Mục tiêu nghiên cứu của luận văn nhằm góp phần bổ sung những hiểu biết mới về đặc điểm cấu trúc của hệ sinh thái rừng núi đất đai cao tại Khu bảo tồn thiên nhiên Pù Hu – Thanh Hóa. Để hiểu rõ hơn mời các bạn cùng tham khảo nội dung chi tiết của luận văn này.
TỔNG QUAN VẤN ĐỀ NGHIÊN CỨU
Trên thế giới
Phân loại rừng là một công việc quan trọng trong kinh doanh rừng, đặc biệt là đối với rừng tự nhiên nhiệt đới, và thường được xem là một khoản đầu tư cần thiết.
Theo Phùng Ngọc Lan (1986), trên thế giới tồn tại nhiều trường phái phân loại rừng khác nhau, trong đó trường phái Liên Xô cũ và một số nước Đông Âu đã được áp dụng lâu dài tại Việt Nam Ngoài ra, còn có các trường phái Bắc Âu, Mỹ và Canada, mỗi trường phái lựa chọn các yếu tố phân loại chủ đạo khác nhau dựa vào kiểu rừng và mục tiêu kinh doanh.
1.1.2.1 Về cơ sở sinh thái của cấu trúc rừng
Hệ sinh thái rừng là một khái niệm quan trọng, đóng vai trò nền tảng cho việc nghiên cứu các yếu tố cấu trúc từ góc độ sinh thái học.
Baur G.N (1964) đã nghiên cứu sâu về các vấn đề cơ sở sinh thái học, đặc biệt là trong lĩnh vực kinh doanh rừng mưa Tác giả tập trung vào các nhân tố cấu trúc rừng và các kiểu xử lý lâm sinh áp dụng cho rừng mưa tự nhiên Theo ông, các phương thức này đều hướng đến hai mục đích rõ rệt.
Mục tiêu chính trong việc cải thiện rừng cây nguyên sinh là nâng cao chất lượng rừng bằng cách loại bỏ những cây quá thành thục, tạo không gian sống cho các loài cây khác phát triển Đồng thời, việc tái sinh rừng cũng được chú trọng thông qua các biện pháp như xúc tiến tái sinh tự nhiên, thực hiện tái sinh nhân tạo, hoặc giải phóng lớp cây tái sinh đang ngủ Những phương pháp này nhằm thay thế những cây đã được khai thác hoặc chăm sóc, từ đó đảm bảo sự phát triển bền vững cho rừng mưa.
Catinot.R (1965) đã tiến hành nghiên cứu cấu trúc hình thái của rừng thông bằng cách biểu diễn các phẫu đồ rừng Ông cũng đã khám phá các nhân tố cấu trúc sinh thái của rừng thông thông qua việc mô tả và phân loại dựa trên các khái niệm, dạng sống và tầng phiến.
Odum E.P (1971) đã hoàn thiện học thuyết về hệ sinh thái dựa trên thuật ngữ "hệ sinh thái" (ecosystem) do Tasley A.P đưa ra vào năm 1935 Khái niệm hệ sinh thái được làm rõ ràng là nền tảng quan trọng cho việc nghiên cứu cấu trúc từ góc độ sinh thái học.
1.1.2.2 Mô tả về hình thái cấu trúc rừng
Rừng mưa nhiệt đới, với sự đa dạng và phong phú, đã thu hút sự chú ý của nhiều nhà khoa học, như Richards (1952) và Catinot (1965) Các nghiên cứu của họ tập trung vào việc biểu diễn cấu trúc hình thái của rừng thông qua phẫu diện đồ, đồng thời phân loại các nhân tố cấu trúc theo các khái niệm như dạng sống và tầng phiến.
Các kết quả nghiên cứu này đã đặt nền móng quan trọng cho các nghiên cứu ứng dụng sau này
Rollet (1971) theo Phạm Ngọc Giao (1995) đã mô tả cấu trúc hình thái của rừng mưa thông qua các phẫu đồ, thể hiện mối tương quan giữa chiều cao vút ngọn và đường kính ngang ngực, cũng như mối quan hệ giữa đường tán và đường kính ngang ngực bằng các hàm hồi quy.
Kraft (1988) theo Phùng Ngọc Lan (1986) đã phân chia cây rừng trong lâm phần thành 5 cấp dựa trên khả năng sinh trưởng, kích thước và chất lượng của cây Các tiêu chuẩn phân cấp này rõ ràng, đơn giản và dễ áp dụng, đồng thời phản ánh tình hình phân hóa cây rừng một cách chính xác.
Khi nghiên cứu về tầng thứ trong rừng tự nhiên nhiệt đới, nhiều tác giả chỉ đưa ra những nhận xét định tính, mà chưa phản ánh đầy đủ sự phức tạp trong cấu trúc của hệ sinh thái này.
1.1.2.3 Nghiên cứu định lượng về cấu trúc rừng
Khi chuyển đổi từ nghiên cứu định tính sang nghiên cứu định lượng về cấu trúc rừng, nhiều tác giả áp dụng các công thức và hàm toán học để mô hình hóa cấu trúc này, nhằm xác định mối quan hệ giữa các yếu tố cấu trúc của rừng.
Raunkiaer (1934) đã phát triển công thức để xác định phổ dạng sống chuẩn cho hàng nghìn loài cây, dựa trên tỉ lệ phần trăm giữa số lượng các thể của từng dạng sống và tổng số cá thể trong khu vực Để thể hiện tính đa dạng về loài, nhiều tác giả đã đề xuất các công thức tính chỉ số đa dạng như Simpson (1949), Margalef (1958), và Menhinik (1964) Những nghiên cứu này mang tính định lượng nhưng được xây dựng trên cơ sở sinh thái, làm nền tảng cho các đề tài nghiên cứu và ứng dụng sau này.
Nghiên cứu định lượng các mối quan hệ và cấu trúc trong rừng nhiệt đới đã được Rollet (1971) nhấn mạnh, với nhiều công trình sâu sắc trong lĩnh vực này (Phùng Đình Trung, 2007) Ông đã sử dụng các hàm hồi quy để biểu diễn mối quan hệ giữa các yếu tố điều tra và khái quát hóa phân bố đường kính tán cùng đường kính thân cây dưới dạng phân bố xác suất Quy luật phân bố số cây theo cỡ kính (N/D 1.3) và số cây theo cỡ chiều cao (N/H VN) là những quy luật cơ bản nhất của kết cấu lâm phần Nhiều tác giả đã chú trọng đến việc mô phỏng các quy luật này, thường thông qua các hàm toán học, với một số công trình tiêu biểu được ghi nhận.
Meyer (1934) đã phát triển một phương trình toán học dạng đường cong giảm liên tục để mô tả sự phân bố số lượng cây theo kích thước đường kính, được gọi là phương trình Meyer hay hàm Meyer (theo Phạm Ngọc Giao, 1995).
Naslund (1936 - 1937) đã xác lập luật phân bố Chiarlier kiểu A để nắn số cây theo cỡ kính của các lâm phần rừng thuần loài đều tuổi (theo Phạm Ngọc Giao,
Balley (1973) đã sử dụng hàm Weibull để mô hình hóa cấu trúc đường kính loài, chiều cao thông theo mô hình của Schumacher và Coile (theo Bùi Văn Chúc,
1995 [5]) Loestch (1973) đã dùng hàm Beta để nắn các phân bố thực nghiệm (theo Trần Cẩm Tú, 1999 [39])
Ở Việt Nam
Nhiều nghiên cứu khoa học đã phân tích các đặc điểm cấu trúc của rừng tự nhiên và rừng trồng, nhằm hỗ trợ công tác quản lý và phát triển bền vững trong lĩnh vực kinh doanh rừng.
1.2.1 Nghiên cứu về phân loại rừng
Dựa trên hệ thống phân loại của Loetschau (1960), Viện điều tra quy hoạch đã cải tiến để phù hợp với đặc điểm rừng Việt Nam Hệ thống này vẫn đang được áp dụng để phân loại trạng thái rừng hiện tại.
Vào năm 1978, Thái Văn Trừng đã phát triển một hệ thống phân loại sinh thái phát sinh cho rừng Việt Nam, chia thành 14 kiểu thảm thực vật Hệ thống này được xây dựng dựa trên học thuyết về hệ sinh thái rừng của Tansley A.P (1935) và học thuyết địa quần của Sucasev (1957), theo nguyên lý "sinh thái phát sinh thảm thực vật".
Vũ Đình Huề (1984) [16], dựa trên hệ thống phân loại của Loeschau, phân chia trạng thái rừng phục vụ công tác kinh doanh rừng dựa vào trạng thái hiện tại
Vũ Đình Phương (1988) đã xác định cấu trúc quần thể rừng phù hợp cho từng đối tượng và mục tiêu điều chế dựa trên các đặc trưng như nhóm sinh thái tự nhiên, giai đoạn phát triển và suy thoái của rừng, khả năng tái tạo qua con đường tái sinh tự nhiên, cùng với đặc điểm địa hình và thổ nhưỡng, từ đó phân chia rừng thành các lô khác nhau phục vụ cho công tác điều chế rừng.
Bảo Huy (1993) đã áp dụng hệ thống phân loại của Loeschau để phân tích trạng thái rừng Bằng lăng tại Tây Nguyên, xác định các loại hình xã hợp thực vật dựa trên trị số IV% Đào Công Khanh (1996) cũng đã nghiên cứu tổ thành các loài cây nhằm phân loại rừng, từ đó đề xuất các biện pháp kỹ thuật lâm sinh phù hợp.
Lê Sáu (1996) [32], dựa trên bảng của Loeschau để phân loại các trạng thái các lâm phần rừng kín thường xanh ở Kon Hà Nừng
Nhiều tác giả đã nghiên cứu về phân chia loại hình rừng tự nhiên ở Việt Nam, mỗi phương pháp phân chia dựa trên cơ sở nhất định và phù hợp với từng đối tượng cụ thể Phân loại của Thái Văn Trừng được đánh giá là chặt chẽ, đáp ứng thực tiễn và dễ dàng áp dụng Hệ thống phân loại này có thể áp dụng cho tất cả các loại thảm thực vật, bao gồm rừng nguyên sinh, rừng thứ sinh bị tác động và cả rừng nhân tạo.
1.2.2 Nghiên cứu định lượng về cấu trúc rừng
1.2.2.1 Quy luật phân bố số cây theo cỡ kính (N/D 1.3 ) và số cây theo cỡ chiều cao (N/H VN )
Trương Hồ Tố (1996) đã sử dụng họ đường cong Pearson và các hàm Charlie để mô phỏng cấu trúc rừng Thông ba lá tại Tây Nguyên Bên cạnh đó, Vũ Nhâm (1988), Phạm Ngọc Giao (1989) và Trần Văn Con (1991) đã áp dụng hàm Weibull để mô phỏng cấu trúc đường kính ở các kiểu rừng khác nhau.
Lê Minh Trung (1991) đã áp dụng hàm Poisson để mô phỏng cấu trúc tán lá cây, hàm Weibull cho chiều cao và đường kính, cùng với việc khảo nghiệm hàm Hyperbol và Meyer Trong vài thập niên qua, nghiên cứu về quy luật phân bố số cây theo kích thước kính và chiều cao đã thu hút sự quan tâm của các nhà lâm sinh học tại Việt Nam Cụ thể, Đồng Sĩ Hiền (1974) đã sử dụng hàm Meyer và đường cong Pearson để xác định phân bố số cây theo đường kính, làm cơ sở cho việc lập biểu thể tích và biểu độ thon của cây trong rừng tự nhiên miền Bắc Phân bố số cây theo chiều cao ở các lâm phần rừng tự nhiên hay từng loài cây thường có nhiều đỉnh, phản ánh cấu trúc tầng phức tạp của rừng chặt chọn.
Nguyễn Hải Tuất (1972, 1982, 1990) đã áp dụng hàm phân bố giảm và phân bố khoảng cách để mô tả cấu trúc của rừng thứ sinh, đồng thời sử dụng quá trình Poisson trong nghiên cứu cấu trúc quần thể.
Nguyễn Văn Trương (1983) đã thực hiện thí nghiệm sử dụng các hàm mũ, Logarit và phân bố Poisson để mô tả cấu trúc số cây theo cấp kính và chiều cao của rừng tự nhiên hỗn loài Kết quả cho thấy rằng chỉ có phân bố Poisson không đạt hiệu quả cao trong việc biểu thị cấu trúc này.
Bảo Huy (1988, 1993) đã thử nghiệm năm dạng phân bố lý thuyết, bao gồm Poisson, khoảng cách, hình học, Meyer và Weibull, để mô phỏng cấu trúc của rừng Bằng lăng ở Tây Nguyên Kết quả cho thấy phân bố N/HVN có dạng một đỉnh với nhiều đỉnh phụ hình răng cưa, được mô tả một cách thích hợp bằng hàm Weibull.
Trần Văn Con và Lê Minh Trung (1991) đã tiến hành thử nghiệm nhiều phân bố xác suất nhằm phân bố N/D1.3, và kết quả cho thấy phân bố Weibull là lựa chọn phù hợp nhất cho rừng tự nhiên tại Đắc Lắc.
Nguyễn Ngọc Lung (1991) đã nghiên cứu cấu trúc rừng tự nhiên tại Hương Sơn, Kon Hà Nừng và một số địa phương khác, phát hiện rằng phân bố số cây theo cỡ đường kính tuân theo phân bố giảm kiểu Meyer ở rừng nguyên sinh Nghiên cứu cũng chỉ ra rằng thường xuất hiện một đỉnh ngay sau cỡ đường kính nhỏ nhất và có thể có một đỉnh thứ hai ở cỡ đường kính lớn.
Lê Sáu (1996) [32] sử dụng hàm Weibull mô phỏng phân bố đường kính và chiều cao cho rừng tự nhiên ở Kon Hà Nừng, Tây Nguyên
Trần Cẩm Tú (1999) đã sử dụng hàm Weibull và hàm Khoảng cách để mô phỏng quy luật phân bố N/D1.3 cho rừng tự nhiên phục hồi sau khai thác Kết quả cho thấy cả hai hàm đều mô phỏng tốt quy luật phân bố N/D1.3 và N/HVN Tuy nhiên, hàm Khoảng cách thể hiện tính phù hợp cao hơn cho N/D1.3, trong khi hàm Weibull lại mô phỏng tốt hơn cho quy luật cấu trúc N/HVN, đặc biệt với sự xuất hiện của đỉnh đường cong ở cỡ kính 12cm.
Vũ Tiến Hinh (1985, 1986, 1990) đã nghiên cứu và thử nghiệm nhiều phân bố lý thuyết để xác định phân bố N/D1.3 và N/HVN cho một số loài cây trồng Kết quả cho thấy phân bố Weibull là phân bố phù hợp nhất cho các nghiên cứu này.
ĐẶC ĐIỂM KHU VỰC NGHIÊN CỨU
Điều kiện tự nhiên
Khu bảo tồn thiên nhiên Pù Hu nằm ở phía tây tỉnh Thanh Hoá, cách trung tâm thành phố Thanh Hoá 134 km về phía Tây Bắc, dễ dàng tiếp cận qua quốc lộ 47 và 15A Khu vực này thuộc địa giới hành chính của hai huyện, bao gồm huyện Quan Hoá với 10 xã: Nam Tiến, Thiên Phủ, Hiền Chung, Hiền Kiệt, Thanh Xuân, Phú Sơn, Phú Xuân, Phú Thanh, Trung Thành và Trung Sơn; cùng với huyện Mường Lát có 1 xã là Trung Lý.
Các vị trí tiếp giáp:
+ Phía Bắc giáp tỉnh Hoà Bình và tỉnh Sơn La;
+ Phía Nam giáp huyện Quan Sơn;
+ Phía Đông giáp huyện Bá Thước;
+ Phía Tây giáp huyện Mường Lát và nước bạn Lào
Từ 20 0 22’30’’ đến 20 0 40’00’’ vĩ độ Bắc
Từ 104 0 40’00’’ đến 105 0 05’00’’ kinh độ Đông
Hình2.1: Bản đồ vị trí Khu BTTN Pù Hu 2.1.2 Địa hình
Khu BTTN Pù Hu nằm ở phía Tây của vành đai núi đá vôi, kéo dài từ Khu BTTN Pù Luông đến Vườn Quốc gia Cúc Phương Về mặt địa chất, khu vực chủ yếu là vùng núi đất với thành phần đá mẹ đa dạng, bao gồm granite, riolite, sa thạch, phiến thạch, cuội kết, đá czát và đá vôi Đỉnh cao nhất là Pù Hu, đạt độ cao 1.470 m, nằm ở phía Bắc của khu bảo tồn, trong khi các đỉnh phía Nam có độ cao từ 1.390 m đến 1.420 m Độ cao giảm mạnh về phía Bắc, Đông và Nam, dẫn đến các thung lũng sông Mã và sông Luồng, với điểm thấp nhất trong khu bảo tồn dưới 50 m.
Khu BTTN Pù Hu tọa lạc trong vùng khí hậu nhiệt đới gió mùa, mang đặc trưng khí hậu của Tây Bắc Việt Nam và khí hậu á nhiệt đới Nhiệt độ trung bình dao động từ 20°C đến 25°C, với nhiệt độ tối cao ghi nhận là 39°C và tối thấp là 5°C Lượng mưa hàng năm khá thấp, từ 1400 mm đến 1500 mm Khu vực này chịu ảnh hưởng của hai loại gió mùa chính: gió mùa Đông Nam và gió mùa Đông Bắc Ngoài ra, do vị trí gần Tây Bắc, khu vực cũng chịu tác động của bão qua các trận mưa lớn mà không có gió mạnh.
Khu bảo tồn được bao quanh bởi hệ thống sông Luồng và sông Mã, tạo thành một rào cản ngăn chặn sự di chuyển của động vật ra ngoài các hệ sinh thái rừng Khối núi Pù Hu bị chia cắt bởi nhiều con suối trong khu vực Các suối ở phía Tây, Bắc và Đông chảy vào sông Mã, trong khi suối phía Nam chảy vào sông Luồng trước khi đổ vào sông Mã, sông chính của vùng Bắc Trung Bộ Lưu vực sông Mã bao gồm diện tích phía Bắc tỉnh Hủa Phăn của Lào và tỉnh Thanh Hóa, với mạng lưới thủy văn dày đặc giúp tập trung lượng mưa vào hệ thống sông chính này.
Mã và sông Luồng nên thường gây ra lũ lớn ở nhiều nơi trong vùng.
Điều kiện kinh tế - xã hội
2.2.1 Dân số, phân bố dân cư và lao động
Khu BTTN Pù Hu nằm ở vùng sâu, vùng xa, là nguồn đầu của sông Mã và sông Luồng, nơi sinh sống chủ yếu của các dân tộc thiểu số như Thái, Mường, Dao và H’Mông Trong vùng đệm của khu bảo tồn, có 3.894 hộ với 19.369 nhân khẩu và 8.928 lao động Các dân tộc không sống tập trung trong cùng một thôn bản mà phân bố thành các chòm, bản dọc theo các con suối Người Mông thường sống riêng lẻ ở các bản và trên các triền núi cao, thường xuyên di cư giữa các bản Trong khi đó, người Thái và người Mường sống xen kẽ, còn các hộ người Kinh chủ yếu cư trú dọc theo các trục đường giao thông chính.
Trên địa bàn 11 xã, có sự hiện diện của 5 dân tộc anh em gồm Kinh, Dao, Mường, Thái và H’Mông, với mật độ dân số đạt 36 người/km² Tuy nhiên, tỷ lệ tăng dân số giữa các xã và các dân tộc không đồng đều, trong đó dân tộc H’Mông có tỷ lệ tăng 3,3% và dân tộc Thái là 2,9%.
Vùng dân cư đồng bào Mông tại khu BTTN Pù Hu hiện có 497 hộ với 3.555 nhân khẩu, sinh sống tại 14 bản Mông Những hộ dân này đã được di dời từ vùng lõi về khu quy hoạch, và hiện tại đang đối mặt với nhiều khó khăn về đời sống vật chất cũng như tinh thần, trong khi cơ sở hạ tầng vẫn còn thiếu thốn.
Bảng 2.1: Hiện trạng dân sinh các xã thuộc vùng lõi, vùng đệm
TT Huyện/ Xã/ Bản Hộ Khẩu Số Lao động
Thành phần dân tộc(hộ) Kinh Thái Mường Mông
(Nguồn: Báo cáo của Khu BTTN Pù Hu năm 2008) 2.2.2 Tình hình kinh tế
Khu vực trồng chọt chủ yếu sản xuất lúa, ngô, sắn, cùng với các cây công nghiệp ngắn ngày như đậu, lạc và cây lâu năm như chè Tuy nhiên, sản xuất vẫn còn kém phát triển và chủ yếu dựa vào phương pháp truyền thống Việc áp dụng khoa học kỹ thuật và công tác khuyến nông, khuyến lâm còn hạn chế, dẫn đến năng suất cây trồng thấp và tình trạng thiếu lương thực kéo dài từ 2 đến 5 tháng Sản phẩm hàng hóa có chất lượng thấp, giá rẻ và khó tiêu thụ, gây áp lực lên tài nguyên rừng.
Trong vùng đệm, người dân chủ yếu chăn nuôi các loại gia súc và gia cầm như trâu, bò, lợn, gà và cá, tuy nhiên số lượng bầy đàn còn thấp và không được tuyển chọn giống, dẫn đến năng suất rất thấp Việc chăn thả gia súc không có quy hoạch và chiến lược phát triển, chủ yếu là thả rông, khiến cho đàn gia súc thường xuyên bị dịch bệnh, ảnh hưởng tiêu cực đến công tác bảo tồn thiên nhiên.
- Tình hình sản xuất lâm nghiệp:
Trong toàn vùng, đã trồng được hơn 9 nghìn ha rừng, chủ yếu là rừng Luồng được giao khoán cho các hộ gia đình Năm 2003, Dự án khu BTTN Pù Hu đã triển khai trồng rừng với tổng diện tích 90 ha, bao gồm 40 ha rừng đặc dụng tại xã Hiền Kiệt và 50 ha rừng phòng hộ vành đai tại xã Phú Sơn.
Quản lý bảo vệ rừng là một dự án quan trọng, được triển khai trên diện tích rộng lớn với điều kiện giao thông khó khăn Tuy nhiên, nhờ vào lực lượng chuyên trách thực thi pháp luật, công tác bảo vệ rừng đã đạt được hiệu quả cao Dự án 661 đã giúp thực hiện giao khoán rừng một cách hiệu quả, nâng cao cả về số lượng và chất lượng rừng.
Chương trình 135 đã đầu tư mạnh mẽ vào mạng lưới giao thông liên thôn, liên xã, với 45/55 bản được nâng cấp đường cấp phối Tuy nhiên, các bản Mông nằm ven sông Mã vẫn chưa được đầu tư mở đường Địa hình đồi núi và mạng lưới sông suối dày đặc khiến hệ thống giao thông dễ bị hư hại nghiêm trọng sau mỗi mùa mưa lũ, gây khó khăn cho việc đi lại và giao thương.
Trên địa bàn, có hai tuyến giao thông chính là tỉnh lộ 20 và QL 15A, kết nối các xã như Nam Tiến, Thiên Phủ, Hiền Chung, Hiền Kiệt, Thanh Xuân, Phú Xuân, và Phú Thanh với Mường Lát và Mai Châu Hòa Bình Tuy nhiên, các xã Trung Thành, Phú Sơn, Trung Sơn và một phần xã Trung Lý lại không có trục giao thông nào, dẫn đến nhiều cản trở và khó khăn trong việc di chuyển và phát triển kinh tế.
Giao thông đường thuỷ trên sông Mã cũng được người dân sử dụng, tuy nhiên, việc này tiềm ẩn nhiều nguy hiểm do có nhiều ghềnh thác và trong mùa mưa lũ, nước chảy xiết, gây khó khăn cho việc di chuyển.
Hệ thống thuỷ lợi tại huyện Quan Hoá bao gồm 42 đập thuỷ lợi nhỏ và 28 kênh mương dài 59,1 km, phục vụ tưới tiêu cho hơn 180ha lúa nước Tuy nhiên, sau một thời gian sử dụng ngắn, hệ thống này đã bị xuống cấp do ảnh hưởng của lũ quét và lũ ống thường xảy ra vào mùa mưa lũ.
2.2.4 Các công trình phúc lợi khác:
Các cơ sở y tế tại thôn bản chưa được xây dựng đầy đủ, không đáp ứng nhu cầu chữa bệnh ban đầu cho người dân Mặc dù hầu hết các thôn, bản có người phụ trách công tác y tế, nhưng trình độ chuyên môn còn thấp và thiếu trang thiết bị, thuốc men Tại các trạm y tế xã, việc khám chữa bệnh cho người dân vẫn còn nhiều hạn chế.
Chương trình 159 và 135 đã đầu tư vào 80 trường học cấp I và II với tổng diện tích 8.623 m², trong đó huyện Quan Hóa có 54 trường với diện tích 6.068 m² và huyện Mường Lát có 26 trường với diện tích 2.555 m² Tuy nhiên, hệ thống trường mầm non và nhà ở của giáo viên vẫn chưa được xây dựng kiên cố, hiện tại vẫn là nhà tạm tre nứa Bên cạnh đó, trang thiết bị dạy và học còn thiếu thốn và nghèo nàn.
+ Công trình nước sạch: Đã đầu được 25/55 bản, tuy nhiên hiện trạng đã hư hỏng nặng
Nhà văn hóa thôn Tà Cóm, xã Trung Lý, là công trình duy nhất trong 55 bản, trong khi các bản còn lại chưa được đầu tư xây dựng Khu bảo tồn Pù Hu chủ yếu có đồng bào các dân tộc ít người, sống trong điều kiện nghèo nàn và lạc hậu, phụ thuộc vào sản vật từ rừng Trình độ dân trí thấp, cơ sở hạ tầng kém và giao thông khó khăn là những thách thức lớn Do đó, nghiên cứu và hỗ trợ các chương trình đầu tư, đặc biệt trong lĩnh vực lâm nghiệp, là rất cần thiết để cải thiện đời sống cộng đồng và nâng cao ý thức bảo vệ rừng.
Hiện trạng tài nguyên rừng
2.3.1 Tổng diện tích đất tự nhiên
Khu bảo tồn thiên nhiên Pù hu có tổng diện tích là: 27.502,89ha
Cơ cấu các loại đất:
+ Rừng trồng: 113,6 ha (Trong đó có 40 ha rừng mới trồng năm 2003 )
Để giải quyết áp lực về đất sản xuất và cải thiện đời sống cho các thôn giáp ranh với rừng bảo tồn, khu BTTN Pù Hu đã đề xuất cắt chuyển một phần diện tích rừng bảo tồn cho người dân Điều này nhằm giúp họ sớm ổn định cuộc sống và từng bước phát triển kinh tế.
Tổng diện tích cắt giảm: 4.353,44 ha Trong đó:
- Đất chưa có rừng: 821,94 ha
- Đất ngoài lâm nghiệp: 7,1 ha
Tổng diện tích còn lại của khu bảo tồn là: 23.249,45 ha
2.3.2 Đặc điểm tài nguyên rừng và tình hình sử dụng tài nguyên
Khu bảo tồn thiên nhiên Pù Hu nổi bật với nhiều sinh cảnh độc đáo, chủ yếu là hệ sinh thái núi đất, xen lẫn với các hệ sinh thái núi đá vôi Sự đa dạng này dẫn đến sự khác biệt về thảm thực vật cũng như sự phong phú về số lượng và chủng loại động thực vật.
* Khu hệ thực vật rừng:
- Về thảm và cấu trúc tầng thứ của rừng:
Dựa trên cở sở những nguyên tắc sinh thái của Thái Văn Trừng, Khu bảo tồn thiên nhiên Pù Hu có những kiểu thảm thực vật như sau:
Rừng kín thường xanh mưa ẩm nhiệt đới phân bố ở độ cao dưới 600 m, hiện diện tại tất cả các xã trong khu bảo tồn thiên nhiên Thành phần loài của rừng này bao gồm các ưu hợp của họ Cỏ (Poaceae), họ Cúc (Asteraceae), họ Cà Phê (Rubiaceae) và họ Đậu (Fabaceae).
Rừng kín thường xanh mưa ẩm á nhiệt đới núi thấp phân bố ở độ cao trên 600m, chủ yếu tại các đỉnh núi cao, đặc biệt là đỉnh Pù Hu Kiểu rừng này có thành phần thực vật ưu thế thuộc các họ Dẻ (Fagaceae), Dâu Tằm (Moraceae), Re (Lauraceae) và Mộc Lan (Magnoliaceae).
Kiểu phụ thứ sinh nhân tác trong khu bảo tồn thiên nhiên Pù Hu bao gồm nhiều loại rừng khác nhau Rừng hỗn giao gỗ và nứa phân bố rải rác với diện tích không lớn, trong khi kiểu phụ thứ sinh nhân tác nứa tập trung ven hệ thống suối, nơi có đất ẩm và màu mỡ Rừng Luồng, được trồng bởi các hộ gia đình ven sông Luồng và sông Mã, chủ yếu nằm trong vùng đệm của khu bảo tồn Mặc dù không được phân loại thành kiểu riêng biệt, các khu đất trống có cây bụi, cây gỗ và cỏ đóng vai trò quan trọng trong việc làm phong phú hệ sinh thái và cung cấp nơi kiếm ăn cho động vật.
- Về số lượng chủng loại thực vật:
Khu bảo tồn thiên nhiên Pù Hu có hệ thực vật đặc trưng của vùng Bắc Trung Bộ, đồng thời chịu ảnh hưởng từ hệ thực vật vùng Tây Bắc và vùng núi phía Bắc Bộ.
Theo kết quả điều tra ban đầu, đã ghi nhận 508 loài thực vật thuộc 323 chi và 102 họ thực vật, phân bố trong 6 ngành khác nhau Đặc biệt, một số họ thực vật nổi bật chiếm ưu thế trong hệ sinh thái.
Khu bảo tồn thiên nhiên Pù Hu là nơi bảo vệ nguồn gen đa dạng với 28 loài cây quý hiếm được ghi trong sách Đỏ Việt Nam và danh mục động thực vật rừng quý hiếm theo Nghị định 48/2002/NĐ-CP Trong số đó, các loài như Sến Mật (Madhuca Pasquieri), Lát Hoa (Chukrasia Tabularis) và Kim Giao (Nageia Fleuryi) đặc biệt đáng chú ý, thuộc họ Cỏ (Poaceae), Họ Thầu Dầu (Euphorbiaceae) và Họ Cúc (Asteraceae).
- Về các hệ sinh cảnh cư trú động vật:
Khu bảo tồn thiên nhiên Pù Hu là nơi sinh sống đa dạng của các loài động vật, với mỗi kiểu rừng mang đến môi trường cư trú đặc trưng cho từng loài Các nhà động vật học thường nhận định rằng sự phong phú của các kiểu rừng tại đây tạo điều kiện thuận lợi cho sự phát triển và bảo tồn đa dạng sinh học.
Khu rừng lá rộng thường xanh ẩm ướt ở vùng nhiệt đới và á nhiệt đới là nơi cư trú của nhiều loài động vật đa dạng, bao gồm khỉ, vượn, bò tót, hổ, gấu, báo gấm và gõ kiến.
Khu rừng tre nứa là môi trường sống đa dạng cho nhiều loài động vật, bao gồm gấu, lợn rừng, lửng lợn, dúi má vàng, tê tê, chuột nhắt, chích choè lửa, gà lôi, gà sao và gà tiền Những loài động vật này không chỉ góp phần vào hệ sinh thái phong phú mà còn tạo nên sự hấp dẫn cho du khách khám phá thiên nhiên.
Khu cây bụi và trảng cỏ gồm các loài sinh sống: Nai, Mang, Cú mèo, Chào mào
Khu hồ nước và sông suối gồm các loài Cá, Cóc rừng, Cóc Nhà, Ếch núi, Nhái, Rùa, Chìa vôi núi, Sả đầu nâu
- Số lượng và chủng loại động vật:
Khu hệ động vật trong khu vực quy hoạch cho thấy sự phong phú tương tự như khu hệ thực vật, với 8 bộ, 20 họ và 62 loài thú, cùng 13 bộ và 41 họ chim Nhiều loài động vật tập trung với mật độ cao, cho thấy sự đa dạng sinh học đáng kể của khu vực này.
Trong tổng số 162 loài động vật, lớp lương thê bao gồm 1 bộ, 4 họ và 14 loài, trong khi lớp bò sát có 2 bộ, 14 họ và 28 loài Theo tiêu chuẩn của IUCN, có tới 47 loài động vật quý hiếm, trong đó thú có 22 loài, chim có 4 loài và bò sát chiếm đến 21 loài.
Mặc dù Pù Hu vẫn giữ được nhiều diện tích rừng tự nhiên với các loài cây quý hiếm trong sách đỏ Việt Nam, nhưng việc quy hoạch khu bảo tồn đã khiến người dân khai thác lâm sản như gỗ và động vật để phục vụ nhu cầu sinh hoạt Kể từ khi khu BTTN Pù Hu được thành lập, tình trạng săn bắn và khai thác đã giảm, và người dân chủ yếu thu hái các sản phẩm như mật ong, song mây, sa nhân và lá dong Tuy nhiên, do không có định mức trong quá trình thu hái, các nguồn tài nguyên này đang dần suy giảm.
Trước đây, một số diện tích rừng đã bị tàn phá do đồng bào Mông di cư tự do để làm rẫy Sau khi thực hiện thành công dự án di dân ra khỏi vùng bảo tồn, đa phần diện tích này đã tái sinh trở lại và cần được khoanh nuôi để phục hồi rừng Ngoài ra, những khu vực không có khả năng tái sinh tự nhiên sẽ được đầu tư trồng mới bằng các loài cây bản địa nhằm tái tạo lại rừng.
Chương 3 MỤC TIÊU, ĐỐI TƯỢNG, NỘI DUNG VÀ PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU