tiền cần chuyển cho người nghèo để giúp họ vượt qua chuẩn nghèo Chi phí tối thiểu để giảm nghèo đói, thông qua chuyển tiền đúng mục tiêu, chính là tổng toàn bộ khoảng cách nghèo trong cộng đồng, với mỗi khoảng cách được lấp đầy đến chuẩn nghèo.
Chỉ số chi phí giảm nghèo đói tối đa cho phép đánh giá hiệu quả của ngân sách giảm nghèo bằng cách phân tích tỉ lệ chi phí tối thiểu đúng mục tiêu so với chi phí tối đa không đúng mục tiêu Thước đo khoảng cách nghèo có ưu điểm là chỉ ra độ sâu và quy mô của nghèo đói, phản ánh mức độ thu nhập hoặc chi tiêu của người nghèo so với chuẩn nghèo Tuy nhiên, hạn chế của thước đo này là chưa thể hiện được sự phân phối thu nhập giữa các hộ nghèo, cũng như sự chuyển đổi giữa các hộ nghèo khác nhau.
(biến đổi giữa các nhóm trong hộ nghèo đói) về thu nhập/chi tiêu của những người nghèo không làm P1 thay đổi.
1.2.4 Đường cong Lorenz và hệ số Gini Đường cong Lorenz và hệ số Gini dùng để nghiên cứu và phân tích vấn đề bất bình đẳng Hệ số Gini được tính trên cơ sở của đường cong Lorenz – đường cong cộng dồn các tần suất - để so sánh phân phối của một biến với phân phối đơn vị thể hiện sự bình đẳng Hệ số Gini nằm trong khoảng từ 0 (bình đẳng tuyệt đối) đến 1(bất bình đẳng tuyệt đối) Để tính hệ số Gini và lập đường cong Lorenz, cần phải sắp xếp thứ tự hộ gia đình có thu nhập/chi tiêu từ thấp tới cao, tiếp đến tính tỷ trọng số hộ gia đình, tỷ trọng thu nhập/chi tiêu cộng dồn của những hộ này trong tổng thu nhập/chi tiêu của cộng đồng.
Nguyên nhân của nghèo đói
Nhiều nguyên nhân dẫn đến tình trạng đói nghèo ở các hộ gia đình, bao gồm cả yếu tố chủ quan và khách quan Các yếu tố chính bao gồm trình độ học vấn thấp, hộ gia đình đông con, khả năng tiếp cận cơ sở hạ tầng hạn chế, và phần lớn hộ nghèo làm nông nghiệp.
Theo NHTG (2007) các nhân tố có thể ảnh hưởng đến tình trạng đói nghèo được tóm tắt như sau :
Bảng 1.3 : Các nhân tố ảnh hưởng đến tình trạng nghèo đói.
Cấp độ Nhân tố ảnh hưởng
Vùng Vị trí địa lý, điều kiện tự nhiên
Nguồn lực cơ bản như đất đai và chất lượng đất đai Quản lý nhà nước
Bất bình đẳng Cộng đồng Hạ tầng cơ sở
Khả năng tiếp cận các hàng hóa và dịch vụ công Phân bổ đất đai
Hộ gia đình Quy mô hộ
Tỷ lệ phụ thuộcGiới tính chủ hộ
Tài sản của hộ gia đình
Tỷ lệ có việc làm của những người trưởng thành trong hộ Trình độ học vấn trung bình của hộ Đặc điểm cá nhân Độ tuổi
Giáo dục Tình trạng việc làm Dân tộc (có hay không có thuộc nhóm dân tộc thiểu số)
Các nhà kinh tế học đã mô tả tình trạng nghèo đói ở các nước đang phát triển qua sơ đồ "Vòng lẩn quẩn của nghèo đói", nhằm lý giải nguyên nhân và hệ quả của vấn đề này.
Hình 1.3 Vòng lẩn quẩn của nghèo đói
Những nét chính về tình hình nghèo đói trên thế giới và ở Việt Nam
1.4.1 Tổng quan về nghèo đói ở các nước trên thế giới
Theo số liệu thống kê của các quốc gia thì năm 2004, tỷ lệ người nghèo tại
Mỹ là 12,7% (37 triệu người), tại Canada là 11,9% (890 000 người).
Cuộc họp ba ngày của các bộ trưởng nông nghiệp G8 diễn ra tại Cison di Valmarino, Ý từ 18/04/2009, đã thu hút sự tham gia của các đối tác từ Trung Quốc, Ấn Độ, Brazil, Mexico, Nam Phi, Úc, Argentina và Ai Cập Tại đây, các nước đã cùng nhau xây dựng một lộ trình chung nhằm vượt qua khủng hoảng và ứng phó với tình trạng khẩn cấp về lương thực toàn cầu.
2 TS Đinh Phi Hổ (2003), Kinh tế nông nghiệp : Ký thuyết và thực tiễn, Nhà xuất bản thống kê [11]
Thiếu dinh dưỡng Bệnh tật
Thu nhập thấp Đầu tư thấp
Góc độ xã hội Góc độ kinh tế hiện nay Số người bị ảnh hưởng nạn đói trên thế giới hiện cũng đã lên đến 1 tỷ người 3
Liên hiệp Quốc cảnh báo rằng nạn đói có thể trở nên không thể kiểm soát do khủng hoảng tài chính Sản lượng nông nghiệp toàn cầu đang có nguy cơ giảm, trong khi số người đói kém đạt mức kỷ lục Canh tác hiện đang bị ảnh hưởng nghiêm trọng bởi thời tiết xấu, biến đổi khí hậu và giá thực phẩm tăng cao, trong khi nông dân gặp khó khăn trong việc tiếp cận tín dụng để mua hạt giống và phân bón.
Tình hình nông nghiệp hiện nay đang gặp khó khăn khi nông dân ở châu Âu và Mỹ giảm diện tích trồng trọt do khó khăn trong việc vay tín dụng Theo Bộ Nông nghiệp Mỹ, diện tích trồng lúa mì của nước này đã giảm 7% vào tháng 4/2009, trong khi Trung Quốc, với 1/5 dân số thế giới, mặc dù mở rộng canh tác nhưng lại đối mặt với hạn hán tồi tệ nhất trong 70 năm qua, khiến sản lượng thu hoạch dự kiến giảm 40% Hạn hán cũng ảnh hưởng nghiêm trọng đến các vùng trồng ngũ cốc lớn như Argentina, Paraguay và Nam Brazil.
Tình trạng bảo hộ nông nghiệp đang trở thành mối lo ngại lớn trong bối cảnh khủng hoảng kinh tế hiện nay Trong khi các quốc gia nghèo nỗ lực giảm bớt hàng rào thương mại, các nước giàu vẫn duy trì chính sách bảo vệ thị trường nội địa của họ.
Theo Chương trình Lương thực Thế giới (WFP), khủng hoảng tài chính ngày càng trầm trọng dẫn đến tình trạng đói nghèo và suy dinh dưỡng gia tăng do thu nhập giảm và thất nghiệp tăng Các nước đang phát triển đang phải đối mặt với nhiều thách thức, đặc biệt khi đồng tiền của họ mất giá so với USD, đồng tiền chủ yếu trong giao dịch quốc tế.
1.4.2 Tổng quan về nghèo đói tại Việt Nam
Theo số liệu điều tra hộ gia đình, Việt Nam đã có những tiến bộ trong việc xóa đói giảm nghèo, nhưng sự giảm nghèo không đồng đều giữa các khu vực Tỷ lệ nghèo ở các dân tộc thiểu số vẫn cao hơn so với nhóm người Kinh và Hoa.
Theo T.Tuấn trong bài viết “1 tỷ người đói trên thế giới” đăng trên báo Tuổi Trẻ số 102/2009, ngày 20/04/2009, người nghèo chủ yếu sống ở các vùng nông thôn Mặc dù tỷ lệ nghèo ở khu vực nông thôn đã giảm, nhưng mức giảm này chậm hơn so với các năm trước Trong khi đó, tỷ lệ nghèo ở thành phố dường như vẫn giữ nguyên Các khu vực như vùng núi phía Tây Bắc, Tây Nguyên và duyên hải Bắc Trung Bộ vẫn còn nghèo hơn nhiều so với các khu vực khác trong cả nước.
1.4.3 Các kết quả nghiên cứu có liên quan đến nghèo đói có thể tham khảo
Nghiên cứu của Lilongwe và Zomba (2001) chỉ ra rằng đói nghèo ở Malawi chịu ảnh hưởng từ nhiều yếu tố như tuổi người đứng đầu gia đình, tỉ lệ người phụ thuộc, quy mô hộ gia đình, giáo dục, nghề nghiệp, việc làm nông nghiệp, khả năng tiếp cận dịch vụ và vùng miền Cụ thể, tuổi người đứng đầu gia đình có mối quan hệ thuận với đói nghèo ở nông thôn, trong khi không có tác động rõ ràng ở thành phố Tỉ lệ người phụ thuộc, đặc biệt là trẻ em, ảnh hưởng lớn đến mức sống của hộ gia đình; một hộ gia đình ở khu vực thành thị có thể giảm đến 30% chi tiêu khi có thêm một trẻ dưới 9 tuổi, trong khi ở nông thôn, mức giảm khoảng 20% Nghiên cứu này diễn ra trong bối cảnh của một quốc gia kém phát triển với điều kiện kinh tế xã hội tương tự như Việt Nam.
Theo nghiên cứu của Dominique Haughton (2001), khả năng đói nghèo ở Việt Nam chịu ảnh hưởng bởi nhiều yếu tố, trong đó có vai trò của phụ nữ là chủ hộ, khi họ có xu hướng phân bổ chi tiêu ở cả hai cực: giàu có và nghèo khó Mặc dù vậy, ảnh hưởng của yếu tố nữ giới đến tình trạng nghèo đói không có ý nghĩa thống kê rõ ràng Ngoài ra, các yếu tố như học vấn, dân tộc, tỷ lệ phụ thuộc và vùng địa lý cũng đóng vai trò quan trọng trong việc xác định tình trạng nghèo đói Nghiên cứu này dựa trên dữ liệu từ cuộc điều tra mức sống dân cư Việt Nam lần thứ nhất (VHLSS 93) và lần hai (VHLSS 98).
Dự án diễn đàn miền núi Ford (2004) đã nghiên cứu các yếu tố ảnh hưởng đến đói nghèo ở các tỉnh miền núi phía Bắc Việt Nam, bao gồm điều kiện sống ở khu vực nông thôn, đặc điểm dân tộc, quy mô hộ gia đình, tỷ lệ phụ thuộc, trình độ giáo dục, khả năng tiếp cận đường ô tô, giao thông công cộng, điện, khuyến nông và chợ Dựa trên dữ liệu điều tra mức sống dân cư năm 1998 và 2002, nghiên cứu đã phản ánh rõ nét bức tranh tương quan về tình trạng đói nghèo trong khu vực này.
Báo cáo phát triển Việt Nam (2004) chỉ ra rằng ở khu vực nông thôn miền núi phía Bắc, các yếu tố như dân tộc, quy mô hộ gia đình, tỷ lệ phụ thuộc, giáo dục, khả năng tiếp cận giao thông và điện, cũng như các dịch vụ khuyến nông và chợ, đều ảnh hưởng đến tình trạng đói nghèo Dựa trên dữ liệu điều tra mức sống năm 1998 và 2002, bức tranh đói nghèo tại vùng này đã được phản ánh rõ nét Tại đồng bằng sông Cửu Long, người nghèo ở nông thôn chiếm 96% tổng số người nghèo của vùng, với tốc độ xoá đói giảm nghèo ở khu vực thành thị tăng nhanh hơn do sự phát triển mạnh mẽ của các ngành sản xuất và dịch vụ so với nông lâm ngư nghiệp.
Hơn 77% hộ nghèo tại Việt Nam chủ yếu sống dựa vào nông nghiệp, lâm nghiệp và ngư nghiệp, trong khi chỉ 9% làm việc trong ngành công nghiệp và 13% trong ngành dịch vụ Theo PPA, đói nghèo có mối liên hệ chặt chẽ với nông nghiệp, đặc biệt là khi phần lớn các hộ gia đình nghèo sinh sống tại vùng nông thôn và chủ yếu trồng lúa.
Trong các hộ nông dân, những hộ nghèo thường thiếu đất và phụ thuộc vào thu nhập từ làm thuê, dẫn đến việc họ gặp khó khăn trong việc tìm kiếm cơ hội việc làm ổn định Trình độ học vấn thấp khiến họ khó có thể tìm việc ngoài lĩnh vực nông nghiệp, vốn không ổn định và thu nhập thấp Thêm vào đó, trong những năm gần đây, cơ hội việc làm phi nông nghiệp tại địa phương cũng rất hạn chế Sự di cư của những người có trình độ và kỹ năng đến các thành phố lớn như TP.HCM và Bình Dương, cùng với sự gia tăng lao động nông nghiệp mùa vụ, đã góp phần làm tăng mức chi tiêu tổng thể trong vùng.
Trình độ học vấn thấp
Tỉ lệ đói nghèo có mối liên hệ chặt chẽ với trình độ học vấn, đặc biệt là ở vùng đồng bằng sông Cửu Long, nơi tỉ lệ đói nghèo của những người chưa hoàn thành tiểu học đạt 30%, thấp hơn so với mức 40% của cả nước Ngược lại, những người có trình độ học vấn cao hơn hoặc đã học nghề gần như không gặp phải tình trạng đói nghèo Thiếu trình độ học vấn khiến công nhân gặp khó khăn trong việc tiếp thu kỹ năng và kỹ thuật mới, ảnh hưởng đến năng suất lao động Hơn nữa, các bậc cha mẹ có trình độ học vấn thấp thường không nhận thức được tầm quan trọng của giáo dục, dẫn đến việc không tạo điều kiện cho con em họ đến trường và khuyến khích việc học tập.
Giáo dục có mối liên hệ chặt chẽ với các đặc điểm của người nghèo, trong đó trình độ học vấn ở nông thôn thường thấp hơn so với thành phố Đặc biệt, người dân tộc thiểu số có trình độ học vấn thấp hơn đáng kể so với người Kinh và Hoa Bên cạnh đó, người nghèo thường sở hữu ít tài sản và đất đai.
Đặc điểm kinh tế văn hoá xã hội khu vực duyên hải Nam Trung Bộ VN
Vùng duyên hải Nam Trung Bộ Việt Nam bao gồm 8 tỉnh thành: Đà Nẵng, Quảng Nam, Quảng Ngãi, Bình Định, Phú Yên, Khánh Hoà, Ninh Thuận và Bình Thuận, với tổng diện tích khoảng 3,3 triệu ha Phân chia các vùng kinh tế có thể được thực hiện theo nhiều cách khác nhau, như đã nêu trong từ điển bách khoa Việt Nam.
Kế hoạch đầu tư thì các tỉnh thành Việt Nam được chia thành 8 vùng kinh tế 7 :
STT Các vùng kinh tế Tỉnh thành
Hà Nội, Hải Phòng, Vĩnh Phúc, Bắc Ninh, Hải Dương, Hưng Yên, Hà Nam, Nam Định, Thái Bình, Ninh Bình
2 Đông Bắc Hà Giang, Cao Bằng, Lào Cai, Bắc Cạn, Lạng Sơn,
Tuyên Quang, Yên Bái, Thái Nguyên, Phú Thọ, Bắc Giang, Quảng Ninh
3 Tây Bắc Lai Châu, Điện Biên, Sơn La, Hòa Bình
4 Bắc Trung Bộ Thanh Hóa, Nghệ An, Hà Tĩnh, Quảng Bình, Quảng
Trung Bộ Đà Nẵng, Quảng Nam, Quảng Ngãi, Bình Định, Phú
6 Tây Nguyên Kon Tum, Gia Lai, Đăk Lak, Đăk Nông, Lâm Đồng
7 Đông Nam Bộ TP.HCM, Ninh Thuận, Bình Thuận, Bình Phước,
Tây Ninh, Bình Dương, Đồng Nai, Bà Rịa – Vũng Tàu
Cửu Long Long An, Đồng Tháp, An Giang, Tiền Giang, Vĩnh
Long, Bến Tre, Kiên Giang, Cần Thơ, Hậu Giang, Trà Vinh, Sóc Trăng, Bạc Liêu, Cà Mau
6 Theo từ điển bách khoa Việt Nam về phân chia các vùng kinh tế.
7 Phân chia địa giới hành chính, http://agro.gov.vn
Vùng duyên hải Nam Trung Bộ, bao gồm Thành phố Đà Nẵng và các tỉnh Quảng Nam, Quảng Ngãi, Bình Định, Phú Yên, Khánh Hoà, sở hữu vị trí địa lý thuận lợi với bờ biển phía Đông và cao nguyên trung phần phía Tây Khu vực này nằm trên các trục giao thông bộ, sắt, hàng không và biển, đóng vai trò là cửa ngõ của Tây Nguyên và kết nối với đường xuyên Á ra biển Với chùm cảng nước sâu có khả năng tiếp nhận tàu trọng tải lớn, cùng cơ sở hạ tầng sẵn có và đất xây dựng phong phú, vùng này có tiềm năng phát triển các khu công nghiệp tập trung gắn với các cảng nước sâu, khẳng định vị thế cửa ngõ ra biển cho đường xuyên Á.
Kinh tế biển là tài nguyên lớn nhất của vùng, với nguồn lợi hải sản chiếm gần 20% sản lượng đánh bắt toàn quốc và nuôi trồng thủy sản, đặc biệt là các đặc sản như tôm hùm, cá mú, ngọc trai, trên diện tích 60.000 ha Toàn vùng có khoảng 1,6 triệu hécta rừng, nhưng độ che phủ rừng chỉ đạt khoảng 40% do bị phá hoại Những nỗ lực khôi phục rừng trong thời gian qua chưa mang lại hiệu quả đáng kể trong việc tăng cường độ che phủ.
Vùng duyên hải Nam Trung Bộ của Việt Nam sở hữu tiềm năng khoáng sản phong phú, bao gồm sa khoáng nặng, cát trắng, nước khoáng và dầu khí tại thềm lục địa.
Khu vực duyên hải Nam Trung Bộ có khí hậu nhiệt đới gió mùa với bốn mùa rõ rệt: xuân, hạ, thu, đông Sự phân chia này không chỉ tạo nên đặc trưng thời tiết của vùng mà còn mang lại nhiều thách thức cho sản xuất nông nghiệp của các hộ gia đình.
2.1.2 Tình hình kinh tế văn hoá xã hội của vùng duyên hải Nam Trung Bộ
Các tỉnh duyên hải Nam Trung Bộ Việt Nam thuộc vùng văn hóa miền Trung và Chămpa, trong đó Quảng Nam nổi bật với nhiều di sản văn hóa vật thể và phi vật thể như thánh địa Mỹ Sơn và phố cổ Hội An Khu vực này còn tổ chức nhiều lễ hội dân gian hàng năm, bao gồm lễ hội Bà Chiêm Sơn, lễ hội Đêm Rằm Phố Cổ, lễ hội Nguyên Tiêu, Carnaval Hội An, lễ hội Đống Đa và nhạc võ Tây Sơn Đây cũng là quê hương của nhiều danh nhân nổi tiếng như Huỳnh Thúc Kháng, Thoại Ngọc Hầu, Hoàng Diệu, Võ Chí Công, Nguyễn Thị Bình.
Mặc dù có nhiều tiềm năng phát triển kinh tế, khu vực này vẫn được coi là chậm phát triển so với các vùng khác ở Việt Nam Nguyên nhân chính là do điều kiện khí hậu và địa hình đa dạng, phức tạp, hạn chế sự phát triển nông nghiệp Đất dốc, bạc màu cùng với thiên tai như bão lũ, lụt và hạn hán xảy ra thường xuyên gây khó khăn cho sản xuất nông nghiệp Với vị trí là nơi thường xuyên chịu ảnh hưởng của bão, khu vực này không chỉ mất người mà còn thiệt hại lớn về tài sản và công sức của người dân Những trận bão lũ mạnh như năm 1999, 2007 và gần đây nhất là cơn bão lũ số đã để lại hậu quả nặng nề cho cộng đồng.
Vào tháng 10 và tháng 11 năm 2009, thiên tai đã tàn phá nghiêm trọng, xóa sạch những thành quả mà người dân miền Trung đã xây dựng trong hàng chục năm Hiện nay, cư dân các tỉnh duyên hải Nam Trung Bộ đang đối mặt với những thách thức từ nền nông nghiệp phát triển không bền vững, do sự phụ thuộc quá mức vào thiên nhiên, vốn đang bị suy thoái và ô nhiễm trầm trọng.
Ngành nông nghiệp đóng vai trò quan trọng trong việc tạo ra thu nhập cho hầu hết người dân ở vùng duyên hải Nam Trung Bộ, do đó việc cải thiện tỷ lệ đói nghèo tại đây gặp nhiều khó khăn.
Các tỉnh Trung bộ, được xem là vùng trọng điểm, đã có những chính sách đặc biệt từ Chính phủ, dẫn đến sự khởi sắc trong phát triển kinh tế Tuy nhiên, ngoại trừ Đà Nẵng, các tỉnh còn lại vẫn có GDP đầu người chỉ đạt khoảng 70% mức trung bình cả nước Mặc dù không thiếu cái ăn cái mặc, nhiều hộ gia đình vẫn gặp khó khăn trong việc đảm bảo đủ no, đặc biệt vào mùa giáp hạt Một số gia đình tham gia vào nghề đánh bắt thủy hải sản, nhưng phần lớn chỉ đánh bắt gần bờ bằng công cụ thô sơ do thiếu vốn đầu tư vào phương tiện hiện đại Nhiều hộ phải làm thuê cho các tàu lớn để kiếm sống Do ảnh hưởng của bão lũ và nguồn thủy hải sản cạn kiệt, thu nhập từ nghề biển của ngư dân ở đây trở nên bấp bênh.
Hơn 70% lao động Việt Nam làm việc trong lĩnh vực nông nghiệp, trong khi tỷ lệ thất nghiệp duy trì ở mức 8-10% Đói nghèo và trình độ văn hóa thấp góp phần vào tình trạng phá rừng, dẫn đến suy thoái môi trường Hệ quả là điều kiện sức khỏe và vệ sinh của người dân địa phương đang ở mức báo động.
Cơ sở hạ tầng của vùng hiện còn nghèo nàn, với hệ thống giao thông xuống cấp và quản lý kém Ngành công nghiệp có tỷ trọng nhỏ, trang thiết bị lạc hậu và khả năng cạnh tranh hạn chế Vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài thấp do cơ sở hạ tầng không hấp dẫn Mặc dù hệ thống thuỷ lợi được phát triển, nhưng thiếu vốn và chất lượng công trình kém dẫn đến tình trạng thiếu nước nghiêm trọng vào mùa khô.
Các tỉnh ven biển miền Trung được chọn để phân tích bao gồm Quảng Nam, Quảng Ngãi, Bình Định, Phú Yên và Khánh Hoà Lý do lựa chọn các tỉnh này là nhằm nghiên cứu những đặc điểm tương đồng, trong bối cảnh thành phố Đà Nẵng có sự phát triển vượt trội hơn.
Bảng 2.1: Một số đặc điểm cơ bản của vùng nghiên cứu
Nội dung Quảng Nam Quảng
Bình Định Phú Yên Khánh Hòa
Dân tộc Kinh, Hoa, Cơ
Tu, Xê Đăng, Giẻ Triêng, Cor
Kinh, Ca Dong, Hrê, Cor.
Kinh, Chăm, Bana, Hrê Kinh,
Cơ Ho Đơn vị hành chính 18 huyện thị 14 huyện thị 11 huyện thị 9 huyện thị 9 huyện thị
Khí hậu Nhiệt đới gió mùa
Nhiệt đới ẩm, gió mùa
Tốc độ tăng trưởng kinh tế 9,3% 12,3% 10,5% 10,1% 11,3%
Thu nhập bình quân người/tháng
Nguồn : Niên giám thống kê năm 2006
Tỷ lệ tăng trưởng trong khu vực hiện duy trì ở mức thấp khoảng 10%, với thu nhập bình quân đầu người đạt khoảng 250 USD Đáng chú ý, khoảng cách thu nhập giữa khu vực thành thị và nông thôn lên tới gần 2,5 lần.
Theo thống kê từ Tổng cục Thống kê, chúng ta có cái nhìn tổng quát về một số chỉ tiêu so sánh giữa khu vực duyên hải Nam Trung Bộ và các khu vực khác trên cả nước.
Phân tích thực trạng đói nghèo khu vực duyên hải Nam Trung Bộ Việt
2.2.1 Mô tả dữ liệu điều tra mức sống dân cư các tỉnh duyên hải NTB.
Dữ liệu sơ cấp trong bài viết được thu thập từ bộ dữ liệu điều tra mức sống hộ gia đình Việt Nam (VHLSS) năm 2006 do Tổng cục thống kê thực hiện Mẫu điều tra bao gồm 9.189 hộ gia đình sống tại 3.100 xã/phường, với 8 nội dung chính và phần mở rộng về giáo dục và y tế, đại diện cho cả nước, bao gồm cả khu vực thành thị và nông thôn cùng 8 vùng sinh thái khác nhau.
Nội dung điều tra của VHLSS bao gồm các yếu tố quan trọng như đặc điểm nhân khẩu học, giáo dục, y tế và chăm sóc sức khỏe, thu nhập, chi tiêu, tài sản và đồ dùng của hộ gia đình, cũng như thông tin về nhà ở và phương tiện vệ sinh Bên cạnh đó, điều tra còn xem xét sự tham gia của các hộ vào chương trình xoá đói giảm nghèo và tín dụng.
Bộ số liệu này nổi bật với số lượng lớn câu hỏi ở nhiều mục khác nhau, mang lại nhiều phương thức để kiểm tra tính nhất quán của nó Vì vậy, VHLSS trở thành một công cụ hữu ích trong việc phân tích và đánh giá dữ liệu.
2006 trở nên quan trọng cho các nghiên cứu về nghèo đói và những vấn đề kinh tế - xã hội khác
Trong phạm vi nghiên cứu, tác giả lọc lấy dữ liệu của các hộ gia đình sống ở khu vực nông thôn trong vùng duyên hải Nam Trung Bộ
Quảng Nam Điện Bàn, Thăng Bình, Núi Thành
Quảng Ngãi Bình Sơn, Sơn Tịnh, Tư Nghĩa, Mộ Đức, Đức Phổ, Lý Sơn
Bình Định Phù Mỹ, Phù Cát, Hoài Nhơn
Phú Yên Sông Cầu, Tuy An
Khánh Hoà Cam Ranh, Vạn Ninh, Ninh Hoà, Cam Lâm, huyện đảo Trường Sa
Mẫu khảo sát có 405 hộ dân cư vùng nông thôn sinh sống trong các xã thuộc
19 huyện của 05 tỉnh ven biển Nam Trung Bộ Sau khi loại bỏ các mẫu bị khuyết, không phù hợp tác giả sử dụng 305 mẫu để phân tích
2.2.2 Phương pháp trích dữ liệu điều tra tại các đơn vị nghiên cứu.
Dữ liệu được trích lọc từ theo phương pháp trích lọc thống kê, rút ra các biến cần thiết cho mô hình định lượng.
Chi tiêu được sử dụng để so sánh với ngưỡng nghèo bao gồm các khoản chi cho giáo dục, y tế, tiêu dùng, mua sắm đồ dùng lâu bền, nhà ở, điện nước và rác thải sinh hoạt Để có thể so sánh giữa các vùng và thời điểm điều tra, cần điều chỉnh chi tiêu về giá trị thực Trong bộ dữ liệu VHLSS 2006, biến chi tiêu dùng thực bình quân đầu người được gọi là pcexp1rl, nằm trong tập tin hhexpe06.
Giới tính của chủ hộ: Trích từ mục 1A câu 2 (muc1ac2).
Tuổi của của hộ: Trích từ mục 1A câu 5 (muc1ac5).
Dân tộc của chủ hộ: Trang bìa phiếu phỏng vấn hộ (dantoc) Qui mô hộ: Trích từ mục 1A câu 3 (muc1ac3).
Số người phụ thuộc: là tổng của hai nhóm:
- Nhóm khuyết tật: Trích từ mục 3B gồm các câu 3 (bị mù), câu 5 (bị điếc), câu 8 (bị tâm thần) và câu 11(bị liệt)
Nhóm không nằm trong độ tuổi lao động bao gồm các thành viên dưới 16 tuổi và trên 55 tuổi đối với nữ, cũng như trên 60 tuổi đối với nam Những người này được xem là không có sức lao động và phụ thuộc vào các thành viên khác trong hộ gia đình.
Trình độ học vấn của chủ hộ được xác định dựa trên số năm học, theo thông tin từ mục 2A câu 1 và câu 3 Đối với các bậc học như trung học phổ thông và học nghề, số năm học sẽ được tính theo thời gian học của bậc học phổ thông Bậc cao đẳng sẽ được tính là
15 năm, đại học: 16 năm, thạc sĩ: 18 năm, tiến sĩ: 22 năm.
Trình độ học vấn trung bình của các thành viên trong hộ được đo bằng số năm đi học, dựa trên thông tin từ mục 2A câu 1 và câu 3 Đối với các bậc học như trung học phổ thông và học nghề, số năm đi học sẽ được tính theo quy định của bậc học phổ thông Cụ thể, bậc cao đẳng được tính là 15 năm, đại học là 16 năm, thạc sĩ là 18 năm, và tiến sĩ là 22 năm.
Diện tích đất sản xuất: Trích từ mục 4B0 câu 3 và câu 6 (muc4b0c3b và muc4b0c6)
Làm nông: Trích từ mục A4 câu 4 (m4ac4).
Làm nghề biển : Trích từ A4 câu 6 (m4ac6).
Có sử dụng điện: Trích từ mục 7 câu 34 (m7c34).
Vay tín dụng được phân loại thành hai dạng chính: vay từ nguồn tín dụng chính thức, bao gồm các ngân hàng chính sách xã hội, ngân hàng NN&PTNN, và các tổ chức tín dụng, và vay từ nguồn tín dụng không chính thức, như vay từ cá nhân, bạn bè hoặc người thân Để phân tích các yếu tố ảnh hưởng đến đói nghèo, tác giả áp dụng định nghĩa nghèo đói tương đối và sử dụng phương pháp hồi quy để lượng hóa các nhân tố này Hộ gia đình nghèo được xác định là những hộ thuộc 1/5 nhóm có mức chi tiêu bình quân đầu người thấp nhất, trong khi hộ không nghèo là những hộ nằm trong 80% dân số còn lại.
2.2.3 Phương pháp phân tích thực trạng đói nghèo khu vực duyên hải Nam Trung Bộ.
Do tâm lý, người dân thường khai báo thu nhập thấp hơn thực tế, đặc biệt là những người có thu nhập cao Hơn nữa, nguồn thu của nông hộ thường khó xác định đầy đủ do tính chất công việc không ổn định, khiến họ khó nhớ tất cả các khoản thu nhập.
Thu nhập từ cây lâu năm và gia súc thường khó xác định do chi phí chăm sóc và thời gian bán sản phẩm có thể kéo dài nhiều năm Hoạt động kinh doanh, nuôi trồng và nghề biển thường xuyên biến động, dẫn đến lợi nhuận không ổn định Một hộ gia đình có thể gặp phải thu nhập âm trong một năm nhưng không nhất thiết phải được coi là hộ nghèo Chi tiêu của hộ gia đình thường phụ thuộc vào tài sản hiện có hoặc kỳ vọng về nguồn thu nhập sắp tới Hộ nghèo thường phải hạn chế chi tiêu do tâm lý và gặp khó khăn trong việc vay mượn, vì chủ nợ thường không cho vay với số tiền lớn.
Chi tiêu tăng cao bất thường, như chi phí chữa bệnh, mua sắm vật dụng đắt tiền hoặc sửa chữa, thường chỉ xảy ra ở những hộ gia đình không nghèo Đối với hộ nghèo, chi phí khám và chữa bệnh thường được bảo hiểm y tế hỗ trợ; nếu không có bảo hiểm, họ thường không thể đến cơ sở y tế do chi phí quá cao và thiếu tiền.
8 Võ Tất Thắng (2004), Thực trạng và những yếu tố tác động đến nghèo ở tỉnh Ninh Thuận
Do những lý do đã nêu và sự ổn định trong chi tiêu qua các năm, cùng với việc kế thừa các nghiên cứu trước, chúng tôi sử dụng các thước đo chi tiêu để phản ánh mức sống trong nghiên cứu này.
Phân tích hồi quy giúp xác định mối quan hệ giữa biến số phụ thuộc, như thu nhập bình quân/người/năm hoặc tình trạng nghèo đói, với các biến số độc lập, bao gồm đặc điểm hộ gia đình (quy mô hộ, thành thị/nông thôn, dân tộc) và đặc điểm cộng đồng (khả năng tiếp cận dịch vụ khuyến nông, điện, đường sá) Nghiên cứu này nhằm làm sáng tỏ các yếu tố ảnh hưởng đến thu nhập và nghèo đói trong khu vực nghiên cứu.
Mục tiêu nghiên cứu 1 : Sự khác biệt lớn nhất giữa những hộ nghèo và không nghèo ở vùng duyên hải Nam Trung Bộ.
Sử dụng phương pháp thống kê mô tả, bài viết nêu rõ hiện trạng các hộ gia đình trong vùng nghiên cứu Các chỉ số nghèo đói được tính toán, bao gồm đường cong Lorenz và hệ số Gini, nhằm phân tích tình hình phân phối thu nhập Đồng thời, phân tích phương sai được thực hiện để kiểm định sự khác biệt giữa các hộ nghèo và không nghèo.
Mục tiêu nghiên cứu 2 : Các nhân tố ảnh hưởng đến việc tăng chi tiêu của các hộ gia đình :
* Mô hình kinh tế lượng
Kế thừa các nghiên cứu của Lilongwe và Zomba (2001), Dự án diễn đàn miền núi Ford (2004), Võ Tất Thắng (2004), Bùi Quang Minh(2007), Lê Thanh Sơn
(2009) và kinh nghiệm quan sát bản thân vùng nghiên cứu chúng tôi đề xuất mô hình nghiên cứu như sau:
Phân tích các yếu tố ảnh hưởng đến chi tiêu, đại diện cho tình trạng nghèo đói, được thể hiện qua phương trình hàm logarit ln Yi = β0 + βiXi Trong đó, biến phụ thuộc là logarit của chi tiêu bình quân đầu người, cho thấy mối liên hệ giữa các yếu tố tác động và tình trạng kinh tế của cá nhân.
* Mô hình tổng quát Yi= β 0 + β i Xi + ui
* Dạng hàm áp dụng Ln Yi = β 0 + β i Xi + ui
Yi là chi tiêu bình quân đầu người hàng năm β 0 , β i là hệ số hồi quy của mô hình
X i là các biến độc lập (các nhân tố có ảnh hưởng đến chi tiêu bình quân)
Ln Yi là logarit chi tiêu bình quân đầu người hàng năm
* Phương pháp ước lượng : Phương pháp bình phương nhỏ nhất (OLS)
Kết quả từ nghiên cứu thực trạng đói nghèo
2.3.1 Tình trạng nghèo và bất bình đẳng vùng duyên hải Nam Trung Bộ
Theo số liệu điều tra mức sống dân cư năm 2006, vùng duyên hải Nam Trung Bộ có mức chi tiêu bình quân đầu người là 352,33 ngàn đồng/tháng, thấp hơn so với mức trung bình của vùng nông thôn biên giới Tây Nam (442,7 ngàn đồng/tháng) và vùng đồng bằng sông Cửu Long (440,1 ngàn đồng/tháng).
Phân tích trên 305 hộ dân trong vùng nghiên cứu cho thấy giá trị trung vị chi tiêu bình quân đầu người đạt 331,53 ngàn đồng, cho thấy 50% hộ gia đình có mức chi tiêu thấp hơn mức này.
Theo cách tính chọn 20% số hộ có mức chi tiêu thấp nhất là hộ nghèo, chúng tôi xác định hộ nghèo tương đối là những hộ có mức chi tiêu dưới 236 ngàn đồng/tháng, cao hơn mức chuẩn 200 ngàn đồng/tháng áp dụng cho giai đoạn 2006-2010 do chính phủ quy định Kết quả phân tích chi tiêu bình quân đầu người tại vùng duyên hải Nam Trung Bộ như sau:
Bảng 2.12: Chi tiêu bình quân đầu người/tháng vùng duyên hải Nam Trung Bộ
Mức chi tiêu Số hộ Tỉ lệ Chi tiêu trung bình nhóm Nhóm
Nguồn : Tính toán của tác giả theo mẫu nghiên cứu (n05, VHLSS 2006).
Tỷ lệ hộ gia đình
Đường cong Lorenz khu vực nông thôn duyên hải Nam Trung Bộ cho thấy mức độ bất bình đẳng trong thu nhập và chi tiêu không cao, với hệ số Gini là 0,37, thấp hơn so với mức 0,4 của cả nước năm 2006 Sự chênh lệch giữa các nhóm thu nhập trong khu vực nghiên cứu là không đáng kể, điều này có thể được giải thích bởi khoảng 80% dân số sống ở nông thôn, nơi thu nhập chủ yếu đến từ nông nghiệp Hơn nữa, khu vực duyên hải NTB có mức độ phát triển đô thị thấp hơn so với các tỉnh thành ở các vùng kinh tế trọng điểm phía Bắc và phía Nam.
2.3.2 Sự khác biệt lớn nhất giữa những hộ nghèo và không nghèo khu vực duyên hải Nam Trung Bộ.
2.3.2.1 Nghề nghiệp và tình trạng việc làm
Số hộ nghèo chiếm khoảng 20% tổng số hộ điều tra, với người nghèo thường làm việc trong lĩnh vực nông nghiệp hoặc làm thuê, trong khi người giàu có công việc ổn định và thu nhập cao trong các lĩnh vực phi nông nghiệp như công chức và kinh doanh Tỷ trọng lao động trong nông nghiệp cao đã tạo ra sự khác biệt rõ rệt giữa người nghèo và không nghèo, đồng thời dẫn đến việc khu vực này trở thành một trong những khu vực nghèo nhất cả nước.
Nội dung Số hộ Tỷ trọng
Số hộ làm nghề biển 38 12.46%
Số hộ chủ hộ làm nghề nông 253 82.95%
Số hộ làm nghề khác 14 4.59%
Nguồn : tính toán của tác giả từ VHLSS 2006
2.3.2.2 Khả năng tiếp cận đất đai.
Theo số liệu điều tra 305 hộ thì khả năng tiếp cận đất đai của người dân khu vực này như sau :
Nội dung ĐVT Vùng duyên hải NTB
Số hộ làm nông hộ 253.00
Diện tích bình quân/hộ m2/hộ 3,219.69
Diện tích bình quân/người m2/hộ 781.47
Nguồn : tính toán của tác giả từ VHLSS 2006
So với diện tích canh tác bình quân đầu người trên cả nước là 0,16 ha/người, Đồng bằng sông Cửu Long là 0,22 ha/người và vùng Tây Nguyên là 0,39 ha/người, khả năng tiếp cận đất sản xuất của người dân khu vực duyên hải Nam Trung Bộ (NTB) là thấp nhất Trong khu vực nông thôn, đất đóng vai trò là tư liệu sản xuất chủ yếu trong nông nghiệp và là nguồn thu nhập quan trọng.
Thiếu đất hoặc sở hữu quy mô đất sản xuất nhỏ thường liên quan đến tình trạng nghèo đói, trong khi những hộ gia đình có diện tích đất bình quân đầu người cao hơn thường không rơi vào nhóm nghèo.
2.3.2.3 Trình độ học vấn của những người trưởng thành trong hộ.
Người nghèo thường gặp khó khăn trong việc trang trải chi phí học tập, dẫn đến việc bỏ học sớm hoặc không đi học Hậu quả là họ thiếu hiểu biết và không có khả năng tiếp thu kiến thức chuyên môn cần thiết cho hoạt động kinh tế và sản xuất Điều này khiến họ rơi vào vòng luẩn quẩn của nghèo đói và ít học.
Trình độ học vấn của những người trưởng thành trong hộ như sau :
Bình quân của hộ nghèo 4.63
Bình quân của hộ không nghèo 6.57
Các hộ gia đình có người trưởng thành với trình độ học vấn cao thường có khả năng nghèo thấp hơn Cụ thể, theo khảo sát, những hộ không nghèo có số năm học trung bình của người trưởng thành là 6,57 năm, tương đương với việc đã tốt nghiệp cấp 1 Trong khi đó, các hộ nghèo chỉ có số năm học trung bình là 4,63 năm.
2.3.2.4 Quy mô hộ và tỷ lệ phụ thuộc.
Quy mô hộ gia đình lớn thường dẫn đến chi tiêu bình quân đầu người thấp hơn, làm tăng nguy cơ nghèo đói Khi tỷ lệ người phụ thuộc trong gia đình cao, gánh nặng chi phí cho giáo dục và y tế cũng tăng lên, khiến tình trạng nghèo đói trở nên nghiêm trọng hơn.
Quy mô hộ bình quân 4.12
Quy mô bình quân hộ thuộc nhóm nghèo 4.40
Quy mô bình quân hộ thuộc nhóm không nghèo 4.05
Các hộ nghèo, với quy mô bình quân 4.4 người, thường có số nhân khẩu cao hơn so với các hộ không nghèo (4.05 người) Nguyên nhân chủ yếu là do thiếu hiểu biết về kế hoạch hóa gia đình, tâm lý muốn có con trai để nối dõi và mong muốn có người lao động chính trong gia đình Sự đông con này dẫn đến vòng lẩn quẩn của nghèo đói, làm gia tăng khả năng rơi vào tình trạng nghèo và tái nghèo.
2.3.2.5 Giới tính của chủ hộ.
Theo nghiên cứu, hộ gia đình do nữ làm chủ có nguy cơ nghèo cao hơn so với hộ do nam làm chủ Cụ thể, trong mẫu điều tra, 27,86% hộ gia đình có nữ là chủ hộ, trong đó 30,64% thuộc diện nghèo Tình trạng này chủ yếu diễn ra ở các vùng nông thôn nghèo, nơi phụ nữ thường gặp khó khăn trong việc tìm kiếm công việc có thu nhập cao và chủ yếu phụ thuộc vào nguồn thu nhập của nam giới trong gia đình.
2.3.2.6 Những hạn chế của dân tộc thiểu số.
Người dân tộc thiểu số thường sống ở những khu vực địa lý khó khăn, dẫn đến điều kiện sống và trình độ dân trí thấp, từ đó làm tăng khả năng nghèo đói so với người dân tộc ở vùng trung tâm và đồng bằng Tuy nhiên, trong nghiên cứu này, khu vực duyên hải Nam Trung Bộ cho thấy yếu tố dân tộc thiểu số không có ảnh hưởng đáng kể đến kết quả nghiên cứu.
2.3.2.7 Khả năng tiếp cận cơ sở hạ tầng thiết yếu
Cơ sở hạ tầng nông thôn, bao gồm đường giao thông, điện và nước sạch, cùng hệ thống thông tin liên lạc, đóng vai trò quan trọng trong việc giảm nghèo Sự phát triển của cơ sở hạ tầng nông thôn, đặc biệt thông qua các dự án phát triển, sẽ tạo ra nhiều cơ hội việc làm cho người dân nghèo ở khu vực nông thôn.
Hầu hết các hộ gia đình nghèo không có điều kiện tiếp cận hoặc hạn chế trong việc tiếp cận cơ sở hạ tầng thiết yếu
Theo số liệu điều tra, 96,7% hộ gia đình có điện từ hệ thống điện lưới quốc gia, cho thấy sự phổ biến của việc tiếp cận nguồn điện Tuy nhiên, mức độ khác biệt về nghèo đói lại không phụ thuộc nhiều vào khả năng tiếp cận các hạ tầng thiết yếu.
2.3.2.8 Khả năng tiếp cận tín dụng chính thức.