Nội dung chính của luận văn là nghiên cứu tính chất đất và đặc điểm rừng trước khi khai thác để làm thí nghiệm; Nghiên cứu các biện pháp quản lý vật liệu hữu cơ sau khai thác (ngọn cây, cành nhánh, lá, vỏ...) ảnh hưởng đến năng suất rừng trồng Keo lá tràm và độ phì của đất sau khi tiến hành thí nghiệm 3 năm (Chu kỳ 3). Mời các bạn cùng tham khảo!
TỔNG QUAN VẤN ĐỀ NGHIÊN CỨU
Khái quát chung về cây Keo là tràm
Keo Acacia, thuộc họ Đậu (Leguminosae) và chi Mimosoideae, bao gồm khoảng 1200 loài phân bố rộng rãi ở châu Á và châu Đại Dương, trong đó Australia có khoảng 850 loài Tại Việt Nam, vào những năm 1960, gần 20 loài Keo Acacia được thử nghiệm trồng, với Keo lá tràm (Acacia auriculiformis A.Cunn ex Benth) là một trong những loài thích nghi tốt và sinh trưởng nhanh, trở thành cây trồng rừng phổ biến ở các tỉnh phía Nam Keo lá tràm, còn được gọi là Tràm bông vàng do lá giống cây Tràm và hoa màu vàng, là loài cây đơn thân, thẳng, thường xanh và hiện nay là một trong những cây trồng rừng kinh tế chủ yếu tại Việt Nam.
Số liệu thống kê toàn quốc giai đoạn 1986 - 1992 của vụ khoa học công nghệ,
Bộ lâm nghiệp (1994) [3] cho thấy diện tích trồng Keo lá tràm khoảng 43.000 ha chiếm 4,5%
Keo lá tràm (Acacia auriculiformis) có nguồn gốc từ Australia, Papua New Guinea và Indonesia, được nhập vào Việt Nam từ những năm 1960 và phân bố chủ yếu ở khu vực 8 - 16 độ vĩ Nam, ở độ cao 100 - 400m so với mực nước biển Loài cây này ưa thích lượng mưa từ 1400 - 3400mm/năm nhưng vẫn có thể sống trong điều kiện mưa từ 500 - 1000mm Keo lá tràm đang trở thành một trong những loại gỗ được ưa chuộng trên thị trường đồ mộc trong nước và quốc tế Cây thường có kích thước trung bình với thân ngắn và nhiều nhánh, nhưng ở những điều kiện tốt, có thể cao tới 30m và có đường kính 80cm với thân thẳng Đây là loài cây sinh trưởng nhanh, có tỷ trọng gỗ từ 0,5 - 0,7 và nhiệt lượng cao từ 4800 - 4900 Kcal/kg.
Mỹ, 1984) có thể dùng làm giấy, làm gỗ xây dựng và gỗ đồ mộc
Keo lá tràm, một loài cây có nguồn gốc tự nhiên từ Ôxtrâylia, Papua New Guinea và Indonesia, chủ yếu phân bố ở các khu vực phía bắc bang Northern Territory của Ôxtrâylia, nơi có độ cao khoảng 400m Ngoài ra, loài cây này còn xuất hiện tại Cape York Peninsula, Queensland và trên đảo Torres Strait ở độ cao 150m.
Keo lá tràm chủ yếu phân bố ở phía Tây Papua New Guinea, từ vùng giáp ranh Irian Jaya đến sông Oriomo Tại Indonesia, loài cây này cũng xuất hiện gần Papua New Guinea và trên đảo Kai Island, thường ở độ cao từ 5 đến 20m.
Keo lá tràm là cây nhập nội phổ biến tại Việt Nam, được trồng rộng rãi ở nhiều địa phương Loài cây này có khả năng thích ứng tốt với các vùng sinh thái khác nhau, từ điều kiện khô hạn của vùng cát ven biển miền Trung đến các khu vực núi thấp dưới 400m ở Tây Nguyên.
Gỗ Keo lá tràm có tỷ trọng từ 0,5 đến 0,7 và nhiệt lượng cao từ 4800 đến 4900 kcal/kg, với thành phần hoá học chứa 48-50,5% cellulose, 23,5-25,5% lignin và 19,6-22,7% pentosan, nên thường được sử dụng làm chất đốt, làm giấy, gỗ xây dựng và đồ mộc Ngoài ra, Keo lá tràm còn có nốt sần ở rễ chứa Rhizobium và Bradyrhizobium, giúp tổng hợp Nitơ trong khí quyển, từ đó cải tạo đất hiệu quả Loài cây này đã được áp dụng rộng rãi như một trong những cây tiên phong để phục hồi đất trống đồi núi trọc.
Chu kỳ kinh doanh của cây Keo lá tràm kéo dài từ 8 đến 12 năm, chủ yếu nhằm sản xuất gỗ nguyên liệu Vỏ và giác cây chiếm khoảng 30% thể tích, trong khi lõi gỗ có màu nâu nhẹ đến đỏ thẫm với thớ gỗ mịn, thích hợp cho việc đóng đồ mộc Tại Việt Nam, gỗ Keo lá tràm được sử dụng rộng rãi làm nguyên liệu cho giấy sợi, xây dựng, gỗ chống lò, cũng như sản xuất đồ gia dụng và đồ mỹ nghệ.
Do gỗ có vân đẹp và có mầu phù hợp nên có nơi gọi là “Cẩm lai giả” (Lê Đình Khả,
Gỗ Keo lá tràm ngày càng trở nên phổ biến và được người dân chấp nhận rộng rãi, đặc biệt khi gỗ của các loài như Đinh, Lim, và Lát ngày càng hiếm và có giá trị cao.
Kết quả khảo nghiệm xuất xứ Keo lá tràm trong nhiều năm qua cho thấy chỉ một số ít xuất xứ có sinh trưởng nhanh rõ rệt, trong khi các địa phương nhập trước đây mặc dù có khả năng chịu đựng tốt với điều kiện khắc nghiệt nhưng lại sinh trưởng kém hơn nhiều xuất xứ khác và có nhiều cành nhánh (Nguyễn Hoàng Nghĩa, 1997) Do đó, việc chọn lọc các cá thể ưu trội có sinh trưởng nhanh, chất lượng thân cây đẹp và khảo nghiệm dòng vô tính để xác định tính ổn định di truyền là biện pháp quan trọng nhằm nâng cao năng suất và chất lượng rừng trồng loài cây này.
Keo lá tràm, với nhiều ưu điểm nổi bật, đã trở thành loài cây chủ yếu được trồng rừng kinh tế ở các nước nhiệt đới, đặc biệt là ở Đông Nam Á và Trung Quốc Sự quan tâm nghiên cứu về Keo lá tràm ngày càng tăng cao từ các nhà khoa học trên toàn thế giới.
Tổng luận về các công trình đã công bố về vấn đề nghiên cứu
Nghiên cứu về sinh thái cây Keo lá tràm
Keo lá tràm (Acacia auriculiformis) là loài cây gỗ nhỏ đến trung bình, cao từ 8 đến 20m, có thể đạt đến 30m ở điều kiện thuận lợi, với đường kính từ 80cm đến 90cm Tán cây dày, rộng và xanh quanh năm, lá có màu xanh lục đậm Vỏ cây màu nâu, dày từ 3-10mm, nứt dọc nhỏ; cây non có vỏ mềm màu xám, nhẵn, sau đó trở nên xù xì và tối màu theo tuổi Trong giai đoạn cây mầm, lá là lá kép lông chim, sau 20 ngày nảy mầm, cây phát triển lá phiến rộng và mỏng, trong khi vẫn giữ lại đôi lá kép Hoa Keo lá tràm mọc thành chùm dài 8-10cm, mỗi hoa nhỏ dài 0,5-1,5cm, thường nở vào tháng 6 và tháng 7 Quả của cây là quả đậu, dẹt và mỏng, dài từ 6-10cm, cuộn lại khi già và có vỏ gỗ cứng Mỗi quả chứa 5-7 hạt nằm ngang, với dây rốn dài màu vàng dính vào vách quả, và quả chín vào tháng 9 và tháng 10 Hạt Keo lá tràm có hình bầu dục, dài 4-6mm và rộng 3mm.
4mm, dày khoảng 1mm Khi chín hạt màu nâu đen, vỏ hạt rất cứng 1kg có từ 30.000- 60.000 hạt
Nghiên cứu của Pinyopusarerk (1984) cho thấy Keo lá tràm phát triển tốt ở độ cao dưới 400m, với nhiệt độ trung bình từ 28-30°C và không có sương mù, trong điều kiện lượng mưa hàng năm từ 760mm đến 2000mm, với 80-100 ngày mưa mỗi năm Theo Turnbull và các cộng sự (1997), Keo lá tràm có khả năng sinh trưởng trên nhiều loại đất, từ đất chua đến đất glay hoá mạnh, với pH từ 4-6, và có thể phát triển trên đất kiềm cao (pH 8-9) tại Northern Territory Loài cây này cũng có khả năng thích nghi với những điều kiện khắc nghiệt, như mùa khô kéo dài, lượng mưa dưới 650mm, hoặc ở vùng đất hoang hoá bị xói mòn và chịu ảnh hưởng khí độc công nghiệp, như tại một số khu vực ở Trung Quốc và Ấn Độ.
Keo lá tràm, thuộc chi Acacia, là loài cây mọc nhanh và có khả năng cố định đạm, giúp cải tạo đất và môi trường Loài cây này có thể phát triển trong những điều kiện khắc nghiệt, nơi ít cây khác có thể sống sót Theo Banerjee (1973), Keo lá tràm có khả năng thích nghi rộng rãi và đóng vai trò quan trọng trong việc trồng rừng ở những vùng đất khó khăn, đặc biệt là những khu vực bị xói mòn và nghèo dinh dưỡng do canh tác kém.
Keo lá tràm, với nhiều ưu điểm nổi bật, đã nhanh chóng được trồng rộng rãi ở các nước nhiệt đới, trở thành cây chủ yếu trong việc phủ xanh đất trống và đồi trọc.
Nghiên cứu về sinh trưởng, năng suất rừng và giống cây trồng
Theo Brewbaker (1986) đã chỉ ra rằng Keo lá tràm tại Indonesia phát triển mạnh mẽ trong điều kiện khí hậu thuận lợi, với lượng mưa bình quân trên 2000mm và đất đai màu mỡ Ở độ tuổi từ 10 đến 12, cây có thể đạt chiều cao từ 15m đến 18m, đường kính từ 15cm đến 20cm, và năng suất có thể lên tới 20m³.
Năng suất rừng đạt khoảng 25m³/ha/năm, nhưng ở những vùng đất bạc màu bị xói mòn mạnh, năng suất chỉ đạt từ 8m³ đến 10m³/ha/năm Tại những khu vực có lượng mưa thấp và mùa khô kéo dài, nếu không bón phân, năng suất giảm xuống còn 2m³ đến 4m³/ha/năm Tình trạng này tương tự như năng suất của rừng Keo lá tràm trồng quảng canh ở nước ta hiện nay.
Nghiên cứu của Djuwadi, Fanani và Durbari (1981) về tuổi khai thác của Keo lá tràm trồng trên đất hoang hóa ở Indonesia cho thấy rằng lượng tăng trưởng hàng năm và lượng tăng trưởng bình quân hàng năm đạt mức bằng nhau ở tuổi 14 Sau đó, lượng tăng trưởng bắt đầu giảm dần và đến tuổi 18 thì không còn tăng trưởng Do đó, tác giả khuyến nghị rằng tuổi khai thác tối ưu cho Keo lá tràm nên được xác định là 14 tuổi.
Tác giả chưa đề cập đến mục đích kinh doanh rừng Keo lá tràm, mặc dù đây là một yếu tố quan trọng quyết định thời gian khai thác rừng trồng.
Sự khác biệt về sinh trưởng và hình dạng thân cây giữa các xuất xứ Keo lá tràm đã được nghiên cứu tại nhiều quốc gia, bao gồm Australia và Malaysia Các xuất xứ từ Papua New Guinea (PNG) cho thấy sinh trưởng sinh khối lớn hơn so với các xuất xứ từ Queensland (Qld) và Northern Territory (NT), tuy nhiên, xuất xứ từ Queensland lại có tỷ lệ cây một thân cao hơn và hình dạng thân đẹp hơn Ngược lại, nghiên cứu tại Thái Lan cho thấy xuất xứ từ Queensland phát triển tốt hơn và có hình dạng thân đẹp hơn so với các xuất xứ từ Papua New Guinea và Northern Territory.
Nghiên cứu của Nor Aini và các cộng sự (1997) tại Malaysia chỉ ra rằng sự sinh trưởng và tỷ trọng gỗ của các xuất xứ 4 năm tuổi có sự khác biệt đáng kể Các xuất xứ có sinh trưởng tốt nhất thường đi kèm với tỷ trọng gỗ cao nhất, trong khi những xuất xứ sinh trưởng kém lại có tỷ trọng gỗ thấp nhất.
Trong khoảng 10 năm qua, các kỹ thuật di truyền phân tử đã được áp dụng rộng rãi trong nghiên cứu chọn giống cây rừng, bên cạnh các khảo nghiệm loài và xuất xứ Những nghiên cứu này giúp đánh giá mức độ đa dạng di truyền trong và giữa các quần thể, cũng như tỷ lệ giao phấn chéo Nghiên cứu của Wickneswari R và Norwati M (1993) cho thấy sự khác biệt đáng kể về đa dạng di truyền của quần thể Keo lá tràm tự nhiên tại Australia, với sự khác biệt này chủ yếu do sự khác nhau giữa các cá thể Điều này giải thích cho sự khác biệt về sinh trưởng và khả năng thích nghi của các xuất xứ trong các khảo nghiệm, đồng thời đóng vai trò quan trọng trong việc chọn lọc cá thể.
Việc chọn lọc cá thể (cây trội) từ khảo nghiệm loài và xuất xứ là bước quan trọng trong chương trình chọn giống, nhằm xây dựng khảo nghiệm hậu thế, dòng vô tính và vườn giống cung cấp hạt giống Khảo nghiệm hậu thế các gia đình cây trội Keo lá tràm, được chọn từ nơi nguyên sản và các lâm phần địa phương tại Thái Lan năm 1989, cho thấy sự khác biệt lớn về sinh trưởng giữa các xuất xứ và gia đình trong cùng xuất xứ Những gia đình có sinh trưởng kém tại các rừng sản xuất ở Thái Lan đã bị loại bỏ khi chuyển đổi sang vườn giống Nguyên nhân sinh trưởng kém của các gia đình địa phương được giải thích bởi nền tảng di truyền hẹp, tình trạng giao phối cận huyết và chọn lọc âm tính qua nhiều thế hệ (Pyniopusarerk và cộng sự, 1997).
Nghiên cứu về quản lý lập địa trồng rừng Keo lá tràm
Trong những năm gần đây, nhu cầu về gỗ nguyên liệu gia tăng đã dẫn đến việc trồng các loài cây gỗ mọc nhanh như keo, bạch đàn và thông trên diện tích lớn ở các nước nhiệt đới Tuy nhiên, việc thay thế rừng rậm nhiệt đới bằng rừng thuần loại có chu kỳ khai thác ngắn gây ra lo ngại về sự thoái hoá đất và giảm năng suất trong các luân kỳ sau.
Nghiên cứu của Nambiar (1996) cho thấy việc khai thác rừng thông Pinus radiata với chu kỳ ngắn tại Úc dẫn đến sự thoái hóa lập địa, với 90% chất dinh dưỡng trong sinh khối bị mất đi Sands (1983) cũng chỉ ra rằng việc thay thế rừng bạch đàn tự nhiên bằng rừng trồng thông với chu kỳ chặt 15-20 năm làm giảm độ phì đất do khai thác gỗ Hơn nữa, lớp thảm mục dày và khó phân giải của thông làm chậm quá trình quay vòng các nguyên tố khoáng và đạm tại các lập địa này.
Theo Nambiar và Brown (1997), việc trồng rừng có thể cải thiện độ phì nhiêu của đất, mang lại nhiều lợi ích tích cực Tuy nhiên, nếu không được quản lý đúng cách, việc này có thể dẫn đến mất cân bằng và cạn kiệt dinh dưỡng trong đất Mặc dù trồng rừng thường cải thiện các đặc tính vật lý của đất, nhưng việc áp dụng cơ giới hóa trong xử lý thực bì và khai thác có thể gây suy giảm sức sản xuất của đất.
Cơ sở lý luận của vấn đề nghiên cứu
Nghiên cứu trong lâm nghiệp hiện còn nhiều hạn chế, dẫn đến việc không xác định rõ nguyên nhân sụt giảm năng suất rừng qua các luân kỳ, và giải pháp kỹ thuật vẫn còn đơn giản Để đạt được năng suất rừng trồng bền vững, cần tổng hòa nhiều biện pháp, bao gồm quản lý vật liệu hữu cơ sau khai thác, phối hợp quản lý thực vật dưới tán rừng và dinh dưỡng thông qua bón phân Việc kết hợp các biện pháp kỹ thuật lâm sinh và quản lý lập địa trong suốt chu kỳ trồng rừng là cần thiết, đặc biệt là giữa các luân kỳ khai thác, thông qua việc để lại cành nhánh, quản lý thực vật dưới tán và bổ sung dinh dưỡng hợp lý Những biện pháp này sẽ lần đầu tiên được áp dụng tại Việt Nam cho các loài cây mọc nhanh như keo lá tràm ở Phú Bình - Bình Dương.
Chương 2 ĐIỀU KIỆN TỰ NHIÊN- XÃ HỘI KHU VỰC NGHIÊN CỨU
2.1 Vị trí khu vực nghiên cứu
Nơi thực hiện nghiên cứu: Trạm Thực nghiệm Lâm nghiệp Phú Bình – Phân viện Nghiên cứu Khoa học Lâm nghiệp Nam Bộ, thuộc xã An Bình, huyện Phú
Giáo, tỉnh Bình Dương, có toạ độ địa lý theo WGS 84 là : 48P UTM : 12510024 ,
0705467độ cao so với mặt nước biển xấp xỉ 80 m
Hình 2.1 : Bản đồ Vị trí khu vực nghiên cứu
“ Nguồn: ảnh Mapsource, Google Map, 2011”
Theo số liệu báo cáo rà soát quy hoạch 03 loại rừng tỉnh Bình Dương của Phân viện điều tra quy hoạch rừng Nam bộ (2008) [25]
Tỉnh Bình Dương có diện tích tự nhiên 269.522,44 ha, chiếm 6,06% tổng diện tích của 9 tỉnh Đông Nam Bộ Tuy nhỏ về diện tích, Bình Dương lại sở hữu vị trí địa lý thuận lợi, với thị xã Thủ Dầu Một cách thành phố Hồ Chí Minh chỉ 30 km theo quốc lộ 13 và giáp tỉnh Bình Phước ở phía Bắc.
+ Phía Nam giáp thành phố Hồ Chí Minh
+ Phía Đông giáp tỉnh Đồng Nai
+ Phía Tây giáp Tây Ninh và thành phố Hồ Chí Minh
+ Từ 10 0 52’ 12” đến 11 0 30’ vĩ độ Bắc
+ Từ 106 0 20’ đến 107 0 06’ kinh độ Đông
- Tỉnh gồm 7 đơn vị hành chính, trong đó có 6 huyện (Thuận An, Dĩ An, Tân Uyên, Bến Cát, Phú Giáo, Dầu Tiếng) và thị xã Thủ Dầu Một
Với vị trí địa lý thuận lợi, Bình Dương dễ dàng giao lưu và kết nối với các tỉnh thành Đông Nam Bộ, Tây Nguyên và Tây Nam Bộ, tạo điều kiện thuận lợi cho sự phát triển kinh tế của tỉnh.
2 2.2 Địa hình, địa mạo Địa hình Bình Dương là dạng đồi trung bình và thấp, độ dốc trung bình từ 2 -
5 0 , nhìn chung tương đối bằng phẳng, độ cao trung bình 20 - 25 m so với mực nước biển và được chia theo các kiểu địa hình chính sau đây:
- Địa hình bậc thềm phù sa cổ (Phistocene)
Địa hình đồng bằng tích tụ được hình thành từ trầm tích phù sa hiện đại (Halocene) của sông và biển, với bề mặt tương đối phẳng Độ chênh cao thấp của khu vực này thể hiện các chỉ tiêu địa lý đặc trưng.
+ Độ dốc < 3 0 chiếm 82,2% tổng diện tích tự nhiên
+ Từ 3-8 0 chiếm 10,6% tổng diện tích tự nhiên
+ Từ 8-15 0 chiếm 4,9% tổng diện tích tự nhiên
+ > 15 0 chiếm 2,3% tổng diện tích tự nhiên
- Độ cao tuyệt đối cao nhất: đỉnh Núi ông (nằm ở phía Tây Bắc của tỉnh) cao 284 m
- Độ cao tuyệt đối thấp nhất 15 m
Bình Dương có khí hậu nhiệt đới gió mùa cận xích đạo với tổng lượng bức xạ và nhiệt năm cao, ổn định, cùng biên độ nhiệt năm không đáng kể Những yếu tố này tạo điều kiện thuận lợi cho sự phát triển của thực vật trong khu vực.
- Chế độ nhiệt: cán cân bức xạ năm từ 75 - 80 Kcal/cm 2 Tổng tích ôn từ
9468 0 C/năm đến 9684 0 C/năm Nhiệt độ bình quân năm 26,6 0 C Số giờ nắng cả năm 2.330,7 giờ Độ ẩm tương đối trung bình các tháng trong năm từ 80-87%
Chế độ mưa tại tỉnh và vùng phụ cận cho thấy tổng lượng mưa trung bình hàng năm trong những năm gần đây dao động từ 1.671,3 mm đến 2.319,7 mm, dựa trên số liệu quan trắc từ các trạm.
Sự phân bố mưa tại Bình Dương giảm dần từ Tây sang Đông và tăng dần từ Nam lên Bắc, với tổng số ngày mưa từ 158 - 174 ngày, chiếm 82,4 - 92,8% tổng lượng mưa hàng năm, tập trung từ 10 - 20 tháng 5 và kết thúc vào 26-30 tháng 10 Nông nghiệp ở Bình Dương chủ yếu dựa vào nước mưa, chỉ có thể sản xuất một vụ lúa mỗi năm với hệ số quay vòng đất thấp Do đó, ở những vùng thiếu thủy lợi, việc lựa chọn cây trồng lâu năm được coi là giải pháp hợp lý Mùa mưa hàng năm cũng là thời điểm quan trọng cho việc trồng rừng trong lĩnh vực lâm nghiệp.
- Nguồn nước mặt ở Bình Dương bao gồm một số sông suối chính như sau:
Sông Đồng Nai, bắt nguồn từ cao nguyên Lang Biang, là một trong những con sông lớn nhất tại Đông Nam Bộ, với lưu vực rộng khoảng 40.000 km² và lưu lượng dòng chảy đạt 30 tỷ m³ mỗi năm.
Sông Bé, một phụ lưu của sông Đồng Nai, bắt nguồn từ núi Buôn Ôm, có tổng chiều dài 350 km và diện tích lưu vực lên tới 7.650 km² Đoạn sông chảy qua tỉnh Bình Dương dài 104,6 km Tại phần thượng lưu, công trình thủy điện Thác Mơ đã được xây dựng, với dung tích hồ chứa đạt 1,47 tỷ m³.
Sông Sài Gòn, bắt nguồn từ biên giới Việt Nam - Campuchia ở độ cao 300-400 m, có tổng chiều dài 280 km và diện tích lưu vực 4.500 km² Để khai thác nguồn nước quý giá này, công trình thủy lợi hồ Dầu Tiếng với dung tích 1,1 tỷ m³ đã được xây dựng, cung cấp nước chủ yếu cho các tỉnh Tây Ninh, Long An và TP.HCM Đặc biệt, phần hạ lưu của sông chảy qua ranh giới Bình Dương - Tây Ninh dài 137,2 km.
Ngoài 3 sông chính trên đây còn có một số sông suối nhỏ có khả năng cung cấp nguồn nước mặt như sông Thị Tính, suối Giai, suối Cái, suối Sia Tuy nhiên do lưu lượng dòng chảy có hạn đặc biệt về mùa khô nên việc khai thác nguồn nước mặt của các sông suối này vẫn còn rất hạn chế
Theo nghiên cứu trong chương trình 60G của Liên đoàn địa chất 6 và báo cáo về bản đồ địa chất-thủy văn tỉnh Sông Bé cũ do Đoàn địa chất 801 thực hiện, kết quả cho thấy
1994 cho thấy: nguồn nước ngầm tỉnh Bình Dương được chia làm 3 khu vực với các mức độ khác nhau
Khu vực phía Tây huyện Bến Cát đến bờ sông Sài Gòn sở hữu nguồn nước phong phú với bề dày tầng chứa nước từ 15 đến 20 mét, cho thấy khả năng tàng trữ và vận động nước hiệu quả.
+ Khu vực giàu nước trung bình thuộc huyện Thuận An (ngoại trừ vùng trũng phèn) Tân Lập và vùng chuyển tiếp của khu giàu nước kể trên
+ Khu nghèo nước: nằm ở phía Đông và Đông Bắc Thủ Dầu Một và Nam Bến Cát thuộc trầm tích đệ tứ, có thành phần cát mịn là chủ yếu
Nước ngầm, cùng với nguồn tài nguyên nước mặt, đóng vai trò quan trọng trong việc duy trì trữ lượng nước ngọt của khu vực, phục vụ cho sản xuất và đời sống của người dân.
Theo kết quả điều tra của Viện Quy hoạch và thiết kế Nông nghiệp năm 1997, nền địa chất và tài nguyên đất đai tỉnh Bình Dương bao gồm 5 loại mẫu chất và đá mẹ tạo đất: phù sa cổ, phù sa mới, trầm tích đầm lầy biển, đá phiến và đá cát Trong đó, phù sa cổ chiếm tỷ trọng cao nhất với 67% tổng diện tích tự nhiên, tiếp theo là trầm tích sông, chiếm 6% tổng diện tích và phân bố rộng rãi ở các vùng ven sông Sài Gòn, Đồng Nai, Sông Bé.
ĐIỀU KIỆN TỰ NHIÊN XÃ HỘI KHU VỰC NGHIÊN CỨU
MỤC TIÊU, ĐỐI TƢỢNG, NỘI DUNG VÀ
Biện pháp kỹ thuật quản lý vật liệu hữu cơ sau khai thác có ảnh hưởng đáng kể đến năng suất của rừng trồng keo lá tràm trong các chu kỳ tiếp theo Việc xác định rõ ràng tác động này giúp tối ưu hóa quy trình quản lý rừng, nâng cao hiệu quả sản xuất và bảo vệ môi trường.
3.2 Đối tƣợng và phạm vi nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu bao gồm các lô rừng trồng keo lá tràm (Acacia auriculiformis) dòng AA1 và AA9 đã đạt đến tuổi khai thác Sau khi thu thập dữ liệu và hoàn tất việc khai thác các lô rừng này, thí nghiệm sẽ được tiếp tục với loài cây giống như trong luân kỳ đầu.
3.2.2 Phạm vi nghiên cứu Đất và rừng keo lá tràm ở Phú Bình tỉnh Bình Dương
Giới hạn vấn đề nghiên cứu
Nghiên cứu này kế thừa các tài liệu nghiên cứu trước đó về rừng, được thực hiện bởi Phân viện nghiên cứu khoa học lâm nghiệp Nam Bộ.
Trong nghiên cứu về quản lý lập địa, bài viết tập trung vào việc quản lý vật liệu hữu cơ sau khai thác rừng, không đề cập đến các khía cạnh khác như quản lý thực vật hay quản lý dinh dưỡng.
Nhằm đạt được các mục tiêu của đề tài, nội dung nghiên cứu cần được triển khai như sau:
3 3.1 Nghiên cứu tính chất đất và đặc điểm rừng trước khi khai thác để làm thí nghiệm
- Đặc điểm sinh trưởng rừng
Nghiên cứu này tập trung vào việc đánh giá các biện pháp quản lý vật liệu hữu cơ sau khai thác, bao gồm ngọn cây, cành nhánh, lá và vỏ, nhằm xác định ảnh hưởng của chúng đến năng suất rừng trồng Keo lá tràm và độ phì của đất Kết quả thu được sau 3 năm thực hiện thí nghiệm (Chu kỳ 3) sẽ cung cấp thông tin quan trọng cho việc cải thiện quản lý rừng và bảo vệ môi trường.
Quản lý vật liệu hữu cơ sau khai thác có ảnh hưởng đáng kể đến sinh trưởng và sinh khối của rừng Việc xử lý hợp lý các vật liệu này không chỉ tăng cường trữ lượng rừng mà còn cải thiện năng suất trong các chu kỳ tiếp theo Nghiên cứu cho thấy rằng động thái sinh trưởng của cây rừng sẽ được tối ưu hóa khi quản lý vật liệu hữu cơ được thực hiện một cách hiệu quả.
- Ảnh hưởng của quản lý vật liệu hữu cơ sau khai thác đến tính chất đất và cân bằng dinh dưỡng đất trong thời gian thí nghiệm
Phương pháp luận trong nghiên cứu đề tài là phương pháp sinh thái thực nghiệm.
Thí nghiệm được thực hiện để nghiên cứu sự biến đổi tính chất đất và năng suất của rừng trồng qua nhiều chu kỳ khai thác Các mẫu đất và thực vật đã được thu thập và phân tích trước và sau khi thí nghiệm diễn ra.
3.4.2 Ph ương pháp bố trí thí nghiệm
Phương pháp bố trí thí nghiệm theo khối ngẫu nhiên đầy đủ với các lần lặp lại đảm bảo tính thống kê sinh học là một kỹ thuật quan trọng trong nghiên cứu Ô đo đếm được sử dụng để xác định vị trí trong các lô thí nghiệm, giúp thu thập dữ liệu chính xác và đáng tin cậy.
Phương pháp bố trí thí nghiệm này được xây dựng dựa trên nghiên cứu trong quản lý lập địa rừng trồng nhiệt đới của CIFOR (Tiarks và cs., 1998) Thí nghiệm được thiết kế để kế thừa kết quả từ chu kỳ nghiên cứu trước, cụ thể là rừng trồng Keo lá tràm được trồng vào tháng 8 năm 2008 (chu kỳ 3) Cây giống có xuất xứ từ AA1 đến AA9, do Trung tâm Khoa học & Sản xuất Lâm nghiệp vùng Đông Nam Bộ cung cấp, đã được trộn lẫn để tạo thành cây Thí nghiệm bao gồm hai phần chính.
Thí nghiệm được bố trí theo kiểu khối đầy đủ ngẫu nhiên (RCBD), gồm 3 nghiệm thức và 5 lần lặp lại Các nghiệm thức đó là:
BL0 (F [L] ) : Lấy đi vật liệu hữu cơ sau khai thác trên mặt đất bao gồm cây, thực vật dưới tán, cành nhánh và thảm mục ở chu kỳ 1 và 2
BL1 (F [M]) yêu cầu để lại vật liệu hữu cơ sau khai thác, bao gồm phần ngọn cây có đường kính nhỏ hơn 5cm, cành và lá, được rải đều trên ô trong chu kỳ 1 và 2.
BL2 (F [H]) yêu cầu để lại gấp đôi lượng vật liệu hữu cơ sau khai thác chu kỳ 1 và giữ lại vật liệu hữu cơ cho chu kỳ 2 Đồng thời, cần bón lót 300g phân lân Lâm Thao cho mỗi cây.
Để dễ dàng theo dõi kết quả nghiên cứu trong các bảng số liệu sau, tác giả sử dụng cả hai tên ký hiệu: BL 0, 1, 2 đại diện cho thí nghiệm của chu kỳ trước, và F L, M, H đại diện cho thí nghiệm hiện tại trong chu kỳ 3.
Tổng diện tích của 15 ô trong thí nghiệm là 17.280 m², với diện tích mỗi ô là 1.152 m² (12 hàng x 16 cây) Diện tích đo là 576 m² (8 hàng x 12 cây) và diện tích ô đệm cũng là 576 m² (96 cây) Phương pháp chuẩn bị đất trồng rừng bao gồm việc phát dọn thực bì và phun thuốc diệt cỏ Cây trồng được thực hiện bằng phương pháp thủ công với mật độ 1.666 cây/ha.
3.4.2.2 Lô lấy mẫu sinh khối cây
Tổng diện tích rừng là 7508 m², được chia thành 3 ô, mỗi ô có diện tích 2502,7 m² với 417 cây Các ô này được thiết lập theo ba nghiệm thức F(L), F(M), và F(H) nhằm phục vụ cho việc khai thác định kỳ, giúp xác định sự gia tăng sinh khối và khả năng hấp thu dinh dưỡng của rừng từ khi trồng cho đến lần khai thác tiếp theo.
3 4.3 Phương pháp thu thập số liệu
3.4.3.1 Trước khi tiến hành thí nghiệm
* Đo đếm sinh trưởng rừng
Trước khi tiến hành thí nghiệm, toàn bộ đường kính (D 1.3) và chiều cao cây (Hvn) của lô rừng được đo đếm Trữ lượng cây đứng của rừng được xác định bằng phương pháp cây tiêu chuẩn thông qua việc phân tích 30 cây tiêu chuẩn đại diện cho các cấp kính của lô rừng Từ đó, phương trình tương quan giữa thể tích cây cá thể và các chỉ tiêu kích thước như đường kính và chiều cao được thiết lập, làm cơ sở ước tính trữ lượng lâm phần.
(Kế thừa số liệu đã có của Phân viện nghiên cứu khoa học lâm nghiệp Nam bộ)
3.4.3.2 Sau khi thiết lập thí nghiệm