THIỆU
Lý do chọn đề tài
Dưới sự khuyến khích của Đảng và nhà nước, chính sách cải cách hành chính đã tạo điều kiện thuận lợi cho sự gia tăng nhanh chóng số lượng doanh nghiệp, chủ yếu là các doanh nghiệp nhỏ và vừa Trong những năm gần đây, hoạt động của các doanh nghiệp này đã có những bước chuyển biến quan trọng, góp phần thúc đẩy lưu thông hàng hóa, phát triển sản xuất, và huy động nguồn lực cho phát triển kinh tế - xã hội, từ đó ổn định và tăng trưởng kinh tế, tăng kim ngạch xuất khẩu và tạo ra việc làm Sự phát triển này chủ yếu nhờ vào khả năng tiếp cận nguồn vốn vay từ các ngân hàng thương mại Tuy nhiên, doanh nghiệp vẫn gặp phải một số hạn chế khi tiếp cận vốn, bao gồm những yếu tố khách quan từ môi trường vĩ mô không ổn định và khung pháp lý chưa hoàn thiện, cùng với khó khăn từ phía các ngân hàng thương mại và chính bản thân doanh nghiệp.
Khi cấp tín dụng cho doanh nghiệp, ngân hàng cần thực hiện quy trình thẩm định tín dụng nghiêm ngặt và tuân thủ các quy định của ngân hàng Nhà nước Quyết định cấp tín dụng chủ yếu dựa vào thông tin từ doanh nghiệp, thông tin tự thu thập của ngân hàng, và lịch sử tín dụng tại Trung tâm thông tin tín dụng quốc gia (CIC) Tuy nhiên, ngân hàng cần sàng lọc và thẩm định kỹ lưỡng các thông tin này trước khi ra quyết định, vì điều này ảnh hưởng trực tiếp đến khả năng hoàn trả nợ vay của khách hàng Nếu khách hàng không trả nợ đúng hạn, nợ xấu sẽ phát sinh, gây rủi ro cho ngân hàng thương mại.
Vietcombank, với nguồn gốc là ngân hàng 100% sở hữu Nhà nước, hiện vẫn là một trong bốn ngân hàng thương mại Nhà nước lớn và dẫn đầu trong lĩnh vực bán buôn Theo báo cáo năm 2018, dư nợ cho vay khách hàng doanh nghiệp (KHDN) chiếm gần 70% tổng dư nợ của chi nhánh Vietcombank Bình Dương Năm 2019, tín dụng tại chi nhánh đã phục hồi với mức tăng 3,1% so với năm trước, bất chấp sự sụt giảm do việc chia tách chi nhánh Nhu cầu vay của KHDN vẫn cao, khiến họ trở thành đối tượng cho vay mục tiêu quan trọng cho sự tăng trưởng dư nợ Tuy nhiên, sự gia tăng tín dụng cũng đồng nghĩa với rủi ro tín dụng (RRTD) cao hơn, ảnh hưởng đến chất lượng tín dụng của ngân hàng Nguyên nhân chính của RRTD thường liên quan đến công tác thẩm định và đánh giá khả năng trả nợ của khách hàng, không chỉ dựa vào thông tin tài chính mà còn phụ thuộc vào các yếu tố như đặc điểm khoản vay, môi trường vĩ mô và kinh nghiệm vay của khách hàng Vì vậy, tác giả đã chọn đề tài “Các nhân tố ảnh hưởng đến khả năng trả nợ của khách hàng doanh nghiệp tại Ngân hàng Thương mại cổ phần Ngoại thương Việt Nam – Chi nhánh Bình Dương” cho nghiên cứu luận văn thạc sĩ.
Mục tiêu nghiên cứu
Nghiên cứu này nhằm xác định các yếu tố ảnh hưởng đến khả năng trả nợ của khách hàng doanh nghiệp tại Ngân hàng Thương mại cổ phần Ngoại thương Việt Nam - Chi nhánh Bình Dương Từ đó, tác giả đưa ra một số đề xuất chính sách nhằm nâng cao khả năng trả nợ của khách hàng doanh nghiệp.
- Xác định các nhân tố ảnh hưởng đến khả năng trả nợ của khách hàng doanh nghiệp tại Vietcombank Bình Dương;
- Đo lường mức độ ảnh hưởng của các nhân tố ảnh hưởng đến khả năng trả nợ của khách hàng doanh nghiệp tại Vietcombank Bình Dương;
- Đề xuất một số hàm ý chính sách liên quan đến nhóm nhân tố ảnh hưởng đến khả năng trả nợ của KHDN tại Vietcombank Bình Dương.
Câu hỏi nghiên cứu
- Những nhân tố nào ảnh hưởng đến khả năng trả nợ của khách hàng doanh nghiệp tại Vietcombank Bình Dương?
- Sự ảnh hưởng của các nhân tố đó đến khả năng trả nợ của khách hàng doanh nghiệp tại Vietcombank Bình Dương như thế nào?
Đối tượng nghiên cứu và phạm vi nghiên cứu
• Đối tượng nghiên cứu: Các nhân tố ảnh hưởng đến khả năng trả nợ của các KHDN tại Vietcombank Bình Dương
• Đối tượng khảo sát: là các KHDN đang có quan hệ tín dụng với Vietcombank Bình Dương đến thời điểm tháng 12/2019
• Phạm vi thời gian: giai đoạn 2015 – 2019
• Phạm vi không gian: tại Vietcombank – CN Bình Dương.
Phương pháp nghiên cứu
Dữ liệu được sử dụng trong nghiên cứu này chủ yếu là dữ liệu thứ cấp, được trích xuất từ các báo cáo tài chính (BCTC) và báo cáo thường niên (BCTN) của Vietcombank, cùng với các báo cáo nội bộ của Vietcombank Bình Dương.
- Nguồn dữ liệu sơ cấp: từ kết quả khảo sát các KHDN đang có quan hệ tín dụng với Vietcombank Bình Dương
Phương pháp chọn mẫu trong nghiên cứu này sử dụng phương pháp lấy mẫu thuận tiện, phi xác suất, cho phép tác giả tiếp xúc trực tiếp với hồ sơ và thông tin của các khách hàng doanh nghiệp (KHDN) đang vay vốn tại Vietcombank Bình Dương, nơi tác giả đang công tác Tác giả đã thống kê danh sách các KHDN theo mã số CIF và có dư nợ tín dụng đến tháng 12/2019, từ đó chọn ngẫu nhiên 250 KHDN, đồng thời loại bỏ các công ty bảo hiểm và công ty tài chính Để bảo mật thông tin, tác giả sẽ tiến hành lọc và mã hóa dữ liệu nhằm tránh tiết lộ thông tin hồ sơ khách hàng.
Phương pháp này có ưu điểm là dễ dàng tiếp cận đối tượng nghiên cứu, đặc biệt khi họ thường gặp khó khăn về thời gian và chi phí Tuy nhiên, nhược điểm lớn của phương pháp này là không thể xác định được sai số do lấy mẫu.
Kích cỡ mẫu trong phân tích hồi quy phụ thuộc vào nhiều yếu tố như mức ý nghĩa, độ mạnh của phép kiểm định và số lượng biến độc lập Để chọn kích thước mẫu đại diện cho tổng thể, có nhiều kỹ thuật khác nhau, trong đó có phương pháp của Green (1991) Tác giả này đề xuất công thức xác định cỡ mẫu nghiên cứu là n > 50 + 8m, với n là kích thước mẫu tối thiểu và m là số lượng biến độc lập Ví dụ, nếu có 10 biến độc lập, kích thước mẫu nghiên cứu tối thiểu sẽ là 130 quan sát.
Theo Anderson và Gerbing (1988), cỡ mẫu tối thiểu 150 là cần thiết để ước lượng các thông số với sai số chuẩn nhỏ Cỡ mẫu lớn hơn 150 sẽ tăng độ tin cậy của nghiên cứu bằng cách giảm sai lệch do lấy mẫu Do đó, nghiên cứu này sử dụng kích thước mẫu n = 250 KHDN, với tất cả thông tin về khoản vay được thu thập từ hồ sơ vay vốn của 250 khách hàng tại Vietcombank Bình Dương.
Nghiên cứu này áp dụng mô hình phân tích hồi quy nhị phân (Binary Logistic) để đánh giá khả năng trả nợ của các doanh nghiệp (KHDN) tại Vietcombank – Chi nhánh Bình Dương Mục tiêu là ước lượng mức độ tác động của từng yếu tố đến khả năng trả nợ của KHDN, trong đó biến phụ thuộc được xác định là 1 nếu KHDN có khả năng trả nợ.
0 nếu KHDN không có khả năng trả nợ Các biến giải thích được xác định từ mô hình nghiên cứu của Chiara Pederzoli và Costanza Torricelli (2010)
PD=1/(1+exp(2.86+3.46LTLA+3.52EBITA+11.18EQUYTYA+0.43SALESA))
Mô hình nghiên cứu được xây dựng dựa trên những công trình của Beaver (1966) và Altman (1968), với các biến giải thích sẽ được phân tích chi tiết trong chương 3 - Phương pháp nghiên cứu.
Trong nghiên cứu này, tác giả áp dụng các kỹ thuật thống kê mô tả để hệ thống hóa khái niệm và nội dung liên quan đến hoạt động tín dụng, khả năng trả nợ của khách hàng doanh nghiệp, cũng như các mô hình đánh giá khả năng trả nợ của khách hàng doanh nghiệp (KHDN) Luận văn còn dựa trên các nghiên cứu trong và ngoài nước làm nền tảng phân tích cho vấn đề nghiên cứu.
Đóng góp của đề tài nghiên cứu
Bằng việc áp dụng mô hình hồi quy nhị phân, nghiên cứu này đã xác định các yếu tố ảnh hưởng đến khả năng trả nợ của khách hàng doanh nghiệp tại Vietcombank Bình Dương Tác giả cũng đánh giá mức độ tác động của những yếu tố này đối với khả năng trả nợ của các doanh nghiệp tại ngân hàng.
Nghiên cứu này nhằm mục tiêu ứng dụng mô hình tại Vietcombank Bình Dương để hỗ trợ quyết định cho vay đối với khách hàng doanh nghiệp Tác giả cũng đưa ra các hàm ý chính sách liên quan đến việc đánh giá khả năng trả nợ của khách hàng doanh nghiệp và cải thiện quản lý hoạt động tín dụng tại ngân hàng.
Kết cấu của luận văn
Ngoài phần mở đầu và kết luận, nội dung luận văn bao gồm:
Chương 1: GIỚI THIỆU VỀ NGHIÊN CỨU
Trong chương 1, tác giả trình bày lý do chọn đề tài và thiết lập mục tiêu nghiên cứu, bao gồm mục tiêu tổng quát và cụ thể Từ đó, tác giả đặt ra câu hỏi nghiên cứu, xác định đối tượng và phạm vi nghiên cứu, đồng thời lựa chọn phương pháp nghiên cứu phù hợp Chương 2 sẽ tập trung vào cơ sở lý thuyết và mô hình nghiên cứu.
Trong chương 2, tác giả trình bày khái niệm tín dụng ngân hàng và lý thuyết về khả năng trả nợ vay của khách hàng doanh nghiệp (KHDN) Bên cạnh đó, tác giả cũng đã thiết lập mô hình nghiên cứu dựa trên các nghiên cứu thực nghiệm trong và ngoài nước, nhằm xác định các yếu tố ảnh hưởng đến khả năng trả nợ của KHDN tại ngân hàng.
Chương 3: PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU
Chương 3 trình bày quy trình nghiên cứu chi tiết nhằm xây dựng mô hình nghiên cứu hoàn chỉnh và đưa ra các kết luận quản trị dựa trên nghiên cứu của tác giả Tác giả áp dụng mô hình hồi quy nhị phân (Binary Logistic) để đánh giá khả năng trả nợ của các doanh nghiệp khách hàng tại Vietcombank – CN Bình Dương, đồng thời ước lượng mức độ ảnh hưởng của từng yếu tố đến khả năng trả nợ của các doanh nghiệp này Chương 4 sẽ cung cấp kết quả nghiên cứu.
Chương 4 của bài viết cung cấp cái nhìn tổng quan về Ngân hàng Thương mại Cổ phần Ngoại thương Việt Nam - Chi nhánh Bình Dương, với trọng tâm là phân tích kết quả hoạt động kinh doanh và hoạt động tín dụng của ngân hàng Tác giả cũng thực hiện phân tích mô hình nghiên cứu và thảo luận về các kết quả hồi quy nhị phân Chương 5 sẽ trình bày kết luận và những hàm ý chính sách từ nghiên cứu này.
Dựa trên kết quả nghiên cứu, bài viết đưa ra kết luận và định hướng phát triển liên quan đến các yếu tố ảnh hưởng đến khả năng trả nợ của doanh nghiệp tại Vietcombank Bình Dương.
CƠ SỞ LÝ THUYẾT VÀ MÔ HÌNH NGHIÊN CỨU
Tổng quan về tín dụng ngân hàng
2.1.1 Khái niệm về tín dụng ngân hàng
Sự phát triển của hệ thống ngân hàng thương mại (NHTM) đã ảnh hưởng sâu sắc đến nền kinh tế hàng hóa, đặc biệt khi nền kinh tế thị trường phát triển mạnh mẽ NHTM trở thành định chế tài chính thiết yếu, đóng vai trò quan trọng trong nền kinh tế Theo Luật các tổ chức tín dụng năm 2010, NHTM thực hiện tất cả các hoạt động ngân hàng và kinh doanh khác nhằm mục tiêu lợi nhuận Điểm khác biệt của ngân hàng thương mại so với các tổ chức tài chính khác là khả năng chấp nhận tiền gửi không kỳ hạn Luật cũng quy định rằng cấp tín dụng là thỏa thuận cho tổ chức hoặc cá nhân sử dụng một khoản tiền với nguyên tắc hoàn trả, bao gồm các hoạt động như cho vay, chiết khấu, cho thuê tài chính, và bảo lãnh ngân hàng.
Theo Lê Văn Tề (2010), trong một số ngữ cảnh nhất định, thuật ngữ "tín dụng" có thể được hiểu đồng nghĩa với "cho vay" Ví dụ, "tín dụng ngắn hạn" tương đương với "cho vay ngắn hạn", và "tín dụng tuần hoàn" là một hình thức cho vay đặc thù.
2.1.2 Bản chất của tín dụng ngân hàng
Bản chất tín dụng trong nền kinh tế thị trường thể hiện qua ba giai đoạn chính Đầu tiên, ở giai đoạn cho vay, vốn tiền tệ được chuyển từ người cho vay sang người đi vay, đánh dấu sự chuyển giao giá trị vốn tín dụng Tiếp theo, trong giai đoạn sử dụng vốn tín dụng, người đi vay có quyền sử dụng giá trị vốn vay để phục vụ cho sản xuất hoặc tiêu dùng, nhưng không có quyền sở hữu vĩnh viễn mà chỉ được sử dụng tạm thời theo thỏa thuận Cuối cùng, ở giai đoạn hoàn trả tín dụng, vốn tín dụng trở lại hình thái tiền tệ và người đi vay hoàn trả gốc và lãi cho người cho vay, tạo ra lợi ích cho chủ sở hữu vốn Quá trình này phản ánh quan điểm của C Mác về việc tiền chỉ tạm thời rời khỏi tay người sở hữu để phục vụ cho hoạt động sản xuất, với điều kiện sẽ quay trở lại sau một thời gian nhất định.
Sự hoàn trả tín dụng là quá trình trở về của giá trị, thể hiện sự vận động của một lượng giá trị Trong quá trình này, giá trị được bảo toàn và gia tăng thêm (lợi tức) Khi cho vay, tiền không chỉ trở lại điểm xuất phát mà còn giữ nguyên giá trị và tăng lên trong quá trình vận động.
2.1.3 Vai trò của tín dụng ngân hàng
Để thúc đẩy sản xuất phát triển, doanh nghiệp cần chú trọng đến nguồn vốn, không chỉ dựa vào vốn tự có mà còn tận dụng các nguồn vốn khác trong xã hội nhằm đáp ứng nhu cầu tiêu dùng của khách hàng và mở rộng sản xuất.
Tín dụng ngân hàng đóng vai trò quan trọng trong việc cung cấp vốn cho đầu tư phát triển, tập trung vào việc huy động vốn nhàn rỗi Điều này không chỉ giúp doanh nghiệp nhanh chóng mở rộng sản xuất mà còn thúc đẩy quá trình tập trung và tích lũy vốn cho nền kinh tế.
Tín dụng ngân hàng đóng vai trò quan trọng trong việc ổn định tiền tệ và giá cả bằng cách tập trung và sử dụng các nguồn vốn nhàn rỗi trong xã hội Việc này giúp giảm lượng tiền mặt tồn đọng trong lưu thông, ngăn chặn tình trạng mất cân đối trong quan hệ hàng - tiền và biến động giá cả Trong bối cảnh nền kinh tế đối mặt với lạm phát, tín dụng trở thành một biện pháp hiệu quả để giảm thiểu lạm phát.
Hoạt động tín dụng ngân hàng đóng vai trò quan trọng trong việc ổn định đời sống và tạo công ăn việc làm cho người dân Không chỉ phục vụ nhu cầu của doanh nghiệp, ngân hàng và các tổ chức tín dụng còn cung cấp vốn vay cho cá nhân, giúp phát triển kinh tế gia đình, mua sắm nhà cửa và tư liệu sinh hoạt Nhờ đó, đời sống của nhân dân được cải thiện, tỷ lệ thất nghiệp giảm, góp phần vào sự ổn định an ninh trật tự xã hội.
2.1.4 Phân loại tín dụng ngân hàng
2.1.4.1 Phân loại theo đối tượng khách hàng
Khách hàng cá nhân trong lĩnh vực tín dụng là những cá nhân và hộ gia đình có nhu cầu vay vốn để phục vụ cho hoạt động kinh doanh và tiêu dùng.
Khách hàng doanh nghiệp nhỏ và vừa (DNNVV) bao gồm các doanh nghiệp sản xuất kinh doanh thuộc nhiều lĩnh vực khác nhau với quy mô nhỏ và nhu cầu vốn hạn chế Tiêu chí phân loại DNNVV được quy định trong Nghị định Số 39/2018/NĐ-CP ngày 11/03/2018, nhằm chi tiết hóa một số điều của Luật hỗ trợ DNNVV và các văn bản pháp luật liên quan.
Khách hàng doanh nghiệp lớn bao gồm các doanh nghiệp nhà nước, công ty cổ phần và doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài với quy mô hoạt động lớn Ngoài ra, các tập đoàn kinh tế lớn cũng nằm trong nhóm này, có khả năng cung cấp hàng hóa và dịch vụ với số lượng lớn, góp phần ảnh hưởng đến nền kinh tế.
2.1.4.2 Phân loại theo thời hạn
Tín dụng ngắn hạn, hay còn gọi là cho vay ngắn hạn, là hình thức cho vay có thời hạn tối đa 1 năm, thường được sử dụng để đáp ứng nhu cầu vốn lưu động và chi tiêu cá nhân của hộ gia đình (Lê Văn Tề, 2010) Hình thức tín dụng này giúp người vay bù đắp sự thiếu hụt tài chính trong thời gian ngắn.
Tín dụng trung hạn là hoạt động cho vay có thời gian từ trên 1 năm đến 5 năm, chủ yếu phục vụ cho việc đầu tư tài sản cố định và mở rộng sản xuất kinh doanh Loại tín dụng này thường được áp dụng cho các dự án nhỏ với thời gian thu hồi vốn nhanh Trong lĩnh vực nông nghiệp, tín dụng trung hạn chủ yếu được sử dụng để đầu tư vào máy móc như máy cày, máy bơm nước, và xây dựng các vườn cây công nghiệp như cà phê và điều.
Tín dụng dài hạn là hoạt động cho vay có thời gian trên 5 năm, chủ yếu phục vụ cho việc đầu tư vào các dự án dài hạn như xây dựng nhà ở, mua sắm phương tiện vận tải, trang thiết bị máy móc, và xây dựng nhà xưởng mới.
2.1.4.3 Phân loại theo mức độ tín nhiệm đối với khách hàng
Tín dụng có tài sản bảo đảm (TSBĐ) là hình thức tín dụng mà các khoản vay đều phải có tài sản thế chấp, bao gồm cầm cố, thế chấp, chiết khấu và bảo lãnh Loại hình này còn được gọi là tín dụng thế chấp Theo tác giả Lê Văn Tề (2010), tín dụng có TSBĐ được ngân hàng cung ứng và yêu cầu phải có tài sản thế chấp hoặc cầm cố, hoặc sự bảo lãnh từ bên thứ ba.
Cơ sở lý thuyết về khả năng trả nợ của khách hàng
2.2.1 Khái quát về tín dụng doanh nghiệp
"Nợ xấu" trong tiếng Anh được gọi là bad debt, non-performing loan hoặc doubtful debt, và được xác định khi các khoản cho vay đã quá hạn trả nợ gốc và lãi từ 90 ngày trở lên (Rose, 2009; Nguyễn Thị Hồng Vinh, 2017).
Theo AEG (2004) và nghiên cứu của Nguyễn Thị Hồng Vinh (2017), nợ xấu được xác định là các khoản vay quá hạn thanh toán lãi và/hoặc gốc từ 90 ngày trở lên, hoặc các khoản lãi suất quá hạn đã được vốn hóa, cơ cấu lại hoặc trì hoãn theo thỏa thuận Ngoài ra, nợ xấu cũng có thể được xác định khi các khoản thanh toán đến hạn dưới 90 ngày nhưng có lý do nghi ngờ khả năng trả nợ Tóm lại, nợ xấu phụ thuộc vào hai yếu tố chính: quá hạn trên 90 ngày và nghi ngờ khả năng trả nợ.
Trong IMF (2004), Quỹ Tiền tệ Thế giới IMF đưa ra định nghĩa về nợ xấu là
Khoản vay được coi là nợ xấu khi quá hạn thanh toán gốc hoặc lãi từ 90 ngày trở lên, hoặc khi lãi suất đã quá hạn 90 ngày được vốn hóa, cơ cấu lại, hoặc trì hoãn theo thỏa thuận Ngoài ra, nếu khoản thanh toán đến hạn dưới 90 ngày nhưng có dấu hiệu rõ ràng cho thấy người vay không thể hoàn trả nợ đầy đủ, khoản vay cũng sẽ bị xếp vào danh mục nợ xấu Từ thời điểm khoản vay được phân loại là nợ xấu, nó cùng với bất kỳ khoản vay thay thế nào sẽ tiếp tục được xem là nợ xấu cho đến khi nợ được xóa hoặc thu hồi được lãi và gốc.
Theo IMF (2004) và AEG (2004), nợ xấu được định nghĩa là các khoản phải thanh toán quá hạn 90 ngày với nghi ngờ về khả năng thanh toán đầy đủ Mặc dù chưa có sự đồng thuận về khái niệm khả năng trả nợ của khách hàng và doanh nghiệp, Basel II đề xuất hai tiêu chí để đánh giá khả năng không trả nợ: (1) Khách hàng không thể thực hiện nghĩa vụ thanh toán khi đến hạn mà không tính đến việc bán tài sản để hoàn trả; (2) Khách hàng có nợ xấu quá hạn trên 90 ngày Đặc biệt, các khoản thấu chi được coi là quá hạn khi khách hàng vượt hạn mức hoặc được thông báo hạn mức thấp hơn dư nợ hiện tại (Basel, 1999; Nguyễn Thị Yến Nhi, 2016).
Theo nghiên cứu của Yunus (1999), khả năng trả nợ của người đi vay được xác định dựa trên ba yếu tố chính: tính cách, năng lực và vốn Bên cạnh đó, Olotomola (2002) cho rằng khả năng trả nợ còn phụ thuộc vào đặc điểm của người cho vay, người đi vay và khoản vay Những yếu tố này có thể ảnh hưởng đến tình trạng nợ quá hạn hoặc nợ xấu.
Khả năng trả nợ vay của khách hàng, theo Pottow (2011), được xác định dựa trên nhiều yếu tố như lịch sử tín dụng, thu nhập hiện tại và dự kiến trong tương lai, các nghĩa vụ tài chính hiện tại, tỷ lệ nợ trên thu nhập và các nghĩa vụ liên quan đến thế chấp Chủ nợ sẽ đánh giá khả năng trả nợ của khách hàng thông qua lịch thanh toán và các khoản thanh toán lãi định kỳ trong thời gian vay.
Tại Việt Nam, căn cứ theo Thông tư 02/2013/TT-NHNN ngày 21/01/2013 quy định về việc phân loại khoản nợ theo phương pháp định lượng, định tính như sau:
Bảng 2.1: Các điểm khác nhau giữa tín dụng KHCN và KHDN Đặc tính Tín dụng KHCN Tín dụng KHDN
Nhằm phục vụ nhu cầu tiêu dùng cá nhân hoặc sản xuất, kinh doanh nhỏ lẻ, cá nhân, hộ gia đình
Mua sắm tài sản cố định, máy móc, phương tiện sản xuất, mở rộng quy mô kinh doanh, bổ sung nguồn vốn lưu động, mua sắm hàng hóa…
Từ nguồn lương, nguồn thu nhập tự kinh doanh
Từ lợi nhuận từ hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp
Thủ tục, giấy tờ, yêu cầu để thẩm định khoản vay đơn giản, hoàn tất trong thời gian ngắn
Thủ tục, giấy tờ, yêu cầu để thẩm định khoản vay phức tạp hơn, tiêu tốn nhiều thời gian hơn
Mức độ rủi ro trong việc trả nợ vay có thể biến động nhanh chóng, phụ thuộc vào tình trạng công việc, sức khỏe cá nhân và khả năng quản lý Điều này thường khiến cá nhân gặp khó khăn hơn so với doanh nghiệp trong việc duy trì ổn định tài chính.
Mức độ rủi ro thấp hơn (trình độ quản lý, kinh doanh tốt hơn)
Lãi suất vay cao (do quy mô khoản vay nhỏ nên chi phí thẩm định, hành chính, quản lý tín dụng trên mỗi đơn vị cho vay cao)
Lãi suất vay thấp hơn (quy mô khoản vay lớn nên chi phí tính trên đơn vị thấp hơn)
Chủ yếu là các khoản vay ngắn hạn và trung hạn theo quy định của các tổ chức tín dụng, với thời hạn vay linh hoạt phù hợp với vòng quay vốn của khách hàng và nhu cầu đầu tư cho dự án hoặc mua sắm tài sản cố định.
Nguồn: Thông tư 02/2013/TT-NHNN; Nguyễn Thị Yến Nhi, 2016
2.2.2 Khả năng trả nợ của khách hàng doanh nghiệp
Khả năng trả nợ của khách hàng doanh nghiệp (KHDN) là yếu tố quan trọng mà ngân hàng xem xét để đánh giá liệu KHDN có thực hiện đúng hạn các nghĩa vụ tài chính theo hợp đồng tín dụng hay không Để xác định khả năng này, ngân hàng thường dựa vào các tiêu chí như năng lực tài chính, lịch sử giao dịch tín dụng, thiện chí trả nợ của khách hàng, năng lực quản lý lãnh đạo và tài sản thế chấp Tại Việt Nam, các tổ chức tín dụng phân loại nợ thành 5 nhóm theo Thông tư 02/2013/TT-NHNN, với nhiều sửa đổi từ năm 2005 đến 2015 nhằm xử lý rủi ro tín dụng Văn bản mới nhất là Thông tư số 22/VBHNNHNN, ban hành ngày 04 tháng 6 năm 2014, đã cập nhật quy định về phân loại nợ, trong đó Nhóm 1 (Nợ đủ tiêu chuẩn) là một trong những nhóm quan trọng.
(i) Nợ trong hạn và được đánh giá là có khả năng thu hồi đầy đủ cả nợ gốc và lãi đúng hạn;
Nợ quá hạn dưới 10 ngày có khả năng thu hồi đầy đủ cả gốc lẫn lãi đúng thời hạn.
(iii) Nợ được phân loại vào nhóm 1 theo quy định tại khoản 2 Điều này b) Nhóm 2 (Nợ cần chú ý) bao gồm:
(i) Nợ quá hạn từ 10 ngày đến 90 ngày;
(ii) Nợ điều chỉnh kỳ hạn trả nợ lần đầu;
(iii) Nợ được phân loại vào nhóm 2 theo quy định tại khoản 2 và khoản 3 Điều này c) Nhóm 3 (Nợ dưới tiêu chuẩn) bao gồm:
(i) Nợ quá hạn từ 91 ngày đến 180 ngày;
(ii) Nợ gia hạn nợ lần đầu;
(iii) Nợ được miễn hoặc giảm lãi do khách hàng không đủ khả năng trả lãi đầy đủ theo hợp đồng tín dụng;… d) Nhóm 4 (Nợ nghi ngờ) bao gồm:
(i) Nợ quá hạn từ 181 ngày đến 360 ngày;
(ii) Nợ cơ cấu lại thời hạn trả nợ lần đầu quá hạn dưới 90 ngày theo thời hạn trả nợ được cơ cấu lại lần đầu;
(iii) Nợ cơ cấu lại thời hạn trả nợ lần thứ hai;
(iv) Khoản nợ quy định tại điểm c (iv) khoản 1 Điều này quá hạn từ 30 ngày đến 60 ngày kể từ ngày có quyết định thu hồi;
(v) Nợ phải thu hồi theo kết luận thanh tra nhưng đã quá thời hạn thu hồi đến 60 ngày mà vẫn chưa thu hồi được;
(vi) Nợ được phân loại vào nhóm 4 theo quy định tại khoản 2 và khoản 3 Điều này đ) Nhóm 5 (Nợ có khả năng mất vốn) bao gồm:
(i) Nợ quá hạn trên 360 ngày;
(ii) Nợ cơ cấu lại thời hạn trả nợ lần đầu quá hạn từ 90 ngày trở lên theo thời hạn trả nợ được cơ cấu lại lần đầu;
(iii) Nợ cơ cấu lại thời hạn trả nợ lần thứ hai quá hạn theo thời hạn trả nợ được cơ cấu lại lần thứ hai;
Nợ cơ cấu lại thời hạn trả nợ từ lần thứ ba trở lên, bao gồm cả trường hợp chưa quá hạn hoặc đã quá hạn Đặc biệt, khoản nợ quy định tại điểm c (iv) khoản 1 Điều này phải quá hạn trên 60 ngày kể từ ngày có quyết định thu hồi.
(vi) Nợ phải thu hồi theo kết luận thanh tra nhưng đã quá thời hạn thu hồi trên 60 ngày mà vẫn chưa thu hồi được;
Nợ của khách hàng là các tổ chức tín dụng mà Ngân hàng Nhà nước đã công bố vào tình trạng kiểm soát đặc biệt, cũng như các chi nhánh ngân hàng nước ngoài bị phong tỏa vốn và tài sản.
(viii) Nợ được phân loại vào nhóm 5 theo quy định tại khoản 3 Điều này
Dựa trên các quy định và khái niệm tại Việt Nam cùng với những quan điểm của các nhà nghiên cứu quốc tế, khả năng trả nợ của khách hàng được thể hiện trong bảng dưới đây.
Bảng 2.2: Phân loại khả năng trả nợ của khách hàng Loại khách hàng Khả năng thanh toán Phân loại nợ
Có khả năng trả nợ - Không có nợ quá hạn
- Nợ quá hạn ≤ 90 ngày Nhóm 1-2
Không có khả năng trả nợ - Nợ quá hạn > 90 ngày
Nguồn: Thông tư 02/2013/TT-NHNN; Đoàn Thị Thùy Trang, 2017
Bảng 2.2 chỉ ra khả năng trả nợ của khách hàng trong các nhóm nợ 1 và 2, trong khi những khách hàng thuộc nhóm nợ 3 đến 5 không có khả năng trả nợ.
Trong nghiên cứu này, tác giả chú trọng đến khách hàng doanh nghiệp, bao gồm cả doanh nghiệp nhỏ và vừa (DNNVV) cùng với doanh nghiệp lớn, theo cách phân loại của Vietcombank thông qua số CIF.
Các mô hình đo lường khả năng trả nợ của khách hàng doanh nghiệp
Hệ thống Chuyên gia là phương pháp truyền thống phổ biến nhất để đánh giá rủi ro tín dụng Khi các ngân hàng thương mại tiếp nhận đơn xin vay vốn cho dự án cụ thể, họ có thể tổ chức hội đồng chuyên gia để đưa ra quyết định dựa trên thông tin định tính và định lượng Điều này cho thấy rằng chuyên môn và đánh giá chủ quan của các chuyên gia đóng vai trò quan trọng trong quá trình ra quyết định.
Theo Sinkey (2007) được trích dẫn trong tài liệu của Heffernan (2005), các chuyên gia phân tích năm yếu tố quan trọng được gọi là "5 Cs" và đưa ra quyết định dựa trên sự cân bằng chủ quan giữa các yếu tố này.
Mô hình 6Cs trong xét duyệt khoản vay bao gồm tư cách người vay, thu nhập, vốn, bảo đảm tiền vay và các điều kiện Trọng tâm của mô hình này là đánh giá thiện chí và khả năng thanh toán của người vay khi đến hạn.
Cán bộ tín dụng cần xác định rõ mục đích vay của khách hàng và đánh giá xem mục đích đó có phù hợp với chính sách tín dụng hiện hành của ngân hàng hay không Đồng thời, cần xem xét lịch sử vay và trả nợ của khách hàng cũ, còn với khách hàng mới, việc thu thập thông tin từ nhiều nguồn như Trung tâm phòng ngừa rủi ro là rất quan trọng.
NH khác, hoặc các cơ quan thông tin đại chúng …
Năng lực của người vay, hay còn gọi là Capacity, được xác định theo quy định của pháp luật từng quốc gia Để thực hiện giao dịch vay, người vay cần có năng lực pháp luật dân sự và năng lực hành vi dân sự đầy đủ.
Để đánh giá khả năng trả nợ của người vay, trước tiên cần xác định nguồn thu nhập, bao gồm doanh thu từ bán hàng, thu nhập cá nhân, tiền từ thanh lý tài sản hoặc phát hành chứng khoán Tiếp theo, cần phân tích tình hình tài chính của doanh nghiệp vay vốn thông qua các tỷ số tài chính để có cái nhìn tổng quan về khả năng chi trả.
Bảo đảm tiền vay, hay còn gọi là tài sản thế chấp, là điều kiện quan trọng để ngân hàng cấp tín dụng Đây cũng là nguồn tài sản thứ hai mà khách hàng có thể sử dụng để thanh toán nợ vay cho ngân hàng.
- Các điều kiện (Conditions): NH quy định các điều kiện tùy theo chính sách tín dụng theo từng thời kỳ
Kiểm soát là quá trình đánh giá ảnh hưởng của sự thay đổi luật pháp và quy chế hoạt động đến khả năng của khối doanh nghiệp trong việc đáp ứng các tiêu chuẩn của ngân hàng.
2.3.2 Mô hình điểm số Z-score Đây là mô hình do E.I Altman (1968) xây dựng dùng để cho điểm tín dụng đối với các doanh nghiệp vay vốn Đại lượng Z được sử dụng làm thước đo tổng hợp phân loại RRTD đối với khách hàng và phụ thuộc vào trị số của các chỉ số tài chính của nkhách hàng Tầm quan trọng của các chỉ số này trong việc xác định xác suất vỡ nợ của người vay trong quá khứ Từ đó mô hình tính điểm được xây dựng như sau:
X1 = Hệ số vốn lưu động / tổng tài sản
X2 = Hệ số lãi chưa phân phối / tổng tài sản
X3 = Hệ số lợi nhuận trước thuế và lãi/ tổng tài sản
X4 = Hệ số giá trị thị trường của tổng vốn sở hữu/giá trị hạch toán của tổng nợ
X5 = Hệ số doanh thu/ tổng tài sản
Trị số Z càng cao, thì người vay có xác suất vỡ nợ càng thấp Trường hợp trị số
Z thấp hoặc là một số âm sẽ là căn cứ xếp khách hàng vào nhóm có nguy cơ vỡ nợ cao
Z < 1,81 : Khách hàng có khả năng rủi ro cao
Z > 3 : Khách hàng không có khả năng vỡ nợ
Theo mô hình điểm Z của Altman, các công ty có điểm Z thấp hơn 1,81 được phân loại vào nhóm có nguy cơ rủi ro tài chính cao Dựa trên điểm Z, các ngân hàng thương mại có thể thực hiện xếp hạng tín dụng cho khách hàng, từ đó đánh giá chất lượng tín dụng và khả năng trả nợ của những người vay vốn (Lê Tất Thành, 2012).
2.3.3 Mô hình CreditMetrics (mô hình ma trận tín nhiệm/ mô hình VaR)
Mô hình CreditMetrics, được JP Morgan công bố lần đầu tiên vào năm 1997, dựa trên phân tích di chuyển tín dụng, tức là xác suất chuyển đổi giữa các chất lượng tín dụng khác nhau, bao gồm cả vỡ nợ, trong khoảng thời gian một năm Mặc dù có nguồn gốc từ mô hình Merton, CreditMetrics có sự khác biệt quan trọng khi xác định ngưỡng phá sản dựa trên xếp hạng tín dụng, thay vì dựa vào các khoản nợ Điều này cho phép mô hình xác định cả xác suất vỡ nợ và xác suất suy giảm tín dụng một cách hiệu quả.
Dựa trên hệ thống dữ liệu nội bộ để xác định khả năng tổn thất tín dụng:
• PD: Probability of Default – xác suất khách hàng không trả được nợ;
• LGD: Loss Given Default – tỷ trọng tổn thất ước tính;
• EAD: Exposure at Default – tổng dư nợ của khách hàng tại thời điểm khách hàng không trả được nợ;
• EL: Expected Loss – tổn thất có thể ước tính
2.3.4 Mô hình của Pederzoli và Torricelli (2010)
Dựa trên mô hình của Beaver (1966) và Altman (1968), Pederzoli và Torricelli (2010) đã phát triển một mô hình nghiên cứu nhằm xác định điểm tín dụng cho các doanh nghiệp vừa và nhỏ tại vùng Emilia Romagna, Ý Mô hình này dựa trên giả định rằng rủi ro tài chính có tác động trực tiếp đến rủi ro tín dụng của các doanh nghiệp Nhóm tác giả đã sử dụng các chỉ tiêu tài chính cùng với trọng số để đo lường xác suất vỡ nợ của các doanh nghiệp quy mô vừa và nhỏ.
PD=1/{1+[exp(2.86+3.46LTLA+3.52EBITA + 11.18EQUYTYA+0.43SALESA)]} Trong đó:
- Biến phụ thuộc PD thể hiện xác suất vỡ nợ của KHDN
- Các biến độc lập bao gồm:
+ LTLA = Nợ dài hạn/Tổng tài sản
+ EBITA = Lợi nhuận trước thuế/Tổng tài sản
+ EQUYTYA = Nợ phải trả/Tổng tài sản
+ SALESA = Doanh thu/Tổng tài sản
Xác suất vỡ nợ (PD) cao đồng nghĩa với khả năng trả nợ của doanh nghiệp (KHDN) thấp và ngược lại Nghiên cứu sử dụng bốn chỉ tiêu tài chính cơ bản: tổng tài sản, nợ phải trả, doanh thu và lợi nhuận từ bảng cân đối kế toán để phân tích ảnh hưởng của các chỉ tiêu này đến khả năng trả nợ của KHDN Kết quả nghiên cứu của Pederzoli và Torricelli (2010) đã xác nhận các mô hình cấu trúc tương tự như các mô hình Merton.
Các nghiên cứu có liên quan
2.4.1 Các nghiên cứu nước ngoài
Nghiên cứu của Hol và cộng sự (2002) đã phân tích các yếu tố ảnh hưởng đến khả năng phá sản của doanh nghiệp Na-Uy thông qua hồi quy Logistic, sử dụng dữ liệu từ báo cáo tài chính của 1394 công ty TNHH trong giai đoạn 1995-2000, với yêu cầu tổng tài sản hoặc tổng doanh thu tối thiểu 12,500 đô-la Mỹ Kết quả chỉ ra rằng các biến quan trọng dự đoán khả năng phá sản bao gồm tỷ số nợ trên tài sản, dòng tiền và độ lệch chuẩn của dòng tiền.
Altman và cộng sự (2004) đã phát triển mô hình phân tích xác suất vỡ nợ của doanh nghiệp dựa trên các biến tài chính như độ tuổi, quy mô, tốc độ tăng trưởng tài sản, lợi nhuận, đòn bẩy và thanh khoản, cùng với các yếu tố rủi ro hệ thống như tăng trưởng GDP, sản xuất công nghiệp, lòng tin, tăng trưởng tín dụng và lãi suất trái phiếu Điều này cho thấy rằng rủi ro tín dụng có thể được đánh giá thông qua các đặc điểm vĩ mô và vi mô của khách hàng Đồng thời, Jiménez và Saurina (2003) đã nghiên cứu các yếu tố quyết định xác suất vỡ nợ (PD) của khoản vay ngân hàng, tập trung vào mối quan hệ giữa tài sản đảm bảo, loại khoản vay và mối quan hệ giữa ngân hàng và khách hàng Nghiên cứu dựa trên dữ liệu từ 3 triệu khoản vay của các tổ chức tín dụng ở Tây Ban Nha từ năm 1988 đến 2000, cho thấy rằng các yếu tố như tài sản đảm bảo, loại sản phẩm tín dụng, thời hạn vay, quy mô khoản vay, ngành nghề kinh doanh và khu vực hoạt động có ảnh hưởng đáng kể đến khả năng trả nợ của khách hàng.
Mô hình nghiên cứu của Niua (2008) phân tích mối quan hệ giữa các khoản vay có tài sản bảo đảm (TSBĐ) và khả năng trả nợ của khách hàng doanh nghiệp (KHDN) tại ProCreditBank trong giai đoạn 2004-2007, sử dụng mô hình Logistic với biến phụ thuộc là tỷ lệ khoản vay không hoàn trả (LLR) Kết quả cho thấy TSBĐ có mối quan hệ đồng biến với LLR ở mức ý nghĩa 1%, nghĩa là tỷ lệ TSBĐ tăng thì tỷ lệ khoản vay không hoàn trả cũng tăng Nghiên cứu chỉ ra rằng các khoản vay tín chấp có xác suất hoàn trả cao hơn so với các khoản vay thế chấp Hơn nữa, tỷ lệ cho vay cuối cùng ảnh hưởng tiêu cực tới LLR, cho thấy khách hàng được cấp tín dụng đúng nhu cầu sẽ trả nợ tốt hơn Các công ty lớn có xu hướng LLR cao hơn do nhu cầu vốn lớn và nghĩa vụ trả nợ cao Mặc dù số tiền vay và thời gian vay có tác động ngược chiều với LLR, nhưng ảnh hưởng không đáng kể Biến xếp loại khách hàng có mối quan hệ đồng biến với LLR ở mức ý nghĩa 1%, cho thấy thời gian quan hệ với ngân hàng ảnh hưởng đến nguy cơ vỡ nợ Cuối cùng, các khoản vay của KHDN có cùng địa bàn với ngân hàng dễ kiểm soát hơn, giảm nguy cơ không thu hồi được nợ, và các doanh nghiệp trong lĩnh vực lương thực thực phẩm có LLR cao hơn các ngành khác với mức ý nghĩa 10%.
Chiara Pederzoli và Costanza Torricelli (2010) đã phát triển một mô hình dựa trên nghiên cứu của Altman (1968) để xác định điểm tín dụng cho các doanh nghiệp vay vốn, với giả định rằng rủi ro tài chính của doanh nghiệp ảnh hưởng trực tiếp đến rủi ro tín dụng Trong khi Altman sử dụng đại lượng Z để phân loại rủi ro tín dụng dựa trên các tỷ số tài chính và xác suất vỡ nợ trong quá khứ, Pederzoli và Torricelli lại áp dụng các chỉ tiêu tài chính và trọng số để đo lường xác suất vỡ nợ cho doanh nghiệp nhỏ và siêu nhỏ Nghiên cứu đã chỉ ra bốn biến độc lập dự báo tốt nhất cho xác suất vỡ nợ, bao gồm: Nợ dài hạn/tổng tài sản, Lợi nhuận trước thuế/tổng tài sản, Nợ phải trả/tổng tài sản, và Doanh thu/tổng tài sản.
2.4.2 Các nghiên cứu trong nước
Nghiên cứu của Trương Đông Lộc (2010) và Trương Đông Lộc cùng Nguyễn Thị Tuyết (2011) đã chỉ ra các nhân tố ảnh hưởng đến rủi ro tín dụng của ngân hàng thông qua mô hình xác suất probit và logit Các tác giả đã phân tích yếu tố tài chính và phi tài chính từ hồ sơ khách hàng vay, đồng thời quan sát hoạt động kinh doanh và yếu tố của ngân hàng Kết quả nghiên cứu xác định các yếu tố chính bao gồm khả năng tài chính của người vay, đảm bảo nợ vay, lĩnh vực ngành nghề tạo ra thu nhập để trả nợ, giám sát nợ vay, và kinh nghiệm của cán bộ tín dụng cũng như người vay Tuy nhiên, hạn chế của nghiên cứu là chỉ áp dụng cho các ngân hàng thương mại nhà nước tại khu vực Đồng bằng Sông Cửu Long, do đó kết quả chưa mang tính khái quát cao.
Trong bài nghiên cứu "Các yếu tố ảnh hưởng đến rủi ro tín dụng của Ngân hàng TMCP Ngoại Thương CN TP Cần Thơ", Trương Đông Lộc và Nguyễn Thị Tuyết đã phân tích các yếu tố chính tác động đến rủi ro tín dụng tại ngân hàng này Nghiên cứu chỉ ra rằng các yếu tố như tình hình tài chính của khách hàng, chính sách tín dụng và môi trường kinh tế vĩ mô có ảnh hưởng đáng kể đến rủi ro tín dụng Qua đó, tác giả đề xuất các giải pháp nhằm giảm thiểu rủi ro và nâng cao hiệu quả quản lý tín dụng cho ngân hàng.
Nghiên cứu năm 2011 đã xác nhận các kết quả tương tự như nghiên cứu năm 2010, nhưng bổ sung thêm hai yếu tố mới ảnh hưởng đến rủi ro tín dụng: việc sử dụng vốn vay của khách hàng và mức độ đa dạng hóa hoạt động kinh doanh Đáng lưu ý, nghiên cứu này không xem xét biến ngành nghề kinh doanh chính Tương tự, nghiên cứu chỉ được thực hiện tại Ngân hàng Thương mại Cổ phần Ngoại Thương Chi nhánh.
TP Cần Thơ, tuy nhiên nó lại phản ánh tương đối đúng về thực tế của NH Ngoại thương Chi nhánh TP Cần Thơ
Nghiên cứu của Lê Khương Ninh và Lê Thị Thu Diềm (2012) đã áp dụng phương pháp định lượng để phân tích các yếu tố tác động đến khả năng trả nợ của các doanh nghiệp.
Nghiên cứu được thực hiện trên 250 doanh nghiệp tại Cần Thơ trong giai đoạn 2010 – 2012, nhằm xác định các yếu tố ảnh hưởng đến khả năng trả nợ của doanh nghiệp Các yếu tố bao gồm đòn bẩy tài chính, dòng tiền tự do, ROA, ROE, dòng tiền, vốn lưu động, thanh khoản, khả năng hoạt động, quy mô doanh nghiệp, kinh nghiệm hoạt động và lĩnh vực hoạt động Kết quả cho thấy đòn bẩy tài chính có mối quan hệ nghịch biến với khả năng trả nợ ở mức ý nghĩa 1%, do nhiều doanh nghiệp có tỷ lệ nợ cao so với vốn chủ sở hữu Ngược lại, tỷ suất lợi nhuận ROE cao giúp cải thiện khả năng trả nợ Hơn nữa, dòng tiền có mối quan hệ đồng biến với khả năng trả nợ, cho thấy doanh nghiệp có dòng tiền mạnh sẽ dễ dàng tài trợ cho hoạt động sản xuất và thanh toán nợ vay.
Nguyễn Thùy Dương và Nguyễn Thanh Tùng (2013) đã áp dụng mô hình hồi quy Logit nhị thức để phân tích rủi ro của khoản vay từ Tập đoàn kinh tế Nhà nước tại các ngân hàng thương mại Việt Nam, với mẫu khảo sát gồm 490 khách hàng trong giai đoạn 2007 – 2011 Nghiên cứu chỉ ra rằng, với độ tin cậy 90%, khả năng không hoàn trả nợ vay đúng hạn và trong vòng 90 ngày của khách hàng là Tập đoàn kinh tế Nhà nước cao hơn so với các doanh nghiệp khác Điều này có thể do Tập đoàn kinh tế Nhà nước thường có mối quan hệ lâu dài với ngân hàng, đáp ứng tốt các điều kiện vay và mục đích vay thường tập trung vào lĩnh vực bất động sản và xây dựng với giá trị khoản vay lớn Ngoài ra, giá trị khoản vay và tài sản đảm bảo đều có ảnh hưởng tích cực đến khả năng không trả nợ của khách hàng, trong khi doanh nghiệp nhà nước cũng có tác động tương tự.
Nghiên cứu của Nguyễn Thị Yến Nhi (2016) về khả năng trả nợ của khách hàng doanh nghiệp tại Ngân hàng Thương mại Cổ phần Quân đội đã sử dụng mô hình hồi quy Logistic, xác định 6 yếu tố ảnh hưởng đến khả năng này, bao gồm kinh nghiệm hoạt động, dư nợ, doanh thu thuần/tổng tài sản, tỷ suất sinh lợi trên vốn chủ sở hữu, lãi suất vay và thời gian vay Mặc dù một số biến như ngành nghề, tỷ số nợ phải trả/tổng tài sản và điểm phi tài chính cũng có tác động, nhưng không được đưa vào mô hình Đoàn Thị Thuỳ Trang (2017) tiếp tục nghiên cứu tại Vietcombank TP.Hồ Chí Minh, chỉ ra rằng vốn chủ sở hữu/tổng tài sản, quy mô doanh nghiệp, loại hình DNNN và vốn lưu động/tổng tài sản đều ảnh hưởng tích cực đến khả năng trả nợ, trong khi thời gian vay lại có tác động ngược Nghiên cứu này đề xuất ứng dụng mô hình thực nghiệm vào quản lý rủi ro tín dụng tại ngân hàng.
Tóm lại, các nghiên cứu trước đây đã đề cập đến cơ sở lý thuyết về tín dụng
NHTM đánh giá khả năng trả nợ của khách hàng doanh nghiệp, với nhiều nghiên cứu trong và ngoài nước tập trung vào các yếu tố ảnh hưởng đến khả năng phá sản hoặc khả năng trả nợ của các KHDN Những nghiên cứu này thường sử dụng các mô hình hồi quy nhị phân (Binary Logistic), mô hình xác suất (probit) hoặc mô hình xác suất tuyến tính (logit) để phân tích.
Mặc dù các nghiên cứu về khả năng trả nợ của doanh nghiệp tại ngân hàng thương mại có chung mục tiêu và phương pháp, nhưng kết quả vẫn chưa thống nhất giữa các công trình trong và ngoài nước Đặc biệt, chưa có nghiên cứu nào xác định và kiểm định cụ thể các nhân tố ảnh hưởng đến khả năng trả nợ của doanh nghiệp tại Vietcombank Bình Dương Do đó, luận văn này tổng hợp và kế thừa các nghiên cứu trước đó liên quan đến các yếu tố ảnh hưởng đến khả năng trả nợ của doanh nghiệp tại Vietcombank Bình Dương.
Các nhân tố ảnh hưởng đến khả năng trả nợ của khách hàng doanh nghiệp tại ngân hàng và mô hình nghiên cứu đề xuất
2.5.1 Các nhân tố ảnh hưởng đến khả năng trả nợ của khách hàng doanh nghiệp tại ngân hàng
Dựa trên nghiên cứu của nhiều tác giả như Jiménez và Saurina (2003), Altman và cộng sự (2004), Niua (2008), Chiara Pederzoli & Costanza Torricelli (2010), Trương Đông Lộc (2010), Trương Đông Lộc và Nguyễn Thị Tuyết (2011), Lê Khương Ninh và Lê Thị Thu Diềm (2012), Nguyễn Thùy Dương và Nguyễn Thanh Tùng (2013), Nguyễn Thị Yến Nhi (2016), và Đoàn Thị Thùy Trang (2017), các yếu tố ảnh hưởng đến khả năng trả nợ của doanh nghiệp được tổng hợp và trình bày trong bảng dưới đây.
Bảng 2.3: Các nhân tố ảnh hưởng đến khả năng trả nợ của KHDN
STT Nhân tố Nghiên cứu Đề xuất của luận văn
Ohlson (1980); Cassar (2004); Lê Khương Ninh và Lê Thị Thu Diềm (2012); Nguyễn Thị Yến Nhi (2016); Đoàn Thị Thùy Trang
2 Hiệu quả kinh doanh Pederzoli và Torricelli (2010); Lê Khương
Ninh và Lê Thị Thu Diềm (2012); Nguyễn Thị Yến Nhi (2016)
Trương Đông Lộc (2010); Trương Đông Lộc và Nguyễn Thị Tuyết (2011); Nguyễn Thùy Dương và Nguyễn Thanh Tùng (2013);
Nguyễn Thùy Dương và Nguyễn Thanh Tùng (2013); Đoàn Thị Thùy Trang (2017)
Nguyễn Thùy Dương và Nguyễn Thanh Tùng (2013); Nguyễn Thị Yến Nhi (2016)
Nguyễn Thị Yến Nhi (2016); Đoàn Thị Thùy Trang (2017)
7 Lãi suất vay Flannery (1986); Nguyễn Thị Yến Nhi
Hol và cộng sự (2002); Altman và cộng sự (2004); Pederzoli và Torricelli (2010); Lê Khương Ninh và Lê Thị Thu Diềm (2012);
Park và Han (2002); Pederzoli và Torricelli (2010); Nguyễn Thị Yến Nhi (2016); Đoàn Thị Thùy Trang (2017)
Dòng tiền; và Độ lệch chuẩn của dòng tiền
Hol và cộng sự (2002); Lê Khương Ninh và
11 Số năm hoạt động Ongena và Smith (2001); Le và Nguyen
12 Xếp hạng tín dụng Nguyễn Thị Yến Nhi (2016)
Yếu tố liên quan đến ngân hàng (kinh nghiệm CBTD…)
Trương Đông Lộc (2010); Trương Đông Lộc và Nguyễn Thị Tuyết (2011)
14 Yếu tố liên quan đến môi trường vĩ mô Altman và cộng sự (2004)
Nguồn: tác giả tổng hợp
Dựa trên nghiên cứu của Ohlson (1980), Cassar (2004), Lê Khương Ninh và Lê Thị Thu Diềm (2012), Nguyễn Thị Yến Nhi (2016), và Đoàn Thị Thùy Trang (2017), tác giả xác định rằng quy mô doanh nghiệp có ảnh hưởng đáng kể đến khả năng trả nợ của các doanh nghiệp Quy mô doanh nghiệp được phân loại thành doanh nghiệp lớn, vừa và nhỏ, và việc lựa chọn quy mô khi thành lập doanh nghiệp phụ thuộc vào nhiều yếu tố như tổng tài sản, nguồn vốn, năng lực tài chính, và doanh số giao dịch Trong nghiên cứu này, quy mô doanh nghiệp được đo lường dựa trên tổng tài sản.
Quy mô DN= ln (tổng tài sản) 2.5.1.2 Hiệu quả kinh doanh
Hiệu quả kinh doanh là một đại lượng so sánh giữa đầu vào và đầu ra, thể hiện qua chi phí kinh doanh và kết quả đạt được Adam Smith định nghĩa hiệu quả là doanh thu từ hoạt động kinh tế Điều này cho thấy hiệu quả phản ánh kết quả kinh doanh, có thể do việc tăng chi phí trong việc sử dụng nguồn lực sản xuất Nếu hai mức chi phí khác nhau đạt cùng một kết quả, doanh nghiệp vẫn được coi là đạt hiệu quả Các chỉ tiêu đo lường hiệu quả kinh doanh bao gồm lợi nhuận ròng trên tổng tài sản và lợi nhuận ròng trên vốn chủ sở hữu Nghiên cứu sử dụng chỉ tiêu ROA để đo lường hiệu quả kinh doanh, dựa trên các nghiên cứu trước đó của Pederzoli và Torricelli (2010); Lê Khương Ninh và Lê Thị Thu Diềm (2012); Nguyễn Thị Yến Nhi (2016).
Tài sản bảo đảm là tài sản mà bên bảo đảm sử dụng để đảm bảo thực hiện nghĩa vụ dân sự đối với bên nhận bảo đảm Theo Điều 105 Bộ luật Dân sự 2015, tài sản bao gồm vật, tiền, giấy tờ có giá và quyền tài sản, trong đó có cả bất động sản và động sản Điều 295 Bộ luật Dân sự 2015 quy định rõ về tài sản bảo đảm.
- Tài sản bảo đảm phải thuộc quyền sở hữu của bên bảo đảm, trừ trường hợp cầm giữ tài sản, bảo lưu quyền sở hữu
- Tài sản bảo đảm có thể được mô tả chung, nhưng phải xác định được
- Tài sản bảo đảm có thể là tài sản hiện có hoặc tài sản hình thành trong tương lai
- Giá trị của tài sản bảo đảm có thể lớn hơn, bằng hoặc nhỏ hơn giá trị nghĩa vụ được bảo đảm
Nghiên cứu của các tác giả như Jiménez và Saurina (2003), Niua (2008), Trương Đông Lộc (2010), Trương Đông Lộc và Nguyễn Thị Tuyết (2011), Nguyễn Thùy Dương và Nguyễn Thanh Tùng (2013), cùng Nguyễn Thị Yến Nhi (2016) chỉ ra rằng yếu tố tài sản đảm bảo (TSĐB) được xem là biến giả trong phân tích Cụ thể, giá trị của biến này là 1 nếu doanh nghiệp (KHDN) có TSĐB cho khoản vay, và giá trị là 0 nếu KHDN không có TSĐB cho khoản vay.
Loại hình doanh nghiệp là hình thức kinh doanh mà cá nhân và tổ chức lựa chọn, phản ánh mục tiêu xây dựng của doanh nghiệp, như nhà nước, tư nhân, hợp tác xã Mỗi loại hình có cách xây dựng và phát triển riêng theo quy định pháp luật Theo Luật Doanh nghiệp 2014, có 5 loại hình doanh nghiệp: Công ty trách nhiệm hữu hạn (TNHH), Công ty cổ phần, Doanh nghiệp Nhà nước, Doanh nghiệp tư nhân và Công ty hợp danh.
Dựa trên nghiên cứu của các tác giả Jiménez và Saurina (2003), Niua (2008), Nguyễn Thùy Dương và Nguyễn Thanh Tùng (2013), cùng Đoàn Thị Thùy Trang (2017), yếu tố loại hình doanh nghiệp được xác định thông qua biến giả.
Trong đó, loại hình DN = 1 nếu KH sở hữu trên 50% vốn Nhà Nước; loại hình
DN = 0 nếu KH sở hữu dưới 50% vốn Nhà Nước
Giá trị khoản vay của khách hàng là tổng số tiền mà ngân hàng đã cho vay tại một thời điểm cụ thể Đây là số tiền ngân hàng cần thu hồi từ khách hàng để bảo vệ nguồn vốn của mình.
Nghiên cứu của Jiménez và Saurina (2003), Niua (2008), Nguyễn Thùy Dương và Nguyễn Thanh Tùng (2013), cùng với Nguyễn Thị Yến Nhi (2016) chỉ ra rằng giá trị khoản vay có thể được đo lường thông qua ln (dư nợ cho vay).
Thời hạn cho vay là khoảng thời gian bắt đầu từ ngày sau khi tổ chức tín dụng giải ngân vốn vay cho khách hàng, kéo dài đến khi khách hàng hoàn tất việc trả nợ gốc và lãi theo thỏa thuận Theo Thông tư số 39/2016/TT-NHNN, thời gian cho vay thường được tính theo tháng, dựa trên nghiên cứu của các tác giả như Jiménez và Saurina (2003), Niua (2008), Nguyễn Thị Yến Nhi (2016), và Đoàn Thị Thùy Trang (2017).
Lãi suất cho vay là khoản tiền mà người vay phải trả cho người cho vay theo thỏa thuận khi vay tiền hoặc tài sản Khi ký kết hợp đồng cho vay, hai bên sẽ thống nhất về số tiền vay, lãi suất và thời hạn trả nợ Thông tư 39/2016/TT-NHNN quy định cụ thể về lãi suất cho vay của các tổ chức tín dụng.
Tổ chức tín dụng và khách hàng sẽ thương thảo lãi suất cho vay dựa trên cung cầu vốn thị trường, nhu cầu vay và độ tin cậy của khách hàng Tuy nhiên, cần lưu ý rằng Ngân hàng Nhà nước Việt Nam có quy định về lãi suất cho vay tối đa theo khoản 2 Điều 13 của Thông tư 39.
Tổ chức tín dụng và khách hàng thống nhất lãi suất cho vay ngắn hạn bằng đồng Việt Nam, đảm bảo không vượt quá mức lãi suất tối đa do Thống đốc Ngân hàng Nhà nước Việt Nam quy định theo từng thời kỳ, nhằm đáp ứng nhu cầu vốn theo Thông tư 39.
Nghiên cứu của Flannery (1986); Nguyễn Thị Yến Nhi (2016), lãi suất cho vay là lãi suất tính trên số vốn mà bên vay phải trả kèm theo số tiền gốc
2.5.1.8 Đòn bẩy tài chính Đòn bẩy tài chính là mức độ sử dụng vốn vay trong tổng nguồn vốn của doanh nghiệp nhằm hy vọng gia tăng tỷ suất lợi nhuận ròng trên vốn chủ sở hữu (ROE) hay thu nhập trên một cổ phần thường (EPS) hệ số đòn bẩy tài chính đóng vai trò vô cùng quan trọng, là yếu tố và là căn cứ để xem xét và quyết định nguồn vốn của doanh nghiệp và nguồn lợi nhuận mà nhà đầu tư nhận được Đây là nguồn tài chính được sử dụng vốn vay để kinh doanh sinh lời thay vì doanh nghiệp sử dụng vốn tự có
Dựa trên các nghiên cứu của Hol và cộng sự (2002), Altman và cộng sự (2004), Pederzoli và Torricelli (2010), Lê Khương Ninh và Lê Thị Thu Diềm (2012), cùng với Nguyễn Thị Yến Nhi (2016), bài viết xem xét yếu tố đòn bẩy tài chính thông qua hai tiêu chí chính: tỷ lệ nợ phải trả trên tổng tài sản và tỷ lệ nợ dài hạn trên tổng tài sản.