Thực trạng giao kết và thực hiện hợp đồng mua bán hàng hóa quốc tế của các doanh nghiệp Việt Nam.Thực trạng giao kết và thực hiện hợp đồng mua bán hàng hóa quốc tế của các doanh nghiệp Việt Nam.Thực trạng giao kết và thực hiện hợp đồng mua bán hàng hóa quốc tế của các doanh nghiệp Việt Nam.Thực trạng giao kết và thực hiện hợp đồng mua bán hàng hóa quốc tế của các doanh nghiệp Việt Nam.Thực trạng giao kết và thực hiện hợp đồng mua bán hàng hóa quốc tế của các doanh nghiệp Việt Nam.
Tính cấp thiết của đề tài
Trong bối cảnh toàn cầu hóa và phát triển thương mại, sự giao lưu kinh tế giữa các quốc gia đã tạo ra những bước tiến quan trọng trong lịch sử kinh tế thế giới Các quốc gia không chỉ mua bán hàng hóa trong nước mà còn mở rộng giao dịch vượt biên giới Để thiết lập khung pháp lý cho hoạt động mua bán hàng hóa, đặc biệt là hợp đồng mua bán hàng hóa quốc tế, Việt Nam đã ban hành các văn bản pháp luật liên quan, bao gồm Bộ luật Dân sự (BLDS) năm 1995.
Việt Nam đã điều chỉnh hệ thống pháp lý thương mại qua các văn bản như BLDS năm 2015, Luật Thương mại năm 1997 và 2005 Ngoài ra, Việt Nam cũng tham gia Công ước Viên 1980 về hợp đồng mua bán hàng hóa quốc tế, tạo điều kiện cho các thương nhân trong và ngoài nước lựa chọn và áp dụng khi ký kết hợp đồng mua bán hàng hóa.
Trải qua nhiều thế kỷ, trao đổi hàng hóa đã trở thành hoạt động chính trong thương mại, kết nối sản xuất và tiêu dùng không chỉ trong nước mà còn trên toàn cầu Hợp đồng mua bán hàng hóa quốc tế là một loại hợp đồng phức tạp, thường gặp rủi ro pháp lý do các bên tham gia có quốc tịch khác nhau, khoảng cách địa lý, và sự khác biệt trong hệ thống pháp luật Những yếu tố này là nguyên nhân chủ yếu dẫn đến tranh chấp trong quá trình ký kết và thực hiện hợp đồng Để giảm thiểu rủi ro và tranh chấp, các bên cần hiểu rõ quy định pháp luật liên quan và quy định cụ thể về quyền và nghĩa vụ trong hợp đồng mua bán hàng hóa quốc tế.
1 Công ước Viên năm 1980 đã chính thức có hiệu lực đối với Việt Nam từ ngày 01/01/2017.
Để hạn chế tranh chấp và hành vi vi phạm trong hợp đồng, các bên cần nắm vững 10 quy định nghĩa vụ quan trọng Hiểu rõ các quy định pháp luật về hợp đồng mua bán hàng hóa sẽ giúp các chủ thể kinh doanh ký kết và thực hiện hợp đồng một cách thuận lợi và hiệu quả.
Nhiều thương nhân trong nước vẫn gặp khó khăn trong việc thực hiện hợp đồng mua bán hàng hóa quốc tế, dẫn đến tranh chấp với đối tác nước ngoài Nguyên nhân chủ yếu là do lỗi chủ quan trong quá trình giao kết và thực hiện hợp đồng Bên cạnh đó, các quy định hiện hành của Việt Nam về quyền và nghĩa vụ của các bên trong hợp đồng còn chung chung, thiếu rõ ràng và chưa đảm bảo thực thi hiệu quả, gây khó khăn trong việc bảo vệ quyền lợi của các bên khi tham gia giao kết hợp đồng.
Hợp đồng mua bán hàng hóa quốc tế là một thỏa thuận quan trọng giữa các bên liên quan trong giao dịch thương mại quốc tế Khi ký kết và thực hiện hợp đồng này, thương nhân cần lưu ý đến các vấn đề pháp lý để đảm bảo quyền lợi và nghĩa vụ của mình Thực trạng giao kết và thực hiện hợp đồng mua bán hàng hóa quốc tế của các doanh nghiệp Việt Nam hiện nay gặp nhiều thách thức và cần có giải pháp cải thiện Để giải quyết những vấn đề này, đề tài "Thực trạng giao kết và thực hiện hợp đồng mua bán hàng hóa quốc tế của các doanh nghiệp Việt Nam" đã được chọn làm nội dung luận văn tốt nghiệp nhằm cung cấp cái nhìn sâu sắc và giải pháp thực tiễn cho thương nhân.
Tình hình nghiên cứu
Trên toàn cầu và tại Việt Nam, đã có nhiều nghiên cứu liên quan đến hợp đồng mua bán hàng hóa quốc tế cùng các vấn đề pháp lý liên quan Một số công trình tiêu biểu ở nước ngoài, chẳng hạn như của Petar, đã đóng góp quan trọng vào lĩnh vực này.
In "The International Sale of Goods Revisited," edited by Sarcevie and Paul Volken, the complexities of global commerce are explored, offering insights into international trade law This 256-page volume published by Kluwer Law International in The Hague in 2001 serves as a crucial resource for understanding the nuances of international sales agreements Additionally, Peter Schlechtriem's second edition of "Commentary on the UN Convention on the International Sale of Goods," published by Oxford, provides an authoritative analysis of the UN Convention, enhancing comprehension of its application in international transactions Together, these works are essential for legal scholars and practitioners navigating the field of international sales law.
University Press, 2005, 1149 p.; Ingeborg Schwenzen, Pascal Hachem &
Christopher Kee, Global Sale and contract law, Oxford University Press, Oxford,
In 2012, a comprehensive resource titled "The CISG: A New Textbook for Students and Practitioners" by Peter Huber and Alastair Mullis was published, providing 873 pages of insights into the United Nations Convention on the International Sale of Goods (CISG) Additionally, Peter Schlentriem and Petra Butler contributed to the understanding of international sales law with their work, "UN Law on International Sales," released in 2007, which spans 408 pages These texts are essential for students and practitioners seeking to navigate the complexities of international sales law effectively.
Một số cuốn sách về mua bán hàng hóa quốc tế và Công ước Viên 1980 cung cấp thông tin chi tiết về các vấn đề pháp lý liên quan đến hợp đồng mua bán hàng hóa quốc tế, bao gồm giao kết hợp đồng, thực hiện hợp đồng và xử lý vi phạm hợp đồng.
Ngoài những cuốn sách đã đề cập, nhiều bài viết trên các tạp chí chuyên ngành cũng khám phá chủ đề này, tiêu biểu là bài viết của Kristen David Adams và Candace M Zierdt với tiêu đề “International Sale of Goods” trên tạp chí Business.
Lawyer, 2017, vol 72, n o 4, pp 1165; S.A Kruisinga, “Contracts for the International Sale of Goods”, Dovenschimidt Quarterly, 2014, n o 2, pp 58-64; David W Hills, “Understanding the International Sale of Goods Convention”, Ohio
Lawyer, 1988, vol 2, n o 27-30; Richard M Lavers, “Contracts for the International Sale of Goods”, Wisconsin Bar Bulletin, 1987, vol 60, n o 11, pp 11-50; Urs Peter Gruber, “Convention on the International Sale of Goods (CISG) in Arbitration”,
International Business Law Journal, 2009, n o 1, pp 15-34; Louis F Del Duca,
In the realm of international trade, various studies have examined the Convention on International Sale of Goods, notably highlighted in the Dickinson Law Review (2001, pp 205-254) Within the country, there has been significant research focused on international sales contracts, the applicable laws governing these contracts, and issues related to breaches of such agreements Noteworthy contributions to this field include several key scholarly works that delve into these critical aspects of international commercial law.
Nguyễn Thu Hương đã nêu rõ những vấn đề quan trọng cần chú ý khi thực thi Công ước Viên năm 1980 về mua bán hàng hóa quốc tế (CISG) tại Việt Nam trong bài viết của mình trên Tạp chí Nghề luật Bài viết nhấn mạnh tầm quan trọng của việc hiểu rõ các quy định của CISG để đảm bảo quyền lợi của các bên tham gia giao dịch thương mại quốc tế Đồng thời, tác giả cũng đề cập đến những thách thức và cơ hội mà Việt Nam sẽ gặp phải khi áp dụng Công ước này trong bối cảnh hội nhập kinh tế toàn cầu.
Đặng Thế Hùng trong bài viết “Hủy bỏ hợp đồng mua bán hàng hóa quốc tế theo Công ước Viên năm 1980 trong quá trình thực thi tại Việt Nam” đăng trên Tạp chí Kiểm sát năm 2018, đã phân tích những vấn đề liên quan đến việc hủy bỏ hợp đồng mua bán hàng hóa quốc tế theo quy định của Công ước Viên Bài viết cung cấp cái nhìn sâu sắc về thực trạng áp dụng Công ước tại Việt Nam, nêu rõ những khó khăn và thách thức trong quá trình thực thi, đồng thời đề xuất các giải pháp nhằm cải thiện hiệu quả áp dụng pháp luật trong lĩnh vực thương mại quốc tế.
Nguyễn Thị Lan Hương và Ngô Nguyễn Thảo Vy trong bài viết “Quyền buộc thực hiện hợp đồng theo quy định của Công ước Liên Hợp quốc về hợp đồng mua bán hàng hóa quốc tế - Một số đề xuất cho Việt Nam” đã phân tích các quy định của Công ước Liên Hợp Quốc liên quan đến quyền buộc thực hiện hợp đồng Bài viết cung cấp những đề xuất quan trọng nhằm cải thiện khung pháp lý cho Việt Nam, từ đó nâng cao hiệu quả trong giao dịch thương mại quốc tế Các tác giả nhấn mạnh tầm quan trọng của việc áp dụng các quy định quốc tế để bảo vệ quyền lợi hợp pháp của các bên trong hợp đồng.
Trần Thị Thuận Giang đã trình bày về "Điều khoản miễn trách nhiệm do hành vi giao hàng không phù hợp" theo Công ước Viên năm 1980 về hợp đồng mua bán hàng hóa quốc tế trong bài viết của mình Bài viết được đăng trên Tạp chí Khoa học pháp lý năm 2017, số 7(110), trang 67-73, cung cấp những phân tích sâu sắc về các điều khoản pháp lý liên quan đến trách nhiệm giao hàng và những ngoại lệ có thể áp dụng trong bối cảnh thương mại quốc tế.
Mặc dù có nhiều nghiên cứu về hợp đồng mua bán hàng hóa quốc tế, nhưng chưa có công trình nào đi sâu vào thực trạng giao kết và thực hiện hợp đồng này tại Việt Nam Luận văn tốt nghiệp này nhằm mục đích bù đắp khoảng trống nghiên cứu trong lĩnh vực này.
Phương pháp nghiên cứu
Luận văn được xây dựng dựa trên phương pháp luận của chủ nghĩa duy vật biện chứng và chủ nghĩa duy vật lịch sử, kết hợp với các phương pháp nghiên cứu khoa học như phân tích, tổng hợp, quy nạp, diễn dịch, đối chiếu và so sánh thống kê.
Phương pháp phân tích được áp dụng để xem xét các quy định pháp luật liên quan đến hợp đồng mua bán hàng hóa quốc tế theo luật quốc tế và luật Việt Nam, nhằm phát hiện những điểm chưa phù hợp trong các quy định này.
Phương pháp so sánh được áp dụng để phân tích các quy định về hợp đồng mua bán hàng hóa quốc tế theo luật quốc tế và pháp luật Việt Nam, nhằm xác định những điểm tương đồng và khác biệt giữa hai hệ thống pháp lý này.
Phương pháp tổng hợp và thống kê được áp dụng để phân tích nội dung hợp đồng và các vụ tranh chấp trong quá trình giao kết và thực hiện hợp đồng mua bán hàng hóa quốc tế, nhằm làm rõ những nghĩa vụ đã thực hiện giữa các bên trong thời gian qua.
Bài viết phân tích các quy định pháp luật Việt Nam và Công ước Viên năm 1980 về hợp đồng mua bán hàng hóa quốc tế, đồng thời xem xét thực tiễn thực hiện tại Việt Nam Qua đó, bài viết chỉ ra những hạn chế trong việc áp dụng và đưa ra các kiến nghị giải pháp phù hợp nhằm cải thiện tình hình.
Cấu trúc luận văn
Ngoài phần lời mở đầu và kết luận, đề tài được kết cấu gồm 3 chương:
Chương 1: Tổng quan về giao kết hợp đồng mua bán hàng hóa quốc tế
Chương 2: Thực trạng giao kết, thực hiện hợp đồng mua bán hàng hóa quốc tế của thương nhân Việt Nam
Chương 3: Kiến nghị giải pháp nhằm hoàn thiện công tác giao kết và thực hiện hợp đồng mua bán hàng hóa quốc tế
KHÁI QUÁT VỀ HỢP ĐỒNG MUA BÁN HÀNG HÓA QUỐC TẾ
1.1.1 Khái niệm về hợp đồng mua bán hàng hóa quốc tế
Hoạt động thương mại quốc tế bao gồm nhiều lĩnh vực như mua bán hàng hóa, cung cấp dịch vụ, đầu tư và thương mại liên quan đến quyền sở hữu trí tuệ Trong số đó, mua bán hàng hóa quốc tế là hoạt động nổi bật nhất, đóng vai trò trung tâm trong các giao dịch thương mại toàn cầu và chủ yếu được thể hiện qua các hợp đồng mua bán hàng hóa quốc tế.
Hiện nay, chưa có khái niệm thống nhất về hợp đồng mua bán hàng hóa quốc tế, mà chỉ có các yếu tố cấu thành như "hợp đồng", "mua bán", "hàng hóa" Điều này cho thấy chưa có tiêu chí rõ ràng để xác định tính quốc tế của loại hợp đồng này Tại Mỹ, Bộ luật Thương mại Thống nhất năm 1952 không định nghĩa trực tiếp hợp đồng mua bán hàng hóa quốc tế, nhưng quy định giao dịch quốc tế tại Điều 1-301, định nghĩa là giao dịch có liên quan hợp lý đến một quốc gia khác Mua bán được hiểu là việc chuyển nhượng quyền sở hữu từ người bán sang người mua để nhận tiền Mặc dù không đưa ra tiêu chí cụ thể, nhưng định nghĩa giao dịch quốc tế của Bộ luật Thương mại Thống nhất phản ánh yếu tố "trụ sở thương mại" của các bên tham gia.
Luật Thương mại Việt Nam năm 2005 không xác định tiêu chí cho tính chất quốc tế của hợp đồng mua bán hàng hóa quốc tế, mà chỉ liệt kê các hoạt động được coi là mua bán quốc tế Cụ thể, Điều 27 quy định rằng mua bán quốc tế bao gồm các hình thức xuất khẩu, nhập khẩu, tạm nhập tái xuất, tạm xuất tái nhập và chuyển khẩu.
Xuất khẩu hàng hóa là quá trình đưa hàng hóa ra khỏi lãnh thổ Việt Nam hoặc vào khu vực đặc biệt trên lãnh thổ Việt Nam, được xác định là khu vực hải quan theo quy định pháp luật.
Nhập khẩu hàng hoá là quá trình đưa hàng hóa từ nước ngoài vào lãnh thổ Việt Nam, bao gồm cả việc nhập từ các khu vực đặc biệt được công nhận là khu vực hải quan riêng theo quy định pháp luật.
Tạm nhập, tái xuất hàng hoá là quá trình đưa hàng từ nước ngoài hoặc các khu vực đặc biệt trên lãnh thổ Việt Nam vào khu vực hải quan, thực hiện thủ tục nhập khẩu và sau đó xuất khẩu chính hàng hoá đó ra khỏi Việt Nam theo quy định pháp luật.
Tạm xuất, tái nhập hàng hóa là quy trình đưa hàng hóa ra nước ngoài hoặc vào các khu vực đặc biệt tại Việt Nam, được xem là khu vực hải quan riêng theo quy định pháp luật Quy trình này bao gồm thủ tục xuất khẩu hàng hóa ra khỏi Việt Nam và thủ tục nhập khẩu lại chính hàng hóa đó vào Việt Nam.
Chuyển khẩu hàng hoá là quá trình mua hàng từ một quốc gia hoặc vùng lãnh thổ và bán sang một quốc gia hoặc vùng lãnh thổ khác bên ngoài Việt Nam, mà không cần thực hiện thủ tục nhập khẩu vào Việt Nam cũng như không cần làm thủ tục xuất khẩu ra khỏi Việt Nam.
Luật Thương mại năm 2005 xác định tính quốc tế của hợp đồng mua bán hàng hóa thông qua các khái niệm xuất khẩu, nhập khẩu, tạm nhập tái xuất, tạm xuất tái nhập và chuyển khẩu Theo đó, hàng hóa phải là động sản có khả năng di chuyển qua biên giới Việt Nam hoặc biên giới quốc gia khác, hoặc di chuyển qua khu chế xuất và khu vực hải quan riêng.
Hợp đồng mua bán hàng hóa quốc tế được định nghĩa bởi nhiều tác giả với những yếu tố xác định tính quốc tế Theo đó, hợp đồng này sở hữu đầy đủ các đặc trưng cơ bản của hợp đồng thương mại quốc tế, bao gồm yếu tố nước ngoài.
2 Điều 28 khoản 1 Luật Thương mại năm 2005.
3 Điều 28 khoản 2 Luật Thương mại năm 2005.
4 Điều 29 khoản 1 Luật Thương mại năm 2005.
5 Điều 29 khoản 2 Luật Thương mại năm 2005.
Theo Điều 30 khoản 1 Luật Thương mại năm 2005, hợp đồng mua bán hàng hóa quốc tế khác biệt với hợp đồng mua bán hàng hóa thông thường nhờ vào tính quốc tế và các yếu tố nước ngoài Những yếu tố này có thể bao gồm quốc tịch, nơi cư trú hoặc trụ sở của các bên tham gia hợp đồng, cũng như địa điểm xác lập và thực hiện hợp đồng, hoặc nơi có tài sản liên quan Tính quốc tế của hợp đồng mua bán hàng hóa quốc tế được xác định dựa trên ba yếu tố chính.
(i) chủ thể tham gia quan hệ hợp đồng là các bên có quốc tịch, nơi cư trú hay trụ sở ở các quốc gia khác nhau
(ii) khách thể của hợp đồng (hàng hóa) ở nước ngoài
(iii)căn cứ xác lập, thay đổi, chấm dứt hợp đồng xảy ra ở nước ngoài.
Các tác giả đã đồng nhất khái niệm hợp đồng mua bán hàng hóa quốc tế với quan hệ dân sự có yếu tố nước ngoài, thuộc điều chỉnh của tư pháp quốc tế Họ thừa nhận rằng hợp đồng mua bán hàng hóa quốc tế có yếu tố nước ngoài, nhưng không phải tất cả hợp đồng mua bán hàng hóa có yếu tố nước ngoài đều được coi là hợp đồng mua bán hàng hóa quốc tế.
Khi thương nhân A và thương nhân B, cả hai đều là người Việt Nam, ký kết hợp đồng mua bán hàng hóa tại Singapore trong chuyến du lịch, việc thực hiện hợp đồng và giao dịch hàng hóa lại diễn ra tại Việt Nam Do đó, việc coi đây là hợp đồng mua bán hàng hóa quốc tế chỉ dựa trên yếu tố ký kết tại Singapore là không hợp lý.
Công ước Viên 1980 về hợp đồng mua bán hàng hóa quốc tế không đưa ra định nghĩa cụ thể về hợp đồng này, nhưng Điều 1 đã xác định phạm vi áp dụng của nó Cụ thể, Công ước áp dụng cho các hợp đồng mua bán hàng hóa giữa các bên có địa điểm kinh doanh tại các quốc gia khác nhau, tạo ra một khung pháp lý quan trọng cho thương mại quốc tế.
Theo Giáo trình Luật Thương mại Quốc tế, cơ sở để xác định hợp đồng mua bán hàng hóa quốc tế theo Công ước Viên 1980 là địa điểm kinh doanh của các bên phải nằm ở các quốc gia khác nhau Điều này không phụ thuộc vào nơi ký kết hợp đồng và không xét đến việc hàng hóa có được chuyển qua biên giới hay không Sự kiện các bên có trụ sở thương mại tại các quốc gia khác nhau chỉ được xem xét nếu nó xuất phát từ hợp đồng, từ các mối quan hệ đã hình thành hoặc từ việc trao đổi thông tin giữa các bên.
MỘT SỐ VẤN ĐỀ VỀ GIAO KẾT VÀ THỰC HIỆN HỢP ĐỒNG
1.2.1 Giao kết hợp đồng mua bán hàng hóa quốc tế
1.2.1.1 Khái niệm về giao kết hợp đồng mua bán hàng hóa quốc tế
Giao kết hợp đồng là quá trình mà các bên thể hiện ý chí nhằm thiết lập, thay đổi hoặc chấm dứt quyền và nghĩa vụ theo quy định của pháp luật Hợp đồng có thể được giao kết bằng lời nói, văn bản hoặc hành vi cụ thể Nếu pháp luật yêu cầu hình thức nhất định, các bên phải tuân thủ để đảm bảo tính hợp pháp Sự thiện chí, hợp tác, trung thực và ngay thẳng là yếu tố quan trọng trong quá trình giao kết và thực hiện hợp đồng; thiếu một trong những yếu tố này có thể dẫn đến sự không cân đối trong quan hệ hợp đồng.
Theo điều 2.1.2 UNIDROIT, một đề nghị sẽ được xem là đề nghị giao kết hợp đồng khi nó rõ ràng và thể hiện ý chí ràng buộc của bên đề xuất, nhất là khi đề nghị đó được chấp nhận.
1.2.1.2 Một số vấn đề cơ bản về giao kết hợp đồng mua bán hàng hóa quốc tế
Thứ nhất, về điều kiện có hiệu lực của hợp đồng mua bán hàng hóa quốc tế
Công ước Viên không quy định điều kiện hiệu lực của hợp đồng, tương tự như Luật Thương mại Việt Nam 2005 Để xác định điều kiện hiệu lực của hợp đồng mua bán hàng hóa quốc tế, cần dựa vào khái niệm và đặc điểm của loại hợp đồng này, cũng như các quy định tại điều 117 Bộ luật Dân sự 2015 về điều kiện có hiệu lực của giao dịch dân sự và các văn bản pháp lý liên quan Hợp đồng mua bán hàng hóa sẽ có hiệu lực khi đáp ứng đủ các điều kiện đã được quy định.
Các bên tham gia hợp đồng mua bán cần có năng lực pháp lý để thực hiện nghĩa vụ hợp đồng Trong thực tế, các thương nhân là chủ thể chính trong các giao dịch này Để đảm bảo lợi nhuận, thương nhân phải có giấy phép kinh doanh hợp pháp cho hàng hóa mua bán Ngoài ra, đại diện của các bên trong hợp đồng cần phải có thẩm quyền đúng theo quy định, có thể là đại diện theo pháp luật hoặc đại diện theo ủy quyền.
Các bên tham gia hợp đồng phải hoàn toàn tự nguyện, tuân thủ nguyên tắc tự do giao kết mà không vi phạm pháp luật và đạo đức xã hội Hợp đồng mua bán cần được thực hiện trên cơ sở bình đẳng, thiện chí, hợp tác, trung thực và ngay thẳng Những hành vi như cưỡng ép, đe dọa hay lừa dối có thể làm cho hợp đồng mua bán trở nên vô hiệu.
Mục đích và nội dung của hợp đồng mua bán phải tuân thủ pháp luật và không vi phạm đạo đức xã hội, đồng thời hàng hóa trong hợp đồng không thuộc danh mục cấm kinh doanh theo quy định pháp luật.
Hợp đồng mua bán hàng hóa cần tuân thủ các quy định pháp luật để có hiệu lực Nội dung hợp đồng phải được xác lập theo hình thức được pháp luật công nhận, có thể là lời nói, văn bản hoặc hành vi cụ thể Đối với những hợp đồng mà pháp luật yêu cầu phải lập thành văn bản, cần tuân thủ các quy định liên quan.
Thứ hai, về trình tự giao kết hợp đồng mua bán hàng hóa quốc tế
Trình tự giao kết hợp đồng dân sự bao gồm quá trình các bên thể hiện ý chí thông qua việc trao đổi ý kiến và đạt được thỏa thuận về quyền và nghĩa vụ dân sự Quá trình này được chia thành hai giai đoạn chính: đề nghị giao kết hợp đồng và chấp nhận đề nghị đó.
• Đề nghị giao kết hợp đồng:
Khi thiết lập hợp đồng, ý muốn của một bên cần được thể hiện qua hành vi cụ thể để đối tác nhận biết và tiến tới giao kết Đây là giai đoạn mà bên đưa ra ý chí muốn tham gia vào hợp đồng dân sự Một lời đề nghị giao kết hợp đồng phải chứa đựng một số yếu tố cơ bản để được công nhận.
• Thể hiện rõ được nguyện vọng muốn đi đến giao kết hợp đồng của bên đề nghị.
• Phải có chứa toàn bộ mọi điều kiện cơ bản của hợp đồng.
• Yêu cầu về thời hạn trả lời là không bắt buộc.
Việc đề nghị giao kết hợp đồng có thể thực hiện qua nhiều hình thức khác nhau, bao gồm việc trao đổi trực tiếp giữa người đề nghị và người được đề nghị, giao tiếp qua điện thoại, hoặc thông qua các công văn, giấy tờ.
Chấp nhận đề nghị giao kết hợp đồng là quá trình bên được đề nghị đồng ý với lời đề nghị từ bên đề nghị, dẫn đến việc ký kết hợp đồng Tuy nhiên, không phải mọi câu trả lời của bên được đề nghị đều được xem là chấp nhận; chỉ khi họ đồng ý toàn bộ và vô điều kiện với các nội dung đã nêu thì mới được coi là chấp nhận Nếu câu trả lời không đáp ứng hai yêu cầu này, nó sẽ được xem như một đề nghị mới và cần có phản hồi từ bên đề nghị Quá trình này có thể lặp lại cho đến khi đạt được sự chấp nhận hợp lệ theo yêu cầu Điều 2.1.6 của Bộ Nguyên tắc UNIDROIT quy định rõ về phương thức chấp nhận đề nghị giao kết hợp đồng.
Chấp nhận giao kết hợp đồng có thể được thể hiện qua một tuyên bố hoặc hành động của bên được đề nghị, cho thấy sự đồng ý với đề nghị Tuy nhiên, sự im lặng hoặc không hành động không được coi là chấp nhận đề nghị giao kết hợp đồng.
2 Việc chấp nhận một đề nghị giao kết hợp đồng có hiệu lực khi dấu hiệu của việc chấp nhận giao kết hợp đồng đến bên đề nghị.
3 Tuy nhiên, nếu theo đề nghị giao kết hợp đồng, các thói quen đã được xác lập giữa các bên hoặc theo tập quán, bên được đề nghị có thể chỉ ra là mình đã chấp nhận giao kết hợp đồng bằng việc thực hiện một hành vi mà không cần thông báo cho bên đề nghị biết, việc chấp nhận có hiệu lực khi hành vi đó được hoàn thành.” 13
Thứ ba, về các điều khoản cần lưu ý khi giao kết hợp đồng mua bán hàng hóa quốc tế
Hợp đồng mua bán hàng hóa quốc tế thể hiện thỏa thuận tự nguyện giữa các bên, xác định rõ quyền và nghĩa vụ của mỗi bên thông qua các điều khoản đã ký kết.
Không phải tất cả nội dung trong hợp đồng mua bán hàng hóa quốc tế đều hợp pháp; chỉ những điều khoản phù hợp với quy định pháp luật mới được công nhận Hợp đồng xác định quyền và nghĩa vụ của các bên tham gia, nhưng không có quy định pháp lý quốc tế hay trong pháp luật của nhiều quốc gia, bao gồm Việt Nam, về các điều khoản tối thiểu cần có trong hợp đồng.
THỰC TRẠNG GIAO KẾT VÀ THỰC HIỆN HỢP ĐỒNG TẠI CÁC
2.1 THỰC TRẠNG VỀ GIAO KẾT HỢP ĐỒNG MUA BÁN HÀNG HÓA QUỐC TẾ CỦA CÁC DOANH NGHIỆP VIỆT NAM
Trong bối cảnh hội nhập kinh tế quốc tế, Việt Nam đang nỗ lực xây dựng một thị trường hàng hóa toàn cầu thống nhất, xóa bỏ rào cản thương mại để thúc đẩy thông thương hàng hóa Để đạt được mục tiêu này, Việt Nam đã phát triển các chính sách kinh tế và hoàn thiện hệ thống pháp luật nhằm hỗ trợ sự phát triển kinh tế và mở rộng hợp tác quốc tế Bộ luật Dân sự 2015 và Luật Thương mại 2005 đã cập nhật các quy định phù hợp với pháp luật quốc tế về hợp đồng thương mại, giúp thương nhân Việt Nam hoạt động hiệu quả hơn trong lĩnh vực thương mại toàn cầu.
Việt Nam đang hội nhập kinh tế toàn cầu, yêu cầu doanh nghiệp phải năng động và am hiểu pháp luật để cạnh tranh hiệu quả trên thị trường trong nước và quốc tế Tranh chấp trong kinh doanh là điều không thể tránh khỏi, đặc biệt trong bối cảnh nền kinh tế thị trường đang ngày càng mở rộng và toàn cầu hóa.
Trong quá trình ký kết và thực hiện hợp đồng thương mại, nhiều doanh nghiệp gặp khó khăn với chế độ pháp lý liên quan, dẫn đến những tổn thất không cần thiết Điều này có thể gây ra thiệt hại lớn trong kinh doanh và thậm chí dẫn đến tình trạng phá sản.
Nhiều trường hợp vi phạm hợp đồng mua bán hàng hóa quốc tế xảy ra do các bên không đạt được sự thống nhất về nội dung hợp đồng trong quá trình thực hiện Điều này dẫn đến các tranh chấp không mong muốn giữa các bên liên quan.
2.1.1 Khảo sát về vấn đề giao kết hợp đồng tại một số doanh nghiệp Việt Nam
Qua việc rà soát các hợp đồng mua bán hàng hóa quốc tế của doanh nghiệp Việt Nam, có thể nhận thấy một thực trạng chung về quy trình giao kết hợp đồng hiện nay.
Nhiều doanh nghiệp Việt Nam gặp khó khăn khi ký kết hợp đồng mua bán hàng hóa quốc tế, dẫn đến việc các điều khoản không thuận lợi cho bên Việt Nam Thực tế, hầu hết các hợp đồng đều thể hiện vị thế của doanh nghiệp Việt Nam với tư cách là bên mua, phản ánh xu hướng phát triển của đất nước trong bối cảnh hiện tại, khi Việt Nam đang là quốc gia nhập siêu.
Kết quả khảo sát cho thấy một số nội dung cơ bản sau:
Chủ thể ký kết hợp đồng mua bán hàng hóa quốc tế thường là các thương nhân, cụ thể là các công ty với tên địa chỉ và người đại diện rõ ràng Tuy nhiên, thực tế cho thấy nhiều bên mua và bên bán thiếu thông tin về người đại diện theo pháp luật, chức danh, chữ ký hoặc con dấu Đặc biệt, đối với doanh nghiệp Việt Nam, việc ký tên và đóng dấu phải tuân thủ quy định nhà nước, bao gồm chữ ký, con dấu công ty và giấy ủy quyền nếu cần thiết Đối với doanh nghiệp nước ngoài, việc xác định thẩm quyền ký kết của các chức vụ như C.E.O hay Sales manager phụ thuộc vào quy định pháp luật của quốc gia của đối tác.
Bảng 1 Danh sách các đối tác của doanh nghiệp Việt Nam Đối tác Số lượng Tỷ trọng
Nguồn: Tổng hợp của tác giả
Theo khảo sát, 25% doanh nghiệp Việt Nam chọn đối tác có trụ sở tại Trung Quốc, chủ yếu do vị trí địa lý gần gũi và thuận lợi trong giao thương Việc giao dịch với đối tác Trung Quốc không chỉ mang lại giá cả hợp lý và số lượng lớn mà còn giúp tiết kiệm chi phí vận chuyển và dịch vụ Ngoài Trung Quốc, Singapore và Malaysia cũng là những đối tác giao dịch phổ biến Điều này cho thấy doanh nghiệp Việt Nam đã có chiến lược lựa chọn đối tác dựa trên khoảng cách địa lý và tính toán chi phí để tối đa hóa lợi nhuận.
Các điều khoản hợp đồng được quy định rõ ràng, bao gồm tên hàng, chủng loại, chất lượng và số lượng hàng hóa Nhiều hợp đồng còn kèm theo bảng kê chi tiết các mặt hàng giao dịch, cho thấy doanh nghiệp Việt Nam đã nghiên cứu kỹ lưỡng để lựa chọn các sản phẩm phù hợp với tiêu chuẩn trong nước và đáp ứng nhu cầu của thị trường.
Công ty cổ phần kính nổi Chu cung cấp phương thức giao hàng đa dạng, bao gồm đường biển và đường hàng không, phù hợp với từng điều kiện và hoàn cảnh cụ thể Nhiều hợp đồng cho phép giao hàng từng phần và chuyển hàng linh hoạt để thích ứng với tính chất của hàng hóa.
Lai - Indevco quy định bảo hiểm cho hàng hóa nhằm đảm bảo an toàn cho các bên liên quan Tuy nhiên, cần làm rõ hơn về điều kiện giao hàng theo INCOTERMS để tránh tranh chấp liên quan đến trách nhiệm giao nhận hàng hóa.
Các phương thức thanh toán trong thương mại quốc tế đa dạng, chủ yếu là L/C và TT, nhưng thường có xu hướng bất lợi cho doanh nghiệp Việt Nam Các công ty nhập khẩu thường bị yêu cầu chuyển tiền trước hoặc sau ngày phát hành L/C, hoặc phải đặt cọc trước, điều này tiềm ẩn nhiều rủi ro Chỉ có một số ít doanh nghiệp có thể thanh toán sau khi nhận hàng và đầy đủ chứng từ, nhưng điều khoản "sau khi" không quy định rõ thời gian, giúp doanh nghiệp có thêm thời gian huy động và sử dụng vốn hiệu quả hơn.
Các chứng từ hàng hóa cần thiết cho việc thanh toán được quy định rõ ràng trong tất cả các hợp đồng, thể hiện ý chí của cả bên bán là doanh nghiệp Việt Nam và doanh nghiệp nước ngoài Điều này giúp phòng tránh rủi ro liên quan đến chứng từ thông quan hàng hóa tại các khu vực hải quan cũng như chứng từ thanh toán gửi cho ngân hàng.
Mặc dù các bên đã thống nhất về cơ quan giải quyết tranh chấp, việc xác định sai cơ quan này có thể dẫn đến tình huống không có tổ chức nào đứng ra giải quyết khi xảy ra vi phạm hợp đồng.
Bảng 2 Danh sách các cơ quan giải quyết tranh chấp được lựa chọn trong hợp đồng
STT Tên hợp đồng Thời điểm ký Cơ quan giải quyết tranh chấp
1 10623/VMPC/NBP 23/06/2015 Trọng tài kinh tế Hà Nội (không tồn tại, phải nói rõ đúng tên theo pháp lý)
2 01-16/AMC-CLH 16/01/2016 International Commercial Arbitration Center at the
Chamber of Commerce and Industry of VN (không tồn tại)
3 01/PECOM-TS/2016 18/01/2016 không quy định
4 07/MCR-SD/2014 08/10/2014 International Arbitration Center of Vietnam in Ha
Noi (không có cơ quan này)
5 YE-1511HRC-VN1044 18/11/2015 Singapore International Economic and Trade
6 LUVATA_KIM_01 30/11/2015 VIAC in Viet Nam
International Commercial Arbitration Center belonging VN Industrial and commercial chamber in HN (không tồn tại)
8 19/DELTA_AUROBINDO/2016 28/07/2016 Vietnam Chamber of Conmmerce
9 THANH-ZENNOV xử tại Seoul - bởi: the Arbirtration Rules of the
10 03/ETP/15 15/07/2015 Arbitration rules of the VN Chamber of Commerce
11 BAS-S49734/01 29/11/2013 London under English law in GAFTA as per
12 06 BT/WH 2016 04/02/2016 VN international arbitration Centre at the Chamber of Commerce and Industry of VN in Ha Noi
13 A371201503012 13/03/2015 Singapore International Arbitration Centre (SIAC)
14 033/CFG-TIG 15/04/2014 The International arbitration court in VN (không tồn tại)
15 IM.9315/DA-DE 04/11/2015 tùy thuộc vào các bên khi xảy ra tranh chấp
16 DAWOO-03.01 12/03/2016 tùy thuộc vào các bên khi xảy ra tranh chấp
17 220616/VNT/SMTM 22/06/2016 VN international arbitration Centre at the Chamber of Commerce and Industry of VN
18 YURG101 30/03/2016 The Sanghai international Arbitration center in
19 03/SFA-EMS/2015 29/04/2015 VN international arbitration Committee (VIAC) belong to the VN Chamber of Commerce and Industry (VCCI) (không tồn tại)
Nguồn: tổng hợp của tác giả
Nhiều hợp đồng đã chỉ định Trung tâm trọng tài quốc tế tại Việt Nam (VIAC) là cơ quan giải quyết tranh chấp, tuy nhiên cũng có nhiều hợp đồng ghi là trọng tài kinh tế Hà Nội.