Mục tiêu nghiên cứu của luận văn nhằm mô tả một số đặc điểm sinh học, sinh thái và tập tính của Cheo cheo nhỏ ở Khu Bảo tồn thiên nhiên - Văn hóa Đồng Nai. Đánh giá tình trạng quần thể Cheo cheo nhỏ ở Khu Bảo tồn thiên nhiên - Văn hóa Đồng Nai. Xác định các đe dọa trực tiếp đến quần thể Cheo cheo nhỏ ở Khu Bảo tồn thiên nhiên - Văn hóa Đồng Nai và đề xuất một số giải pháp quản lý bảo tồn. Mời các bạn cùng tham khảo!
TỔNG QUAN VẤN ĐỀ NGHIÊN CỨU
Khái quát về họ Cheo cheo Tragulidae
Họ Cheo cheo (Tragulidae) thuộc bộ Thú Móng guốc ngón chẵn (Artiodactyla), lớp Thú (Mammalia), có thân nhỏ và chân mảnh mai với phần thân sau cao hơn phần thân trước Chúng có tuyến dưới cằm lớn và thường xuất hiện các đốm trắng ở cổ và ngực Con cái có 4 vú ở bẹn, trong khi con đực có răng nanh hàm trên dài Công thức răng của chúng là i0/3.c1/1.pm 3/3.m3/3 x 2= 34, với răng nanh hàm dưới giống răng cửa, tạo thành 8 răng cửa Răng trước hàm có cạnh sắc và răng hàm có mấu bán nguyệt đặc trưng của thú nhai lại, với dạ dày có 3 khoang (thiếu khoang lá sách) Cheo cheo hoạt động chủ yếu vào ban đêm và ăn quả cây rụng, sống ở vùng rừng nhiệt đới Châu Á và Châu Phi Họ Cheo cheo có 3 giống và 8 loài (Meijaard et al 2004, Wilson et al 2005).
Hyemoschus có một loài (H aquaticus) phân bố ở châu Phi; giống Moschiola có một loài (M meminna) phân bố ở Xrilanca và Ấn Độ; giống Tragulus có 6 loài phân bố ở Đông Nam Á:
1 Tragulus javanicus (Osbeck, 1765) - phân bố ở Inđônêxia
2 Tragulus kanchil (Raffles, 1821) – phân bố ở Myanma, Brunây, Vân Nam
(Trung Quốc), Lào, Cămpuchia, Inđônêxia, Malaixia, Singapo, Thái Lan và Việt Nam
3 Tragulus napu (F.Cuvier, 1822) – phân bố Myanma, Brunây, Vân Nam
(Trung Quốc), Lào, Cămpuchia, Inđônêxia, Malaixia, Singapo, Thái Lan và Việt Nam
4 Tragulus nigricans (Thomas, 1892) – phân bố ở Philippin
5 Tragulus versicolor (Thomas, 1910) – phân bố ở Việt Nam
6 Tragulus williamsoni (Kloss, 1961) – phân bố Thái Lan
Việt Nam có một giống Tragulus với ba loài chính: Cheo cheo nhỏ (Tragulus kanchil), Cheo cheo lớn (Tragulus napu) và Cheo cheo Việt Nam (Tragulus versicolor).
Hình 1.1 Ba loài Cheo cheo phân bố ở Việt Nam (theo Francis 2008) [21]
(1 - Cheo cheo nhỏ Tragulus kanchil, 2- Cheo cheo Việt Nam
Tragulus versicolor, 3 - Cheo cheo lớn Tragulus napu)
• Cheo cheo nhỏ ( Tragulus kanchil )
Loài này trước đây được xem là phân loài của Cheo cheo nam dương (Tragulus javanicus), nhưng theo nghiên cứu của Meijaard et al (2004), nó đã được nâng lên thành loài độc lập Đây là một loài thú móng guốc nhỏ với chiều dài thân-đầu (HB) từ 33-52 cm, chiều dài đuôi (T) từ 4-10 cm, chiều dài tai (E) từ 2.8-5.1 cm, chiều dài bàn chân sau (HF) từ 8-13.5 cm và khối lượng cơ thể (W) từ 1.5-2.5 kg (Đặng Huy Huỳnh và cs, 2010).
Bộ lông ngắn và mịn với màu sắc chủ yếu là xám hoặc xám đen ở mặt lưng và bụng trắng Dưới cằm có hai vết trắng tạo thành hình chữ V cùng một vệt dọc giữa Tuyến dưới cằm phát triển với kích thước 2 x 1cm Đuôi ngắn có màu xám ở mặt trên và trắng ở mặt dưới Chân mảnh, với hai chân trước thấp hơn hai chân sau.
Cheo cheo là loài động vật có 4 ngón, không có sừng và hàm trên không có răng cửa Con đực sở hữu 2 răng nanh dài, trong khi dạ dày của chúng có 3 ngăn Loài này thường sống ở rừng thường xanh, đặc biệt là ở những khu vực núi đất nguyên sinh hoặc thứ sinh có tầng mặt đất rậm rạp Cheo cheo nhỏ chủ yếu hoạt động vào ban đêm từ 19-23h và sống đơn độc, chỉ ghép đôi trong mùa động dục Chế độ ăn của chúng bao gồm quả cây, cỏ và lá cây Thời gian mang thai kéo dài khoảng 120 ngày, mỗi năm chúng sinh sản một lứa với một con.
Cheo cheo nhỏ, loài động vật có mặt tại các vùng rừng núi từ Lạng Sơn đến Đồng Nai và Tây Ninh, đang đối mặt với nguy cơ tuyệt chủng Tại các tỉnh phía Bắc, loài này gần như đã biến mất, trong khi ở phía Nam, môi trường sống và số lượng giảm mạnh Theo Sách Đỏ Việt Nam 2007, cheo cheo nhỏ được xếp vào danh sách VU (có nguy cơ tuyệt chủng), trong khi theo Danh lục Đỏ IUCN 2011, tình trạng của loài này được đánh giá là LC (ít lo ngại) trên toàn cầu.
• Cheo cheo Việt Nam ( Tragulus versicolor )
Loài Cheo cheo Việt Nam (Tragulus versicolor) được Thomas mô tả vào năm 1910 từ các mẫu vật gần Nha Trang, Khánh Hòa, nhưng nhiều tác giả vẫn coi đây là đồng danh với Cheo cheo lớn (Tragulus napu) Năm 2004, Meijaard và Groves đã xác nhận loài này là độc lập sau khi kiểm tra lại đặc điểm hình thái của các mẫu vật Quan điểm này cũng được Kuznetsov và Borissenko ủng hộ trong nghiên cứu về mẫu vật của loài ở Gia Lai.
Cheo cheo Việt Nam có cơ thể chỉ hơi lớn hơn loài Cheo cheo nhỏ: HB: 40-45 cm, T: 5 cm, HF: 11 cm, W: 1.7 kg (Francis, 2008 [21], Kuznetsov,
Cheo cheo Việt Nam có đặc điểm nổi bật với đầu, cổ và vai màu nâu thẩm, lốm đốm đen, đặc biệt tập trung ở phần trên cổ Mặt trên cổ có dải màu tối hơn, trong khi phần lưng, sườn và 1/4 sau thân có màu xám phớt trắng bạc, còn phần dưới thân màu trắng Ngực và họng có các sọc trắng và nâu đỏ, thường mỗi bên cổ có một dải trắng Điểm khác biệt chính so với loài Cheo cheo nhỏ là màu vàng nâu tươi ở bên cổ và vai, đối lập với màu trắng bạc của phần mông và lưng Cheo cheo Việt Nam sinh sống chủ yếu ở rừng nguyên sinh đất thấp.
Cheo cheo Việt Nam là loài đặc hữu chỉ có tại Việt Nam, hiện chỉ được ghi nhận ở Khánh Hòa và Gia Lai với mật độ rất thấp Việc đánh giá tình trạng của loài này trong tự nhiên cần tiếp tục được khảo sát (Kuznetsov et al 2004) Theo Sách Đỏ Việt Nam (2007), Cheo cheo Việt Nam được xem là đồng danh với loài Cheo cheo lớn.
Tragulus napu và xếp bậc DD (thiếu số liệu), trong Danh lục Đỏ của IUCN
(2011) loài này được xem là loài độc lập và xếp bậc DD do thiếu số liệu về tình trạng quần thể
• Cheo cheo lớn ( Tragulus napu )
Cheo cheo lớn là loài lớn hơn so với hai loài Cheo cheo khác, với chiều dài cơ thể từ 52-57 cm, chiều cao 6-10 cm, chiều dài chân 14-15.7 cm và trọng lượng từ 3.5-4.5 kg (Francis, 2008) Bộ lông của chúng có màu sắc đa dạng, với phần trên thân có lông thô cứng, lốm đốm nâu vàng, nâu xám và đen nhạt Màu lông sẫm hơn ở gần sống lưng và nhạt hơn ở phần bên thân, trong khi phần dưới thân có màu trắng, thường không có sọc nâu Đặc điểm nổi bật là các vệt màu nâu và trắng trên cổ và ngực, với một sọc trắng hình tam giác ở trung tâm Cheo cheo không có sừng và không có tuyến trước ổ mắt, răng nanh dài và thiếu răng cửa trên Loài này sống trong rừng cây cao, hoạt động chủ yếu vào ban đêm và chỉ ghép đôi trong mùa sinh sản, ăn chủ yếu là quả cây rừng, cành và lá Thời gian mang thai từ 152-172 ngày, với mỗi năm chỉ đẻ một lứa, mỗi lứa một con.
Phân bố của Cheo cheo lớn ở Việt Nam hiện vẫn chưa rõ ràng, với mẫu vật chỉ được ghi nhận tại Nha Trang (Khánh Hòa) Loài này có thể xuất hiện ở các tỉnh Quảng Nam, Đà Nẵng, Quảng Ngãi và Phú Yên, nhưng chưa có xác nhận cụ thể Theo Sách Đỏ Việt Nam (2007), Cheo cheo lớn được xếp vào bậc DD do thiếu thông tin.
(2007) và LC – ít lo ngại trong Danh lục Đỏ IUCN (2011).
Lịch sử nghiên cứu thú móng guốc ngón chẵn ở Việt Nam
Lịch sử nghiên cứu động vật học ở Việt Nam có thể chia thành ba giai đoạn chính liên quan đến thú móng guốc ngón chẵn (Artiodactyla) và họ Cheo cheo (Tragulidae): giai đoạn trước năm 1954, giai đoạn từ năm 1954 đến 1975, và giai đoạn từ năm 1975 đến nay.
Nghiên cứu về thú móng guốc ở Việt Nam bắt đầu từ thời kỳ người Pháp đến Đông Dương vào cuối thế kỷ 19 và đầu thế kỷ 20 Trong giai đoạn này, nhiều nhà nghiên cứu và thám hiểm nước ngoài, chủ yếu từ Pháp, Anh và Mỹ, đã tiến hành các nghiên cứu chung cho nhiều nhóm động vật Các nghiên cứu này tập trung vào phân loại học và thu mẫu cho các bảo tàng nổi tiếng như Bảo tàng Lịch sử Tự nhiên Paris và Bảo tàng Lịch sử Tự nhiên Luân Đôn.
Tự nhiên Hoa Kỳ và Bảo tàng Lịch sử Tự nhiên Field, Chicago
Các kết quả điều tra và thu mẫu về Cheo cheo đã được công bố trong nhiều công trình nghiên cứu của các tác giả như Milne-Edwards, Morice, Billet, Butan, De Pousargues, Bonhote, Kloss, Robinson & Kloss, Thomas, Bourret, Osgood và Delacour Tuy nhiên, thông tin liên quan đến Cheo cheo trong các báo cáo và kết quả nghiên cứu ở giai đoạn này vẫn còn rất hạn chế.
Các nhà động vật học nước ngoài đã thu thập nhiều mẫu thú rừng tại Việt Nam trong các đoàn khảo sát tài nguyên thiên nhiên ở Đông Dương Trong giai đoạn này, nhiều loài thú ở Việt Nam đã được ghi nhận qua các công trình của De Pousargues (1904), E Boutan (1906), và W H Osgood (1932), với tổng cộng 172 loài và phân loài được thống kê Các nghiên cứu của J Delacour (1940) và R Bourret (1942, 1944) cũng đã ghi nhận nhiều loài thú móng guốc, trong đó có loài Cheo cheo nhỏ.
Trong giai đoạn hiện tại, nghiên cứu về móng guốc và thú rừng vẫn chỉ ghi nhận sự xuất hiện của chúng tại một số địa điểm cụ thể, mà chưa xác định được vùng phân bố chính xác của các loài này.
Sau chiến thắng Điện Biên Phủ và việc thiết lập hòa bình, miền Bắc đã hoàn toàn giải phóng, dẫn đến nhu cầu khẩn cấp trong việc điều tra tài nguyên, đặc biệt là nguồn tài nguyên sinh vật, nhằm phục hồi và phát triển kinh tế đất nước Các cán bộ Việt Nam đã đảm nhận hoàn toàn công tác này, và nhiều công trình nghiên cứu về khu hệ thú và sinh học sinh thái đã được công bố Một số nghiên cứu tiêu biểu bao gồm các tác phẩm của Đào Văn Tiến (1960 - 1973) và nhóm tác giả Võ Quý, Mai Đình Yên, Lê Hiền Hào, Nguyễn Thạnh (1961).
Trong các năm 1962, 1964, 1969 và 1973, nhiều nghiên cứu quan trọng đã được thực hiện bởi các tác giả như Van Peneen và cộng sự (1969), Lê Hiền Hào cùng Trần Hải (1970, 1971), Đặng Huy Huỳnh và Vũ Đình Tuân (1964), cũng như Đặng Huy Huỳnh, Đỗ Ngọc Quang và Sablina (1964) và Đặng Huy Huỳnh, Cao Văn Sung.
(1965, 1973); Cao Văn Sung, Đào Văn Tiến (1966), Lê Vũ Khôi (1970), Lê
Vũ Khôi, Nguyễn Trác Tiến (1975);…Các công trình nghiên cứu có liên quan đến thú móng guốc không nhiều Công trình của Van Peneen và cộng sự
Năm 1969, một nghiên cứu về động vật có vú ở miền Nam Việt Nam đã ghi nhận 164 loài, trong đó có 13 loài thú móng guốc Ngoài ra, trong công trình "Thú kinh tế miền Bắc Việt Nam, tập I" của Lê Hiền Hào (1973), cũng đã đề cập đến một số loài thú móng guốc.
Giai đoạn năm 1975 đến nay
Sau khi miền Nam giải phóng vào năm 1975, công tác nghiên cứu đa dạng sinh học thú ở Việt Nam đã phát triển mạnh mẽ, mở rộng ra toàn quốc với mục tiêu ứng dụng trong quy hoạch sử dụng tài nguyên và bảo tồn đa dạng sinh học Năm 1985, chính sách đổi mới và mở cửa đã thúc đẩy sự hợp tác với các nước không phải xã hội chủ nghĩa, dẫn đến việc nhiều tổ chức khoa học, cả chính phủ và phi chính phủ, thiết lập văn phòng tại Việt Nam Những tổ chức như WWF, IUCN, FFI, Birdlife International và Trung tâm Nhiệt đới Việt - Nga đã có những đóng góp tích cực vào công tác điều tra động vật hoang dã trong nước.
Nghiên cứu về động vật có vú trong giai đoạn này đã đạt được những kết quả đáng kể với hàng ngàn công trình được công bố cả trong nước và quốc tế Nhiều loài thú mới đã được phát hiện tại Việt Nam, bao gồm Sao la (Pseudoryx nghetinhensis), Mang lớn (Megamuntiacus vuquangensis), Bò sừng xoắn (Pseunovibos spiralis), Mang Trường Sơn (Muntiacus truongsonensis) và Mang pù hoạt.
(Muntiacus puhoatensis), Vượn trung bộ (Nomascus annamensis),
Trong thời gian qua, nhiều công trình nghiên cứu về động vật hoang dã ở miền Bắc Việt Nam đã được thực hiện Đặng Huy Huỳnh và cộng sự (1981) đã xác định có 8 loài thú thuộc 4 họ và 1 bộ thú móng guốc ngón chẵn Đào Văn Tiến (1985) cũng đã thống kê 7 loài thú tương tự Đến năm 1994, Đặng Huy Huỳnh và cộng sự đã cập nhật danh sách lên 15 loài thú móng guốc ngón chẵn trong tập “Danh lục Thú (Mammalia) Việt Nam” Năm 2008, Đặng Ngọc Cần và cộng sự trong công trình "Danh lục các loài thú hoang dã Việt Nam" đã ghi nhận 20 loài thú móng guốc chẵn, trong đó họ Cheo cheo có 2 loài, thiếu loài Cheo cheo napu.
Nghiên cứu về sinh học và sinh thái của các loài thú móng guốc ngón chẵn ở Việt Nam còn hạn chế, trong đó nổi bật là công trình "Sinh học và sinh thái các loài thú móng guốc ở Việt Nam" của Đặng Huy Huỳnh (1986), cung cấp cái nhìn hệ thống về các loài này Ngoài ra, còn có một số nghiên cứu khác đề cập đến các khía cạnh sinh học và sinh thái của chúng.
Luận án PTS của Hoàng Minh Khiên nghiên cứu thành phần loài và đặc điểm sinh học, sinh thái học của nai, cheo cheo và hoẵng tại khu vực Kon Hà Nừng Nghiên cứu này nhằm cung cấp cái nhìn sâu sắc về sự đa dạng sinh học cũng như các yếu tố ảnh hưởng đến môi trường sống của các loài động vật này.
- "Các loài thú Việt Nam" của Kuznetsov (2006) (Tiếng Nga)
- "Động vật chí Việt Nam, tập 25: Lớp Thú – Mammalia" của Đặng Huy Huỳnh và cs (2008) [7]
- "Thú rừng – Mammalia Việt Nam: Hình thái và sinh học sinh thái một số loài, Tập 2" của Đặng Huy Huỳnh và cs (2010) [6]
Tóm lại, Lịch sử nghiên cứu thú móng guốc ngón chẵn nói chung và họ
Cheo cheo, một loài động vật đặc trưng ở Việt Nam, đã xuất hiện từ cuối thế kỷ 19 Mặc dù có nhiều nghiên cứu được thực hiện để xác định thành phần loài và tình trạng quần thể nhằm mục đích bảo tồn, nhưng các nghiên cứu về sinh học và sinh thái của loài này vẫn còn rất hạn chế.
• Tình hình nghiên cứu thú móng guốc ngón chẵn và Cheo cheo ở KBTTN-VH Đồng Nai
Khu hệ thú móng guốc ngón chẵn tại Khu Bảo tồn Thiên nhiên - Văn hóa Đông Nai, đặc biệt là quần thể Cheo cheo nhỏ, vẫn chưa được nghiên cứu nhiều Một số khảo sát về đa dạng sinh học đã ghi nhận sự phân bố của các loài thú móng guốc trong khu vực Các nghiên cứu trước đây của Đặng Huy Huỳnh (1986), Trần Văn Đức và cộng sự (1991), cùng Nguyễn Xuân Đặng (2001) đã xác định có 7 loài thú móng guốc tại KBT, bao gồm Lợn rừng (Sus scrofa), Nai (Rusa unicolor), Hoẵng (Muntiacus muntjak), Cheo cheo (Tragulus kanchil), Bò tót (Bos frontalis), Bò rừng (Bos javanicus) và một loài tạm thời là Hươu vàng (Axis porcinus).
MỤC TIÊU, ĐỐI TƯỢNG, NỘI DUNG VÀ PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU
Mục tiêu của đề tài
Mục tiêu nghiên cứu của đề tài được đặt ra là:
- Mô tả một số đặc điểm sinh học, sinh thái và tập tính của Cheo cheo nhỏ ở KBTTN -VH Đồng Nai
- Đánh giá tình trạng quần thể Cheo cheo nhỏ ở KBTTN-VH Đồng Nai
- Xác định các đe dọa trực tiếp đến quần thể Cheo cheo nhỏ ở KBTTN-VH Đồng Nai và đề xuất một số giải pháp quản lý bảo tồn
Đối tượng nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu là quần thể Cheo cheo nhỏ ( Tragulus kanchil ) trong điều kiện tự nhiên và điều kiện nuôi ở KBTTN-VH Đồng Nai.
Nội dung nghiên cứu
2.3.1 Một số đặc điểm sinh học, sinh thái và tập tính của Cheo cheo nhỏ trong điều kiện KBTTN-VH Đồng Nai
• Đặc điểm hình thái cơ thể
- Hình thái ngoài, màu lông, các số đo cơ thể,
- Lượng thức ăn tiêu thụ trong ngày-đêm
- Tuổi thành thục sinh sản
- Mùa sinh sản (tháng nào trong năm)
- Động dục, biểu hiện động dục, giao phối
- Số lứa đẻ trong năm, số con trong mỗi lứa đẻ
- Tuổi bú sữa, tuổi bắt đầu tự ăn ngoài và tuổi bắt đầu sống độc lập
- Khối lượng và dài thân theo lứa tuổi
- Các dạng tập tính hoạt động chính (kiếm ăn, vận động, nghỉ, ngủ, )
- Chu kỳ hoạt động ngày-đêm
2.3.2 Một số đặc điểm sinh thái của quần thể Cheo cheo nhỏ ở KBTTN-VH Đồng Nai
- Vùng phân bố của Cheo cheo
- Đặc điểm sinh cảnh của Cheo cheo
2.3.3 Các đe dọa đối với quần thể Cheo cheo nhỏ ở KBTTN-VH Đồng Nai
- Săn bắn, bẫy bắt (mục đích, mức độ)
- Phá hoại sinh cảnh (kể cả các điểm khoáng)
2.3.4 Đề xuất một số giải pháp quản lý bảo tồn Cheo cheo nhỏ
Phương pháp nghiên cứu
2.4.1 Tham khảo chọn lọc và phân tích các tài liệu liên quan
Các tài liệu trong và ngoài nước, bao gồm báo cáo điều tra, luận án và tài liệu khoa học đã công bố, được thu thập để tham khảo cho nghiên cứu Tất cả thông tin và kết quả nghiên cứu về thú, đặc biệt là Cheo cheo nhỏ tại Khu Bảo tồn Thiên nhiên Văn hóa Đồng Nai, sẽ được thu thập, phân tích và đánh giá để sử dụng trong luận văn Danh sách các tài liệu đã thu thập và tham khảo được nêu trong phần Tài liệu tham khảo của Luận văn.
2.4.2 Theo dõi đàn Cheo cheo nhỏ tại khu nuôi của KBTTN-VH Đồng Nai
• Điều kiện nuôi và đàn Cheo cheo nhỏ nuôi tại KBTTN Đồng Nai:
Từ năm 2009, Cheo cheo nhỏ đã được nhân nuôi tại Trung tâm cứu hộ Động vật hoang dã thuộc KBTTN-VH Đồng Nai, với số lượng cá thể dao động từ 32 đến 44 Chúng được nuôi trong môi trường bán hoang dã trên diện tích hơn 500m², dưới tán rừng tự nhiên phục hồi với nhiều cây nhỏ và bóng râm Chuồng nuôi được bao bọc bằng lưới B40 và khung sắt chắc chắn, đồng thời được trang bị 10 hốc cây rỗng và những nhà nhỏ để làm chỗ trú ngụ cho Cheo cheo Để đảm bảo nguồn nước uống, chuồng nuôi cũng có các máng nước được lắp đặt.
Tại Trung tâm cứu hộ, ba nhân viên thường xuyên chăm sóc các loài động vật, trong đó có Cheo cheo Cheo cheo được cho ăn hàng ngày vào khoảng 15 giờ, với chế độ dinh dưỡng chủ yếu là rau và quả Để đảm bảo sức khỏe và sự phát triển tốt, trong chuồng nuôi Cheo cheo luôn có sáu cục muối khoáng, mỗi cục nặng 5kg, cung cấp thêm khoáng chất cần thiết cho chúng.
Nơi cho Cheo cheo ăn được dọn vệ sinh hàng ngày, đảm bảo thức ăn thừa được loại bỏ trước khi cho ăn tiếp Máng nước được thay mới hàng tuần, và nước uống được pha thêm muối hột để cung cấp khoáng chất và giảm vi khuẩn có hại Các cục khoáng sẽ được bổ sung khi cần thiết Chuồng Cheo cheo được thu dọn định kỳ mỗi tháng để giảm lượng lá, cành khô và phân thải ra.
Sau hơn 2 năm nuôi bán hoang dã, chưa phát hiện bệnh tật nào ở Cheo cheo Nguyên nhân chính dẫn đến cái chết của Cheo cheo chủ yếu là do đánh nhau Việc theo dõi sức khỏe của Cheo cheo được thực hiện thường xuyên bởi bác sĩ thú y.
• Nghiên cứu đặc điểm hình thái
Trong nghiên cứu này, chúng tôi tiến hành quan sát và đo đếm kích thước của 15 cá thể Cheo cheo, bao gồm 3 cá thể cái trưởng thành, 3 cá thể đực trưởng thành, 3 cá thể gần trưởng thành, 3 cá thể 2-3 tháng tuổi và 3 cá thể mới sinh Số lượng cá thể mẫu hạn chế do Cheo cheo là loài nhút nhát, dễ bị hoảng sợ và tác động bất lợi Chúng tôi sử dụng cân để xác định trọng lượng và thước dây cùng compa để đo kích thước cơ thể của từng cá thể.
• Nghiên cứu đặc điểm dinh dưỡng
Để xác định thành phần thức ăn của Cheo cheo trong điều kiện nuôi, cần tiến hành cho ăn thử nhiều loại thức ăn và ghi nhận mức độ ưa thích của từng loại Để tính toán lượng thức ăn tiêu thụ trong một ngày, cần cân lượng thức ăn cho ăn và lượng thức ăn thừa Từ đó, lượng thức ăn tiêu thụ của một cá thể Cheo cheo được xác định bằng hiệu số lượng thức ăn cho ăn và lượng thức ăn thừa, chia cho tổng số cá thể Ngoài ra, cũng có thể tính lượng thức ăn tiêu thụ trên 1kg trọng lượng cơ thể Cheo cheo bằng cách chia hiệu số lượng thức ăn cho ăn và lượng thức ăn thừa cho tổng trọng lượng các cá thể Cheo cheo.
• Nghiên cứu tập tính hoạt động của Cheo cheo
Trong quá trình nghiên cứu, chúng tôi đã tiến hành quan sát các cá thể Cheo cheo nuôi trong nhiều ngày liên tục theo từng mùa Kết quả ghi nhận cho phép chúng tôi tổng hợp các tập tính hoạt động chủ yếu của loài này và tính trung bình từng tập tính theo từng mùa.
2.4.3 Khảo sát thực địa tại KBTTN-VH Đồng Nai
Nghiên cứu khảo sát thực địa được thực hiện tại Khu Bảo tồn Thiên nhiên-Văn hóa Đồng Nai, với sự tài trợ của Quỹ Bảo tồn Rừng đặc dụng Việt Nam (VCF) Dự án nhằm giám sát, đánh giá và bảo tồn các loài động vật hoang dã nguy cấp, quý hiếm, cũng như các loài chỉ thị sinh cảnh và môi trường, đồng thời khuyến khích sự tham gia của người dân địa phương.
Khảo sát được tiến hành từ tháng 4/2010 đến tháng 4/2011 Trong quá trình khảo sát, chúng tôi áp dụng các phương pháp nghiên cứu sau:
• Khảo sát theo tuyến để xác định vùng phân bố và các đe dọa với loài
Để tiến hành điều tra, sử dụng các tuyến đường có sẵn hoặc cắt rừng với chiều dài từ 3-10 km Trong quá trình khảo sát, cần chú ý quan sát hai bên tuyến để phát hiện Cheo cheo cùng các dấu vết như dấu chân và phân, đồng thời ghi chép vào phiếu điều tra đã chuẩn bị Ngoài ra, cũng cần ghi nhận các tác động của con người như săn bắt, chăn thả gia súc và phá rừng Tổng cộng có 9 tuyến khảo sát được thực hiện, với tổng chiều dài khoảng 41.7 km.
Hình 2.1 Phân bố tuyến điều tra Cheo cheo nhỏ
Để khảo sát độ phong phú của Cheo cheo, chúng tôi thực hiện việc xác định thông qua chỉ số phong phú của dấu chân và bãi phân của chúng tại các khu vực từng phát hiện Cheo cheo cư trú Các ô mẫu được điều tra có kích thước 50m x 50m, trong đó mô tả tóm tắt đặc điểm của mỗi ô bao gồm vị trí, tọa độ, nền đất, và các đặc điểm thảm thực vật như loài ưu thế, độ đa dạng loài, độ rậm rạp, cùng độ che phủ tán rừng.
Trong mỗi ô lớn, cần lập 25 ô nhỏ, mỗi ô có diện tích 100m² để tiến hành điều tra Cheo cheo Khảo sát tìm kiếm dấu vết của Cheo cheo nhỏ, như phân và dấu chân, trong các ô nhỏ đã lập Khi phát hiện dấu chân, cần xác định độ tuổi của dấu chân theo các cấp: dưới 30 ngày (M) và trên 30 ngày (C); đồng thời đo kích thước dài và rộng của dấu chân để phân biệt giữa cá thể trưởng thành và cá thể non Tương tự, khi phát hiện phân Cheo cheo, cũng cần xác định độ tuổi của phân theo các cấp: dưới 30 ngày là mới (M) và trên 30 ngày là cũ (C).
Tổng số có 12 ô điều tra giám sát Cheo cheo được thiết lập: khu vực
Mã Đà bao gồm 4 ô, trong đó có khu vực Hiếu Liêm 4 ô và khu vực Vĩnh An 4 ô Thông tin chi tiết về các ô này được trình bày trong phụ lục 05, với vị trí cụ thể được thể hiện trên Hình 2.2.
Mật độ dấu chân Cheo cheo (Dc) được xác định bằng cách lấy tổng số dấu chân Cheo cheo phát hiện trên tất cả các ô (C) chia cho tổng diện tích các ô mẫu đã khảo sát (So) Công thức tính mật độ là Dc = C / So (dấu chân/ha).
Mật độ các bãi phân của Cheo cheo (Dp) được xác định bằng cách chia tổng số bãi phân Cheo cheo phát hiện (ΣP) cho tổng diện tích các ô mẫu đã khảo sát (ΣSo) Công thức tính mật độ là: Dp = ΣP / ΣSo (bãi phân/ha).
Hình 2.2 Vị trí các ô điều tra Cheo cheo nhỏ tại KBTTN-VH Đồng Nai
ĐIỀU KIỆN TỰ NHIÊN, KINH TẾ XÃ HỘI KBTTN-VH ĐỒNG NAI
Điều kiện tự nhiên
KBT nằm ở phía Bắc sông Đồng Nai, giáp tỉnh Bình Dương ở phía Tây và tỉnh Bình Phước ở phía Bắc Khoảng cách từ KBT đến thành phố Hồ Chí Minh là 80 km và đến thành phố Biên Hòa khoảng 40 km KBT bao gồm các xã Phú Lý, Mã Đà, Hiếu Liêm, thị trấn Vĩnh An (huyện Vĩnh Cửu), xã Thanh Sơn (huyện Tân Phú), các xã Phú Cường, Phú Ngọc, La Ngà, Ngọc Định (huyện Định Quán), xã Thanh Bình (huyện Trảng Bom) và xã Gia Tân (huyện Thống Nhất) thuộc tỉnh Đồng Nai Tọa độ của KBT là 11°08'55" - 11°51'30"B và 106°90'73" - 107°23'74"Đ.
KBT chủ yếu nằm trên địa hình đồi với ba cấp độ cao: đồi thấp, đồi trung bình và đồi cao Độ cao của khu vực này giảm dần từ Bắc vào Nam và nghiêng từ Đông sang Tây, với độ cao lớn nhất đạt 368m, thấp nhất là 20m và bình quân khoảng 100m.
120m Độ dốc lớn nhất: 35 o , độ dốc bình quân: 8 o - 10 o
Khí hậu tại Đồng Nai, đặc biệt là huyện Vĩnh Cửu, thuộc vùng khí hậu nhiệt đới gió mùa cận xích đạo, có hai mùa rõ rệt và nhiệt độ cao quanh năm Điều này tạo điều kiện thuận lợi cho sự sinh trưởng và phát triển của động thực vật.
Vĩnh Cửu, nằm ở vĩ độ thấp, nhận được nhiều năng lượng bức xạ mặt trời và ít bị ảnh hưởng bởi gió mùa phương Bắc, dẫn đến nhiệt độ không khí trung bình quanh năm cao, dao động từ 25-27°C Chênh lệch nhiệt độ giữa tháng nóng nhất và tháng lạnh nhất chỉ khoảng 4.2°C, với nhiệt độ trung bình tối cao các tháng từ 29-35°C và nhiệt độ tối thấp trung bình trong năm từ 18-25°C Tổng tích ôn ở đây tương đối cao, từ 9000-9700°C, và phân bố đều theo mùa vụ, tạo điều kiện thuận lợi cho việc sản xuất cây trồng quanh năm Độ ẩm tương đối đạt 80-82%, cùng với việc ít có gió bão và sương muối, Vĩnh Cửu trở thành vùng đất lý tưởng cho nông nghiệp.
Vĩnh Cửu có lượng mưa cao, dao động từ 2000 đến 2800mm, với sự phân hoá theo mùa rõ rệt Điều này dẫn đến sự hình thành hai mùa trái ngược: mùa mưa và mùa khô.
Mùa khô tại khu vực này kéo dài từ tháng 11 đến tháng 4 năm sau, với lượng mưa chỉ chiếm 10-15% tổng lượng mưa hàng năm Trong khi đó, lượng bốc hơi lại rất cao, chiếm khoảng 64-67% tổng bốc hơi cả năm Tháng 2 là tháng có lượng mưa ít nhất trong mùa khô.
Mùa mưa kéo dài từ tháng 5 đến tháng 10, với lượng mưa tập trung chiếm 90% tổng lượng mưa cả năm Trong bốn tháng mưa lớn nhất, lượng mưa đạt từ 62-63% tổng lượng năm Tháng 9 là tháng có lượng mưa cao nhất, trong khi đó, lượng bốc hơi và nhiệt độ lại thấp hơn so với mùa khô.
Hình 3.1 Bản đồ quy hoạch KBTTN-VH Đồng Nai
(Nguồn: Ban quản lý KBTTN-VH Đồng Nai)
Hệ thống thủy văn của KBT bao gồm hệ thống các hồ lớn như hồ Trị An
Khu vực bao gồm hồ Bà Hào (415 ha), hệ thống sông, suối như sông Bé, sông Mã Đà, suối Dakin, suối Sa Mách, suối Linh, suối Bà Hào, suối Ràng, suối Cây Sung và các bàu sình như Bàu Điền, bàu Sắn, bàu Mai, bàu Ếch, với tổng diện tích lên đến 32.400 ha Chế độ thuỷ văn trong khu vực có sự phân hoá theo mùa.
Trong mùa khô, dòng chảy của sông Đồng Nai giảm xuống mức thấp, dẫn đến khả năng cung cấp nước bị hạn chế và gây ra tình trạng thiếu nước ở một số khu vực.
- Mùa mưa, thường xuất hiện lũ, nước trên sông Đồng Nai lớn, có năm gây hiện tượng ngập úng ở khu vực địa hình thấp
Khu vực này có sự đa dạng về đá mẹ và mẫu chất, tạo nên quỹ đất phong phú Theo tài liệu địa chất khoáng sản Đông Nam Bộ (ĐNB) của Nguyễn Đức Thắng (1986), trong khu bảo tồn (KBT) có nhiều nhóm và loại đất chính.
Nhóm đất đen được hình thành từ sản phẩm phong hóa của đá bazan, với tầng đất hữu hiệu thường mỏng và lẫn nhiều kết von hoặc mảnh đá Bề mặt đất có nhiều tảng đá lộ đầu lớn, gây khó khăn cho sản xuất nông nghiệp và giao thông Đất có thành phần cơ giới nặng, từ thịt trung bình đến thịt nặng, với hàm lượng sét vật lý khoảng 40-50% Chất lượng đất tương đối cao, giàu lân, chất hữu cơ và đạm, nhưng lại nghèo kali và lân dễ tiêu Trong khu vực bảo tồn thiên nhiên, có loại đất nâu thẫm trên bazan (Ru) phân bố diện tích nhỏ tại TK 13A (xã Phú Lý).
Nhóm đất xám được hình thành chủ yếu trên phù sa cổ và một phần từ đá phiến sét, thường phân bố trên địa hình đồi Đất có kết cấu nhẹ với khoảng 34-36% hàm lượng sét vật lý, có khả năng thoát nước tốt nhưng độ chua cao và độ phì nhiêu tương đối kém Hàm lượng mùn, đạm, lân và kali trong đất thấp Trong khu bảo tồn, đất xám gley (Xg) tập trung chủ yếu tại khu vực Bà Hào thuộc các TK105, 108, 110, 114.
Nhóm đất đỏ chủ yếu hình thành từ đá bazan, phù sa cổ và đá phiến sét, trong đó đất đỏ trên bazan được coi là loại đất chất lượng tốt nhất ở vùng đồi núi Việt Nam Trong khu vực Bảo tồn thiên nhiên, có ba loại đất thuộc nhóm này: đất nâu vàng trên phù sa cổ (Fp) chiếm diện tích lớn nhất, tập trung ở xã Mã Đà và Hiếu Liêm; đất đỏ vàng trên phiến sét (Fs) phân bố ở phía Nam xã Phú Lý và Hiếu Liêm; và đất nâu đỏ trên bazan (Fk) chủ yếu nằm ở phía Bắc xã Phú Lý, ĐakLua.
• Hệ thực vật và động vật hoang dã
Theo điều tra của Phân viện Điều tra quy hoạch rừng Nam bộ, Viện Sinh thái và Tài nguyên Sinh vật, cùng với Viện Nghiên cứu - Nuôi trồng Thủy sản II (2007-2009), tài nguyên động thực vật tại Khu Bảo tồn (KBT) rất phong phú về chủng loại và số lượng cá thể.
Việt Nam có 1401 loài thực vật, phân chia thành 623 chi, 156 họ, 92 bộ, 10 lớp và 06 ngành khác nhau Trong số này, có 10 loài nằm trong Danh sách các loài nguy cấp, quý hiếm theo Nghị định số 32/2006/NĐ-CP; 30 loài được ghi trong Sách Đỏ Thực vật Việt Nam (2007); 41 loài có tên trong danh mục quý hiếm của Sách Đỏ IUCN (2009) Đặc biệt, 84 loài thực vật là đặc hữu của Việt Nam, trong đó 18 loài mang tên địa danh của tỉnh Đồng Nai Ngoài ra, KBT còn phát hiện 02 loài hiếm là Vấp thuộc họ Bứa và Thông tre thuộc họ Kim giao, cùng với 715 loài cây dược liệu.
Có 1729 loài động vật, côn trùng hoang dã thuộc 238 họ, 52 bộ động vật, côn trùng sống tại KBT, cụ thể:
- Lớp Thú: có 85 loài thuộc 27 họ, 10 bộ Trong đó có 36 loài quý hiếm, đặc hữu của Việt Nam và khu vực Đông Nam Á như Bò tót, Bò bangten,
Điều kiện kinh tế - xã hội
• Dân số, dân tộc và phân bố dân cư
KBTTN-VH Đồng Nai thuộc địa phần của 3 xã Mã Đà, Hiếu Liêm và Phú
Theo số liệu điều tra năm 2009, dân cư sinh sống trong khu vực gồ m 5798 hộ, 26690 khẩu (Bảng 3.1)
Bảng 3.1 Dân cư và thành phần dân tộc trong KBTTN-VH Đồng Nai
Dân tộc Xã Mã Đà Xã HiềuLiêm Xã Phú Lý Tổng
Hộ Khẩu Hộ Khẩu Hộ Khẩu Hộ Khẩu % hộ
Ghi chú: Nguồn số liệu (Ban quản lý KBTTN-VH Đồng Nai)
Trong KBT, chỉ có dân tộc Chơ Ro là dân bản địa cư trú lâu đời tại xã Phú Lý, trong khi các dân cư khác đến từ nhiều địa phương khác nhau trên cả nước Họ đã sinh sống tại đây qua các thời kỳ với nhiều hình thức khác nhau, bao gồm di dân tự do và lao động dọn lòng hồ Trị.
Cán bộ công nhân viên lâm trường và công nhân xây dựng thủy điện Trị An đã nghỉ hưu hoặc theo các chế độ khác để lập nghiệp, cùng với Việt kiều Campuchia hồi hương và dân khai phá từ các tỉnh miền Bắc và miền Trung, đã tạo nên một cộng đồng dân cư đa dạng và mang đậm nét văn hóa đặc trưng tại vùng kinh tế mới của tỉnh Đồng Nai.
Tổng số lao động trong độ tuổi lao động tại khu vực này là 14.673 người, trong đó hơn 95% làm việc trong ngành nông lâm nghiệp Số lao động còn lại chủ yếu hoạt động trong lĩnh vực thương mại, dịch vụ và các ngành nghề khác Về trình độ văn hóa, phần lớn lao động có trình độ tiểu học hoặc trung học cơ sở, một số ít có trình độ trung học phổ thông, và hầu hết không được đào tạo chuyên môn kỹ thuật, chủ yếu làm việc trong các công việc chân tay.
Đời sống kinh tế của người dân ở đây gặp nhiều khó khăn do trình độ dân trí thấp và điều kiện văn hóa, thông tin hạn chế Nghề nghiệp chủ yếu là nông nghiệp với kỹ thuật canh tác chưa cao và sản lượng thu hoạch phụ thuộc nhiều vào thiên nhiên, dẫn đến đời sống bấp bênh.
Hệ thống canh tác nông nghiệp trong vùng đang chuyển dịch từ hình thức canh tác rẫy thuần túy truyền thống sang mô hình nông lâm kết hợp Sự chuyển đổi này bao gồm việc chuyển từ sản xuất độc canh sang xen canh, kết hợp giữa các loại cây ngắn ngày và cây dài ngày, cũng như giữa cây lương thực và cây ăn trái.
Công tác nuôi trồng thủy sản tại hồ Trị An đóng vai trò quan trọng trong việc nâng cao năng suất sản lượng Hàng năm, việc thả cá giống bổ sung không chỉ giúp nuôi đại trà mà còn góp phần thanh lọc nguồn nước, giảm thiểu ô nhiễm.
Trên lòng hồ, có khoảng 699 bè nuôi cá của ngư dân với các loại cá như cá Lóc, Diêu hồng và Chép Năng suất bình quân đạt từ 45 đến 60 kg/m³, với tổng sản lượng hàng năm khoảng 700 tấn.
Nghề nuôi cá bè đã mang lại thu nhập lớn cho người dân, nhưng việc neo đậu tập trung và thiếu quy hoạch đã dẫn đến ô nhiễm cục bộ và dịch bệnh lây lan nhanh, gây thiệt hại cho kinh tế hộ nuôi Khai thác cá giống và cá chưa đủ kích thước đã ảnh hưởng tiêu cực đến nguồn lợi thủy sản của hồ Đặc biệt, việc nuôi các giống, loài thủy sản lạ cần được kiểm soát nghiêm ngặt để tránh phát tán ra môi trường tự nhiên.
Việc thành lập KBT và quy hoạch rừng đặc dụng tại những khu vực trước đây có đất sản xuất nông lâm nghiệp đã tác động lớn đến việc làm và thu nhập của người dân địa phương Do đó, điều này sẽ gián tiếp ảnh hưởng đến công tác quản lý và bảo vệ rừng của KBT.
Các ngành nghề phi nông nghiệp, tiểu thủ công nghiệp và thương mại chủ yếu tập trung tại khu trung tâm các xã nhưng chưa phát triển mạnh Hiện tại, nền sản xuất hàng hóa trong vùng còn yếu, dẫn đến khả năng tiêu thụ và giao lưu sản phẩm hạn chế Sức mua bán chỉ dừng lại ở các sản phẩm phục vụ nhu cầu thiết yếu hàng ngày và sản xuất Trong khu vực, có một xưởng chế biến lâm sản ngoài gỗ tại xã Phú Lý.