Tổng quan về vấn đề nghiên cứu
Trên thế giới
1.1.1 Những nghiên cứu về lập địa và phân chia điều kiện lập địa
Lập địa nguyên tiếng Đức là "Standort", được cấu thành từ hai từ "Stand" (trạng thái, hoàn cảnh) và "Ort" (địa phương) Do đó, Standort mang nghĩa là hoàn cảnh tự nhiên tại một địa phương cụ thể Từ này được các nhà khoa học Trung Quốc dịch là Li-Ti, trong khi Việt Nam sử dụng theo nguyên âm Hán - Việt là lập địa Tương ứng, trong tiếng Anh, từ này là "Site" và trong tiếng Pháp là "Station".
Theo các nhà lập địa Đức, lập địa được hiểu là một phạm vi địa hình với các yếu tố ngoại cảnh ảnh hưởng đến sự sinh trưởng của cây cối Ở Liên Xô cũ, lập địa là các điều kiện nơi sinh trưởng rừng, tạo nên các kiểu rừng nhất định và ảnh hưởng đến sức sinh trưởng của chúng Hills (1955) định nghĩa lập địa là phức hợp hoàn cảnh của khí hậu, địa hình, nền vật chất tạo đất, đất, nước ngầm, cùng với cộng đồng động thực vật và con người Năm 1971, W Schwanecker đã phát triển thêm dựa trên thuyết lâm hình của Sucasep (1958).
[51] đã đưa ra các yếu tố hình thành lập địa (bảng 1.1)
Bảng 1.1 Các yếu tố hình thành lập địa (W.Schwanecker, 1958)
Sinh địa quần thể nhân tác
Khí hậu Sinh thái cảnh
(lập địa theo nghĩa hẹp) Sinh địa quần thể tự nhiên (lập địa theo nghĩa rộng) Địa hình Đất
Thế giới vi sinh vật
Các yếu tố nhân tác:
Khái niệm lập địa xuất phát từ sinh thái phát sinh, thể hiện tính chất khu vực và không gian của một lãnh thổ, bắt đầu từ toàn cầu và thu hẹp dần đến những khoảnh nhỏ bé.
Xác định lập địa là quá trình nhận diện các yếu tố ngoại cảnh có ảnh hưởng lớn đến sự hình thành các kiểu quần hệ thực vật, bao gồm quần thể tự nhiên và thứ sinh, cũng như năng suất sinh trưởng của chúng.
Các nhà lâm nghiệp Đức như Krutch, Pleil, Ramann và Valter đã nghiên cứu mối quan hệ giữa sinh trưởng của thực vật rừng và các yếu tố môi trường như khí hậu, địa hình và đất, mà không chú ý nhiều đến yếu tố địa lý Phương pháp này được gọi là phương pháp phân kiểu lập địa và sau này vẫn được John R Fones áp dụng vào năm 1969.
Sang thế kỷ 20 phương pháp phân vùng lập địa của Krauss (1825, 1835,
Năm 1935 và 1954, nghiên cứu về mối quan hệ giữa thực vật rừng và lập địa được phát triển trong một không gian cụ thể, bao gồm việc mô tả, phân tích, hệ thống hóa và vẽ bản đồ cho từng lập địa riêng lẻ.
Ngành lâm nghiệp Đức đã phát triển một phương pháp điều tra lập địa tổng hợp bằng cách kết hợp hai phương pháp trước đó, dẫn đến kết quả điều tra lập địa lâm nghiệp ở vùng đồng bằng và trung du Cộng hòa Dân chủ Đức cũ, tương đồng với nghiên cứu phân vùng lập địa nông nghiệp của Schmidt và Dietmann năm 1974 Các giáo sư H.I Friedler, W.H Neber và W Hunger (1982) đã tổng hợp kinh nghiệm điều tra lập địa trong và ngoài nước, biên soạn “Giáo trình điều tra lập địa chú ý tới vùng nhiệt đới”, trong đó giới thiệu các đơn vị lập địa cơ bản như vùng sinh trưởng, khu sinh trưởng, phạm vi bức khảm và dạng lập địa, đồng thời so sánh với các đơn vị khí hậu và cảnh quan cụ thể.
Dựa trên học thuyết Docuchaep, Nga và Liên Xô (cũ) đã phát triển nhiều kiểu phân chia tự nhiên nhằm phục vụ cho sản xuất nông - lâm nghiệp, đặc biệt trong lĩnh vực lâm nghiệp.
Sucasep cho rằng kiểu rừng chỉ có thể phân loại ở những khu vực có rừng, trong khi những nơi không có rừng cần xác định kiểu điều kiện lập địa Điều kiện lập địa là tập hợp các khu đất có khả năng xuất hiện thực vật giống nhau, dựa trên các yếu tố tự nhiên như khí hậu và đất đai Cùng thời điểm đó, Pronhepnhiac, một chuyên gia trong lĩnh vực trồng rừng, đã phát triển một phương pháp xác định lập địa phục vụ cho việc trồng rừng, phương pháp này đã được áp dụng rộng rãi tại Ucraina.
Năm 1955, dựa trên hai yếu tố chính là độ phì và độ ẩm có sự tham gia của thực vật chỉ thị, ông đã phân chia độ phì thành bốn nhóm, mỗi nhóm tương ứng với một kiểu rừng nhất định Độ ẩm của đất được chia thành sáu cấp độ, từ khô đến đầm lầy Sự kết hợp giữa độ ẩm và độ phì dưới một điều kiện khí hậu cụ thể tạo ra các đơn vị lập địa.
Một hướng phân loại lập địa quan trọng được thực hiện bởi các nhà khoa học Blaglovidop, Buakep (1958, 1959) và Trectov (1977, 1981), trong đó Blaglovidop và Buakep nhấn mạnh rằng đặc điểm quần hệ thực vật rừng phụ thuộc vào các yếu tố khí hậu, đá mẹ hình thành đất, địa hình và mức độ thoát nước Trectov (trích dẫn từ Đỗ Đình Sâm, 1990) cho rằng ba yếu tố này phản ánh tiềm năng sản xuất của lập địa và ảnh hưởng tổng hợp thông qua sự hình thành các kiểu mùn của đất rừng, với mỗi kiểu mùn biểu thị đặc điểm của ba yếu tố trên Tại Trung Quốc, khái niệm lập địa được du nhập từ những năm 1950 nhưng phát triển chậm, chỉ đến những năm 90 của thế kỷ 20 mới có sự tiến triển đáng kể.
Vào năm 1993, Dương Kế Cảo đã tiến hành một nghiên cứu quan trọng về phương pháp điều tra và phân vùng lập địa tại Thái Hàng Sơn, một khu vực rộng lớn 100.000 km² ở Đông Bắc Trung Quốc Nghiên cứu này áp dụng sáu cấp phân vị, bao gồm: cấp khu lập địa, cấp á khu lập địa dựa trên khí hậu và tham khảo địa mạo cùng thực vật, tiểu khu lập địa phân chia theo địa mạo và nham, nhóm kiểu lập địa dựa trên độ cao, hướng dốc và độ dốc, kiểu lập địa phân chia theo độ dày và chất đất, và kiểu phụ lập địa dựa trên độ dày của tầng đất mặt.
≥ 15cm), độ pH (pH < 6,5; pH: 6,5 ÷ 7,5; pH > 7,5) mức nước ngầm (nông < 0,5m; trung bình: 0,5m ÷ 1,5m; sâu > 1,5m)
Một số nghiên cứu quốc tế về lập địa đã được thực hiện trên diện tích hẹp, nhằm đề xuất các tập đoàn cây trồng, như nghiên cứu của Petec.R.Stevens (1986) Tại Úc, các nhà nghiên cứu cũng đã đánh giá độ thích hợp của một loài cây cụ thể trên một lập địa nhất định (Nguyễn Văn Khánh, 1996) [22].
1.1.2 Một số đặc điểm cơ bản của vùng nước lợ
Nước lợ là loại nước có độ mặn cao hơn nước ngọt nhưng thấp hơn nước mặn, thường hình thành từ sự pha trộn giữa nước ngọt và nước biển, đặc biệt tại các vùng cửa sông Ngoài ra, nước lợ cũng có thể xuất hiện từ các bể nước ngầm bị ảnh hưởng bởi hóa thạch lợ Hàm lượng muối trong nước lợ dao động từ 0,5 đến 30 g/lít, tương đương với 0,5 đến 30 phần nghìn (ppt).
Độ mặn của nước lợ không cố định và thay đổi theo không gian và thời gian Toàn bộ vùng cửa sông Hồng của Việt Nam được coi là môi trường nước lợ với độ mặn dao động từ 9.2 đến 26.7‰.
Trong nước
1.2.1 Những nghiên cứu về lập địa và phân chia điều kiện lập địa
Các nghiên cứu đầu tiên về lập địa tại Việt Nam bao gồm công trình "Bước đầu nghiên cứu rừng miền Bắc Việt Nam" của Trần Ngũ Phương, mặc dù chủ yếu phân loại rừng theo sinh thái, nhưng đã đề cập đến mối liên hệ giữa đất đai và trạng thái rừng Tiếp theo, công trình "Thảm thực vật rừng Việt Nam" của Thái Văn Trừng đã mở rộng khái niệm lập địa bằng cách xem xét các yếu tố khí hậu, địa hình, thổ nhưỡng cùng với yếu tố thực vật và nhân tác, từ đó định nghĩa lập địa là sinh địa quần thể nhân tác Đến cuối thập niên 60, nghiên cứu lập địa đã được ngành Lâm nghiệp công nhận nhằm xác định loại hình thực vật và cây trồng phù hợp, dựa trên phương pháp điều tra lập địa tổng hợp của Đức, tuy nhiên, các điều kiện lập địa ở vùng ngập mặn ven biển và cửa sông vẫn chưa được đề cập.
Năm 1982, Labrousse đã phát triển bản đồ địa hình mang tên Land form map, sử dụng hai yếu tố chính là địa hình và thổ nhưỡng Bản đồ này kết hợp kiểu địa hình tổng hợp với hai yếu tố thổ nhưỡng: nền vật chất tạo đất và độ dày tầng đất, từ đó giúp thuyết minh điều kiện lập địa ở từng khu vực cụ thể Đặc biệt, vùng ven biển và cửa sông của Việt Nam được nhấn mạnh với đơn vị địa mạo thổ nhưỡng là đồng bằng phù sa sông/biển, bao gồm các loại đất như đất Mangrove ngập triều, đất chua phèn và đất mặn, tương ứng với các kiểu địa hình như địa hình ngập mặn, địa hình trũng bằng và địa hình bằng.
Năm 1985, Trectop đã tiến hành nghiên cứu và phân loại các kiểu lập địa đất rừng tại Việt Nam, bao gồm cả những kiểu lập địa ở vùng ven sông và ven biển.
Kiểu lập địa Đất Thực vật Đất thoát nước yếu vùng trũng thấp và ven sông Đất phù sa glây tầng mặt
Rừng ngập mặn ven bờ biển có đất thoát nước kém, thường là vùng trũng thấp với đất mặn glây Khu vực này thường có rừng thưa cây tràm và đất đọng nước, tạo nên hệ sinh thái đa dạng nhưng dễ bị ảnh hưởng bởi sự thay đổi môi trường.
Những nghiên cứu của Nguyễn Ngọc Bình (1970, 1979, 1986) đã đóng góp quan trọng vào lĩnh vực nghiên cứu đất lâm nghiệp, làm nổi bật đặc điểm cơ bản của đất đai theo phát sinh học và quy luật diễn thế rừng trong tương lai Quá trình hình thành đất gắn liền với sự phát triển của rừng theo quy luật tự nhiên, được gọi là vòng tuần hoàn sinh học trong lâm học Nhiều tác giả đã khẳng định vai trò quyết định của chất hữu cơ trong việc hình thành độ phì đất, với hàm lượng mùn là chỉ tiêu quan trọng nhất để đánh giá độ phì, lựa chọn đất và phát triển các mô hình sử dụng đất nông - lâm nghiệp phù hợp.
Một nghiên cứu quan trọng đã mở ra hướng mới trong việc xây dựng quy trình điều tra lập địa tại Việt Nam, do Viện Điều tra quy hoạch rừng thực hiện với sự tham gia của các tác giả như Nguyễn Ngọc Nhị, Võ Văn Du, Nguyễn Văn Thường và Đỗ Thanh Hoa (1971) Quy trình này đã được ngành lâm nghiệp Việt Nam tiếp nhận và hoàn thiện qua các năm 1976, 1982, 1984, và 1992, nhằm phục vụ cho việc kinh doanh rừng, đặc biệt trong việc phân chia điều kiện lập địa trồng rừng.
Năm 1996, Nguyễn Văn Khánh đã có những đóng góp quan trọng trong nghiên cứu phân vùng lập địa lâm nghiệp của Việt Nam, bao gồm việc xây dựng các cấp phân vị lập địa lâm nghiệp hoàn chỉnh để sử dụng thống nhất trên toàn quốc Ông đã xác lập và định lượng các cấp phân chia cùng các chỉ tiêu tương ứng, đồng thời cải tiến bảng phân kiểu khí hậu từ 3 yếu tố thành 4 yếu tố bằng cách đưa mùa nhiệt và mùa mưa ẩm vào phân chia Ngoài ra, ông cũng sử dụng kiểu địa hình để hỗ trợ nội suy khí hậu ở những khu vực thiếu trạm khí tượng thủy văn, nhấn mạnh sự đồng nhất về độ cao và độ chia cắt của địa hình Cuối cùng, ông đã xây dựng bản đồ lâm nghiệp Việt Nam đến cấp tiểu vùng với 4 bảng tra cho các thành phần khí hậu, địa hình, đất và thực vật, giúp nhanh chóng hiểu rõ điều kiện lập địa và đưa ra các đề xuất sử dụng hợp lý.
Nghiên cứu về phân chia điều kiện lập địa cho vùng đất dốc, đồi núi đã được thực hiện kỹ lưỡng và xây dựng thành quy trình cụ thể Trong khi đó, các vùng đất bằng, ven sông, ven biển mới chỉ có một số nghiên cứu liên quan nhằm xác định điều kiện lập địa Một số nghiên cứu điển hình đã được thực hiện trong lĩnh vực này.
Lê Văn Tự (1994) đã tạo ra bản đồ thổ nhưỡng cho hai huyện Nhà Bè và Cần Giờ, dựa trên tình trạng ngập mặn và tầng sinh phèn Tác giả phân loại đất mặn ở Cần Giờ thành 7 loại, trong đó có loại đất ngập mặn phèn tiềm tàng với tầng sinh phèn nông chứa nhiều bã hữu cơ, chiếm diện tích 27.280 ha.
Nguyễn Ngọc Bình (1996) [3] đã nghiên cứu các loại đất ở rừng ngập mặn
Cà Mau là vùng đất ngập mặn với nhiều loại đất khác nhau như đất mùn loãng không có thực vật, đất mùn loãng có Mắm trắng, và đất ngập mặn phèn có Đước, Đà, và Cóc trắng Theo nghiên cứu của Ngô Đình Quế và các cộng sự (2003), hàm lượng chất hữu cơ trong đất ngập mặn đóng vai trò quan trọng trong sự sinh trưởng của rừng Nếu hàm lượng chất hữu cơ dưới 1%, cây sẽ sinh trưởng kém, trong khi nếu vượt quá 15%, nó có thể kìm hãm sự phát triển và gây chết cây do ô nhiễm môi trường đất.
Ngô Đình Quế và Ngô An (2001) đã đề xuất các tiêu chuẩn phân chia lập địa cho vùng ngập mặn ven biển với tỷ lệ bản đồ từ 1/10.000 đến 1/25.000, nhằm hỗ trợ cho công tác trồng rừng và kinh doanh rừng.
Theo kết quả nghiên cứu của nhiều nhà khoa học về đất ngập mặn ở Việt Nam thì nước ta gồm có các loại đất ngập mặn chính là:
- Đất ngập mặn không có phèn tiềm tàng;
- Đất ngập mặn phèn tiềm tàng;
- Đất ngập mặn than bùn phèn tiềm tàng
Viện Quy hoạch và Thiết kế Nông nghiệp đã hoàn thành việc xây dựng bản đồ đất cho khu vực đồng bằng sông Cửu Long với tỷ lệ 1/250.000, trong đó đã tiến hành phân chia các khu vực đất ngập mặn.
- Đất ngập mặn phần lớn dưới rừng ngập mặn (Gleyic-Salic-Fluvisols);
- Đất phèn tiềm tàng nông dưới rừng ngập mặn (Salic-Proto-Thionic- Fluvisols, Sulfidic material 0 ÷ 50cm);
- Đất phèn tiềm tàng sâu dưới rừng ngập mặn (Salic-Proto-Thionic- Fluvisols, Sulfidic material > 50cm)
Năm 2003, Ngô Đình Quế đã tiến hành phân chia lập địa cho vùng ngập mặn ven biển Việt Nam, đặc biệt là vùng ngập mặn đồng bằng sông Cửu Long Dựa trên kết quả khảo sát và phân tích, tác giả đã kế thừa các thành quả về đất rừng ngập mặn cùng với thảm thực vật và diễn biến của chúng Ông đã xác định các cấp phân vị cho đất vùng ven biển ngập mặn ở Việt Nam theo hệ thống Miền - Vùng - Tiểu vùng - Dạng lập địa.
- Miền lập địa: là đơn vị lập địa lớn nhất được phân chia, dựa vào đặc điểm khí hậu, chế độ nhiệt trong năm
Vùng lập địa được phân chia dựa vào số tháng lạnh trong năm, lượng mưa và sự phân bố của loài cây ngập mặn “thực thụ” Sự phân loại này giúp hiểu rõ hơn về đặc điểm sinh thái và điều kiện môi trường của từng khu vực.
- Tiểu vùng lập địa: trong mỗi vùng tuỳ điều kiện cụ thể đưa vào 4 yếu tố sau đây để phân chia thành các tiểu vùng:
Độ mặn của nước chủ yếu bị ảnh hưởng bởi mức độ biến động của độ mặn trong suốt năm, điều này phụ thuộc vào lượng nước từ thượng nguồn.
+ Đặc điểm địa hình (bằng phẳng, ít dốc, dốc, lồi lõm)
Mục tiêu, đối tượng, phạm vi, nội dung và phương pháp nghiên cứu
Mục tiêu nghiên cứu
- Về lý luận: Góp phần xây dựng cơ sở lý luận phục vụ trồng rừng chống xói lở ven sông và kênh rạch vùng nước lợ
+ Xác định và phân loại được điều kiện lập địa cho những khu vực xói lở ven sông và kênh rạch vùng nước lợ
+ Đề xuất được hướng sử dụng lập địa phục vụ trồng rừng chống xói lở ven sông và kênh rạch vùng nước lợ.
Đối tượng nghiên cứu
Điều kiện lập địa vùng nước lợ tại vùng cửa
Phú - huyện Tiền Hải - tỉnh
- Thời gian: Đề tài được tiến hành nghiên cứu từ tháng 12/2009 đến tháng
Hình 2.1 Hình ảnh địa điểm nghiên cứu
Nội dung nghiên cứu
2.4.1 Nghiên cứu đặc điểm lập địa ven sông, kênh rạch vùng nước lợ tại khu vực
- Nghiên cứu đặc điểm khí hậu, thuỷ văn: (nhiệt độ, cường độ mưa, độ ngập triều, độ mặn của nước và biến động độ mặn của nước);
- Nghiên cứu địa hình, địa mạo, sự bồi tụ trầm tích;
- Nghiên cứu đặc điểm thổ nhưỡng;
- Nghiên cứu đặc điểm của lớp phủ thực vật;
- Nghiên cứu đặc điểm xói lở ven sông và kênh rạch
2.4.2 Nghiên cứu phân chia điều kiện lập địa phục vụ cho việc trồng rừng chống xói lở ven sông, kênh rạch vùng nước lợ tại khu vực
- Xác định các tiêu chí phân chia điều kiện lập địa khu vực ven sông, kênh rạch vùng nước lợ;
- Xây dựng bản đồ phân chia điều kiện lập địa khu vực nghiên cứu
2.4.3 Nghiên cứu đề xuất hướng sử dụng lập địa ven sông, kênh rạch vùng nước lợ tại khu vực theo hướng bền vững và hiệu quả.
Phương pháp nghiên cứu
2.5.1 Phương pháp nghiên cứu tổng quát
Vùng đệm ven bờ chịu ảnh hưởng từ nhiều quy trình tự nhiên và xã hội, đòi hỏi sự kết hợp giữa các ngành khoa học như lâm nghiệp, nông nghiệp, thủy lợi, kinh tế và xã hội học Nghiên cứu cần kế thừa tài liệu hiện có, kết hợp với khảo sát thực địa và phân tích trong phòng thí nghiệm, sử dụng các công cụ và phần mềm chuyên dụng Các bước nghiên cứu được thể hiện qua sơ đồ khung logic.
Hình 2.2 Sơ đồ khung logic nghiên cứu
2.5.2 Phương pháp nghiên cứu cụ thể
Kế thừa tài liệu nghiên cứu là rất quan trọng, bao gồm bản đồ hiện trạng rừng, bản đồ đất, bản đồ địa hình, cùng với các đặc điểm địa hình bờ sông, lòng sông và hình thái sông Ngoài ra, số liệu khí tượng thủy văn và các điều kiện tự nhiên, kinh tế, xã hội của khu vực cũng cần được xem xét để đảm bảo tính toàn diện của nghiên cứu.
Tổng hợp kiến thức, kế thừa tài liệu trong và ngoài nước về điều kiện lập địa khu vực ven sông và kênh rạch vùng nước lợ
Khảo sát sơ bộ nhằm xác định địa điểm nghiên cứu và thực hiện điều tra chuyên sâu về tình hình xói lở ven bờ sông, rạch, cũng như các điều kiện lập địa và điều kiện kinh tế xã hội trong khu vực nghiên cứu.
Xử lý và phân tích thông tin, tài liệu, số liệu
Xây dựng bản đồ phân chia lập địa và đề xuất hưởng sử dụng lập địa bền vững và hiệu quả
2.5.2.2 Phương pháp nghiên cứu đặc điểm lập địa vùng nước lợ
- Nghiên cứu đặc điểm khí hậu, thuỷ văn:
Thông tin khí hậu thủy văn được thu thập qua các chỉ tiêu quan trọng như nhiệt độ, cường độ mưa, hướng và tốc độ dòng chảy, độ ngập triều, cũng như độ mặn và biến động của nước.
- Nghiên cứu địa hình, địa mạo, sự bồi tụ trầm tích:
Thông tin về điều kiện địa hình, địa mạo và sự bồi tụ trầm tích được thu thập dựa trên các nghiên cứu trước đó, kết hợp với điều tra bổ sung thực địa.
- Nghiên cứu đặc điểm thổ nhưỡng:
Trên các tuyến điều tra tình trạng xói lở ven sông và kênh rạch, 20 ô tiêu chuẩn với diện tích 500m² đã được lập ra, bao gồm nhiều dạng địa hình và trạng thái rừng khác nhau Mỗi ô tiêu chuẩn sẽ được đào một phẫu diện đất để thu thập mẫu đất Quá trình thu thập và phân tích mẫu đất sẽ tuân theo quy trình đã được ban hành, áp dụng tại Đại học Lâm nghiệp.
Mẫu đất được thu thập và bảo quản đúng quy trình, sau đó được phân tích tại phòng thí nghiệm Kết quả nghiên cứu và ý kiến từ các chuyên gia cho thấy các chỉ tiêu quan trọng của đất cần được đánh giá bao gồm: thành phần cấp hạt, độ pH, độ mặn (S‰) và NPK (đạm tổng số, P2O5 %, K2O %) Các mẫu đất được phân tích tại Viện Sinh thái rừng và Môi trường, Trường Đại học Lâm nghiệp và Phòng Phân tích đất, Viện Quy hoạch và Thiết kế Nông nghiệp.
- Nghiên cứu đặc điểm của lớp phủ thực vật:
Nghiên cứu đặc điểm lớp phủ thực vật được thực hiện trên ô tiêu chuẩn với diện tích 500 m² Các nội dung nghiên cứu được tiến hành trên các ô tiêu chuẩn này bao gồm nhiều yếu tố quan trọng để đánh giá sự phát triển và cấu trúc của lớp phủ thực vật.
Tiến hành điều tra thành phần loài cây trong ô tiêu chuẩn và đánh giá tình hình sinh trưởng thông qua các chỉ tiêu như đường kính ngang ngực (D1.3), chiều cao vút ngọn (Hvn) và chiều cao dưới cành (Hdc), cùng với chất lượng cây Đường kính ngang ngực được đo chính xác đến mm tại vị trí cách mặt đất 1,3m, trong khi chiều cao vút ngọn và chiều cao dưới cành được đo chính xác đến cm Chất lượng cây được phân loại theo ba cấp độ: tốt, xấu và trung bình Kết quả nghiên cứu được tổng hợp trong biểu 01.
Biểu 01: Biểu điều tra tầng cây cao
OTC:……… Trạng thái rừng……… Kinh độ:………
Diện tích OTC:………… Độ cao:……… Vĩ độ:……… Ngày điều tra:………… Độ dốc:……… Người điều tra:…………
Sinh trưởng Ghi Tốt T.bình Xấu chú
+ Tầng cây bụi, thảm tươi:
Nghiên cứu tầng cây bụi thảm tươi được thực hiện trên các ô dạng bản với 5 ô tiêu chuẩn, mỗi ô có diện tích 4 m², bao gồm 4 ô ở 4 góc và 1 ô ở giữa Trong quá trình nghiên cứu, tiến hành điều tra và thống kê tên tất cả các loài cây, dạng sống (thân gỗ, dây leo, thân thảo) cùng với tình hình sinh trưởng của các loài Các chỉ tiêu sinh trưởng được đo lường, trong đó chiều cao trung bình (Htb) được xác định bằng sào đo cao với độ chính xác đến cm.
% che phủ trung bình (% Cp); Chất lượng cây bụi, thảm tươi được đánh giá theo 3 cấp: tốt, xấu, trung bình Kết quả nghiên cứu được thống kê vào biểu 02:
Biểu 02: Biểu nghiên cứu tầng cây bụi
OTC: ……… Trạng thái rừng: ………… Kinh độ: ……… Diện tích ODB: ………… Độ cao: ……… Vĩ độ: ……… Ngày điều tra: ………… Độ dốc: ……… Người điều tra: ………… STT ODB: Thành phần loài, Htb (m), %Cp, Sinh trưởng.
+ Đối với tầng cây tái sinh:
Nghiên cứu về tầng cây tái sinh được thực hiện trên các ô dạng bản có diện tích 1m², với 4 ô ở 4 góc và 1 ô ở giữa Trong mỗi ô, điều tra và thống kê tất cả các loài cây tái sinh cùng với tình hình sinh trưởng, bao gồm chiều cao vút ngọn đo bằng sào có độ chính xác cm và đường kính gốc D00 đo bằng thước dây có độ chính xác mm Cây tái sinh được phân loại theo phẩm chất thành cây tốt, trung bình và xấu, đồng thời xác định nguồn gốc tái sinh là từ hạt hay chồi Kết quả nghiên cứu được tổng hợp vào biểu 03.
Biểu 03: Biểu điều tra cây tái sinh
OTC:……… Trạng thái rừng………… Kinh độ:……… Diện tích ODB:………… Độ cao:……… Vĩ độ:……… Ngày điều tra:………… Độ dốc:……… Người điều tra:…………
STT ODB Loài cây D00 Hvn
Chất lượng cây tái sinh Hạt Chồi Tốt T.bình Xấu
Nghiên cứu hiện trạng xói lở ven sông và kênh rạch vùng nước lợ được thực hiện thông qua phương pháp điều tra dọc theo bờ sông và kênh rạch, nhằm phát hiện các đoạn bờ bị xói lở và nguyên nhân gây ra hiện tượng này Bên cạnh đó, nghiên cứu cũng tập trung vào việc khảo sát nhanh sự hiện diện của các loài thực vật ven bờ trong khu vực.
Để nghiên cứu tình trạng xói lở ven sông và kênh rạch, ngoài phương pháp điều tra theo tuyến, đề tài còn áp dụng phương pháp điều tra xã hội học thông qua bảng câu hỏi phỏng vấn đã được thiết kế sẵn Các vấn đề được thảo luận bao gồm thực trạng và diễn biến xói lở, các biện pháp ứng phó, loại cây trồng ven sông, kênh rạch, cũng như hiện trạng và quy hoạch sử dụng đất Đối tượng phỏng vấn bao gồm nhà quản lý, chuyên gia, cán bộ khuyến nông, khuyến ngư, cán bộ phụ trách thủy lợi và quản lý đê điều, đặc biệt là những người có kinh nghiệm trong nghiên cứu và cộng đồng địa phương.
Kết quả điều tra nghiên cứu về đặc điểm điều kiện lập địa được tổng hợp, xử lý và phân tích bằng phần mềm Excel
2.5.2.3 Phương pháp nghiên cứu phân chia điều kiện lập địa phục vụ cho việc trồng rừng chống xói lở ven sông, kênh rạch vùng nước lợ tại khu vực
- Xác định các tiêu chí phân chia điều kiện lập địa:
Dựa trên nghiên cứu tổng quan tài liệu và phương pháp phân chia điều kiện lập địa của Ngô Đình Quế (2003), bài viết phân tích các yếu tố lập địa để xác định các dạng lập địa khác nhau ở khu vực nghiên cứu Dạng lập địa là đơn vị phân chia nhỏ nhất, đóng vai trò quan trọng trong việc chọn lựa cây trồng và xác định kỹ thuật trồng trọt phù hợp Các tiêu chí phân chia điều kiện lập địa bao gồm chế độ ngập triều, độ thành thục của đất và loại đất, tuy nhiên, các tiêu chí này có thể được điều chỉnh và hoàn thiện trong quá trình nghiên cứu tiếp theo.