Tiểu luận kinh tế vĩ mô 2 FTU Sự bùng phát đột ngột của COVID19 đã ảnh hưởng đến toàn thế giới. Để làm chậm sự lây lan của bệnh truyền nhiễm, các chính phủ đã thực thi các hạn chế nghiêm ngặt về giãncách xã hội (tức là tạm trú tại chỗ và ở tại nhà), đã đóng cửamột sốcác doanh nghiệp và sa thải công nhân trong các công việc và ngành được coi là không cần thiết và làm giảm nghiêm trọng nhu cầu đối với các doanh nghiệp khác.Các biện pháp phong tỏa đã một phần hay toàn diện hiện đang tác động tới 2,7 tỉ người lao động, chiếm khoảng 81% lực lượng lao động trên toàn thế giới. Trong bối cảnh hiện tại, các doanh nghiệp ở mọi lĩnh vực kinh tế phải hứng chịu những tổn thất nặng nề, đe dọa đến hoạt động và khả năng thanh khoản của họ, đặc biệt là các doanh nghiệp có quy mô nhỏ. Trong khi đó, hàng triệu người lao động cũng có nguy cơ mất thu nhập và bị sa thải. Tác động đối với các hoạt động tạo ra thu nhập là đặc biệt nghiêm trọng đối với những người lao động không được bảo vệ và các nhóm dễ bị tổn thương nhất trong khu vực kinh tế phi chính thức.
TỔNG QUAN VỀ COVID-19 VÀ VIỆC LÀM
Lao động và vai trò của lao động
1.1.1 Khái ni ệ m v ề lao độ ng, th ị trường lao độ ng, th ấ t nghi ệ p a) Lao động:
Lao động trong kinh tế học là yếu tố sản xuất do con người tạo ra, đóng vai trò là dịch vụ hoặc hàng hóa Người sản xuất có nhu cầu về hàng hóa này, trong khi người lao động là người cung cấp Giống như các hàng hóa và dịch vụ khác, lao động được trao đổi trên thị trường lao động, nơi giá cả của lao động được xác định bởi tiền công thực tế mà người sản xuất trả cho người lao động Mức tiền công này chính là giá của lao động.
Thị trường lao động là nơi diễn ra sự trao đổi giữa người sử dụng lao động và người lao động, đóng vai trò quan trọng nhất trong hệ thống thị trường Đây là thị trường lớn nhất, nơi mà thời gian và nỗ lực của người lao động được chuyển đổi thành việc làm và thu nhập Kết quả của quá trình này là việc làm được trả công, phản ánh giá trị của lao động trong nền kinh tế.
1.1.2 Vai trò c ủa lao động đố i v ớ i n ề n kinh t ế a) Vai trò hai mặt trong nền kinh tế:
Lao động không chỉ là yếu tố quan trọng trong nguồn lực phát triển mà còn là thành phần thiết yếu trong quá trình sản xuất Đồng thời, lao động cũng là một phần của dân số, những người thụ hưởng từ sự phát triển kinh tế Tăng trưởng kinh tế đóng vai trò quan trọng trong việc nâng cao đời sống vật chất và tinh thần của con người.
Vai trò của lao động trong tăng trưởng kinh tế được đánh giá qua các yếu tố như số lượng lao động, trình độ chuyên môn, sức khỏe và sự kết hợp với các yếu tố đầu vào khác Những yếu tố này được thể hiện rõ qua mức tiền công của người lao động Sự gia tăng tiền công không chỉ phản ánh chi phí sản xuất tăng mà còn cho thấy khả năng sản xuất đang cải thiện.
Tăng thu nhập khả dụng của người lao động dẫn đến sự gia tăng chi tiêu của người tiêu dùng Ở các quốc gia đang phát triển, mức tiền công của người lao động thường thấp, cho thấy lao động chưa phải là động lực chính cho sự phát triển Để nâng cao vai trò của người lao động trong phát triển kinh tế, cần thiết phải có các chính sách giảm bớt cung lao động và đồng thời tạo ra các nguồn lực khác một cách đồng bộ.
Dịch bệnh COVID-19 đang là mối đe dọa lớn nhất đối với nhiều quốc gia, gây ảnh hưởng nghiêm trọng đến đời sống xã hội và hoạt động sản xuất kinh doanh Tình hình này đã dẫn đến sự suy giảm mạnh mẽ của nền kinh tế toàn cầu, đòi hỏi các biện pháp phòng ngừa và kiểm soát dịch bệnh cần được thực hiện nhanh chóng và hiệu quả.
Diễn biến của dịch COVID-19 và các biện pháp kiềm chế dịch bệch lây lan
1.2.1 Di ễ n bi ế n lây lan c ủ a d ị ch COVID-19
Tính đến ngày 02/06/2021, theo thống kê từ worldometers.info, toàn cầu đã ghi nhận 172.915.874 ca nhiễm virus SARS-CoV-2 gây bệnh COVID-19, trong đó có 13.743.948 ca nhiễm hiện tại và 3.589.985 ca tử vong.
Mỹ là quốc gia chịu ảnh hưởng nặng nề nhất bởi đại dịch COVID-19, với 610.436 ca tử vong trong tổng số 34.136.738 ca nhiễm Theo sau là Ấn Độ, ghi nhận 335.114 ca tử vong trong số 28.306.833 ca bệnh Brazil đứng thứ ba với 465.312 ca tử vong trong tổng số 16.625.572 bệnh nhân.
Theo các chuyên gia y tế Ấn Độ, làn sóng nhiễm COVID-19 thứ hai đang có dấu hiệu giảm và dự báo sẽ tiếp tục xu hướng này, ngay cả khi các biện pháp hạn chế được nới lỏng Tỷ lệ dương tính với virus SARS-CoV-2 trong tổng số xét nghiệm đã giảm xuống còn 8,36%, duy trì dưới ngưỡng 10% trong bảy ngày liên tiếp.
Tính đến ngày 02/06/2021, Việt Nam ghi nhận tổng cộng 7.572 ca nhiễm COVID-19, trong đó 4.477 ca đang được điều trị và 48 ca tử vong Các tỉnh Bắc Giang, Bắc Ninh và Thành phố Hồ Chí Minh là những khu vực có số ca nhiễm mới cao nhất trong đợt dịch này Để kiểm soát tình hình, Chủ tịch Ủy ban nhân dân thành phố đã ra lệnh giãn cách xã hội toàn thành phố trong 15 ngày, bắt đầu từ 0h ngày 31/5/2021, và hiện đang tích cực truy tìm các nguồn lây nhiễm F0.
Tình hình dịch bệnh COVID-19 tại Việt Nam hiện đang ở mức thấp và ổn định so với nhiều quốc gia khác, đặc biệt là châu Âu và Mỹ Tuy nhiên, cần phải cẩn trọng trước sự phức tạp của dịch bệnh, nhất là khi nhiều biến chủng mới xuất hiện với nguy cơ lây lan nhanh và khả năng mắc bệnh cao.
1.2.2 Các bi ệ n pháp ki ề m ch ế s ự lây lan c ủ a d ị ch b ệ nh Đại dịch COVID-19 diễn biến rất phức tạp và khó lường, tâm dịch liên tục thay đổi, đã ảnh hưởng toàn diện, sâu rộng đến tất cả quốc gia trên thế giới Tổ chức y tế thế giới (WHO) cảnh báo thế giới đang bước sang giai đoạn mới và nguy hiểm hơn… với sự lây lan nhanh và nghiêm trọng ở trên 200 nước trên thế giới, đại dịch này đã làm gián đoạn mọi hoạt động kinh tế thế giới
Trong bối cảnh “sống chung với lũ”, nhiều chính phủ đã thực hiện các biện pháp như giãn cách xã hội, đóng cửa đường bay, trường học và trung tâm thương mại, đồng thời khuyến khích làm việc tại nhà hoặc luân phiên tại cơ quan để hạn chế sự lây lan của SARS-CoV-2 Ngoài ra, việc tuyên truyền về cách phòng chống dịch bệnh và nâng cao ý thức của người dân thông qua truyền hình, báo chí và mạng xã hội cũng được đẩy mạnh.
1.2.3 Ảnh hưở ng c ủ a các bi ệ n pháp ki ề m ch ế d ịch đế n n ề n kinh t ế
Dịch Covid-19 đã làm gián đoạn chuỗi cung ứng toàn cầu và ảnh hưởng đến nguồn cung lao động, dẫn đến việc giảm công suất sử dụng máy móc thiết bị do nhiều nhà máy phải đóng cửa Hơn nữa, dịch bệnh cũng tác động tiêu cực đến nền kinh tế thế giới thông qua sự suy giảm nhu cầu tiêu dùng, đầu tư và thu nhập của người tiêu dùng.
Các biện pháp giãn cách xã hội đã gây ra tác động tiêu cực tới nhu cầu tiêu dùng hàng hóa và dịch vụ ở nhiều quốc gia, đặc biệt là trong ngành du lịch, hàng không, dịch vụ giải trí và bán lẻ Mặc dù nhu cầu mua sắm trực tiếp có thể giúp phần nào bù đắp thiệt hại từ các biện pháp phong tỏa và hạn chế đi lại, nhưng tình hình vẫn gặp nhiều khó khăn.
Thu nhập của người lao động giảm mạnh, kéo theo nhu cầu tiêu dùng hàng hóa và dịch vụ sụt giảm Sự lao dốc của thị trường chứng khoán đã làm giảm giá trị tài sản chứng khoán của các hộ gia đình và doanh nghiệp Giá dầu giảm mạnh tác động lớn đến nguồn thu và cầu của các nước xuất khẩu dầu mỏ, đồng thời nhu cầu đầu tư cũng giảm mạnh do rủi ro đầu tư gia tăng.
Các biện pháp phong tỏa, cách ly và giãn cách xã hội nhằm chống dịch Covid-19, dù ngắn hay dài, đều gây ra sự đứt gãy chuỗi cung ứng, làm thu hẹp tổng cung và tổng cầu, từ đó giảm động lực tăng trưởng và nguồn thu ngân sách Nhà nước Đồng thời, dịch bệnh cũng làm giảm tổng cầu thị trường dầu mỏ toàn cầu, gia tăng tỷ lệ thất nghiệp và đổ vỡ hợp đồng kinh tế, thu hẹp cơ hội kinh doanh ở cả quy mô vi mô và vĩ mô, đồng thời tăng rủi ro cho cổ phiếu và trái phiếu của các doanh nghiệp, không phân biệt quy mô hay thể chế chính trị.
Theo dự báo của Ngân hàng Thế giới (WB) vào tháng 6/2020, nền kinh tế toàn cầu sẽ giảm trưởng âm 5,2% trong năm 2020, đánh dấu cuộc suy thoái tồi tệ nhất kể từ Thế chiến II Thu nhập bình quân đầu người sẽ giảm 3,6%, đẩy 100 triệu người vào cảnh nghèo đói, trong khi tại Mỹ, 45,7 triệu người đã nộp đơn xin thất nghiệp Nếu đại dịch được kiểm soát, tăng trưởng toàn cầu có thể phục hồi lên 4,2% vào năm 2021, nhưng triển vọng vẫn rất không chắc chắn Các chính phủ cần nâng cao chất lượng dịch vụ y tế và hỗ trợ khu vực tư nhân cùng với việc cấp tiền mặt cho những người bị ảnh hưởng.
TÁC ĐỘNG CỦA COVID-19 TỚI VIỆC LÀM
Tác động đến tính trạng thất nghiệp toàn cầu và thiếu việc làm
2.1.1 S ố lượ ng vi ệ c làm (g ồ m c ả th ấ t nghi ệ p và thi ế u vi ệ c làm) a) Trên toàn thế giới:
Khủng hoảng COVID-19 đã gây ra những gián đoạn nghiêm trọng về kinh tế, ảnh hưởng đến 3,3 tỷ người lao động toàn cầu Sự cắt giảm đột ngột trong hoạt động kinh tế đã dẫn đến sụt giảm đáng kể về việc làm và tổng số giờ làm việc Nhiều quốc gia chứng kiến sự giảm sút trong doanh thu của doanh nghiệp do các biện pháp phong tỏa một phần hoặc toàn diện, hạn chế hoạt động của doanh nghiệp và di chuyển của người lao động Điều này buộc nhiều người lao động và doanh nghiệp phải thay đổi hoàn toàn cách thức làm việc để thích ứng với tình hình mới.
Đại dịch COVID-19 đã gây ra những tác động sâu sắc và chưa từng có đối với thị trường lao động, ảnh hưởng nặng nề đến các hoạt động dịch vụ và làm gián đoạn chuỗi cung ứng trong lĩnh vực sản xuất Sự giảm mạnh trong nhu cầu hàng hóa đã dẫn đến việc điều chỉnh quy mô việc làm, điều này thường chỉ xảy ra khi kinh tế suy giảm do các yếu tố cản trở như tỷ lệ thất nghiệp tăng cao Trong bối cảnh khủng hoảng hiện tại, việc làm bị ảnh hưởng trực tiếp bởi các biện pháp phong tỏa và các biện pháp khác, với mức độ tác động lớn hơn nhiều so với dự đoán ban đầu.
Tính đến ngày 01 tháng 4 năm 2020, số liệu ước tính cho thấy số giờ làm việc của quý II giảm khoảng 6,7%, tương đương với 195 triệu người lao động làm việc toàn thời gian Điều này đồng nghĩa với việc nhiều người sẽ phải đối mặt với việc mất thu nhập và trở nên nghèo hơn, ngay cả khi họ tìm được công việc thay thế, như quay lại làm việc trong lĩnh vực nông nghiệp Các quốc gia có thu nhập trung bình cao sẽ chịu tác động lớn nhất, nhưng mọi nhóm thu nhập đều gặp phải ảnh hưởng nghiêm trọng.
Theo một đánh giá gần đây của Phòng Thương mại và Công nghiệp Việt Nam (VCCI) trên 46 tỉnh thành, có tới 76% doanh nghiệp khảo sát đã giảm giờ làm của người lao động bằng nhiều phương pháp khác nhau, từ việc áp dụng thời gian làm việc linh hoạt đến việc sa thải lao động.
Theo ILO, khoảng 25,8 triệu lao động tại Việt Nam đang làm việc trong các lĩnh vực có nguy cơ suy giảm đáng kể về sản lượng kinh tế, với mức độ rủi ro từ trung bình đến cao.
Theo ước tính của ILO, đến cuối quý II năm 2020, cuộc khủng hoảng có thể ảnh hưởng đến sinh kế của từ 4,6 triệu đến 10,3 triệu lao động thông qua việc giảm giờ làm, cắt giảm lương hoặc mất việc làm.
2.1.2 Ch ất lượ ng công vi ệ c a) Nguồn cung lao động đang giảm do các biện pháp kiểm dịch và sự sụt giảm các hoạt động kinh tế :
Tính đến ngày 10 tháng 3, ước tính sơ bộ cho thấy gần 30.000 tháng làm việc đã bị mất do người lao động nhiễm bệnh, dẫn đến việc mất thu nhập, đặc biệt là đối với những người không được bảo vệ Tình hình việc làm hiện tại đã gây ra tổn thất thu nhập lớn, với tổng thiệt hại dự kiến từ 860 đến 3.440 tỷ USD Sự sụt giảm thu nhập này sẽ ảnh hưởng đến chi tiêu cho hàng hóa và dịch vụ, từ đó tác động tiêu cực đến khả năng duy trì hoạt động của doanh nghiệp và sự phục hồi của nền kinh tế.
Lực lượng lao động Việt Nam hiện đạt 53,1 triệu người, giảm 2,2 triệu so với quý I năm 2020 và 2,4 triệu so với cùng kỳ năm trước Tỷ lệ tham gia lao động giảm còn 75,4%, đánh dấu mức giảm sâu kỷ lục trong lịch sử.
Lực lượng lao động trong độ tuổi lao động hiện đạt 46,8 triệu người, giảm 2,1 triệu so với quý trước và giảm 2,2 triệu so với cùng kỳ năm trước.
Theo số liệu quý II năm 2020, tỷ lệ tham gia lực lượng lao động ước đạt 72,3%, giảm 3,1% so với quý I (75,4%) và giảm 4,1% so với cùng kỳ năm trước.
11 b) Lao động nghèo cũng có khả năng tăng đáng kể :
NHÓM THU NHẬP THẤP TRUNG
Thu nhập từ lao động (tỷ USD) -860 -1720 -3440
Lao động cùng cực và nghèo trung bình (triệu người)
Thu nhập trung bình thấp 3,7 8,5 14,8
Thu nhập trung bình cao 3,6 8,3 14,5
Bảng ước tính cho thấy sự sụt giảm thu nhập của người lao động trong năm 2020, dẫn đến gia tăng tình trạng lao động nghèo cùng cực và nghèo trung bình, với mức thu nhập dưới 3,2 USD/ngày theo sức mua tương đương.
Suy giảm hoạt động kinh tế do COVID-19 đã gây ra tác động tiêu cực nghiêm trọng đến thu nhập của những người lao động gần hoặc dưới chuẩn nghèo Dự báo cho thấy, số lao động nghèo toàn cầu sẽ tăng thêm 8,8 triệu người, làm cho tổng số lao động nghèo giảm chỉ 5,2 triệu trong năm 2020, so với mức giảm 14 triệu trước khi dịch bùng phát Trong các kịch bản trung bình và cao về diễn biến dịch, số lao động nghèo có thể tăng từ 20,1 triệu đến 35 triệu người so với ước tính cho năm 2020, cho thấy sự tổn thương lớn đối với nhóm lao động dễ bị tổn thương.
Thanh niên, nhóm đối mặt với tỷ lệ thất nghiệp cao, hiện đang trở nên dễ bị tổn thương hơn do sự sụt giảm nhu cầu lao động, giống như trong các cuộc khủng hoảng tài chính trước đây Ngoài ra, người lao động cao tuổi cũng bị ảnh hưởng khi nền kinh tế rơi vào tình trạng dễ bị tổn thương.
Phụ nữ chiếm tỷ lệ cao hơn trong các lĩnh vực bị ảnh hưởng nặng nề bởi đại dịch, với 58,6% làm việc trong ngành dịch vụ toàn cầu, so với 45,4% của nam giới Họ cũng gặp khó khăn hơn trong việc tiếp cận các dịch vụ an sinh xã hội và sẽ phải gánh vác nhiều hơn các công việc chăm sóc, đặc biệt khi trường học hoặc hệ thống chăm sóc sức khỏe phải đóng cửa.
Những người lao động không được bảo vệ, như lao động tự làm, lao động không thường xuyên và lao động tạm thời, có nguy cơ chịu thiệt hại nặng nề từ virus do thiếu quyền lợi nghỉ phép và nghỉ ốm Họ cũng ít nhận được sự hỗ trợ từ các cơ chế an sinh xã hội và các hình thức làm mềm lợi nhuận, dẫn đến tình trạng bất an trong đời sống.
Tác động đến lao động trong một số lĩnh vực, ngành nghề, đối tượng dễ bị tổn thương 12 1 Những lĩnh vực có nguy cơ cao nhất
Theo kịch bản có tác động lớn, 3,8 triệu lao động trong lĩnh vực sản xuất, 2,6 triệu lao động trong thương mại bán buôn và bán lẻ, cùng với 1,4 triệu lao động trong dịch vụ lưu trú và ăn uống sẽ bị ảnh hưởng.
Kịch bản tác động thấp sẽ ảnh hưởng đến 1,8 triệu lao động trong lĩnh vực sản xuất, 0,9 triệu lao động trong thương mại bán buôn và bán lẻ, cùng với 0,9 triệu lao động trong dịch vụ lưu trú và ăn uống.
Lĩnh vực nông nghiệp, lâm nghiệp và ngư nghiệp hiện đang sử dụng 18,9 triệu lao động, được đánh giá là có nguy cơ thấp Tuy nhiên, các phân ngành phục vụ xuất khẩu có thể phải đối mặt với nhiều thách thức.
Tình hình suy giảm sản lượng kinh tế và quy mô việc làm tại Việt Nam đang trở nên nghiêm trọng, với nguy cơ ảnh hưởng tương đương đến các lĩnh vực khác nhau Trong đó, lao động trong khu vực phi chính thức đang phải đối mặt với nhiều thách thức, khi mà sự giảm sút trong hoạt động kinh tế có thể dẫn đến tình trạng thất nghiệp gia tăng và thu nhập bị suy giảm.
Khu vực kinh tế phi chính thức bao gồm những người lao động không được hưởng bảo hiểm xã hội, như công nhân làm công ăn lương không có thỏa thuận chính thức, lao động tự làm như người bán hàng rong và giúp việc gia đình.
Khoảng 2 tỷ người lao động đang làm việc một cách phi chính thức, họ đa phần ở các nước mới nổi và đang phát triển Ở nhiều nước có thu nhập thấp và thu nhập trung bình, khu vực này đóng vai trò kinh tế then chốt Tuy nhiên, người lao động làm việc trong khu vực kinh tế phi chính thức không được hưởng sự bảo vệ cơ bản như khi làm
Người lao động phi chính thức, mặc dù có công việc chính thức và được hưởng chế độ an sinh xã hội, thường gặp khó khăn trong việc tiếp cận dịch vụ chăm sóc y tế Họ không nhận được trợ cấp thu nhập khi bị ốm và phải nghỉ làm Tại các thành phố, những người này làm việc trong các lĩnh vực kinh tế có nguy cơ lây nhiễm cao và dễ bị ảnh hưởng bởi các biện pháp phong tỏa.
Đại dịch COVID-19 đã tác động nghiêm trọng đến hàng chục triệu lao động phi chính thức trên toàn cầu Tại Ấn Độ, Nigeria và Brazil, nhiều người lao động trong khu vực này bị ảnh hưởng nặng nề bởi lệnh phong tỏa và các biện pháp kiểm soát dịch bệnh Ở Ấn Độ, gần 90% người lao động làm việc trong khu vực kinh tế phi chính thức, cho thấy mức độ dễ bị tổn thương của họ trong bối cảnh khủng hoảng.
Khoảng 400 triệu lao động trong khu vực kinh tế phi chính thức đang đối mặt với nguy cơ nghèo đói gia tăng do khủng hoảng Các biện pháp phong tỏa nghiêm ngặt tại Ấn Độ, theo Chỉ số mức độ nghiêm ngặt của các chính sách ứng phó COVID-19 do Đại học Oxford thực hiện, đã tác động mạnh mẽ đến nhóm lao động này, buộc nhiều người phải trở về quê hương ở các vùng nông thôn.
Các quốc gia đang đứng trước nguy cơ sụp đổ, phải chịu đựng xung đột kéo dài, thiên tai liên tục và tình trạng tị nạn bắt buộc sẽ phải đối mặt với nhiều thách thức nặng nề do tác động của đại dịch.
Họ ít được trang bị để chuẩn bị và ứng phó với đại dịch COVID-19 do việc tiếp cận với
Nhiều dịch vụ cơ bản, đặc biệt trong lĩnh vực y tế và vệ sinh, vẫn còn hạn chế do thiếu việc làm thỏa đáng, an sinh xã hội và an toàn lao động Hơn nữa, các thể chế hiện tại còn thiếu năng lực, dẫn đến đối thoại xã hội yếu kém hoặc thậm chí không tồn tại.
Việc làm phi chính thức trong năm lĩnh vực bị ảnh hưởng nặng nề nhất tại Việt Nam
Hàng triệu lao động tại Việt Nam làm việc trong khu vực kinh tế phi chính thức không được đảm bảo bảo vệ sức khỏe tài chính Năm 2019, có tới 38,1 triệu người tham gia vào các công việc phi chính thức, trong đó gần 13 triệu lao động phải đối mặt với những cú sốc kinh tế nghiêm trọng nhất.
Lao động phi chính thức đang phải đối mặt với những tác động kinh tế nghiêm trọng từ các biện pháp giãn cách xã hội Họ chủ yếu là các doanh nghiệp vừa và nhỏ hoạt động trong các lĩnh vực như dịch vụ lưu trú, ăn uống, thương mại bán buôn và bán lẻ, cũng như vận tải và kho bãi Những lĩnh vực này đã bị ảnh hưởng nặng nề nhất do cuộc khủng hoảng hiện tại.
ỨNG PHÓ CỦA CÁC QUỐC GIA, KIẾN NGHỊ GIẢI PHÁP
Các chính sách ứng phó của các quốc gia trong thời gian qua
3.1.1 Australia a) Kích thích nền kinh tế và việc làm:
• Chính sách tài khóa tích cực:
Gói hỗ trợ kinh tế 259 tỷ USD của Chính phủ thể hiện sự hỗ trợ tài khóa mạnh mẽ, dự kiến chiếm 13,3% GDP hàng năm Trong đó, các biện pháp tài khóa trực tiếp tương đương khoảng 6,9% GDP.
Chính phủ Úc đã triển khai các biện pháp kinh tế nhằm hỗ trợ doanh nghiệp vượt qua khó khăn về dòng tiền ngắn hạn, đồng thời giúp đỡ các cá nhân và cộng đồng bị ảnh hưởng nặng nề Mục tiêu chính là duy trì dòng tín dụng ổn định trong nền kinh tế.
• Chính sách tiền tệ phù hợp:
Ngân hàng Dự trữ Úc (RBA) đã thực hiện một gói toàn diện nhằm giảm áp lực chi phí vay vốn cho hộ gia đình và doanh nghiệp, trong đó hạ mục tiêu lãi suất tiền mặt xuống 0,25% và cung cấp cơ sở cấp vốn có kỳ hạn để giảm chi phí cho toàn bộ hệ thống ngân hàng.
Ngân hàng Dự trữ Úc (RBA) đang thực hiện các biện pháp tích cực để mở rộng và bổ sung cho việc cắt giảm lãi suất, với mục tiêu đạt lợi suất 0,25% đối với Chứng khoán Chính phủ Úc kỳ hạn 3 năm.
Chính phủ Australia sẽ đầu tư 15 tỷ đô la vào thị trường tài chính có cấu trúc, thông qua Văn phòng Quản lý Tài chính, nhằm hỗ trợ các tổ chức cho vay nhỏ hơn Sự hỗ trợ này giúp các bên cho vay duy trì khả năng tiếp cận nguồn vốn và tăng cường cạnh tranh trên thị trường cho vay.
• Cho vay và hỗ trợ tài chính cho các lĩnh vực cụ thể bao gồm lĩnh vực y tế
Chính phủ Úc đã triển khai gói y tế toàn diện trị giá 2,4 tỷ đô la nhằm bảo vệ toàn bộ người dân, đặc biệt là các nhóm dễ bị tổn thương trong bối cảnh đại dịch COVID-19.
Chính phủ đã công bố gói hỗ trợ COVID-19 trị giá 205 triệu đô la nhằm thúc đẩy và hỗ trợ chăm sóc người cao tuổi, giúp các nhà cung cấp dịch vụ chăm sóc người cao tuổi vượt qua khó khăn trong thời gian dịch bệnh.
Chính phủ đã cam kết tài trợ 90,7 triệu đô la nhằm hỗ trợ những người khuyết tật, tập trung vào việc tạo cơ hội việc làm và cung cấp các dịch vụ hỗ trợ cần thiết khác.
Chính phủ đang đầu tư 1,6 tỷ đô la để hỗ trợ các dịch vụ chăm sóc trẻ em duy trì hoạt động sau COVID-19, đồng thời đảm bảo rằng các gia đình cần dịch vụ này có quyền tiếp cận các dịch vụ chăm sóc và giáo dục mầm non.
Gói cứu trợ giáo dục đại học cung cấp cho các trường đại học và nhà cung cấp giáo dục một nguồn tài chính ổn định và đáng tin cậy, giúp họ duy trì hoạt động giảng dạy cho sinh viên, đặc biệt là những người lao động bị ảnh hưởng bởi cuộc khủng hoảng COVID-19, nhằm nâng cao kỹ năng và đào tạo lại Đồng thời, gói này cũng hỗ trợ doanh nghiệp, tạo việc làm và đảm bảo thu nhập cho người lao động.
Chính phủ đã quyết định tạm thời giảm 50% yêu cầu rút tiền tối thiểu từ các tài khoản lương hưu và các sản phẩm tương tự trong giai đoạn 2019-20 và 2020-21.
• Hỗ trợ cho các khu vực và cộng đồng :
Chính phủ đã cam kết 1 tỷ đô la nhằm hỗ trợ các khu vực và cộng đồng bị ảnh hưởng nặng nề bởi COVID-19 Các quỹ này sẽ được sử dụng trong suốt thời gian bùng phát dịch và quá trình phục hồi sau đó.
• Thực hiện các biện pháp duy trì việc làm :
Chính phủ đang triển khai chương trình hỗ trợ các doanh nghiệp nhỏ nhằm giữ chân người học nghề và thực tập sinh, giúp họ phát triển kỹ năng và tích lũy kinh nghiệm thực tế.
22 cho người sử dụng lao động khoản trợ cấp 50% cho tiền lương trả cho mỗi người học nghề đủ điều kiện từ ngày 1 tháng 1 năm 2020 đến ngày 30 tháng 9 năm 2020
• Cung cấp tài chính / thuế và các khoản hỗ trợ khác cho doanh nghiệp :
Chính phủ đang triển khai hỗ trợ tạm thời cho các doanh nghiệp vừa và nhỏ cùng các tổ chức phi lợi nhuận nhằm thúc đẩy dòng tiền Kể từ ngày 28 tháng 4 năm 2020, sẽ có hai bộ hỗ trợ tài chính từ 20.000 đến 100.000 đô la, được phân phối thông qua các khoản tín dụng theo hệ thống báo cáo hoạt động của Văn phòng Thuế Úc.
Chính phủ đã tạm thời nâng ngưỡng yêu cầu của chủ nợ đối với doanh nghiệp, giúp hỗ trợ các công ty gặp khó khăn tài chính Đồng thời, thời gian để doanh nghiệp và cá nhân đáp ứng các yêu cầu theo luật định cũng được kéo dài, tạo điều kiện thuận lợi hơn cho họ trong việc giải quyết vấn đề tài chính.
Kiến nghị giải pháp
Trong thời kỳ khủng hoảng, Tiêu chuẩn Lao động Quốc tế đóng vai trò quan trọng trong việc xây dựng các chính sách ứng phó hiệu quả Những tiêu chuẩn này, được thông qua bởi chính phủ và các tổ chức đại diện cho người lao động cũng như người sử dụng lao động, hướng tới việc phát triển bền vững với con người là trung tâm Điều này bao gồm việc triển khai các chính sách nhằm kích cầu kinh tế đồng thời bảo vệ quyền lợi của người lao động và doanh nghiệp.
32 a) Bảo vệ người lao động tại nơi làm việc :
Để cải thiện an toàn và sức khỏe lao động, cần thực hiện các biện pháp như cách ly xã hội, cung cấp thiết bị bảo vệ cho nhân viên y tế, tình nguyện viên và những người tiếp xúc thường xuyên với cộng đồng Ngoài ra, việc áp dụng quy trình vệ sinh hợp lý và tổ chức công việc hiệu quả cũng rất quan trọng, kèm theo các chiến dịch nâng cao nhận thức Cuối cùng, đối thoại xã hội giữa người sử dụng lao động và người lao động, cùng với sự tham gia của đại diện như Ban An toàn và sức khỏe lao động, sẽ góp phần nâng cao hiệu quả của các biện pháp này.
• Khuyến khích các hình thức làm việc phù hợp, ví dụ như làm việc từ xa;
• Ngăn chặn tình trạng phân biệt đối xử liên quan đến COVID-19;
Đảm bảo mọi người, kể cả những lao động không tham gia bảo hiểm y tế và gia đình họ, đều có quyền tiếp cận dịch vụ y tế được tài trợ từ nguồn tài chính tập thể.
Mở rộng tiếp cận cơ chế nghỉ ốm có lương, trợ cấp ốm đau và nghỉ thai sản là cần thiết để đảm bảo thu nhập cho những người bị bệnh, cách ly hoặc chăm sóc trẻ em và người già Việc này không chỉ hỗ trợ các cá nhân trong gia đình mà còn kích thích nền kinh tế và tăng cường cầu lao động.
Chính sách tài khóa chủ động tập trung vào các biện pháp an sinh xã hội, như chuyển mục tiêu và cơ chế bình ổn tự động, bao gồm trợ cấp thất nghiệp Đồng thời, chính sách này cũng nhấn mạnh đầu tư công và giảm thuế cho người có thu nhập thấp cùng với doanh nghiệp vừa, nhỏ và siêu nhỏ (DNVNVSN).
• Chính sách tiền tệ thích nghi (giảm lãi suất, giảm lãi suất dự trữ, dự phòng thanh khoản);
Mục tiêu chính của việc cho vay và hỗ trợ tài chính là bảo vệ các doanh nghiệp, đặc biệt là doanh nghiệp vừa và nhỏ (DNVNVSN) Đầu tư vào hệ thống y tế không chỉ quan trọng trong việc xây dựng khả năng phục hồi trước COVID-19 mà còn tạo ra cơ hội việc làm bền vững.
33 d) Hỗ trợ việc làm và thu nhập :
An sinh xã hội được thực hiện thông qua các chế độ hiện có và khoản thanh toán đặc biệt dành cho người lao động, bao gồm lao động phi chính thức, lao động thời vụ, lao động nhập cư và lao động tự làm Điều này có thể được thể hiện qua việc tiếp cận trợ cấp thất nghiệp, an sinh xã hội và các chương trình việc làm công.
Các chế độ bảo đảm việc làm và giữ chân lao động bao gồm giảm thời gian làm việc, trợ cấp thất nghiệp một phần, và các hình thức hỗ trợ có thời hạn cho doanh nghiệp như trợ cấp lương, cắt giảm tạm thời thuế, miễn trừ đóng góp an sinh xã hội Ngoài ra, các chế độ này còn bao gồm nghỉ phép có lương, gia hạn quyền lợi cho công nhân, nghỉ để đào tạo và các khoản tài trợ liên quan.
Các biện pháp giảm thuế và tài chính có thời hạn, như trợ cấp và hòa giải tín dụng, nhằm hỗ trợ hoạt động liên tục của doanh nghiệp, đặc biệt là doanh nghiệp vừa và nhỏ, cùng với lao động tự làm, giúp khắc phục khó khăn về thanh khoản và thực hiện làm mềm lợi nhuận.
Để phát triển bền vững sau đại dịch COVID-19, Chính phủ cần thực hiện các giải pháp dài hạn bên cạnh những biện pháp ngắn hạn Cần đổi mới và hoàn thiện thể chế để giải phóng nguồn lực phát triển, nâng cao năng lực quản trị quốc gia thông qua việc cải cách, đơn giản hóa thủ tục hành chính và cải thiện môi trường đầu tư Đồng thời, cần đẩy nhanh việc xây dựng khung chính sách và pháp luật cho các mô hình kinh doanh mới, đặc biệt trong bối cảnh chuyển đổi số Bên cạnh đó, việc cơ cấu lại nền kinh tế cũng cần được thúc đẩy để đảm bảo sự phát triển bền vững.
Chính phủ hỗ trợ phát triển các ngành có tiềm năng thông qua chính sách ưu đãi tài chính và tín dụng, đồng thời tham gia sâu vào chuỗi giá trị Mục tiêu là phục hồi và ổn định sản xuất nông nghiệp, đảm bảo an ninh lương thực quốc gia và xuất khẩu hiệu quả, phù hợp với tình hình mới.
Cần củng cố và nâng cao năng lực phòng, chống dịch bệnh, đồng thời tập trung vào việc phục hồi và phát triển chuỗi cung ứng, chuỗi giá trị Để giảm thiểu sự phụ thuộc vào một thị trường xuất khẩu và nhập khẩu, cần đa dạng hóa các nguồn cung Bên cạnh đó, việc nâng cao sức cạnh tranh và khả năng đón đầu các cơ hội mới cũng rất quan trọng để phát triển kinh tế bền vững.
Hỗ trợ doanh nghiệp trong nước, bao gồm doanh nghiệp nhà nước, tư nhân và FDI, nhằm ngăn chặn việc thâu tóm từ nhà đầu tư nước ngoài Tăng cường sắp xếp và đổi mới doanh nghiệp nhà nước để nâng cao hiệu quả hoạt động, đồng thời phát huy vai trò của các tập đoàn lớn trong việc hình thành chuỗi giá trị và khuyến khích doanh nghiệp nhỏ và vừa tham gia Tạo điều kiện cho mọi loại hình doanh nghiệp phát huy sáng tạo, nâng cao năng lực cạnh tranh và tạo việc làm Chủ động hoàn thiện cơ sở hạ tầng và cung cấp dịch vụ hỗ trợ để thu hút đầu tư nước ngoài có chọn lọc, bảo đảm chất lượng và bảo vệ môi trường Đẩy mạnh phát triển chính phủ số, kinh tế số, xã hội số và ứng dụng khoa học công nghệ.
Tập trung phát triển các nền tảng công nghệ dùng chung và hệ thống cơ sở dữ liệu quốc gia, bảo đảm an toàn và an ninh thông tin Xây dựng hệ thống trung tâm đổi mới sáng tạo ở cấp quốc gia, vùng và địa phương, đồng thời hỗ trợ phát triển hệ sinh thái khởi nghiệp và đổi mới sáng tạo Đảm bảo an sinh xã hội, giải quyết việc làm và đào tạo nguồn nhân lực phù hợp với xu thế mới.
Để thực hiện hiệu quả các chính sách an sinh xã hội và giải quyết việc làm, cần tạo điều kiện cho người lao động nhanh chóng trở lại thị trường lao động Điều này đảm bảo đủ lực lượng lao động cho giai đoạn tăng cường sản xuất và kinh doanh sau dịch Đồng thời, cần tập trung hỗ trợ người sử dụng lao động trong việc đào tạo và đào tạo lại nhân viên để đáp ứng các yêu cầu mới, cũng như đẩy mạnh kết nối cung cầu lao động trong nước với thị trường lao động quốc tế.
35 f) Phát huy thế mạnh của các vùng kinh tế trọng điểm, các đô thị lớn :