Rủi ro trong thanh toán xuất khẩu đối với các doanh nghiệp Việt Nam. Khảo sát các doanh nghiệp tại Kiên Giang.Rủi ro trong thanh toán xuất khẩu đối với các doanh nghiệp Việt Nam. Khảo sát các doanh nghiệp tại Kiên Giang.Rủi ro trong thanh toán xuất khẩu đối với các doanh nghiệp Việt Nam. Khảo sát các doanh nghiệp tại Kiên Giang.Rủi ro trong thanh toán xuất khẩu đối với các doanh nghiệp Việt Nam. Khảo sát các doanh nghiệp tại Kiên Giang.Rủi ro trong thanh toán xuất khẩu đối với các doanh nghiệp Việt Nam. Khảo sát các doanh nghiệp tại Kiên Giang.
CƠ SỞ LÝ THUYẾT VỀ THANH TOÁN QUỐC TẾ
TỔNG QUAN VỀ THANH TOÁN QUỐC TẾ
1.1.1 Sơ lược về thanh toán quốc tế
Hoạt động thanh toán quốc tế (TTQT) phát sinh từ ngoại thương, nơi mỗi quốc gia và vùng lãnh thổ sở hữu những mặt hàng có ưu thế về năng suất lao động, đồng thời cũng gặp phải những hạn chế về chi phí sản xuất, chất lượng sản phẩm và giá trị thương hiệu Sự khác biệt này đã dẫn đến việc chuyển giao hàng hóa giữa các quốc gia, tạo ra hoạt động xuất nhập khẩu đa dạng và phong phú.
Dựa trên những quan điểm đã nêu, có thể phân biệt rõ ràng sự khác biệt cơ bản giữa hoạt động thương mại nội địa và ngoại thương.
Bảng 1.1 Sự khác nhau giữa TM nội địa và ngoại thương.
TT Tiêu chí Hoạt động TM nội địa
Người mua và người bán ở cùng một nước hoặc cùng quốc tịch như nhau, không bao gồm Khu chế xuất.
Người mua và người bán ở hai nước hoặc hai quốc tịch khác nhau.
2 Đồng tiền sử dụng trong thanh toán.
Là đồng nội tệ Có thể là đồng nội tệ hay ngoại tệ đối với một hoặc cả hai bên.
3 Ngôn ngữ Thông thường là quốc ngữ.
Hàng hóa mua bán được dịch chuyển giữa các nơi trong cùng một quốc gia, vùng lãnh thổ.
Hàng hóa mua bán thường được dịch chuyển qua biên giới hải quan giữa các nước, đi từ nước nhà xuất khẩu đến nước nhà nhập khẩu.
5 Luật sử dụng khi phát sinh tranh chấp.
Tuân theo luật pháp nước sở tại.
Luật điều chỉnh quan hệ hợp đồng mua bán và thanh toán chứa đựng yếu tố quốc tế.
Thanh toán quốc tế đóng vai trò quan trọng trong hiệu quả và tăng trưởng ngoại thương Hoạt động thanh toán an toàn và trôi chảy giúp nhà xuất khẩu thu được tiền và nhà nhập khẩu thanh toán để nhận hàng Điều này tạo nền tảng thiết yếu cho sự tồn tại và phát triển của hoạt động xuất nhập khẩu.
1.1.2 Khái niệm và nội dung chủ yếu của thanh toán quốc tế
Thanh toán quốc tế là quá trình thực hiện nghĩa vụ chi trả và quyền lợi về tiền tệ giữa các tổ chức, cá nhân của các quốc gia khác nhau, hoặc giữa một quốc gia và tổ chức quốc tế Quá trình này diễn ra thông qua các mối quan hệ giữa ngân hàng của các nước liên quan, phản ánh các hoạt động kinh tế và phi kinh tế (Nguyễn Văn Tiến, 2017, tr.13).
1.1.3 Đặc điểm của thanh toán quốc tế
- Thanh toán quốc tế chịu sự điều chỉnh của luật pháp và các tập quán quốc tế.
-Hoạt động thanh toán quốc tế được thực hiện phần lớn thông qua hệ thống ngân hàng.
- Trong thanh toán quốc tế, tiền mặt hầu như không được sử dụng trực tiếp, mà thay vào đó là các PTTT như hối phiếu, kỳ phiếu và séc.
- Ít nhất một trong hai bên hoặc người xuất khẩu hoặc người nhập khẩu có liên quan đến ngoại tệ.
-Ngôn ngữ sử dụng trong thanh toán quốc tế được sử dụng chủ yếu bằng tiếng Anh.
Khi xảy ra tranh chấp, các bên có thể giải quyết theo luật quốc tế, luật quốc gia của nước thứ ba, hoặc luật của nước xuất khẩu hay nhập khẩu, tùy thuộc vào thỏa thuận giữa các bên thông qua trọng tài hoặc tòa án.
1.1.4 Ý nghĩa của hoạt động thanh toán quốc tế a Ý nghĩa đối với doanh nghiệp xuất khẩu
Trong lĩnh vực ngoại thương, doanh nghiệp xuất khẩu và nhập khẩu không thể thực hiện giao nhận hàng và thanh toán trực tiếp mà phải thông qua Ngân hàng thương mại (NHTM) làm trung gian NHTM phát hành chứng từ vận tải, giúp doanh nghiệp kiểm soát hàng hóa và tiền bạc cho đến khi hàng được giao và thanh toán hoàn tất.
Nhà xuất khẩu kiểm soát hàng hóa thông qua chứng từ vận tải, trong khi nhà nhập khẩu quản lý tiền của mình bằng cách định đoạt chứng từ này thông qua dịch vụ thanh toán của ngân hàng thương mại Thanh toán quốc tế đóng vai trò quan trọng trong nền kinh tế, tạo điều kiện thuận lợi cho giao dịch thương mại toàn cầu.
+ Là công cụ dung để bôi trơn và đẩy mạnh sự phát triển của ngoại thương.
+ Bôi trơn và thúc đẩy đầu tư từ nước ngoài.
Để thúc đẩy và mở rộng các hoạt động như du lịch và hợp tác quốc tế, cần tăng cường thu hút kiều hối cùng các nguồn lực tài chính khác Đồng thời, việc thúc đẩy thị trường tài chính quốc gia hội nhập quốc tế cũng là một yếu tố quan trọng để phát triển bền vững.
CÁC PHƯƠNG THỨC THANH TOÁN PHỔ BIẾN HIỆN NAY
Việc chọn phương thức thanh toán (PTTT) được ảnh hưởng bởi nhiều yếu tố, bao gồm mối quan hệ giữa nhà xuất nhập khẩu, khả năng đáp ứng quy định thanh toán của khách hàng, phí giao dịch ngân hàng, đặc thù của thị trường và đặc điểm hàng hóa.
Dựa trên các báo cáo kết quả kinh doanh hàng năm của một số ngân hàng thương mại (NHTM) Việt Nam như NHTM Cổ Phần Ngoại Thương Việt Nam, NHTM Cổ Phần Công Thương Việt Nam, NHTM Cổ Phần Đầu Tư Và Phát Triển Việt Nam, NHTM Cổ Phần Kỹ Thương Việt Nam và NHTM Cổ Phần Sài Gòn Thương Tín, cho thấy rằng những ngân hàng này chiếm thị phần lớn trong lĩnh vực thanh toán quốc tế Thêm vào đó, các báo cáo doanh thu từ phí dịch vụ thanh toán quốc tế giai đoạn 2015-2019 cùng với các nghiên cứu của các nhà khoa học chỉ ra rằng, các NHTM Việt Nam chủ yếu cung cấp ba phương thức thanh toán quốc tế: chuyển tiền, nhờ thu và thanh toán bằng L/C.
1.2.1 Phương thức thanh toán chuyển tiền a Khái niệm
Là phương thức chuyển tiền đơn giản nhất, người chuyển tiền chỉ cần yêu cầu ngân hàng chuyển một số tiền cụ thể đến người nhận theo địa chỉ và thời gian đã định.
Căn cứ vào hình thức, thì chuyển tiền có hai (02) loại đó là chuyển tiền bằng thư (M/T) và chuyển tiền bằng điện (T/T).
Có hai loại hình thanh toán chuyển tiền dựa trên thời điểm giao hàng: chuyển tiền trước khi giao hàng và chuyển tiền sau khi giao hàng Trong phương thức này, ngân hàng thương mại chỉ đóng vai trò trung gian thanh toán theo ủy thác của nhà nhập khẩu, hưởng phí dịch vụ mà không phải chịu trách nhiệm đối với người chuyển tiền và người thụ hưởng Quy trình nghiệp vụ của phương thức chuyển tiền cần được thực hiện một cách rõ ràng và hiệu quả.
Hình 1.1 Quy trình nghiệp vụ thanh toán theo phương thức chuyển tiền.
(Nguồn: Cẩm nang thanh toán quốc tế & tài trợ ngoại thương)
Người thụ hưởng Người chuyển tiền
1.2.2 Phương thức thanh toán nhờ thu a Khái niệm về nhờ thu
Trong phương thức thanh toán nhờ thu, nhà xuất khẩu sẽ ủy thác cho Ngân hàng nhờ thu (NHNT) xuất trình bộ chứng từ qua Ngân hàng thu hộ (NHTH) cho nhà nhập khẩu Mục đích là để nhận được thanh toán, chấp nhận hối phiếu hoặc các điều kiện và điều khoản khác liên quan Một trong những hình thức nhờ thu là nhờ thu phiếu trơn.
Việc thu phiếu trơn chỉ bao gồm các chứng từ tài chính, trong khi các chứng từ thương mại sẽ được gửi trực tiếp đến nhà nhập khẩu mà không cần qua ngân hàng.
Hình 1.2 Quy trình thanh toán theo phương thức nhờ thu phiếu trơn.
(Nguồn: Cẩm nang thanh toán quốc tế & tài trợ ngoại thương) ii Phương thức thanh toán nhờ thu kèm chứng từ:
Khác với nhờ thu phiếu trơn, trong trường hợp này, chứng từ gửi đi có thể bao gồm chứng từ thương mại hoặc cả chứng từ thương mại và chứng từ tài chính Do đó, Ngân hàng Thương mại chỉ trao bộ chứng từ cho Người trả tiền khi họ đã hoàn thành nghĩa vụ thanh toán, cam kết thanh toán hoặc các điều kiện khác theo quy định trong Lệnh nhờ thu.
NH chuyển tiền NH trả tiền
Hình 1.3 Quy trình thanh toán theo phương thức nhờ thu kèm chứng từ.
(Nguồn: Cẩm nang thanh toán quốc tế & tài trợ ngoại thương) b Văn bản pháp lý điều chỉnh trong nhờ thu
URC 522 là quy tắc thống nhất về nhờ thu, được ICC phát hành lần đầu vào năm 1956 và tái bản vào các năm 1967, 1978 và 1995 Khi được đề cập trong Đơn yêu cầu nhờ thu hoặc lệnh nhờ thu với câu: “This Collection is subject to the Uniform Rules for Collection, 1995 Revision ICC pub No 522”, URC 522 trở thành văn bản pháp lý có tính bắt buộc thực hiện đối với tất cả các bên liên quan.
1.2.3 Phương thức thanh toán tín dụng chứng từ (L/C)
Trong ba phương thức thanh toán (PTTT) phổ biến hiện nay là chuyển tiền, nhờ thu và L/C, L/C được xem là phương thức an toàn nhất cho nhà xuất khẩu, đảm bảo lợi ích và trách nhiệm của cả hai bên Tuy nhiên, thực tế cho thấy L/C là phương thức phức tạp nhất, với tỷ lệ bộ chứng từ (BCT) bị từ chối thanh toán cao khi xuất trình lần đầu Nhà xuất khẩu thường mất nhiều thời gian, công sức và chi phí để lập và hoàn chỉnh BCT theo đúng điều kiện trong L/C Nếu không hoàn chỉnh và xuất trình BCT phù hợp, việc thanh toán có thể bị chậm hoặc không được thực hiện Do đó, cần nghiên cứu chuyên sâu về phương thức này.
Người trả tiền Người ủy thác
NHNT NHTH sâu hơn để các doanh nghiệp (DN) xuất nhập khẩu (XNK) và các NHTM hạn chế được những rủi ro trong nghiệp vụ thanh toán quốc tế.
1.2.3.1 Khái niệm và nội dung chủ yếu của L/C a Khái niệm về tín dụng chứng từ.
Theo Điều 2 của UCP 600, tín dụng chứng từ được định nghĩa là một thỏa thuận thể hiện cam kết chắc chắn và không hủy ngang của ngân hàng phát hành về việc thanh toán khi có đủ chứng từ phù hợp.
Thư tín dụng, hay còn gọi là tín dụng thư, là một công cụ tài chính do ngân hàng phát hành, cam kết thanh toán không hủy ngang cho người thụ hưởng khi họ xuất trình bộ chứng từ phù hợp với quy định trong thư tín dụng và trong thời hạn thanh toán đã quy định Nội dung chủ yếu của L/C bao gồm các điều khoản về nghĩa vụ thanh toán, yêu cầu chứng từ và thời gian hiệu lực, đảm bảo quyền lợi cho cả bên mua và bên bán trong giao dịch thương mại.
Một L/C được NHPH đồng ý phát hành có những nội cơ bản sau: + Số hiệu
+ Tên, địa chỉ, số điện thoại liên hệ của các bên liên quan
+ Số tiền, loại tiền, số lượng, đơn giá
+ Thời hạn hiệu lực của L/C
+ Thời hạn trả tiền của L/C (L/C tenor)
+ Thời hạn giao hàng (Shipment Poriod)
+ Những nội dung liên quan đến hàng hóa
+ Những nội dung về vận tải
+ Bộ chứng từ mà người thụ hưởng phải xuất trình
L/C là hợp đồng kinh tế độc lập giữa NHPH và nhà xuất khẩu, trong đó nhà nhập khẩu không có vai trò chính thức trong L/C Mọi yêu cầu của nhà nhập khẩu được NHPH đại diện thông qua các điều khoản trong đơn yêu cầu mở L/C Do đó, trong phương thức L/C, các ngân hàng tham gia có vai trò chủ động và tích cực hơn so với các phương thức thanh toán khác.
1.2.3.3 Phân loại L/C a Các loại L/C phổ biến
- L/C có thể hủy ngang: là L/C mà người mở có quyền đề nghị
NHPH sửa đổi, bổ sung, hoặc hủy bỏ bất cứ lúc nào mà không cần có sự chấp thuận và thông báo trước của người thụ hưởng.
L/C không thể hủy ngang là loại thư tín dụng mà sau khi được mở, ngân hàng phát hành không có quyền sửa đổi, bổ sung hay hủy bỏ trong suốt thời gian hiệu lực của L/C, trừ khi có sự đồng ý của người thụ hưởng.
L/C không hủy ngang, có xác nhận là loại L/C không thể bị hủy bỏ, yêu cầu phải có ngân hàng xác nhận (NHXN) Trách nhiệm thanh toán cho người thụ hưởng từ NHXN tương tự như ngân hàng phát hành (NHPH) Ngoài ra, còn có các loại L/C đặc biệt khác.
L/C tuần hoàn là loại thư tín dụng không thể hủy ngang, tự động tái sử dụng sau khi hết giá trị hoặc hết thời hạn hiệu lực Nó tiếp tục có hiệu lực trong một khoảng thời gian nhất định cho đến khi tổng giá trị hợp đồng được thực hiện.
RỦI RO TRONG THANH TOÁN QUỐC TẾ
Rủi ro trong hoạt động thương mại quốc tế (TTQT) phát sinh từ tranh chấp giữa các bên liên quan như nhà xuất khẩu, nhà nhập khẩu, ngân hàng và các tổ chức trung gian Những rủi ro này có thể xuất phát từ mối quan hệ lợi ích giữa các bên hoặc từ các yếu tố khách quan như thiên tai, chiến tranh và tình hình chính trị Hoạt động TTQT cũng phức tạp hơn so với thanh toán nội địa do khoảng cách địa lý, sự khác biệt về văn hóa, luật pháp và ngôn ngữ.
Trong lĩnh vực thanh toán quốc tế tại Việt Nam, có nhiều rủi ro phát sinh do yếu tố bất khả kháng hoặc chủ quan, bao gồm rủi ro thương mại, rủi ro chính trị, rủi ro pháp lý, rủi ro tỉ giá, rủi ro đạo đức và rủi ro từ quy trình nghiệp vụ Dưới đây là những rủi ro phổ biến liên quan đến từng phương thức thanh toán được sử dụng rộng rãi.
1.3.1 Rủi ro trong phương thức chuyển tiền và phương thức nhờ
Phương thức chuyển tiền và nhờ thu thường được áp dụng khi các bên đã có mối quan hệ mật thiết hoặc khi thị trường nhập khẩu là các nước tiên tiến, uy tín cao, giúp giảm thiểu rủi ro từ các yếu tố thương mại, chính trị, pháp lý và thay đổi tỉ giá Ngược lại, phương thức tín dụng chứng từ (L/C) thường được sử dụng cho các bạn hàng mới hoặc không thường xuyên, dẫn đến mức độ rủi ro cao hơn do những yếu tố trên.
- Rủi ro đạo đức từ nhà nhập khẩu:
Yếu tố đạo đức đóng vai trò quan trọng trong thanh toán quốc tế, đặc biệt trong các phương thức chuyển tiền và nhờ thu Mối quan hệ và uy tín giữa các bên được xem là yếu tố hàng đầu, vì vậy việc đảm bảo tính đạo đức là cần thiết để giảm thiểu rủi ro cho tất cả các bên liên quan.
Nhà xuất khẩu đối mặt với rủi ro cao khi giao hàng trước và nhận thanh toán sau, vì nhà nhập khẩu có thể gặp khó khăn tài chính hoặc phá sản, dẫn đến việc không nhận hàng và thanh toán, hoặc đã nhận hàng nhưng không thực hiện nghĩa vụ thanh toán cho nhà xuất khẩu.
Nhà nhập khẩu có thể cố tình gây bất lợi cho nhà xuất khẩu bằng cách lợi dụng sai lệch về thời gian giao hàng, thiếu sót trong chứng từ hoặc sự không khớp về số lượng, chất lượng hàng hóa Hành động này nhằm mục đích không nhận hàng và không thanh toán, từ đó ép buộc nhà xuất khẩu phải giảm giá bán.
Khi giá bán biến động, nhà nhập khẩu thường tìm cách giảm thiệt hại do giá thị trường giảm mà không muốn nhận hàng và thanh toán Điều này khiến nhà xuất khẩu rơi vào tình thế bị động, có thể phát sinh thêm chi phí vận chuyển hàng về nước, phải bán hàng hóa với giá thấp hơn, tìm kiếm đối tác mới hoặc thậm chí phải hủy đơn hàng.
- Rủi ro đạo đức từ tội phạm công nghệ
Khi thông tin doanh nghiệp bị đánh cắp bởi các nhóm tội phạm công nghệ, dữ liệu quan trọng, bao gồm quyền truy cập vào địa chỉ email chuyên dụng, có thể bị xâm phạm Các đối tượng lừa đảo thường giả dạng thành viên của nhà xuất khẩu để liên lạc với nhà nhập khẩu, từ đó thay đổi thông tin quan trọng như số tài khoản ngân hàng Họ cũng theo dõi việc trao đổi thông tin giữa doanh nghiệp và các đối tác nhằm mục đích trục lợi bất chính.
Trong giao dịch ngoại thương, phương thức nhờ thu kèm chứng từ được ưa chuộng hơn nhờ thu phiếu trơn do rủi ro thanh toán cao Nhà xuất khẩu gặp bất lợi khi nhà nhập khẩu không chấp nhận hối phiếu nếu chưa chắc chắn về chất lượng hàng hóa Hơn nữa, không có đảm bảo về khả năng thanh toán của nhà nhập khẩu khi hối phiếu đến hạn, khiến việc nhận tiền của nhà xuất khẩu hoàn toàn phụ thuộc vào thiện chí của bên nhập khẩu.
Nhà xuất khẩu chỉ có thể kiểm soát quyền định đoạt hàng hóa thông qua ngân hàng, nhưng không thể kiểm soát việc thanh toán của nhà nhập khẩu Điều này dẫn đến tình huống nhà xuất khẩu đã giao hàng và gửi chứng từ nhờ thu, nhưng nhà nhập khẩu không nhận hàng và không thanh toán Dù không mất hàng, nhà xuất khẩu vẫn phải chịu chi phí vận chuyển, lưu kho và có thể phải bán hàng giảm giá hoặc hủy bỏ hàng hóa.
Rủi ro liên quan đến tính chân thật và hợp lệ của chữ ký chấp nhận thanh toán từ người đại diện hợp pháp rất nghiêm trọng Nhà nhập khẩu có thể cố tình giả mạo chữ ký hoặc người ký không đủ thẩm quyền, dẫn đến việc nhận tiền thanh toán sau khi nhận hàng trở nên khó khăn Trong tình huống này, nhà xuất khẩu có thể không nhận được thanh toán nếu nhà nhập khẩu lừa gạt bằng cách giả mạo chữ ký.
Nếu nhà xuất khẩu đã gửi hàng hóa nhưng chưa chuyển giao chứng từ cho ngân hàng nhờ thu, và nhà nhập khẩu đơn phương hủy hợp đồng, việc khởi kiện sẽ tốn nhiều thời gian và chi phí Luật áp dụng trong trường hợp này là luật của nước nhà nhập khẩu.
Trong các giao dịch thương mại, bên mua thường không muốn chuyển tiền thanh toán trước khi nhận hàng, trừ khi đó là hàng hóa độc quyền, có giá trị cao hoặc bên bán có vị thế thương mại mạnh Do đó, các doanh nghiệp xuất khẩu với vị thế thương mại thấp thường phải chấp nhận việc nhận hàng trước khi thanh toán Điều này giúp bên mua giữ quyền kiểm soát, yêu cầu bên bán giao hàng đúng hạn và đúng chất lượng, đồng thời có thể hủy hợp đồng nếu giá hàng hóa trên thị trường giảm.
1.3.3 Rủi ro theo phương thức L/C.
Ngày nay, do tính phổ biến và lợi ích của phương thức L/C, các doanh nghiệp xuất khẩu và nhập khẩu thường lựa chọn hình thức này cho các giao dịch mới hoặc giữa các bên chưa có mối quan hệ thân thiết Sự thiếu hiểu biết giữa các bên và tính mới mẻ của thị trường làm tăng mức độ rủi ro do các yếu tố khách quan Dưới đây là một số rủi ro mà các bên có thể gặp phải trong thanh toán quốc tế, bao gồm chuyển tiền, nhờ thu và L/C.
-Rủi ro từ phía nhà nhập khẩu:
Khi nhà nhập khẩu gặp khó khăn tài chính và không thể thanh toán đúng hạn theo L/C, họ có thể đề nghị gia hạn thời gian trả nợ Trong trường hợp này, nhà xuất khẩu phải quyết định chấp nhận yêu cầu gia hạn hoặc tiến hành khởi kiện nếu tình hình tài chính của nhà nhập khẩu không cải thiện Điều này dẫn đến việc nhà xuất khẩu tạm thời không nhận được khoản thanh toán như đã thỏa thuận.
THỰC TRẠNG VỀ THANH TOÁN QUỐC TẾ VÀ RỦI RO
THỰC TRẠNG THANH TOÁN QUỐC TẾ CỦA CÁC DOANH NGHIỆP TẠI VIỆT NAM VÀ KIÊN GIANG
Thanh toán quốc tế là một hoạt động quan trọng trong kinh doanh của các ngân hàng thương mại (NHTM) Việt Nam, nhưng cũng tiềm ẩn nhiều rủi ro Hoạt động này có phạm vi rộng lớn và bao gồm nhiều đối tượng tham gia, dẫn đến nguy cơ phát sinh rủi ro tại nhiều thời điểm, gây thiệt hại cho các bên liên quan Ngoài việc phục vụ doanh nghiệp xuất nhập khẩu, NHTM còn đóng vai trò là trung gian cung cấp dịch vụ thanh toán, đồng thời phải đối mặt với nhiều rủi ro mặc dù thu được lợi nhuận.
Rủi ro trong thanh toán quốc tế đối với ngân hàng thương mại có thể dẫn đến thiệt hại do không thu hồi được vốn, phát sinh chi phí không cần thiết, hoặc giảm uy tín của ngân hàng Do đó, việc lựa chọn phương thức thanh toán trong ngoại thương không chỉ phụ thuộc vào mối quan hệ và độ tin cậy giữa các bên mà còn bị ảnh hưởng bởi ngân hàng phục vụ nhà nhập khẩu Đánh giá khả năng tài chính của nhà nhập khẩu và tính khả thi của phương án kinh doanh sẽ quyết định dịch vụ ngân hàng cung cấp Ba phương thức thanh toán quốc tế phổ biến hiện nay là chuyển tiền, nhờ thu và tín dụng chứng từ (L/C).
2.1.1 Thực trạng thanh toán quốc tế tại Việt Nam Để xem xét tính phổ biến và xu hướng sử dụng các phương thức thanh toán (PTTT) quốc tế trong ngoại thương, tác giả đã nghiên cứu các tài liệu về thanh toán quốc tế, báo cáo về TTQT trong giai đoạn 2015 –
Năm 2019, một số ngân hàng thương mại lớn tại Việt Nam như Vietcombank, Vietinbank, Sacombank, Agribank và Techcombank chiếm thị phần lớn trong hoạt động thanh toán ngoại bảng Thông tin được thu thập từ khảo sát các doanh nghiệp xuất nhập khẩu và phỏng vấn các chuyên gia trong lĩnh vực thanh toán quốc tế của các ngân hàng thương mại này.
Cuộc khảo sát và phỏng vấn diễn ra từ ngày 10/04/2020 đến 25/04/2020 đã giúp xác định tỷ trọng của các phương thức thanh toán quốc tế phổ biến cùng thị phần của các ngân hàng thương mại trong giai đoạn 2015-2019 Dựa trên báo cáo TTQT và coi thị phần là trọng số, tác giả tính toán tỷ trọng bình quân của các phương thức thanh toán Hiện tại, các ngân hàng thương mại Việt Nam chủ yếu cung cấp dịch vụ thanh toán qua ba phương thức: chuyển tiền, nhờ thu và thanh toán bằng L/C.
Hình 2.1 Tỷ trọng các PTTT trong XK tại một số NHTM Việt Nam
Nguồn: Báo cáo TTQT của Vietcombank, Vietinbank, Sacombank, Agribank
Trong những năm gần đây, cơ cấu phương thức thanh toán quốc tế tại các ngân hàng thương mại (NHTM) Việt Nam đã có nhiều thay đổi đáng kể Tỷ trọng phương thức thanh toán chuyển tiền trong thanh toán hàng xuất khẩu đã tăng từ 58% vào năm 2015 lên 65% vào năm 2019 Ngược lại, tỷ trọng thanh toán bằng thư tín dụng (L/C) chỉ tăng nhẹ từ 21% năm 2015 lên 25% năm 2019.
Việc chuyển sang phương thức chuyển tiền mới giúp doanh nghiệp tiết kiệm chi phí so với các phương thức thanh toán an toàn qua ngân hàng như nhờ thu kèm chứng từ và thanh toán bằng L/C Mặc dù phương thức này mang lại sự nhanh chóng và tiết kiệm, doanh nghiệp cũng phải đối mặt với rủi ro do việc thanh toán phụ thuộc vào đạo đức của nhà nhập khẩu Hơn nữa, nguy cơ bị tội phạm công nghệ tấn công tăng cao, đặc biệt khi doanh nghiệp giao dịch chủ yếu qua Internet.
Hình 2.2 Tỷ trọng các PTTT trong NK tại một số NHTM Việt Nam
Nguồn: Báo cáo TTQT của Vietcombank, Vietinbank, Sacombank,
Trong lĩnh vực thanh toán hàng nhập khẩu, tỷ trọng thanh toán bằng L/C đã giảm dần, từ 35% năm 2015 xuống còn 22% vào năm 2019 Ngược lại, tỷ trọng phương thức thanh toán chuyển tiền đã tăng từ 44% năm 2015 lên 55% vào năm 2019 Sự thay đổi này cho thấy xu hướng chuyển dịch trong cách thức thanh toán hàng nhập khẩu.
Sự thay đổi này khẳng định uy tín của doanh nghiệp Việt Nam trên trường quốc tế, khi nhà xuất khẩu nước ngoài ngày càng tin tưởng giao hàng trước và yêu cầu thanh toán sau Phân tích thực trạng sử dụng các phương thức thanh toán quốc tế tại các ngân hàng thương mại Việt Nam cho thấy xu hướng chuyển tiền và nhờ thu đang gia tăng, trong khi phương thức thanh toán bằng L/C có xu hướng giảm Tình trạng này xuất phát từ nhiều nguyên nhân khác nhau.
Xuất phát từ phía các NHTM:
Doanh nghiệp có quyền quyết định phương thức thanh toán trong hợp đồng ngoại thương, nhưng ngân hàng cung cấp dịch vụ tài chính có trách nhiệm tư vấn và đánh giá để lựa chọn phương thức phù hợp Các ngân hàng thương mại Việt Nam đã đa dạng hóa dịch vụ tài trợ thương mại quốc tế, đặc biệt là các sản phẩm hiện đại như bao thanh toán và bảo lãnh ngân hàng, nhằm hỗ trợ doanh nghiệp trong giao dịch quốc tế Đối với doanh nghiệp nhập khẩu nhỏ và mới, phương thức L/C có thể tiềm ẩn rủi ro cao cho ngân hàng Việc sử dụng các sản phẩm tài trợ này giúp giảm thiểu rủi ro thanh toán cho nhà xuất khẩu, từ đó họ có xu hướng lựa chọn các phương thức thanh toán đơn giản hơn như chuyển tiền hoặc nhờ thu để tiết kiệm chi phí.
Xuất phát từ các doanh nghiệp xuất nhập khẩu:
Hình 2.1 và Hình 2.2 cho thấy sự khác biệt về tỷ trọng phương thức thanh toán chuyển tiền trong thanh toán hàng xuất và nhập khẩu Tỷ lệ PTTT chuyển tiền trong xuất khẩu rất cao, chiếm 65% tỷ trọng thanh toán quốc tế năm 2019, do hàng hóa Việt Nam chủ yếu xuất khẩu sang các thị trường phát triển như EU, Bắc Mỹ, Nhật Bản và Hàn Quốc, nơi có yêu cầu chất lượng cao và giá trị thương hiệu lớn Điều này dẫn đến việc nhà nhập khẩu thường nhận hàng trước khi thanh toán, trong khi nhiều doanh nghiệp xuất khẩu Việt Nam mới tham gia thị trường và phải chấp nhận yêu cầu từ đối tác nước ngoài Ngược lại, trong nhập khẩu, tỷ trọng PTTT chuyển tiền khoảng 55%, với 45% còn lại là nhờ thu và thanh toán bằng L/C, mặc dù thấp hơn so với xuất khẩu, tỷ lệ này đã tăng trong 5 năm qua, cho thấy uy tín của nhà nhập khẩu Việt Nam đang ngày càng được nâng cao Việc chuyển sang phương thức chuyển tiền mang lại nhiều lợi ích cho doanh nghiệp như đơn giản hóa quy trình, tiết kiệm chi phí và giảm bớt việc kiểm soát chứng từ.
2.1.2 Thực trạng thanh toán quốc tế tại Kiên Giang
Kiên Giang, với diện tích nông nghiệp và vùng biển rộng lớn cùng nhiều đảo du lịch, được coi là một Việt Nam thu nhỏ Tỉnh này không chỉ nổi bật với kim ngạch xuất khẩu nông sản và thủy sản cao mà còn thu hút sự quan tâm của các nhà đầu tư quốc tế trong lĩnh vực du lịch Với lịch sử lâu dài trong xuất khẩu hàng hóa thủy sản sang các thị trường lớn như Châu Âu, Hoa Kỳ, Nhật Bản và Hàn Quốc, cũng như xuất khẩu nông sản sang Đông Nam Á, Châu Phi và Trung Đông, Kiên Giang là lựa chọn lý tưởng cho nghiên cứu về hoạt động thanh toán quốc tế của các doanh nghiệp xuất khẩu hiện nay.
2.1.2.1 Tình hình hoạt động xuất khẩu tại Kiên Giang Địa bàn tỉnh Kiên Giang hiện có hơn 36 doanh nghiệp hoạt động xuất khẩu, kim ngạch xuất khẩu hàng hóa của doanh nghiệp nông sản chiếm khoảng 60%, thủy sản chiếm 30% tổng kim ngạch xuất khẩu, 02 mặt hàng chủ lực của tỉnh hàng năm là gạo và thủy sản; còn lại là mặt hàng giày dép các loại (theo báo cáo của Sở kế hoạch và đầu tư tỉnh Kiên Giang năm
Năm 2019, các doanh nghiệp xuất khẩu đã tiếp cận thị trường của khoảng 30 quốc gia và vùng lãnh thổ Trong số đó, một số thị trường chiếm tỷ trọng kim ngạch lớn bao gồm Philippines, Nhật Bản, Hàn Quốc, Trung Quốc, Hoa Kỳ và Khối EU.
Bảng 2.2 Các mặt hàng XK chính của Kiên Giang 2017-2019
(đvt: Kim ngạch: tr.USD; tỷ trọng: %)
Nguồn: Sở Công Thương của tỉnh Kiên Giang
Theo Sở Công Thương của tỉnh Kiên Giang, trong bối cảnh dịch
Mặc dù COVID-19 diễn biến phức tạp, hoạt động ngoại thương của tỉnh Kiên Giang vẫn duy trì ổn định, với kim ngạch xuất khẩu hàng năm đạt hơn 670 triệu USD Trong đó, hàng nông sản chiếm gần 405 triệu USD và thủy sản hơn 202 triệu USD, cả hai đều tăng 8.6% so với năm 2018 Sản phẩm xuất khẩu chủ lực bao gồm gạo, tôm đông, mực, bạch tuộc và cá cơm sấy Kinh tế thủy sản là thế mạnh của tỉnh, với khả năng tạo ra các sản phẩm giá trị cao từ nuôi trồng và đánh bắt Đặc biệt, gạo chiếm gần 60% tổng kim ngạch xuất khẩu năm 2019 nhờ vào diện tích đồng bằng rộng lớn.
2.1.2.2 Thực trạng TTQT quốc tế tại Kiên Giang
CÁC RỦI RO PHỔ BIẾN TRONG THANH TOÁN QUỐC TẾ CỦA VIỆT NAM VÀ THẾ GIỚI
2.2.1 Các rủi ro phổ biến trong TTQT theo phương thức chuyển tiền.
Sau đây là các rủi ro phổ biến trong phương thức chuyển tiền:
Rủi ro trong giao dịch xuất nhập khẩu gia tăng khi nhà nhập khẩu từ chối nhận hàng và thanh toán sau khi nhà xuất khẩu đã gửi hàng đi theo phương thức chuyển tiền sau khi nhận hàng Nhà nhập khẩu có thể lợi dụng những sai sót về chất lượng, mẫu mã và số lượng hàng hóa để từ chối nhận hàng, thậm chí khởi kiện nhà xuất khẩu vì vi phạm hợp đồng Thực tế cho thấy, sự biến động giá cả hoặc việc tìm được nguồn hàng giá rẻ hơn khiến nhà nhập khẩu đơn phương hủy giao dịch, gây khó khăn cho nhà xuất khẩu Trong tình huống này, nhà xuất khẩu có thể phải nhượng bộ bằng cách giảm giá, tìm đối tác khác để bán hàng, hoặc buộc phải mang hàng trở về nước.
Khi các bên đã thiết lập mối quan hệ thân thiết, phương thức chuyển tiền trở nên tiết kiệm và hiệu quả Tuy nhiên, ở những thị trường khó tính như Hoa Kỳ, EU, Nhật Bản và Hàn Quốc, yêu cầu về chất lượng và an toàn rất cao, buộc nhà xuất khẩu phải chấp nhận phương thức nhận hàng trước khi chuyển tiền Mỗi thị trường có quy định riêng về chất lượng hàng hóa, độ an toàn và các điều kiện nhập khẩu, mà thường không được thể hiện rõ ràng trong hợp đồng ngoại thương Do đó, nhà xuất khẩu cần tự tìm hiểu và cung cấp hàng hóa phù hợp với yêu cầu của nhà nhập khẩu; nếu không, họ có thể bị từ chối nhận hàng và thanh toán do vi phạm quy định về chất lượng và an toàn.
Rủi ro từ tội phạm công nghệ đang gia tăng khi các đối tượng lợi dụng công nghệ thông tin để đánh cắp dữ liệu quan trọng của doanh nghiệp Chúng xâm nhập vào hệ thống liên lạc giữa bên mua và bên bán, thay đổi thông tin như số tài khoản, tên người nhận và địa chỉ nhận, nhằm chiếm đoạt tài sản của doanh nghiệp.
Khi nhập khẩu các mặt hàng độc quyền hoặc cấp thiết, việc chuyển tiền thanh toán trước khi nhận hàng là bắt buộc Nếu mặt hàng trở nên khan hiếm và nhà nhập khẩu đã thanh toán trước để giữ hàng, nhưng giá bán đột ngột tăng cao hơn so với thỏa thuận ban đầu, bên bán có thể đơn phương hủy hợp đồng và không giao hàng Trong trường hợp này, dù bên mua không mất tiền, họ vẫn phải chịu thiệt hại tài chính do bồi thường hợp đồng cho các nhà phân phối và mất uy tín của doanh nghiệp.
2.2.2 Các rủi ro phổ biến trong TTQT theo phương thức nhờ thu.
Sau đây là các rủi ro phổ biến trong phương thức nhờ thu:
Phương thức nhờ thu phiếu trơn không đảm bảo quyền lợi cho bên bán, vì việc thanh toán và nhận hàng diễn ra tách rời và không có sự ràng buộc giữa hai bên Nhà xuất khẩu phụ thuộc vào thiện chí của bên mua, dẫn đến nguy cơ nhà nhập khẩu có thể không thanh toán hoặc trì hoãn việc trả tiền.
Phương thức thanh toán nhờ thu kèm chứng từ cho phép nhà xuất khẩu giữ hồ sơ hàng hóa qua ngân hàng, bảo vệ quyền sở hữu nhưng không đảm bảo thanh toán từ nhà nhập khẩu Điều này tạo ra rủi ro cho nhà xuất khẩu, khi nhà nhập khẩu có thể trì hoãn thanh toán bằng cách không nhận chứng từ hàng hóa hoặc chờ đợi khi giá cả thị trường biến động.
Rủi ro từ việc sử dụng chữ ký giả trong thanh toán là một vấn đề phổ biến, đặc biệt trong lĩnh vực xuất nhập khẩu Nhiều nhà nhập khẩu đã lợi dụng chữ ký giả để lừa đảo nhà xuất khẩu nhằm nhận hàng mà không thanh toán Tình trạng này thường xảy ra nhiều ở thị trường Châu Phi, nơi mà quy tắc địa phương có thể vượt qua các quy định chính thức.
2.2.3 Các rủi ro phổ biến trong TTQT theo phương thức L/C.
Các doanh nghiệp thường sử dụng phương thức tín dụng chứng từ (L/C) trong thanh toán quốc tế khi giao dịch với thị trường mới, các đối tác lần đầu hoặc những khách hàng có lịch sử thanh toán không tốt, nhằm giảm thiểu rủi ro trong quá trình thanh toán.
Thanh toán theo phương thức L/C thường gặp nhiều rủi ro do nhà xuất khẩu không lập BCT đúng yêu cầu Có ba loại chứng từ quan trọng trong việc xuất trình đòi tiền theo L/C: vận đơn đường biển, hóa đơn thương mại và bảo hiểm đơn Các doanh nghiệp xuất khẩu thường mắc phải những rủi ro phổ biến liên quan đến các chứng từ này.
Rủi ro trong vận tải đơn đường biển (Ocean Bill of Lading) chủ yếu xuất phát từ các sai sót trong việc thể hiện năng lực và tư cách của người ký phát hành vận đơn Theo đánh giá của ICC, những sai biệt này thường dẫn đến tranh chấp, ảnh hưởng đến quy trình vận chuyển hàng hóa.
+ Rủi ro liên quan tới hóa đơn thương mại (Commercial Invoice): các tranh chấp phát sinh liên quan đến hóa đơn thương mại thường do hai vấn đề:
Trị giá hóa đơn trong L/C có thể đạt 100% hoặc lớn hơn Nếu số tiền trên hóa đơn cao hơn giá trị của L/C, ngân hàng có quyền từ chối thanh toán.
Mô tả hàng hóa trên hóa đơn thương mại cần phải chính xác và đồng nhất với mô tả trong L/C, vì bất kỳ sự khác biệt nào, dù nhỏ, có thể dẫn đến việc ngân hàng từ chối thanh toán và gây ra tranh chấp.
Rủi ro liên quan đến chứng từ bảo hiểm thường xuất phát từ các vụ tranh chấp, có thể do nhiều nguyên nhân khác nhau Những nguyên nhân này bao gồm sự không rõ ràng trong điều khoản hợp đồng, thông tin sai lệch từ bên tham gia bảo hiểm, hoặc sự thiếu hiểu biết về quyền lợi và nghĩa vụ của các bên Việc nắm rõ các yếu tố này là cần thiết để giảm thiểu tranh chấp và đảm bảo quyền lợi hợp pháp của người tham gia.
Chứng từ bảo hiểm không bao gồm loại rủi ro quy định trong L/C;
Loại tiền tệ trên chứng từ bảo hiểm khác với loại tiền tệ ghi trong L/C;
Bảo hiểm có hiệu lực sau ngày ghi trên vận đơn hoặc trên các chứng từ vận tải khác;
Số tiền bảo hiểm nhỏ hơn 110% giá CIF của hàng hóa.
Hơn 80% các bộ chứng từ xuất trình L/C bị từ chối thanh toán lần đầu do lỗi kỹ thuật từ nhà xuất khẩu khi gửi BCT cho NHPH Các vấn đề này cần được chú ý để đảm bảo quá trình thanh toán diễn ra suôn sẻ.
Nhà xuất khẩu có thể gặp khó khăn trong việc thực hiện yêu cầu của L/C khi trình bày bộ chứng từ cho ngân hàng phát hành (NHPH) nếu không đọc kỹ các điều khoản trong L/C từ ngân hàng thương mại (NHTB), dẫn đến việc bộ chứng từ trở nên bất hợp lệ.
KHẢO SÁT CÁC RỦI RO TRONG TTQT TẠI KIÊN GIANG
Dưới đây là những trường hợp rủi ro thực tế đã xảy ra tại các doanh nghiệp xuất khẩu được khảo sát tại tỉnh Kiên Giang, dựa trên kết quả phỏng vấn của tác giả.
Tình huống rủi ro chậm thanh toán do cấm vận từ nước nhập khẩu của doanh nghiệp xuất khẩu gạo Kiên Giang.
Nguyên nhân: Rủi ro quốc gia, rủi ro chính trị do nước nhà nhập khẩu bị cấm vận.
Năm 2005, một doanh nghiệp xuất khẩu gạo tại Kiên Giang ký hợp đồng xuất khẩu trị giá 55.000 USD sang Iraq Sau khi nhận thông báo chấp nhận phát hành L/C từ ngân hàng Iraq, doanh nghiệp đã giao hàng Tuy nhiên, khi nhà nhập khẩu nhận bộ chứng từ và tiến hành thanh toán, lệnh cấm vận từ Hoa Kỳ đã khiến giao dịch bị chặn lại Để giải quyết, nhà nhập khẩu phải nhờ JPMorgan Chase can thiệp, dẫn đến chi phí cao hơn cho doanh nghiệp xuất khẩu, buộc họ phải chấp nhận một phần chi phí chuyển tiền Tình huống này tạo ra rủi ro lớn cho doanh nghiệp xuất khẩu, không chỉ vì nguy cơ bị phạt do vi phạm lệnh cấm vận, mà còn vì việc chậm thanh toán có thể gây khó khăn tài chính cho họ trong việc trả nợ và lương cho công nhân.
Nhận diện rủi ro là rất quan trọng, đặc biệt khi nhà xuất khẩu đối mặt với nguy cơ thanh toán do tình hình chính trị hoặc cấm vận từ Hoa Kỳ, thường xảy ra ở các thị trường mới Những thị trường này thường thiếu quan hệ hợp tác lâu dài, dẫn đến việc hiểu biết hạn chế về chính trị và quan hệ đối ngoại, từ đó không nắm bắt được các tình huống có thể xảy ra như lệnh cấm vận, chiến tranh hay khủng hoảng kinh tế Những rủi ro này có thể khiến nhà nhập khẩu, mặc dù có khả năng và thiện chí, vẫn không thể thực hiện thanh toán cho nhà xuất khẩu.
Tình huống rủi ro không nhận được thanh toán do bất hợp lệ chứng từ của doanh nghiệp xuất khẩu thủy sản Kiên Giang.
Rủi ro pháp lý có thể phát sinh do việc xuất trình bộ chứng từ không đầy đủ hoặc quá hạn, cùng với việc thiếu chữ ký của bên mua trên hợp đồng ngoại thương.
Vào năm 2017, doanh nghiệp X tại Kiên Giang đã ký hợp đồng xuất khẩu thủy sản sang Hàn Quốc và nhận được thư chấp nhận thanh toán L/C từ ngân hàng HanaBank, quy định ngày giao hàng chậm nhất là ngày “x” và thời hạn xuất trình chứng từ là sau 15 ngày từ ngày vận đơn, tức “x+15” Do sự chủ quan, doanh nghiệp X không yêu cầu bên mua sửa đổi L/C để gia hạn thời gian hiệu lực, cũng như không kiểm tra kỹ hợp đồng ngoại thương, dẫn đến việc thiếu chữ ký xác nhận của bên nhập khẩu Khi xuất trình chứng từ, ngân hàng HanaBank từ chối thanh toán và trả lại chứng từ cho doanh nghiệp Đồng thời, bên nhập khẩu không đồng ý nhận hàng, buộc doanh nghiệp X phải khởi kiện Tuy nhiên, đơn khởi kiện bị tòa án Hàn Quốc bác bỏ do hợp đồng không có chữ ký của bên mua, khiến hợp đồng trở nên vô hiệu.
Rủi ro trong xuất khẩu phát sinh từ việc doanh nghiệp không kiểm tra hợp đồng ngoại thương, dẫn đến thiếu chữ ký của bên nhập khẩu Hơn nữa, doanh nghiệp không dự đoán được các sai sót trong chứng từ và yêu cầu gia hạn thời gian thanh toán của L/C Ngân hàng thương mại tại Việt Nam cũng thể hiện sự yếu kém trong việc kiểm tra tính phù hợp của bộ chứng từ trước khi chuyển giao cho ngân hàng tại Hàn Quốc, không tư vấn cho doanh nghiệp về thời hạn L/C quá ngắn, dễ dẫn đến rủi ro quá hạn xuất trình Thêm vào đó, sự hiểu biết hạn chế về pháp lý của doanh nghiệp xuất khẩu làm gia tăng nguy cơ về tính hợp lệ của hợp đồng ngoại thương.
Tình huống rủi ro chậm thanh toán do phía xuất khẩu vi phạm đạo đức trong kinh doanh
Nguyên nhân: Rủi ro đạo đức của NHPH và nhà nhập khẩu.
Năm 2014, doanh nghiệp Y tại Kiên Giang đã xuất khẩu gạo sang Algeria với giá trị 75.0 USD, lần đầu tiên giao dịch trên thị trường mới này Để đảm bảo an toàn, doanh nghiệp yêu cầu thanh toán qua L/C trả ngay trong hợp đồng Sau khi ngân hàng Algeria chấp nhận phát hành L/C, doanh nghiệp Y giao hàng và xuất trình chứng từ Tuy nhiên, NHPH không thông báo về tính phù hợp của chứng từ và không thanh toán cho doanh nghiệp Y, mà chuyển giao chứng từ cho nhà nhập khẩu Nhà nhập khẩu đã sử dụng hàng hóa chưa thanh toán để tiêu thụ và chỉ thanh toán cho doanh nghiệp Y sau khi nhận được tiền.
Nhận diện rủi ro trong giao dịch với thị trường mới là điều quan trọng, vì nhà xuất khẩu thường gặp phải nhiều tình huống khó xử khi các bên liên quan không tuân thủ luật pháp quốc tế và thông lệ ngoại thương Ngay cả ngân hàng của quốc gia nhập khẩu cũng có thể vi phạm các thỏa thuận và đạo đức kinh doanh để duy trì mối quan hệ với nhà nhập khẩu Hơn nữa, việc doanh nghiệp nhập khẩu áp dụng tập quán địa phương trong giao dịch với đối tác nước ngoài có thể làm tổn hại đến hình ảnh thương hiệu và uy tín trong thương mại quốc tế.
Tình huống rủi ro phát sinh do nhà xuất khẩu không đáp ứng được qui định của hợp đồng thương mại.
Nguyên nhân: Rủi ro do nhà xuất khẩu chấp nhận điều khoản không thể thực hiện được trên nội dung L/C.
Năm 2008, doanh nghiệp Z tại Kiên Giang ký hợp đồng xuất khẩu gạo sang Indonesia, với điều kiện giao hàng theo Incoterms FOB tại cảng TP.HCM.
Theo quy định trong bộ chứng từ xuất trình trên L/C, vận đơn đường biển phải được lập theo lệnh của NHPH và ghi rõ cước phí trả trước (freight prepaid) Tuy nhiên, do điều kiện giao hàng là FOB tại cảng Hồ Chí Minh theo Incoterms 2000, hãng tàu đã phát hành vận đơn với nội dung cước phí trả sau (freight collect) Điều này đã gây khó khăn khi doanh nghiệp Z xuất trình bộ chứng từ cho ngân hàng.
Việt Nam đã bị từ chối thanh toán do chứng từ không hợp lệ, và Ngân hàng Đầu tư và Phát triển yêu cầu người thụ hưởng đề nghị người nhập khẩu sửa đổi thư tín dụng cho phù hợp Tuy nhiên, nhà nhập khẩu không đồng ý sửa đổi nội dung L/C vì lo ngại phát sinh thêm chi phí, và đã gửi văn bản cho Ngân hàng Đầu tư và Phát triển với điều khoản rằng "Bộ chứng từ có bất hợp lệ, đề nghị NHĐCĐ xuất trình bộ chứng từ Công ty chúng tôi sẽ chịu hoàn toàn trách nhiệm nếu bộ chứng xuất trình bị NHPH từ chối thanh toán." Do đó, dù có thể được thanh toán, doanh nghiệp Z vẫn phải chịu phí cho bộ chứng từ không hợp lệ.
Nhận diện rủi ro trong nghiệp vụ ngoại thương là rất quan trọng, đặc biệt đối với doanh nghiệp xuất khẩu tại Việt Nam Do tính chủ quan, nhiều doanh nghiệp gặp phải rủi ro như bị từ chối thanh toán do sai sót trong bộ chứng từ, hoặc không đáp ứng các điều khoản trong thư tín dụng (L/C) Trong trường hợp xấu nhất, nhà nhập khẩu có thể không nhận hàng và khởi kiện doanh nghiệp xuất khẩu vì giao hàng trễ hạn theo thỏa thuận.
Tình huống rủi ro từ nghiệp vụ của ngân hàng thông báo làm chậm thanh toán cho doanh nghiệp xuất khẩu thủy sản.
Nguyên nhân: Rủi ro do thất lạc chứng từ.
Doanh nghiệp xuất khẩu thủy sản tại Tắc Cậu – Kiên Giang đã gặp phải tình huống hi hữu khi chuẩn bị bộ chứng từ xuất trình cho NHTB sau khi giao hàng theo quy định của L/C Là khách hàng thân thiết, doanh nghiệp được NHTB kiểm tra và gửi bộ chứng từ qua email cho NHPH để kiểm tra sơ bộ trước khi gửi bản gốc Tuy nhiên, một chứng từ quan trọng đã bị bỏ quên trên máy scan và bị thất lạc, dẫn đến việc NHPH không chấp nhận bộ chứng từ thiếu May mắn thay, chứng từ bị mất có thể được cấp lại, vì vậy doanh nghiệp đã yêu cầu bên mua sửa đổi L/C, kéo dài thời hạn thanh toán và chấp nhận mọi khoản chi phí phát sinh để chờ cơ quan hữu trách phát hành lại chứng từ.
Nhận diện rủi ro trong hệ thống ngân hàng là rất quan trọng, đặc biệt khi chứng từ bị mất và không thể cấp lại Trong trường hợp này, nhà nhập khẩu sẽ không thể nhận bộ chứng từ để nhận hàng, trong khi nhà xuất khẩu không thể cung cấp chứng từ phù hợp để thực hiện thanh toán.
Tình huống bị từ chối thanh toán do sai sót trong qui trình nghiệp vụ của doanh nghiệp xuất khẩu thủy sản.
Nguyên nhân: Bộ chứng từ bất hợp lệ khi xuất trình cho NHPH.
Doanh nghiệp xuất khẩu thủy sản A tại Kiên Giang đã gặp phải sự cố trong giao dịch với nhà nhập khẩu Trung Đông khi hợp đồng ngoại thương trị giá 250.000 USD quy định về số lượng tôm và ghẹ Do thời tiết xấu, hai bên đã thỏa thuận chuyển sang mua tôm hoàn toàn mà không thay đổi giá trị hợp đồng Mặc dù hợp đồng đã được sửa đổi, bên mua đã không yêu cầu nhà phát hành L/C điều chỉnh, trong khi bên bán lại cho rằng hợp đồng mới là cơ sở quyết định mà không chú ý đến các điều kiện của L/C theo quy định UCP và ISBP Kết quả là, nhà phát hành L/C đã từ chối thanh toán do bộ chứng từ không hợp lệ, mặc dù hai bên đã đồng ý sửa đổi hợp đồng.
ĐÁNH GIÁ CÁC RỦI RO
a Mức độ và tần xuất xảy ra rủi ro
Theo Cục Dự Trữ Liên Bang Mỹ, từ năm 2013 đến 2016, có khoảng 22.000 vụ lừa đảo gây thiệt hại hơn 3,1 tỷ USD, xảy ra tại 79 quốc gia Tội phạm chủ yếu đến từ các tổ chức ở Đông Âu, Châu Á, Châu Phi và Trung Đông, những thị trường xuất khẩu lớn nhất của Việt Nam trong những năm gần đây.
Theo thông tin từ cuộc phỏng vấn chuyên gia và báo cáo doanh nghiệp xuất nhập khẩu, rủi ro trong thanh toán quốc tế hiện đang gia tăng, chủ yếu do các nhóm tội phạm lừa đảo công nghệ cao ngày càng tinh vi Sự cạnh tranh giữa các doanh nghiệp trong việc bán hàng đã dẫn đến việc lơ là trong quản lý bán hàng và ký hợp đồng, tạo điều kiện cho các đối tượng xấu lợi dụng Thương mại quốc tế đang đối mặt với nguy cơ lừa đảo trong hoạt động thương mại và thanh toán điện tử, đặc biệt khi cơ sở pháp lý bị hạn chế ở biên giới mỗi quốc gia, gây rủi ro cho doanh nghiệp và hợp đồng giao thương.
+ Rủi ro bị từ chối nhận hàng và thanh toán phát sinh chủ yếu do:
Chất lượng hàng hóa, dịch vụ mà nhà xuất khẩu cung cấp không đạt tiêu chuẩn theo yêu cầu của phía nhà nhập khẩu.
Rủi ro phát sinh do giao hàng chậm, quá hạn thời gian giao hàng, giao hàng sai cảng đến.
Rủi ro do xuất trình chứng từ bất hợp lệ.
Xuất trình bộ chứng từ trễ hạn.
Hoặc trong các trường hợp biến động giá mà nhà nhập khẩu làm khó để không nhận hàng.
Rủi ro liên quan đến đạo đức của nhà nhập khẩu và ngân hàng phục vụ họ đang gia tăng Nguy cơ lừa đảo trong lĩnh vực này ngày càng trở nên phổ biến, ảnh hưởng đến sự an toàn và đáng tin cậy trong giao dịch thương mại.
Mặc dù rủi ro từ tình hình chính trị của quốc gia nhà nhập khẩu thường ít được chú ý, nhưng thực tế cho thấy đã có nhiều trường hợp nhà xuất khẩu không nhận được thanh toán đúng hạn Điều này xảy ra khi quốc gia của nhà nhập khẩu trải qua biến động chính trị, kinh tế hoặc bị áp đặt cấm vận từ Hoa Kỳ và các nước đồng minh.
Trong chương 2, tác giả phân tích tình hình thanh toán quốc tế tại Việt Nam và trên thế giới, dựa trên báo cáo của NHTM và phỏng vấn doanh nghiệp địa phương Ba phương thức thanh toán quốc tế phổ biến trong xuất nhập khẩu là chuyển tiền, nhờ thu và L/C, mỗi phương thức có ưu nhược điểm riêng Việc lựa chọn phương thức thanh toán phù hợp phụ thuộc vào mối quan hệ giữa các bên Hiện nay, phương thức chuyển tiền ngày càng được ưa chuộng nhờ tiết kiệm chi phí và hiệu quả, khi uy tín của doanh nghiệp Việt Nam trên thị trường quốc tế ngày càng cao, tạo niềm tin cho các đối tác trong quan hệ ngoại thương.
Các doanh nghiệp hiện đang đối mặt với nhiều thách thức trong hoạt động thanh toán quốc tế do sự mở rộng của thị trường và sự đa dạng của đối tác giao thương Do thiếu hiểu biết về luật quốc tế và các quy định của nước nhập khẩu, nhiều doanh nghiệp, đặc biệt là các doanh nghiệp vừa và nhỏ, thường dễ dàng chấp nhận những yêu cầu khó thực hiện từ đối tác, dẫn đến rủi ro và tranh chấp trong thanh toán Thêm vào đó, sự phát triển của công nghệ truyền thông cũng tạo ra những rủi ro mới, khi các nhóm tội phạm công nghệ cao ngày càng tinh vi và khó kiểm soát.