1. Trang chủ
  2. » Luận Văn - Báo Cáo

Tài liệu Điều Kiện Tiếp Cận Hệ Thống Y Tế Công Ảnh Hưởng Đến Lựa Chọn Tự Dùng Thuốc

83 22 0

Đang tải... (xem toàn văn)

Tài liệu hạn chế xem trước, để xem đầy đủ mời bạn chọn Tải xuống

THÔNG TIN TÀI LIỆU

Thông tin cơ bản

Định dạng
Số trang 83
Dung lượng 2,1 MB

Cấu trúc

  • BÌA

  • TÓM TẮT

  • MỤC LỤC

  • DANH MỤC CÁC TỪ VIẾT TẮT

  • DANH MỤC CÁC BẢNG BIỂU

  • DANH MỤC CÁC SƠ ĐỒ

  • Chƣơng 1 GIỚI THIỆU

    • 1.1. Bối cảnh chính sách

    • 1.2. Câu hỏi nghiên cứu

    • 1.3. Mục tiêu nghiên cứu

    • 1.4. Đối tƣợng nghiên cứu

    • 1.5. Phƣơng pháp nghiên cứu

    • 1.6. Kết cấu của bài nghiên cứu

  • Chƣơng 2 CƠ SỞ LÝ THUYẾT VÀ TỔNG QUAN CÁC NGHIÊN CỨU TRƢỚC

    • 2.1. Khái niệm về tự dùng thuốc chữa bệnh

    • 2.2. Cơ sở lý thuyết

      • 2.2.1. Mô hình lựa chọn hình thức chăm sóc sức khỏe của Young (1981)

      • 2.2.2. Mô hình “Four As” của Good (1987)

      • 2.2.3. Mô hình sử dụng hình thức chăm sóc sức khỏe của Andersen (1995)

    • 2.3. Những nghiên cứu trƣớc và bằng chứng thực nghiệm tại Việt Nam

      • 2.3.1. Các yếu tố về đặc điểm cá nhân

      • 2.3.2. Đo lường nhóm nhân tố về điều kiện tiếp cận hệ thống y tế

  • Chƣơng 3 PHƢƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU VÀ MÔ HÌNH NGHIÊN CỨU

    • 3.1. Phƣơng pháp nghiên cứu

    • 3.2. Mô hình cho đề tài nghiên cứu

    • 3.3. Mô hình hồi quy

  • Chƣơng 4 PHÂN TÍCH KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU

    • 4.1. Chi tiết mẫu thống kê

    • 4.2. Kết quả đánh giá độ tin cậy của thang đo

    • 4.3. Kết quả phân tích nhân tố

    • 4.4. Phân tích mô tả

      • 4.4.1. Mối quan hệ giữa đặc điểm cá nhân và lựa chọn tự dùng thuốc chữa bệnh

      • 4.4.2. Mối quan hệ giữa điều kiện tiếp cận hệ thống y tế công và lựa chọn tự dùng thuốc chữa bệnh

      • 4.4.3. Mối tương quan giữa các biến độc lập trong mô hình

    • 4.5. Hồi quy logistic đa thức

      • 4.5.1. Lựa chọn biến đưa vào mô hình

      • 4.5.2. Phân tích kết quả hồi quy

  • Chƣơng 5 KẾT LUẬN VÀ KIẾN NGHỊ CHÍNH SÁCH

  • TÀI LIỆU THAM KHẢO

  • Phụ lục 1: Tổng hợp thang đo cho các nhóm yếu tố

  • Phụ lục 2: Chi tiết mẫu thống kê

  • Phụ lục 3: Đánh giá độ tin cậy của thang đo về điều kiện tiếp cận HTYT

  • Phụ lục 4: Phân tích nhân tố

  • Phụ lục 5: Kiểm định quan hệ giữa tuổi tác và lựa chọn tự dùng thuốc

  • Phụ lục 6: Kiểm định quan hệ giữa trình độ học vấn và lựa chọn tự dùng thuốc

  • Phụ lục 7: Kiểm định quan hệ giữa thu nhập bình quân hộ và lựa chọn tự dùng thuốc

  • Phụ lục 8: Kiểm định quan hệ giữa mức độ bệnh tật và lựa chọn tự dùng thuốc

  • Phụ lục 9: Kiểm định quan hệ giữa sở hữu thẻ BHYT và lựa chọn tự dùng thuốc

  • Phụ lục 10: Kiểm định mối quan hệ giữa tôn giáo và lựa chọn tự dùng thuốc

  • Phụ lục 11: Kiểm định quan hệ giữa sở thích chọn bác sĩ khám và lựa chọn tự dùng thuốc

  • Phụ lục 12: Kiểm định quan hệ giữa khả năng tiếp cận và lựa chọn tự dùng thuốc

  • Phụ lục 13: Kiểm định quan hệ giữa khả năng sẵn có và lựa chọn tự dùng thuốc

  • Phụ lục 14: Kiểm định quan hệ giữa khả năng chi trả và lựa chọn tự dùng thuốc

  • Phụ lục 15: Kiểm định quan hệ giữa sự phù hợp và lựa chọn tự dùng thuốc

  • Phụ lục 16: Kiểm tra mối tƣơng quan giữa các biến

  • Phụ lục 17: Xây dựng mô hình hồi quy đơn giản

  • Phụ lục 18: Dàn bài thảo luận

  • Phụ lục 19: Bảng câu hỏi điều tra

Nội dung

GIỚI THIỆU

Bối cảnh chính sách

Theo FDA, thuốc không cần kê đơn là những sản phẩm an toàn và hiệu quả, có thể sử dụng mà không cần bác sĩ Những loại thuốc này đã trải qua nhiều năm kiểm nghiệm để đảm bảo tính an toàn và hiệu quả Khi được sử dụng đúng cách, thuốc không kê đơn mang lại nhiều lợi ích như đa dạng lựa chọn cho từng người, dễ dàng tiếp cận và giúp ngăn ngừa, giảm thiểu triệu chứng bệnh.

Theo Tổ chức Y tế Thế giới (WHO, 2000), việc tự mua thuốc không cần toa có thể gây ra nhiều rủi ro cho người tiêu dùng, đặc biệt khi họ thiếu kiến thức về tác động của từng loại thuốc Việc tự ý sử dụng thuốc mà không hiểu rõ các tác dụng phụ tiềm ẩn, cũng như sự khác biệt giữa các loại thuốc giảm đau, có thể dẫn đến những quyết định sai lầm trong việc lựa chọn thuốc Điều này khiến bệnh nhân dễ dàng sử dụng bất kỳ loại thuốc nào mà họ cho là phù hợp, và nếu kéo dài thời gian sử dụng, có thể dẫn đến những tai biến nghiêm trọng.

Việc sử dụng thuốc kê đơn mà không có toa bác sĩ tiềm ẩn nhiều nguy cơ cho sức khỏe, đặc biệt là khi thuốc chưa được kiểm chứng về độ an toàn và có thể gây ngộ độc Bộ Y tế Việt Nam đã phân loại thuốc thành hai nhóm: thuốc không kê đơn (OTC) và thuốc kê đơn, yêu cầu người dân phải có toa thuốc để mua thuốc kê đơn Tuy nhiên, thực tế là nhiều người vẫn tự ý mua thuốc kê đơn, như kháng sinh, mà không có chỉ định của bác sĩ Hành động này không chỉ gây hại cho sức khỏe cá nhân mà còn ảnh hưởng đến cộng đồng, bởi việc sử dụng kháng sinh không đúng cách có thể dẫn đến tình trạng kháng thuốc Khi kháng thuốc xảy ra, bệnh nhân sẽ phải tăng liều hoặc thay đổi thuốc, dẫn đến nguy cơ ngộ độc và khó khăn trong việc điều trị Tình trạng này có thể tạo ra siêu vi khuẩn kháng thuốc, đe dọa sức khỏe cộng đồng và trở thành thảm họa toàn cầu.

Thực trạng về hành vi tự dùng thuốc chữa bệnh tại Việt Nam

Tự mua thuốc để chữa bệnh mà không qua khám bệnh là hành vi phổ biến ở các nước đang phát triển, trong đó có Việt Nam Theo thống kê của Ngân hàng Thế giới từ khảo sát y tế Việt Nam năm 2001–2002, tỷ lệ tự dùng thuốc tự điều trị ở cả nông thôn và thành thị đều cao, cho thấy đây là sự lựa chọn đầu tiên trong việc tìm kiếm sức khỏe Ngay cả tại thành phố Hồ Chí Minh, trung tâm kinh tế, văn hóa, xã hội của Việt Nam, tình trạng tự dùng thuốc chữa bệnh cũng rất phổ biến.

Một khảo sát vào năm 2007 về tình hình kinh tế xã hội ngoại thành TP.HCM cho thấy tỷ lệ người mua thuốc không có toa bác sĩ tại quận Gò Vấp là 61%, quận Bình Tân là 83,7% và quận 2 đạt 100%.

Hành vi tự dùng thuốc chữa bệnh đang gia tăng và dẫn đến nhiều phản ứng không mong muốn, đặc biệt là tình trạng dị ứng thuốc Theo nghiên cứu của khoa Dị Ứng – Bệnh viện Bạch Mai, tỷ lệ bệnh nhân dị ứng thuốc tại Hải Phòng đạt 9,3%, cao nhất cả nước, tiếp theo là TPHCM với 8,85%, trong khi các quốc gia khác chỉ ghi nhận tỷ lệ từ 2% đến 2,5% Bên cạnh đó, việc lạm dụng thuốc kháng sinh cũng đang trở thành vấn đề nghiêm trọng tại Việt Nam Nghiên cứu của Đại học Oxford cho thấy 60% trẻ em mắc viêm phổi đa kháng thuốc, với 45% kháng 3 loại kháng sinh và 14% kháng 4 loại, dẫn đến 70% nhiễm trùng sơ sinh không thể điều trị và 67% tử vong do vi khuẩn kháng thuốc.

Theo bài viết của Tùng Linh trên Báo Hà Nội Mới Online, tỷ lệ bệnh nhân bị dị ứng thuốc đang gia tăng đáng kể Thông tin này được công bố vào ngày 19/08/2010 và có thể truy cập tại địa chỉ http://www.hanoimoi.com.vn/newsdetail/suc_khoe/366193/gia-tang-ty-le-benh-nhan-bi-di-ung-thuoc.htm Sự gia tăng này cần được chú ý để nâng cao nhận thức và biện pháp phòng ngừa hiệu quả.

Lạm dụng thuốc kháng sinh có thể dẫn đến những hậu quả nghiêm trọng cho sức khỏe Việc sử dụng không đúng cách sẽ làm giảm hiệu quả của thuốc và có thể gây ra tình trạng kháng kháng sinh Điều này không chỉ ảnh hưởng đến cá nhân mà còn đe dọa đến sức khỏe cộng đồng Do đó, cần nâng cao nhận thức về việc sử dụng thuốc kháng sinh một cách hợp lý và có trách nhiệm.

Tự chẩn đoán sai và sử dụng thuốc không đúng cách có thể gây ra hậu quả nghiêm trọng cho sức khỏe người bệnh, ảnh hưởng đến gia đình và tác động tiêu cực đến nền kinh tế Sức khỏe tốt giúp cá nhân làm việc hiệu quả hơn, từ đó thúc đẩy sự phát triển kinh tế Hơn nữa, việc giảm thiệt hại sức khỏe do tự ý dùng thuốc không hợp lý sẽ giúp tiết kiệm chi phí cho gia đình và giảm áp lực cho nguồn lực xã hội trong việc điều trị các hệ lụy.

Bảng 1-1: Tỷ trọng các hình thức chăm sóc sức khỏe tại Việt Nam năm 2002

Dịch vụ y tế tƣ nhân

Tự điều trị Không điều trị

Thực trạng về điều kiện tiếp cận HTYT tại Việt Nam

Việc tiếp cận dịch vụ điều trị ảnh hưởng lớn đến hành vi sử dụng dịch vụ chăm sóc sức khỏe của cá nhân Sự nhận thức về điều kiện tiếp cận hệ thống y tế (HTYT) được hình thành từ cả yếu tố chủ quan của người sử dụng và yếu tố khách quan từ Nhà nước và nhà cung cấp Vai trò của Nhà nước trong việc tạo điều kiện cho người dân tiếp cận HTYT là rất quan trọng nhằm đảm bảo sức khỏe cộng đồng và thúc đẩy phát triển kinh tế, đây là mục tiêu hàng đầu của nhiều quốc gia, không riêng gì Việt Nam Tuy nhiên, chính sách y tế, nguồn lực và tổ chức hệ thống y tế tại Việt Nam còn nhiều hạn chế, dẫn đến việc người dân gặp khó khăn trong việc tiếp cận dịch vụ chăm sóc chuyên nghiệp, khiến họ thường lựa chọn tự dùng thuốc tại nhà thay vì đến gặp bác sĩ.

Theo dữ liệu của Tổ Chức Y tế Thế giới năm 2008, Việt Nam có tỷ lệ chi tiêu y tế trong GDP cao nhất so với các nước như Indonesia, Malaysia, Philippines, Singapore, Thái Lan và Trung Quốc Đặc biệt, chi tiêu từ túi hộ gia đình chiếm tới 55,5% tổng chi tiêu y tế, tỷ lệ này cao hơn nhiều so với các quốc gia khác trong khu vực Điều này cho thấy người dân Việt Nam đang phải đối mặt với chi phí y tế lớn, điều này có thể trở thành rào cản trong việc tiếp cận dịch vụ chăm sóc sức khỏe chuyên nghiệp.

Bảng 1-2: Chi tiêu y tế Việt Nam so sánh với các nước

Hệ thống y tế thành phố Hồ Chí Minh đang đối mặt với áp lực lớn trong việc đáp ứng nhu cầu chăm sóc sức khỏe của người dân, do mật độ dân số cao nhất cả nước (3419 người/km²) và lượng người từ các tỉnh đổ về khám chữa bệnh Mặc dù các cơ sở y tế công vẫn được nhiều người tin tưởng vì chất lượng dịch vụ tốt, đặc biệt là các bệnh viện tuyến trên, nhưng người dân lại thiếu niềm tin vào các trạm y tế do cơ sở hạ tầng kém, thiếu bác sĩ có năng lực và trang thiết bị y tế cần thiết Tình trạng quá tải tại các bệnh viện tuyến trên cũng là rào cản lớn trong việc tiếp cận hệ thống y tế công, theo số liệu từ báo Sài Gòn Giải phóng.

3 Tường Lâm (2009), “TP.HCM: Bất cập trạm y tế phường, xã”, Báo Sài Gòn Giải Phóng Online, truy cập ngày 20/01/2011 tại địa chỉ: http://www.sggp.org.vn/ytesuckhoe/2009/5/192112/

Việt Na m Ind o ne sia Nhậ t M a la y sia P hil ipp ines Sin g a po re T há i La n T rung Q uố c

1.Phần trăm chi tiêu y tế/GDP (%) 7,3 2,0 8,1 4,3 3,8 3,4 4,0 4,3

2 Cơ cấu chi tiêu y tế (%) 100,0 100,0 100,0 100,0 100,0 100,0 100,0 100,0

Chi tiêu hộ gia đình 55,5 30,1 15,4 40,9 56,2 61,0 17,7 49,0

Chi tiêu tƣ nhân khác 4,4 12,4 1,1 6,9 4,4 2,1 2,0 0,4

Chi tiêu ngân sách Nhà nước 26,1 48,4 17,2 43,7 25,4 30,3 68,4 20,9

Theo dữ liệu của WHO năm 2010 và thống kê năm 2008, tải trung bình của các cơ sở y tế đạt 48%, trong khi đó tuyến tỉnh và huyện lần lượt ghi nhận mức quá tải trung bình là 25% và 15% Đặc biệt, một số bệnh viện có mức quá tải lên tới gần 300%.

Việc nghiên cứu các yếu tố ảnh hưởng đến hành vi tự dùng thuốc của người dân là một vấn đề chính sách quan trọng, đặc biệt trong bối cảnh hạn chế về điều kiện tiếp cận hệ thống y tế Điều này nhận được sự quan tâm từ các ban ngành y tế nhằm nâng cao chất lượng sức khỏe cộng đồng.

Câu hỏi nghiên cứu

Câu hỏi 1: Những yếu tố nào về điều kiện tiếp cận hệ thống y tế công ảnh hưởng tới lựa chọn tự dùng thuốc chữa bệnh của người dân?

Câu hỏi 2: Giải pháp chính sách can thiệp nào của Nhà nước nhằm hạn chế lựa chọn tự dùng thuốc chữa bệnh của người dân?

Mục tiêu nghiên cứu

Nghiên cứu này nhằm xác định các yếu tố liên quan đến điều kiện tiếp cận hệ thống y tế công ảnh hưởng đến quyết định tự dùng thuốc chữa bệnh Kết quả nghiên cứu sẽ hỗ trợ các nhà hoạch định chính sách trong việc xây dựng các biện pháp hạn chế việc tự dùng thuốc, từ đó nâng cao sức khỏe cộng đồng.

Đối tƣợng nghiên cứu

Bài viết này nghiên cứu các yếu tố ảnh hưởng đến khả năng tiếp cận hệ thống y tế công, tập trung vào đối tượng là phụ nữ đã lập gia đình từ 18 tuổi trở lên Xu hướng chăm sóc sức khỏe ở phụ nữ cao hơn nam giới và ở người đã kết hôn cao hơn người chưa kết hôn (Trivedi, 2002) Nguyên nhân có thể do phụ nữ gặp khó khăn về địa lý, thời gian và điều kiện kinh tế-xã hội Phụ nữ Việt Nam thường mất nhiều thời gian hơn để tiếp cận dịch vụ y tế so với nam giới, đồng thời họ cũng có vị trí xã hội và cơ hội tiếp cận nguồn lực kinh tế, giáo dục hạn chế hơn.

Nguyễn Văn Châu (2009) trong bài viết “Nâng cao chất lượng khám chữa bệnh ở cơ sở” trên Báo Sài Gòn Giải Phóng Online đã chỉ ra rằng thông tin về sức khỏe của phụ nữ thường thấp hơn so với nam giới Khi lập gia đình, phụ nữ Việt Nam phải đối mặt với nhiều trách nhiệm như chăm sóc con cái, quản lý việc nhà và đôi khi còn phải đi làm, điều này khiến họ khó khăn trong việc tìm kiếm dịch vụ chăm sóc sức khỏe chuyên nghiệp Vì vậy, việc chăm sóc sức khỏe cho phụ nữ đã kết hôn luôn được Nhà nước chú trọng, nhằm hướng tới một xã hội công bằng và phát triển.

Phương pháp nghiên cứu

Bài viết áp dụng cả phương pháp định tính và định lượng để giải quyết vấn đề nghiên cứu về lựa chọn tự dùng thuốc của người dân thành phố Hồ Chí Minh Phân tích định tính xác định các yếu tố liên quan đến điều kiện tiếp cận hệ thống y tế công và phát triển thang đo cùng bảng hỏi điều tra Trong khi đó, phân tích định lượng khám phá các nhân tố này và đo lường ảnh hưởng của chúng đến quyết định tự dùng thuốc Chi tiết về phương pháp nghiên cứu sẽ được trình bày trong Chương 3.

Kết cấu của bài nghiên cứu

Bài nghiên cứu được cấu trúc thành 5 chương, bắt đầu với Chương 1, nơi phân tích bối cảnh và đặt ra câu hỏi, mục tiêu cũng như phương pháp nghiên cứu Chương 2 trình bày cơ sở lý thuyết và tổng quan các nghiên cứu trước, tạo nền tảng cho mô hình nghiên cứu trong Chương 3 Ở Chương 3, bài viết mô tả chi tiết phương pháp và cách thu thập dữ liệu, đồng thời giới thiệu mô hình nghiên cứu cùng với thang đo và giả thuyết Chương 4 kiểm định độ tin cậy của thang đo, thực hiện phân tích nhân tố khám phá EFA và đánh giá ảnh hưởng của các yếu tố liên quan đến điều kiện tiếp cận hệ thống y tế công lên lựa chọn tự dùng thuốc của người dân thông qua hồi quy logistic đa thức Cuối cùng, Chương 5 tổng kết và đưa ra các kiến nghị chính sách.

5 Năm 2008, tỷ lệ bất bình đẳng giữa nữ với nam ( Gender Gap Index 2008) là 0,678 Việt Nam xếp hạng thứ

Việt Nam đứng thứ 68 trong tổng số 130 quốc gia về chỉ số bất bình đẳng giới, đánh giá trên các lĩnh vực kinh tế, giáo dục, sức khỏe và quyền lực chính trị (Nguồn: https://members.weforum.org/pdf/gendergap/ggg08_vietnam.pdf, truy cập ngày 07/02/2011)

CƠ SỞ LÝ THUYẾT VÀ TỔNG QUAN CÁC NGHIÊN CỨU TRƯỚC

Khái niệm về tự dùng thuốc chữa bệnh

Theo Tổ chức Y tế Thế giới (WHO, 2000), tự dùng thuốc chữa bệnh (self-medication) là hành vi người tiêu dùng sử dụng thuốc để điều trị triệu chứng bệnh do tự chẩn đoán, hoặc tiếp tục sử dụng thuốc kê đơn cho các bệnh kinh niên hoặc tái phát.

Thuốc không kê đơn (OTC) cho phép người tiêu dùng tự chẩn đoán và lựa chọn loại thuốc phù hợp để điều trị bệnh của mình.

Dựa trên định nghĩa của Tổ chức Y tế Thế giới, tác giả tiến hành nghiên cứu về việc tự dùng thuốc của người dân trong trường hợp ốm đau hoặc chấn thương xảy ra trong vòng 6 tháng gần nhất.

Cơ sở lý thuyết

2.1.1 Mô hình lựa chọn hình thức chăm sóc sức khỏe của Young (1981)

Theo Young (1981), việc lựa chọn hình thức chăm sóc sức khỏe phụ thuộc vào bốn yếu tố thiết yếu: nhận thức mức độ bệnh tật, kiến thức tự trị bệnh tại nhà, sự tin tưởng vào cách chữa bệnh và sự tiếp cận đối với việc điều trị Trong đó, nhận thức mức độ bệnh tật phản ánh sự hiểu biết của cá nhân hoặc cộng đồng về mức độ nghiêm trọng của bệnh.

Kiến thức tự trị bệnh tại nhà cho thấy rằng nếu một người có đủ hiểu biết, họ sẽ tự điều trị trước khi tìm đến dịch vụ chăm sóc sức khỏe chuyên nghiệp Niềm tin vào phương pháp chữa bệnh cũng phản ánh sự tin tưởng vào hiệu quả của cách điều trị hiện tại; cá nhân sẽ chọn phương pháp mà họ tin tưởng Hơn nữa, khả năng tiếp cận điều trị thể hiện sự đánh giá của cá nhân về chi phí và tính sẵn có của dịch vụ y tế; họ sẽ ưu tiên sử dụng dịch vụ dễ dàng tiếp cận hơn.

Mô hình của Young hiện chỉ chú trọng vào các yếu tố thiết yếu ảnh hưởng đến việc lựa chọn hình thức chăm sóc sức khỏe, mà chưa làm rõ sự khác biệt trong đặc điểm cá nhân và tổ chức hệ thống y tế, cũng như tác động của chúng đến hành vi tìm kiếm sức khỏe của người dân.

Sơ đồ 2.1: Mô hình thực hiện sự lựa chọn của Young (1981)

2.1.2 Mô hình “Four As” của Good (1987)

Mô hình này xác định bốn nhóm nhân tố chính ảnh hưởng đến hành vi chăm sóc sức khỏe: khả năng sẵn có, khả năng tiếp cận, khả năng chi trả và khả năng chấp nhận được Khả năng sẵn có liên quan đến cấu trúc hệ thống và quy trình dịch vụ y tế, trong khi khả năng tiếp cận đề cập đến sự phân bổ địa lý của các cơ sở y tế Khả năng chi trả xem xét các yếu tố tài chính, và khả năng chấp nhận được liên quan đến văn hóa và tín ngưỡng Những nhân tố này phản ánh điều kiện tiếp cận cá nhân đến dịch vụ chăm sóc sức khỏe Mô hình giúp xác định các rào cản tiềm tàng cho điều trị, nhưng không đề cập đến chất lượng dịch vụ y tế và sự khác biệt về đặc điểm cá nhân ảnh hưởng đến việc tiếp cận dịch vụ.

2.1.3 Mô hình sử dụng hình thức chăm sóc sức khỏe của Andersen (1995)

Theo mô hình của Anderson, có hai nhóm nhân tố tác động trực tiếp đến việc sử dụng hình thức chăm sóc sức khỏe của con người: nhóm nhân tố về đặc điểm cá nhân và nhóm nhân tố về đặc điểm hệ thống chăm sóc sức khỏe Việc sử dụng hình thức chăm sóc sức khỏe bao gồm thực hành sức khỏe cá nhân như ăn kiêng và tập thể dục, cũng như lựa chọn các hình thức chăm sóc sức khỏe khác nhau.

Kiến thức tự chữa bệnh tại nhà

Sự tin tưởng vào cách chữa bệnh

Sự tiếp cận đối với việc điều trị

Sự lựa chọn hình thức chăm sóc sức khỏe bị ảnh hưởng bởi cấu trúc hệ thống y tế, bao gồm chính sách y tế, nguồn lực và cách tổ chức Những yếu tố này quyết định khả năng tiếp cận, chi trả, sẵn có, chấp nhận và sự phù hợp của cá nhân đối với dịch vụ chăm sóc sức khỏe.

Chính sách y tế gắn liền với chính sách tài chính y tế, bao gồm bảo hiểm y tế (BHYT) và chi phí y tế Những chính sách này có ảnh hưởng trực tiếp đến khả năng chi trả dịch vụ y tế của người dân.

Hệ thống y tế được cấu thành từ nguồn lực bao gồm số lượng và phân bố vốn, lao động, như số lượng bác sĩ, trang thiết bị y tế và cơ sở y tế tại các địa phương Những yếu tố này có ảnh hưởng trực tiếp đến khả năng sẵn có và tiếp cận dịch vụ y tế của người dân.

Cách thức tổ chức trong hệ thống y tế (HTYT) liên quan đến quản lý nguồn lực và phản ánh khả năng chấp nhận cũng như sự phù hợp của chất lượng dịch vụ y tế Điều này bao gồm các yếu tố như tiêu chuẩn thuốc, tiêu chuẩn trang thiết bị, năng lực và thái độ của cán bộ y tế, cùng với quy trình liên cá nhân Những đặc điểm cá nhân cũng đóng vai trò quan trọng trong việc nâng cao chất lượng dịch vụ y tế.

 Nguồn lực vốn & lao động

 Thực hành sức khỏe cá nhân

 Sử dụng dịch vụ y tế

Sơ đồ 2.2: Lý thuyết sử dụng hình thức chăm sóc sức khỏe của Andersen (1995)

Sự lựa chọn dịch vụ chăm sóc sức khỏe của cá nhân phụ thuộc vào ba yếu tố chính: đặc điểm dẫn dắt, đặc điểm cho phép và nhận thức nhu cầu sử dụng Đặc điểm dẫn dắt bao gồm nhân khẩu học, vị trí xã hội, cũng như kiến thức và kinh nghiệm về bệnh tật Đặc điểm cho phép liên quan đến nguồn lực gia đình, trong đó tình trạng kinh tế và nơi cư trú đóng vai trò quan trọng Cuối cùng, nhu cầu sử dụng dịch vụ y tế được xác định bởi mức độ nghiêm trọng của bệnh tật và số ngày bệnh.

Mô hình hành vi chăm sóc sức khỏe Andersen (1995) là mô hình toàn diện nhất, bao gồm các yếu tố nhân khẩu học, đặc điểm kinh tế xã hội và nhận thức về bệnh tật Sự khác biệt trong đặc điểm cá nhân ảnh hưởng đến nhận thức và khả năng tiếp cận dịch vụ chăm sóc sức khỏe, bên cạnh các yếu tố chính sách, phân bổ vốn và lao động, cùng cách tổ chức hệ thống y tế Ba đặc điểm của hệ thống y tế ảnh hưởng đến việc tiếp cận dịch vụ qua năm nhóm yếu tố: khả năng sẵn có, khả năng tiếp cận, khả năng chi trả, khả năng chấp nhận và sự phù hợp của dịch vụ Những yếu tố này kết hợp với đặc điểm cá nhân tác động đến hành vi lựa chọn hình thức chăm sóc sức khỏe của người dân.

Bảng 2-1: Tóm tắt các mô hình lý thuyết

(1995) Đ ặc điể m cá nh ân Đặc điểm dẫn dắt /  Đặc điểm cho phép 

Nhận thức về bệnh tật  

Sự t iếp cận đến dịc h vụ y tế

Khả năng chấp nhận đƣợc  

(/) – phản ánh một phần trong nhóm nhân tố

() – phản ánh toàn bộ nhóm nhân tố

Nguồn: tác giả tổng hợp

Những nghiên cứu trước và bằng chứng thực nghiệm tại Việt Nam

2.3.1 Các yếu tố về đặc điểm cá nhân Đặc điểm cá nhân bao gồm ba đặc điểm chính nhƣ: đặc điểm dẫn dắt, đặc điểm cho phép và nhận thức tình trạng bệnh tật Trong khuôn khổ phân tích các yếu tố về đặc điểm cá nhân ảnh hưởng tới lựa chọn tự dùng thuốc chữa bệnh, bài viết sử dụng các yếu tố từ mô hình của nghiên cứu Trivedi (2002) về vai trò của thu nhập và bảo hiểm y tế lên việc mua thuốc tự chữa bệnh với dữ liệu lấy từ cuộc điều tra mức sống người Việt Nam 1997-1998 từ Ngân hàng Thế giới Mô hình này bao gồm những yếu tố cơ bản về đặc điểm cá nhân nhƣ:

Tuổi tác là một yếu tố quan trọng ảnh hưởng đến hành vi tự dùng thuốc Nghiên cứu của Trivedi (2002) cho thấy người cao tuổi có xu hướng tự dùng thuốc nhiều hơn Tuy nhiên, nghiên cứu của Tran Van Long (2010) tại Cà Mau lại chỉ ra rằng người cao tuổi thường có xu hướng đến bác sĩ khám bệnh hơn Điều này có thể do tình trạng sức khỏe suy giảm và bệnh tật nghiêm trọng hơn ở người lớn tuổi, khiến họ lựa chọn thăm khám y tế thay vì tự điều trị tại nhà.

Trình độ học vấn ảnh hưởng đáng kể đến hành vi tự dùng thuốc Nghiên cứu của Trivedi (2002) chỉ ra rằng những người có trình độ học vấn thấp có xu hướng tự dùng thuốc nhiều hơn, trong khi những người có trình độ cao nhận thức rõ hơn về rủi ro liên quan Tuy nhiên, nghiên cứu của Tran Van Long (2010) và Okumura cùng các cộng sự (2002) cho thấy mối quan hệ đồng biến giữa trình độ học vấn và hành vi tự dùng thuốc, cho rằng những người có trình độ cao hơn thường có kiến thức tốt hơn về tự chữa bệnh tại nhà Young (1981) cũng nhấn mạnh rằng khi cá nhân có kiến thức tự dùng thuốc tốt, họ thường lựa chọn điều trị tại nhà trước khi đến cơ sở y tế.

Thu nhập ảnh hưởng đến hành vi mua thuốc tự chữa bệnh, theo nghiên cứu của Trivedi (2002) Cụ thể, ở mức thu nhập cao, việc mua thuốc tự chữa bệnh được coi là hàng hóa thứ cấp, trong khi ở mức thu nhập thấp, nó lại được xem là hàng hóa thông thường Điều này cho thấy rằng cá nhân có xu hướng giảm lựa chọn tự dùng thuốc khi thu nhập tăng, đặc biệt khi vượt qua ngưỡng nhất định, họ bắt đầu tìm kiếm sự tư vấn từ các chuyên gia chăm sóc y tế.

Sở hữu thẻ bảo hiểm y tế (BHYT) có ảnh hưởng lớn đến hành vi tiêu dùng thuốc tự điều trị Theo nghiên cứu của Chang và Trivedi (2003), BHYT giúp giảm chi phí chăm sóc y tế, từ đó làm giảm xu hướng tự dùng thuốc Nghiên cứu thực nghiệm của Pagán và cộng sự (2006) tại Mexico cho thấy, sự thiếu hụt đầu tư BHYT từ chính phủ dẫn đến việc gia tăng tự dùng thuốc trong cộng đồng Điều này cho thấy nhu cầu về hàng hóa y tế có thể nhạy cảm với giá cả và chính sách bảo hiểm.

Nhận thức về tình trạng sức khỏe ảnh hưởng đến nhu cầu chăm sóc y tế Nghiên cứu của Trivedi (2002) chỉ ra rằng những người có thời gian bệnh và hạn chế hoạt động lâu dài thường giảm hành vi tự dùng thuốc Tương tự, nghiên cứu của Tran Van Long (2010) cũng cho thấy rằng khi người dân nhận thức mức độ bệnh tật nghiêm trọng, họ có xu hướng đến bác sĩ để khám bệnh.

2.3.2 Đo lường nhóm nhân tố về điều kiện tiếp cận hệ thống y tế Để đo lường các nhân tố về điều kiện tiếp cận HTYT bài viết sử dụng các thang đo của bài nghiên cứu của Shrestha (2010) về đánh giá điều kiện tiếp cận hệ thống chăm sóc sức khỏe cơ bản tại Indonesia Theo nhận xét của tác giả, bài nghiên cứu Shrestha (2010) đã tổng hợp tương đối đầy đủ các thang đo liên quan đến từng nhân tố ảnh hưởng điều kiện tiếp cận dịch vụ y tế từ nhiều bài nghiên cứu khác nhau (Phụ lục 1) Do vậy, bài nghiên cứu của tác giả sẽ lấy thang đo này làm chuẩn để phân tích

Khả năng tiếp cận (Accessibility) liên quan đến yếu tố địa lý và được đo lường qua khoảng cách, thời gian di chuyển và phương tiện di chuyển, theo Shrestha (2010) Những yếu tố này tạo ra rào cản cho người dân trong việc tiếp cận dịch vụ chăm sóc sức khỏe chuyên nghiệp, gây khó khăn cho họ khi đến các cơ sở y tế Do đó, sự dễ dàng trong việc đến các cơ sở y tế là một chỉ số quan trọng để đo lường khả năng tiếp cận Trong khảo sát hộ dân Uganda về khả năng tiếp cận thuốc, Bộ Y tế nước này đã sử dụng thang đo "Đến phương tiện y tế… là dễ dàng," và bài nghiên cứu sẽ áp dụng thang đo này để phân tích Thang đo khả năng tiếp cận bao gồm: (i) Khả năng tiếp cận bệnh viện/Phòng khám Đa khoa công.

Khả năng tiếp cận trạm y tế xã/phường, (iii) Khả năng tiếp cận hiệu thuốc tư nhân

Khả năng sẵn có (Availability) liên quan đến quy mô sản phẩm và dịch vụ mà các phương tiện y tế cung cấp Theo Shrestha (2010), khả năng sẵn có được xác định bởi nhiều yếu tố.

Thời gian chờ đợi để làm thủ tục khám bệnh là một rào cản lớn đối với người dân trong việc tiếp cận dịch vụ chăm sóc sức khỏe Tại Việt Nam, các thủ tục hành chính trong khám chữa bệnh tại các cơ sở y tế công còn nhiều phức tạp, dẫn đến việc người bệnh phải chờ lâu để được khám (Lý Ngọc Kính, 2007).

(2) Thời gian chờ đợi khám bác sĩ là khoảng thời gian chờ đợi để đƣợc đến lƣợt gặp bác sĩ

Tỷ lệ bác sĩ trên 10.000 dân tại TP.HCM năm 2008 chỉ đạt 8,2, thấp hơn nhiều so với các quốc gia như Trung Quốc (15,1), Philippines (11,6), Ý (42) và Pháp (33,7) trong những năm trước đó Điều này cho thấy nguồn lực y bác sĩ tại TP.HCM không đủ đáp ứng nhu cầu khám chữa bệnh của người dân, dẫn đến tình trạng thiếu hụt nhân lực và cơ sở vật chất Hệ quả là tình trạng quá tải tại các cơ sở y tế công, khiến thời gian chờ đợi khám chữa bệnh kéo dài.

Sự sẵn có của thuốc giúp người dân giảm thời gian chờ đợi để mua thuốc cần thiết, điều này rất quan trọng vì thời gian được coi là rào cản trong việc tiếp cận dịch vụ chăm sóc sức khỏe Theo nghiên cứu của Loyola Filho và cộng sự (2002), sự sẵn có thuốc cao dẫn đến việc người dân tự dùng thuốc nhiều hơn Do đó, sự sẵn có thuốc có thể được đo lường qua hai yếu tố chính: (i) sự sẵn có thuốc tại cơ sở y tế và (ii) sự sẵn có thuốc tại các hiệu thuốc tư nhân.

Khả năng chi trả liên quan đến nguồn lực kinh tế và tài chính của gia đình, đảm bảo họ có đủ khả năng chi trả cho chi phí khám chữa bệnh Nếu không có chính sách trợ giúp, những người có tình trạng kinh tế thấp sẽ gặp khó khăn trong việc chi trả cho dịch vụ y tế.

Dữ liệu từ NationMaster.com cho thấy rằng sự chăm sóc sức khỏe chuyên nghiệp là một yếu tố quan trọng trong việc quyết định chi phí y tế Một cá nhân thường tự dùng thuốc khi nhận thấy chi phí thấp hơn và không có rủi ro Khả năng chi trả của người dân được xác định bởi nhiều yếu tố như sở hữu thẻ bảo hiểm y tế, chi phí thuốc, chi phí dịch vụ y tế, chi phí đi lại và tổng chi phí y tế Những yếu tố này tạo thành thang đo khả năng chi trả trong lĩnh vực chăm sóc sức khỏe.

 Khả năng chi trả giá thuốc

 Khả năng chi trả dịch vụ y tế

 Khả năng chi trả chi phí đi đường

 Khả năng chi trả tổng chi phí khám bệnh

 Khả năng chi trả thuốc theo toa

Khả năng chấp nhận được dịch vụ chăm sóc sức khỏe phụ thuộc vào yếu tố văn hóa và tín ngưỡng Cách tổ chức hệ thống y tế có thể tạo ra rào cản cho các nền văn hóa và tín ngưỡng khác nhau trong việc tiếp cận dịch vụ Theo Shrestha (2010), khả năng chấp nhận được được xác định bởi hai yếu tố chính: tôn giáo và sở thích chọn bác sĩ theo giới tính Nếu không tôn trọng tôn giáo và quyền lựa chọn bác sĩ theo giới tính, người dân có thể gặp khó khăn trong việc tiếp cận dịch vụ chăm sóc chuyên nghiệp.

PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU VÀ MÔ HÌNH NGHIÊN CỨU

Phương pháp nghiên cứu

Phương pháp nghiên cứu gồm hai phần như sau:

Phần 1: Nghiên cứu định tính

Kết quả nghiên cứu trong Chương 2 đã giúp tác giả xác định các nhóm nhân tố liên quan đến điều kiện tiếp cận hệ thống y tế công và thiết lập thang đo cho từng nhóm Để đảm bảo tính phù hợp của các yếu tố và thang đo với mục tiêu nghiên cứu, tác giả đã tiến hành phỏng vấn thử 10 người thuộc đối tượng khảo sát nhằm bổ sung yếu tố mới và điều chỉnh thang đo cho mô hình nghiên cứu.

1vì tác giả cho rằng họ là những người biết được rõ nhất lý do lựa chọn hành vi tự dùng thuốc của mình

Phần 2: Nghiên cứu định lƣợng

Phỏng vấn chính thức được thực hiện qua hai hình thức: trực tiếp và qua email, với phương pháp chọn mẫu thuận tiện do giới hạn về nguồn lực và thời gian Tác giả đã phỏng vấn 16 đối tượng, những người này tiếp tục chuyển bảng hỏi đến các đối tượng khác Kết quả sau khảo sát thu về 180 bảng câu hỏi, trong đó có 120 bảng trả lời bằng giấy và 60 bảng qua email Sau khi xử lý dữ liệu, tác giả có 124 mẫu hoàn chỉnh Với số lượng quan sát này, tính đại diện của mẫu được đảm bảo, vì theo Trọng và Ngọc (2008), số quan sát tối thiểu cần bằng 4-5 lần số biến trong phân tích nhân tố, và với 5 lần số biến khảo sát, số mẫu tối thiểu yêu cầu chỉ là 120, nhỏ hơn 124.

Sau khi có bộ số liệu hoàn chỉnh, tác giả thực hiện phân tích định lƣợng lần lƣợt là:

Bước 1 – Đánh giá độ tin cậy của thang đo thông qua hệ số Cronbach α nhằm loại bỏ các mục hỏi không phù hợp trong số nhiều mục hỏi được đưa vào kiểm tra.

Bước 2 trong quá trình phân tích nhân tố EFA nhằm mục đích rút gọn tập hợp các biến quan sát thành một tập hợp có số lượng biến ít hơn nhưng vẫn giữ được ý nghĩa quan trọng (Trọng và Ngọc 2008, trang 27).

Bước 3 – Tiến hành phân tích thống kê mô tả để kiểm tra mối tương quan giữa các yếu tố và hành vi tự dùng thuốc, nhằm phát hiện các chính sách liên quan.

Bước 4 - Thực hiện phân tích hồi quy logistic đa thức để đánh giá ảnh hưởng của các yếu tố liên quan đến điều kiện tiếp cận hệ thống y tế đối với quyết định tự dùng thuốc của người dân.

Mô hình cho đề tài nghiên cứu

Bài nghiên cứu dựa trên kết quả phân tích định tính đã chỉ ra các yếu tố ảnh hưởng đến lựa chọn hình thức chăm sóc sức khỏe của người dân, đồng thời đề xuất mô hình nghiên cứu thể hiện qua Sơ đồ 3.1 Các yếu tố này được mô tả thông qua thang đo chi tiết.

Thang đo các yếu tố về đặc điểm cá nhân

Nghiên cứu xác định 6 yếu tố cá nhân ảnh hưởng đến lựa chọn hình thức chăm sóc sức khỏe Đầu tiên, tuổi tác được đo bằng số năm tuổi của người phỏng vấn Thứ hai, trình độ học vấn được phân loại thành hai cấp: dưới cấp 3 và trên cấp 3 Thứ ba, thu nhập được đánh giá qua thu nhập bình quân hộ gia đình hàng tháng, với hai mức: dưới 5 triệu đồng và từ 5 triệu đồng trở lên Thứ tư, nhận thức về bệnh tật được đo lường qua mức độ nghiêm trọng của bệnh, phân thành không nghiêm trọng và có nghiêm trọng Thứ năm, sở hữu thẻ bảo hiểm y tế (BHYT) được phân loại thành có thẻ và không có thẻ Cuối cùng, yếu tố tôn giáo cũng được phân loại thành có tôn giáo và không có tôn giáo.

Thang đo của các nhân tố về tiếp cận HTYT

Thang đo cho từng nhân tố về khả năng tiếp cận, khả năng sẵn có, khả năng chấp nhận được và sự phù hợp được trình bày tại Bảng 3-1, sử dụng thang đo Likert 5 cấp từ 1 đến 5 Mục hỏi về vay tiền hay bán đồ để chữa bệnh được hình thành từ cuộc phỏng vấn thử với 10 người, cho thấy cần bổ sung yếu tố tài sản trong khả năng chi trả, vì tài chính gia đình không chỉ dựa vào thu nhập mà còn liên quan đến tài sản có thể bán hoặc vay để chi phí khám chữa bệnh Bảng khảo sát của Bộ Y tế Uganda (2008) đã áp dụng thang đo này, do đó nghiên cứu sẽ sử dụng phương pháp tương tự trong bảng khảo sát.

Sơ đồ 3.1: Mô hình cho đề tài nghiên cứu

Nguồn: tác giả tổng hợp

LỰA CHỌN HÌNH THỨC CHĂM SÓC SỨC KHỎE Khả năng sẵn có

Khả năng tiếp cận Khả năng chi trả

Khả năng chấp nhận đƣợc

Tuổi Trình độ học vấn Thu nhập

Mức nghiêm trọng bệnh tật ĐẶC ĐIỂM CÁ

Khả năng chấp nhận bác sĩ khám bệnh được thể hiện qua sở thích lựa chọn giới tính bác sĩ, được đo lường bằng thang phân loại: 1 - Thích khám bác sĩ nam, 2 - Thích khám bác sĩ nữ, 3 - Giới tính không phải là vấn đề.

Bảng 3-1: Tổng hợp các yếu tố sử dụng thang đo Likert

Thang đo cho biến phụ thuộc (sự lựa chọn hình thức chăm sóc sức khỏe)

Hình thức chăm sóc sức khỏe được đo lường qua ba mức độ: 0 - chỉ đến bác sĩ khám, 1 - tự dùng thuốc và đến bác sĩ khám, 2 - chỉ tự dùng thuốc Phương pháp đo lường này được tham khảo từ nghiên cứu của Tran Van Long (2010).

STT Mã hóa Diễn giải

I Khả năng tiếp cận (ACC)

1 ACC1 Khả năng tiếp cận bệnh viện/PKĐK công

2 ACC2 Khả năng tiếp cận trạm y tế xã/phường

3 ACC3 Khả năng tiếp cận hiệu thuốc tƣ nhân

II Khả năng sẵn có (AVA)

1 AVA1 Thời gian chờ làm thủ tục khám

2 AVA2 Thời gian chờ gặp bác sĩ

3 AVA3 Sự sẵn có thuốc tại bệnh viện/PKĐK công lập

4 AVA4 Sự sẵn có thuốc tại hiệu thuốc tƣ nhân

III Khả năng chi trả (AFF)

1 AFF1 Khả năng chi trả giá thuốc

2 AFF2 Khả năng chi trả dịch vụ y tế

3 AFF3 Khả năng chi trả chi phí đi đường

4 AFF4 Khả năng chi trả tổng chi phí khám bệnh

5 AFF5 Khả năng chi trả thuốc theo toa

6 AFF6 Vay tiền/bán đồ để chữa bệnh

IV Sự phù hợp (ADE)

1 ADE1 Sự phù hợp chất lƣợng dịch vụ y tế

2 ADE2 Sự phù hợp của điều kiện vệ sinh

3 ADE3 Sự phù hợp của thái độ phục vụ của nhân viên y tế

4 ADE4 Sự phù hợp của giờ mở cửa

5 ADE5 Sự phù hợp của chất lƣợng dịch vụ BHYT

Nguồn: tác giả tổng hợp

Mô hình hồi quy

Nghiên cứu này tập trung vào việc xác định sự khác biệt có ý nghĩa giữa ba hình thức chữa bệnh: chỉ đến bác sĩ khám, tự dùng thuốc kết hợp với việc đến bác sĩ, và chỉ tự dùng thuốc Mục tiêu chính là so sánh lựa chọn tự dùng thuốc tại nhà với hai lựa chọn còn lại Để thực hiện điều này, phương pháp hồi quy logistic đa thức được áp dụng, vì phân tích biệt số bội yêu cầu biến độc lập là biến định lượng, trong khi một số biến trong mô hình nghiên cứu lại là biến định tính.

Phương trình hồi quy mẫu SRF có dạng:

Trong bài viết này, 𝐿 1 đại diện cho logarit của tỷ lệ giữa xác suất lựa chọn tự dùng thuốc tại nhà so với xác suất lựa chọn tự dùng thuốc và đến bác sĩ khám, trong khi 𝐿 2 là logarit của tỷ lệ giữa xác suất lựa chọn tự dùng thuốc tại nhà so với xác suất chỉ đến bác sĩ khám Các biến độc lập sẽ được mô tả chi tiết trong các phần sau.

Nhóm biến X1i liên quan đến đặc điểm cá nhân bao gồm nhiều yếu tố, trong đó chỉ có biến tuổi tác là định lượng, còn lại đều được đại diện bằng biến giả Phương pháp đo lường các biến giả này được trình bày chi tiết trong mục 3.2.

 𝑋 2 là biến liên quan đến khả năng tiếp cận cơ sở y tế Đây là biến định lƣợng đƣợc chuẩn hóa từ phân tích nhân tố

 𝑋 3 là biến liên quan đến khả năng sẵn có dịch vụ y tế Đây là biến định lƣợng đƣợc chuẩn hóa từ phân tích nhân tố

 𝑋 4 là biến liên quan đến khả năng chi trả dịch vụ y tế Đây là biến định lƣợng đƣợc chuẩn hóa từ phân tích nhân tố

 𝑋 5 là biến liên quan đến sự phù hợp của hệ thống y tế Đây là biến định lƣợng đƣợc chuẩn hóa từ phân tích nhân tố

Biến X6 liên quan đến khả năng chấp nhận của người bệnh, thể hiện sở thích chọn bác sĩ khám theo giới tính Đây là biến giả với hai giá trị: 0 cho không có sở thích và 1 cho có sở thích.

Ngoài ra, giả thuyết về các biến (Sơ đồ 3.2) đƣợc áp dụng chung cho cả mô hình 3.1 và 3.2, và đƣợc diễn giải chi tiết nhƣ sau:

Giả thuyết H1 cho rằng khi tuổi tác tăng, khả năng tự dùng thuốc chữa bệnh của cá nhân giảm, dẫn đến việc họ có xu hướng chọn đến bác sĩ khám bệnh Điều này xảy ra do tuổi cao thường đi kèm với nguy cơ mắc bệnh nghiêm trọng, vì vậy người cao tuổi thường ưu tiên việc thăm khám bác sĩ thay vì tự điều trị tại nhà.

Giả thuyết H2 cho rằng khi trình độ học vấn của cá nhân cao hơn, họ có xu hướng tăng xác suất tự dùng thuốc chữa bệnh thay vì đến bác sĩ Điều này được lý giải bởi việc những người có trình độ học vấn cao thường có kiến thức tốt hơn về việc tự điều trị, dẫn đến việc tự dùng thuốc tại nhà trở nên hiệu quả hơn Do đó, họ có xu hướng ưu tiên tự dùng thuốc hơn là khám bác sĩ, và dấu kỳ vọng của tác động này là dương.

Giả thuyết H3 cho rằng khi thu nhập của cá nhân vượt qua một ngưỡng nhất định, khả năng lựa chọn tự dùng thuốc chữa bệnh sẽ giảm, trong khi xu hướng đến gặp bác sĩ khám bệnh sẽ tăng lên Dấu kỳ vọng của tác động này là âm.

Giả thuyết H4 cho rằng khi cá nhân nhận thức tình trạng bệnh của họ là nghiêm trọng, họ có xu hướng giảm khả năng tự dùng thuốc và thay vào đó lựa chọn đến bác sĩ để khám chữa.

Do đó, dấu kỳ vọng của tác động này cũng đƣợc xác định là âm

Giả thuyết H5 cho rằng cá nhân sở hữu thẻ bảo hiểm y tế (BHYT) có xu hướng giảm khả năng tự dùng thuốc chữa bệnh và thay vào đó là lựa chọn đến bác sĩ khám Dấu kỳ vọng của tác động này là âm, vì việc có thẻ BHYT giúp giảm chi phí khám bệnh, từ đó khuyến khích người dân đến bác sĩ thay vì tự điều trị tại nhà.

Giả thuyết H6 cho rằng cá nhân có tôn giáo có xu hướng tăng khả năng tự dùng thuốc chữa bệnh thay vì đến bác sĩ khám Những người này thường tin vào sức mạnh của đức tin và các phương pháp điều trị tự nhiên.

Có 7 nhóm người có sở thích chọn bác sĩ theo giới tính, bao gồm những người thích bác sĩ nam và bác sĩ nữ Họ thường đặt niềm tin vào khả năng chữa bệnh của các bác sĩ, trong khi hệ thống y tế không đáp ứng được nhu cầu này, dẫn đến xu hướng tự dùng thuốc Do đó, sự kỳ vọng của họ về sự chữa trị là tích cực.

Sơ đồ 3.2: Các biến trong mô hình

Nguồn: tác giả tổng hợp

Giả thuyết H7 cho rằng khi khả năng tiếp cận hệ thống y tế tăng lên, cá nhân sẽ có xu hướng giảm khả năng tự dùng thuốc và thay vào đó chọn đến bác sĩ để khám bệnh Do đó, dấu kỳ vọng trong trường hợp này được xác định là âm.

Khả năng sẵn có Khả năng tiếp cận Khả năng chi trả

Khả năng chấp nhận đƣợc

Tuổi Trình độ học vấn Thu nhập

Mức nghiêm trọng bệnh tật ĐẶC ĐIỂM CÁ

Giả thuyết H8 cho rằng khi dịch vụ y tế trở nên dễ tiếp cận hơn, người bệnh có xu hướng giảm khả năng tự dùng thuốc và thay vào đó sẽ lựa chọn đi khám bác sĩ Theo giả thuyết này, dấu kỳ vọng được xác định là âm.

Giả thuyết H9 cho rằng, khi khả năng chi trả cho dịch vụ y tế tăng lên, cá nhân sẽ có xu hướng giảm khả năng tự dùng thuốc và thay vào đó là lựa chọn đến bác sĩ để khám bệnh Điều này cho thấy tác động của khả năng chi trả đến việc tự dùng thuốc là tiêu cực.

Giả thuyết H10 đề xuất rằng khi hệ thống y tế hoạt động hiệu quả hơn, người dân sẽ có xu hướng giảm khả năng tự dùng thuốc và thay vào đó lựa chọn đến bác sĩ để khám bệnh Do đó, tác động kỳ vọng từ giả thuyết này được dự đoán là tiêu cực.

PHÂN TÍCH KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU

Chi tiết mẫu thống kê

Theo Phụ lục 2, trong số 124 người được phỏng vấn, chỉ có 28,2% đến bác sĩ trong lần bệnh gần đây nhất, 29,8% tự dùng thuốc tại nhà trước khi đi khám, và 41,9% chỉ tự dùng thuốc ở nhà Điều này cho thấy rằng tự dùng thuốc tại nhà là lựa chọn phổ biến của người dân trong việc chăm sóc sức khỏe khi ốm đau.

Trong cuộc khảo sát, 43% người tham gia nằm trong độ tuổi từ 18-30, trong khi 57% còn lại trên 30 tuổi Về trình độ học vấn, 27,4% người được khảo sát có trình độ từ cấp 3 trở xuống.

Tại Việt Nam, 72,6% dân số có trình độ học vấn từ cấp 3 trở lên Về thu nhập, 51,6% hộ gia đình có mức thu nhập bình quân dưới 5 triệu đồng/tháng, trong khi 48,4% có thu nhập từ 5 triệu đồng/tháng trở lên Đáng chú ý, 79% người dân sở hữu thẻ bảo hiểm y tế (BHYT), còn lại 21% không có thẻ BHYT.

Kết quả đánh giá độ tin cậy của thang đo

Để nâng cao tính tương quan giữa các mục hỏi, tác giả quyết định giữ lại những mục có hệ số Cronbach α từ 0,6 trở lên Theo một số nghiên cứu, trong trường hợp khái niệm đo lường là mới, hệ số này được coi là đủ để sử dụng.

Đánh giá độ tin cậy của thang đo theo Trọng và Ngọc (2008) cho thấy các mục hỏi được giữ lại được liệt kê trong Bảng 4-1, trong khi những mục hỏi không đạt yêu cầu đã bị loại khỏi nhóm.

 Sự sẵn có thuốc tại cơ sở y tế (AVA3)

 Sự sẵn có thuốc tại hiệu thuốc tƣ nhân (AVA4)

 Khả năng chi trả giá thuốc (AFF1)

 Khả năng chi trả tổng chi phí khám bệnh ( AFF4)

 Khả năng chi trả thuốc theo toa (AFF5)

Khả năng tiếp cận thuốc giữa các cơ sở y tế công và các hiệu thuốc tư nhân gần nhà ở thành phố Hồ Chí Minh không có sự phân biệt rõ ràng.

Bệnh nhân thường mua thuốc tại cơ sở y tế công theo chỉ định của bác sĩ, nhưng không có sự lựa chọn về thuốc Ngược lại, tại các hiệu thuốc tư nhân ở thành phố Hồ Chí Minh, người dân có nhiều lựa chọn nhờ vào mạng lưới bán lẻ rộng khắp, với trung bình 10 cơ sở mỗi phường/xã Tuy nhiên, số lượng không đi kèm với chất lượng, khiến sức khỏe người tiêu dùng gặp rủi ro Trong số 3273 cơ sở bán lẻ, chỉ khoảng 100 cơ sở đạt chuẩn GPP, dẫn đến cạnh tranh không lành mạnh và người dân khó phân biệt sản phẩm đạt chuẩn Mặc dù chất lượng tư vấn tại các hiệu thuốc tư nhân thường kém, người Việt Nam vẫn chọn mua thuốc ở đây vì giá rẻ hơn so với khám bác sĩ Điều này có thể khiến các nhà thuốc đạt GPP rút lui khỏi thị trường, do đó cần có sự can thiệp từ chính sách Nhà nước.

Sơ đồ 4.1: Mạng lưới bán lẻ thuốc tại

Sơ đồ 4.2: Mạng lưới bán lẻ thuốc đạt GPP tại TP.HCM năm 2008

Nguồn: Cục Quản Lý Dược (2009), Dữ liệu tại Hội nghị ngành dược phẩm năm 2009

Các nhà thuốc không đạt tiêu chuẩn GPP thường có chi phí hoạt động thấp hơn, nhưng điều này đồng nghĩa với việc không đảm bảo thực hành tốt trong ngành dược Tại Hội nghị Ngành dược toàn quốc ngày 23/06/2009, đã có ý kiến cho rằng những nhà thuốc này, nhờ vào cơ chế thuế khoán và việc thường xuyên bán thuốc không có hóa đơn, đã thu được lợi nhuận rất lớn.

3273cơ sở bán lẻ thuốc

3356 điểm bán lẻ thuốc trên địa bàn

TP.HCM Đạt chuẩn GPP

Giá cả là một yếu tố quan trọng mà người tiêu dùng quan tâm khi mua thuốc, nhưng sự đa dạng của mặt hàng thuốc khiến cho việc so sánh giá giữa bệnh viện và hiệu thuốc tư nhân trở nên khó khăn Người bệnh thường không biết rõ giá từng loại thuốc vì họ thường thanh toán theo gói hàng hóa tại hiệu thuốc Điều này dẫn đến việc thiếu thông tin về giá cả và chất lượng thuốc, gây khó khăn trong việc phân biệt chi phí điều trị giữa hai cơ sở y tế Đôi khi, việc tự mua thuốc có thể rẻ hơn so với điều trị tại bệnh viện do không phải trả thêm phí dịch vụ, nhưng cũng có thể đắt hơn nếu thuốc không phù hợp với tình trạng bệnh Vì vậy, người bệnh gặp khó khăn trong việc xác định chênh lệch chi phí và lựa chọn thuốc kê toa có hỗ trợ thanh toán.

THANG ĐO KHẢ NĂNG TIẾP CẬN

ACC1 Khả năng tiếp cận bệnh viện/PKĐK công

ACC2 Khả năng tiếp cận trạm y tế xã/phường

ACC3 Khả năng tiếp cận hiệu thuốc tƣ nhân

THANG ĐO KHẢ NĂNG SẴN CÓ

AVA1 Thời gian chờ làm thủ tục khám

AVA2 Thời gian chờ gặp bác sĩ khám

THANG ĐO KHẢ NĂNG CHI TRẢ

AFF2 Khả năng chi trả dịch vụ y tế

AFF3 Khả năng chi trả chi phí đi đường

AFF6 Vay tiền/bán đồ để chữa bệnh

THANG ĐO SỰ PHÙ HỢP

ADE1 Sự phù hợp của chất lƣợng dịch vụ y tế

ADE2 Sự phù hợp của điều kiện vệ sinh

ADE3 Sự phù hợp của thái độ phục vụ

ADE4 Sự phù hợp của giờ mở cửa

ADE5 Sự phù hợp của chất lƣợng dịch vụ BHYT

Kết quả phân tích nhân tố

Sau khi loại bỏ các câu hỏi không phù hợp, những câu hỏi được giữ lại sẽ được đưa vào phân tích nhân tố Kết quả của phân tích nhân tố được tóm tắt như sau:

Bảng 4-2: Kết quả phân tích nhân tố

Để đảm bảo tính phù hợp của phân tích nhân tố, hệ số KMO (Kaiser-Meyer-Olkin) cần nằm trong khoảng từ 0,5 đến 1, các biến phải có tương quan thông qua kiểm định Bartlett với mức ý nghĩa 10%, và phần trăm phương sai giải thích tối thiểu 50% Kết quả phân tích nhân tố tại Bảng 4-3 cho thấy các yêu cầu này đã được đáp ứng, cho phép giải thích lựa chọn hình thức chăm sóc sức khỏe của người dân một cách hợp lý.

Kết quả cho thấy để đảm bảo Eigenvalue lớn hơn 1, có 4 nhân tố được rút trích từ 13 yếu tố Mỗi yếu tố sẽ được tính một hệ số tải nhân tố (Factor loadings), là hệ số tương quan đơn giữa các biến với các nhân tố, và yếu tố đó phải có hệ số tải lớn hơn 0,5 để xác định nhóm nhân tố Như bảng 4-3 trình bày, nhân tố 1 gồm các yếu tố từ ADE1 đến ADE5; nhân tố 2 bao gồm yếu tố từ ACC1 đến ACC3.

9 Trích trong bài soạn của tác giả Khánh Duy (2008), “Phân tích các nhân tố khám phá”, tại chương trình

Giảng dạy Kinh tế Fulbright, trang 14

10 Eigenvalue là giá trị đại diện cho phần biến thiên đƣợc giải thích bởi mỗi nhân tố

STT Nội dung Kết quả Điều kiện yêu cầu

1 Hệ số KMO 0,718 Từ 0,5 đến 1

2 Mức ý nghĩa của kiểm định Bartlett 0,00 Nhỏ hơn 0,1

3 Số nhân tố đƣợc trích thỏa giá trị

4 Phần trăm phương sai toàn bộ được giải thích (Percentage of Variance) 66,818% Tối thiểu 50%

5 Hệ số tải nhân tố (Factor loadings) Lớn hơn 0,6 Lớn hơn 0,5

Nghiên cứu đã xác định bốn nhân tố chính ảnh hưởng đến chất lượng dịch vụ y tế công Nhân tố 1 liên quan đến sự phù hợp, được thể hiện qua chất lượng dịch vụ; nhân tố 2 phản ánh khả năng tiếp cận, qua nhận thức về sự dễ dàng tiếp cận; nhân tố 3 đề cập đến khả năng sẵn có, được đo bằng thời gian chờ đợi khám; và nhân tố 4 liên quan đến khả năng chi trả, thể hiện qua chi phí khám chữa bệnh Tất cả các nhân tố này được coi là biến và đã được chuẩn hóa trong quá trình phân tích.

Bảng 4-3: Ma trận nhân tố

Phân tích mô tả

4.4.1 Mối quan hệ giữa đặc điểm cá nhân và lựa chọn tự dùng thuốc chữa bệnh

Nghiên cứu cho thấy mối quan hệ giữa tuổi tác và lựa chọn tự dùng thuốc không có sự khác biệt có ý nghĩa thống kê với độ tin cậy 95% Điều này không gây ngạc nhiên cho tác giả, vì hành vi tự dùng thuốc có thể xảy ra ở mọi lứa tuổi Tại thành phố Hồ Chí Minh, không chỉ người già mà cả giới trẻ cũng đang phải đối mặt với nhiều vấn đề sức khỏe do môi trường ngày càng xấu đi.

Khả năng tiếp cận bệnh viện/PKĐK công 0,84 Khả năng tiếp cận trạm y tế xã/phường 0,87 Khả năng tiếp cận hiệu thuốc tƣ nhân 0,70

Thời gian chờ làm thủ tục khám 0,91

Thời gian chờ gặp bác sĩ 0,88

Khả năng chi trả dịch vụ y tế 0,82

Khả năng chi trả chi phí đi đường 0,77

Vay tiền/bán đồ để chữa bệnh 0,63

Sự phù hợp của chất lƣợng dịch vụ y tế 0,86

Sự phù hợp của điều kiện vệ sinh 0,82

Sự phù hợp của thái độ phục vụ 0,77

Sự phù hợp của giờ mở cửa 0,74

Sự phù hợp của chất lƣợng dịch vụ BHYT 0,71 Phương pháp trích là Principle Component Analysis, và phương pháp xoay Varimax

Nguồn: Tác giả trích từ kết quả phân tích nhân tố tại Phụ lục 4

Sơ đồ 4.3: Mối quan hệ giữa trình độ học vấn và lựa chọn tự dùng thuốc

Theo Sơ đồ 4.3, tỷ lệ người chọn tự dùng thuốc tại nhà cao hơn so với hai lựa chọn còn lại ở mỗi nhóm trình độ học vấn, với sự khác biệt giữa nhóm trên cấp 3 và dưới cấp 3, cho thấy xu hướng tăng trong việc lựa chọn tự dùng thuốc và đến bác sĩ khi trình độ học vấn cao hơn Tuy nhiên, kiểm định chi-square cho thấy không có mối quan hệ đáng kể giữa trình độ học vấn và việc tự dùng thuốc với độ tin cậy 90% Tác giả hy vọng rằng mối quan hệ này sẽ có ý nghĩa trong mô hình hồi quy.

Sơ đồ 4.4 cho thấy rằng tỷ lệ người tự dùng thuốc và kết hợp tự dùng thuốc với việc đến bác sĩ tăng lên khi thu nhập bình quân đầu người của hộ gia đình gia tăng Điều này chỉ ra rằng việc tự dùng thuốc chữa bệnh có mối quan hệ ngược chiều với nhóm thu nhập Mối quan hệ này đã được kiểm định có ý nghĩa thống kê với độ tin cậy 95% (Phụ lục 7) Xu hướng này trái ngược với giả thuyết nhưng có thể xảy ra khi phụ nữ coi việc tự dùng thuốc chữa bệnh như một loại hàng hóa thông thường.

Theo Sơ đồ 4.5, tỷ lệ người tự dùng thuốc chữa bệnh giảm khi mức độ nghiêm trọng của từng nhóm tăng lên Mối quan hệ này đã được kiểm định bằng phương pháp chi-square và cho kết quả có ý nghĩa thống kê với độ tin cậy 95% (Phụ lục 8).

Theo Sơ đồ 4.6, không có sự khác biệt giữa việc sở hữu thẻ BHYT và việc tự dùng thuốc chữa bệnh, vì tỷ lệ người chọn tự dùng thuốc luôn cao hơn, trong khi tỷ lệ chỉ đến bác sĩ thấp nhất ở cả hai nhóm có và không có thẻ BHYT Kết quả kiểm định mối quan hệ này cũng xác nhận điều tương tự (Phụ lục 9) Thực tế cho thấy cả người có thẻ và không có thẻ BHYT đều có hành vi tự dùng thuốc khi bị bệnh giống nhau.

Mối quan hệ giữa yếu tố tôn giáo và sự lựa chọn tự dùng thuốc không có sự khác biệt có ý nghĩa thống kê ở mức độ tin cậy 95%, tương tự như yếu tố sở hữu thẻ BHYT.

Trình độ từ cấp 3 trở xuống Trình độ trên cấp 3

Nguồn: Khảo sát của tác giả năm 2011

Chỉ đến bác sĩ khámTự dùng thuốc và đến bác sĩChỉ tự dùng thuốc ở nhà

Kết quả này không gây bất ngờ, vì tác giả nhận thấy rằng tất cả người Việt Nam, dù có tôn giáo hay không, đều được đối xử bình đẳng trong việc khám chữa bệnh.

Sơ đồ 4.4 thể hiện mối quan hệ giữa thu nhập và sự lựa chọn tự dùng thuốc, cho thấy rằng thu nhập có ảnh hưởng đáng kể đến quyết định này Trong khi đó, sơ đồ 4.5 minh họa mối liên hệ giữa mức độ bệnh tật và lựa chọn tự dùng thuốc, nhấn mạnh rằng tình trạng sức khỏe cũng là yếu tố quan trọng trong quyết định sử dụng thuốc tự điều trị.

Sơ đồ 4.6: Mối quan hệ giữa sở hữu thẻ

BHYT và lựa chọn tự dùng thuốc

Sơ đồ 4.7: Mối quan hệ giữa tôn giáo với lựa chọn tự dùng thuốc

4.4.2 Mối quan hệ giữa điều kiện tiếp cận hệ thống y tế công và lựa chọn tự dùng thuốc chữa bệnh

Phụ lục 12 chỉ ra rằng những người cảm thấy dễ dàng tiếp cận hệ thống y tế có xu hướng tự dùng thuốc thay vì đến gặp bác sĩ Kiểm định ANOVA cho thấy không có mối liên hệ ý nghĩa thống kê giữa khả năng tiếp cận hệ thống y tế và việc lựa chọn tự dùng thuốc với độ tin cậy 90%.

Thu nhập trung bình thấp (dưới 5 triệu)

Thu nhập cao (Từ 5 triệu trở leân)

Nguồn: Khảo sát của tác giả năm 2011

Chỉ đến bác sĩ khám Tự dùng thuốc và đến bác sĩ Chỉ tự dùng thuốc ở nhà

Bệnh không nghiêm trọng Bệnh có nghiêm trọng

Nguồn: Khảo sát của tác giả năm 2011

Chỉ đến bác sĩ khám Tự dùng thuốc và đến bác sĩ Chỉ tự dùng thuốc ở nhà

Có BHYT Không có BHYT

Nguồn: Khảo sát của tác giả năm 2011

Chỉ đến bác sĩ khám Tự dùng thuốc và đến bác sĩ Chỉ tự dùng thuốc ở nhà

Có tôn giáo Không tôn giáo

Nguồn: Khảo sát của tác giả năm 2011

Việc tự dùng thuốc tại nhà có mối liên quan đáng kể đến khả năng tiếp cận dịch vụ y tế, điều này được thể hiện qua mô hình hồi quy Khi chỉ đến bác sĩ khám, người bệnh có thể nhận được sự tư vấn và điều trị chính xác hơn, trong khi tự dùng thuốc có thể dẫn đến những rủi ro không đáng có.

Một nghiên cứu cho thấy, những người cảm nhận thời gian chờ đợi khám tại cơ sở y tế công lâu hơn có xu hướng chọn tự dùng thuốc tại nhà Ngược lại, những người không cảm thấy chờ đợi lâu sẽ có xu hướng sử dụng các hình thức điều trị khác Mối quan hệ giữa khả năng sẵn có và lựa chọn tự dùng thuốc đã được kiểm định có ý nghĩa thống kê với độ tin cậy 90% (Phụ lục 13) Tác giả hy vọng rằng mối quan hệ này cũng sẽ thể hiện sự có ý nghĩa trong mô hình hồi quy.

Khả năng chi trả dịch vụ y tế công ảnh hưởng đến quyết định của người bệnh trong việc tự dùng thuốc tại nhà Khi chi phí y tế được đánh giá là cao, người bệnh có xu hướng chọn tự dùng thuốc, nhưng không có mối liên hệ rõ ràng giữa lựa chọn này và khả năng chi trả theo kết quả kiểm định ANOVA với độ tin cậy 90% Tác giả hy vọng rằng khi kết hợp khả năng chi trả với các yếu tố khác trong mô hình hồi quy, tác động của nó lên lựa chọn tự dùng thuốc sẽ trở nên rõ ràng hơn.

Kết quả kiểm định ANOVA cho thấy không có mối liên hệ giữa việc lựa chọn tự dùng thuốc và yếu tố sự phù hợp của hệ thống y tế công, với độ tin cậy 90%.

Tác giả mong muốn khám phá ảnh hưởng của yếu tố sự phù hợp đối với quyết định tự dùng thuốc, với hy vọng rằng điều này sẽ thể hiện ý nghĩa trong mô hình hồi quy.

Sơ đồ 4.8: Mối quan hệ giữa sở thích chọn bác sĩ và lựa chọn tự dùng thuốc

Sơ đồ 4.8 chỉ ra rằng cả hai nhóm có sở thích và không có sở thích đều có tỷ lệ người chọn tự dùng thuốc cao nhất, trong khi tỷ lệ người sử dụng cả hai hình thức còn lại tương đương nhau Kiểm định ANOVA cho thấy không có sự khác biệt đáng kể giữa việc chọn bác sĩ khám và lựa chọn tự dùng thuốc với độ tin cậy 95% (Phụ lục 11) Tuy nhiên, tác giả hy vọng sẽ phát hiện mối quan hệ này trong mô hình hồi quy.

Không có sở thích Có sở thích

Nguồn: Khảo sát của tác giả năm 2011

Chỉ đến bác sĩ khámTự dùng thuốc và đến bác sĩChỉ tự dùng thuốc ở nhà

4.4.3 Mối tương quan giữa các biến độc lập trong mô hình

Hồi quy logistic đa thức

4.5.1 Lựa chọn biến đưa vào mô hình

Mô hình hồi quy được xây dựng từ mô hình tổng quát đến mô hình đơn giản, đảm bảo có mối quan hệ giữa biến độc lập và biến phụ thuộc, với các biến độc lập phải có đóng góp ý nghĩa thông qua kiểm định tỷ lệ thích hợp (Likelihood Ratio Test) ở độ tin cậy 90% Kết quả tại Phụ lục 17 cho thấy mô hình được chọn bao gồm 5 biến: (1) Thu nhập, (2) Mức độ nghiêm trọng bệnh tật, (3) Khả năng sẵn có, (4) Khả năng chi trả và (5) Sự phù hợp, trong khi các biến không đạt yêu cầu đã bị loại.

Tuổi tác không ảnh hưởng đến lựa chọn tự dùng thuốc của phụ nữ, vì cả người trẻ lẫn người lớn tuổi đều có thể gặp phải tình trạng bệnh tật nghiêm trọng Môi trường sống, đặc biệt là ô nhiễm tại thành phố Hồ Chí Minh, đang trở thành vấn đề nghiêm trọng và ảnh hưởng đến sức khỏe của cư dân Do đó, xu hướng mắc bệnh tương tự ở mọi độ tuổi là điều có thể xảy ra.

Tôn giáo không tác động đến quyết định tự dùng thuốc, cho thấy rằng tất cả các tôn giáo tại Việt Nam đều có sự bình đẳng trong việc lựa chọn phương pháp chăm sóc sức khỏe.

Trình độ học vấn không hẳn là yếu tố quyết định trong việc tự dùng thuốc tại nhà Mặc dù có trình độ học vấn cao, nhưng nếu không có cơ hội tiếp cận thông tin về tự dùng thuốc, cá nhân vẫn có thể thiếu kiến thức cần thiết Kiến thức tự dùng thuốc tốt hơn sẽ khuyến khích người bệnh tự điều trị tại nhà trước khi tìm đến bác sĩ.

Sở hữu thẻ BHYT tác động không có ý nghĩa đến lựa chọn tự dùng thuốc của người phụ nữ

Mặc dù có thẻ BHYT, chi phí khám bệnh tại bác sĩ vẫn không hề rẻ Theo Lý Ngọc Kính (2007), tình trạng lạm dụng thuốc, kỹ thuật cao và xét nghiệm trong chẩn đoán và điều trị tại các cơ sở y tế công ở Việt Nam đang diễn ra Hơn nữa, trừ một số trường hợp đặc biệt, thẻ BHYT chỉ thanh toán một phần chi phí khám bệnh, dẫn đến việc khám bệnh vẫn tốn kém nếu xảy ra lạm dụng.

Sở thích chọn bác sĩ có ảnh hưởng đến quyết định chăm sóc sức khỏe của người dân Việt Nam, tuy nhiên, giới tính của bác sĩ không phải là yếu tố quan trọng Người dân thường không đặt nặng vấn đề lựa chọn bác sĩ theo giới tính khi tìm kiếm dịch vụ y tế.

Khả năng tiếp cận cơ sở y tế công không ảnh hưởng đến lựa chọn tự dùng thuốc của người dân, điều này được xác nhận bởi nghiên cứu của Tran Van Long (2010), cho thấy khoảng cách đến bệnh viện gần nhất không có ý nghĩa thống kê Nguyên nhân có thể là do người dân bận rộn với công việc, dẫn đến việc không có thời gian để đến bác sĩ, như nghiên cứu của Olayemi và cộng sự (2010) đã chỉ ra Hơn nữa, sự thuận tiện trong việc mua thuốc tại các hiệu thuốc tư nhân hiện nay cũng làm cho khả năng tiếp cận cơ sở y tế công trở nên không quan trọng.

4.5.2 Phân tích kết quả hồi quy

Mục tiêu của bài nghiên cứu là phân tích sự khác biệt trong lựa chọn tự dùng thuốc tại nhà so với hai hình thức đến bác sĩ, bao gồm (i) tự dùng thuốc và đến bác sĩ khám, (ii) chỉ đến bác sĩ khám Việc người dân lựa chọn đến bác sĩ khi bị bệnh sẽ giúp đảm bảo sức khỏe của họ được chăm sóc tốt hơn Kết quả hồi quy chỉ tập trung vào hai nhóm, như được trình bày trong Bảng 4-4, và sẽ được phân tích chi tiết.

Thời gian chờ đợi lâu tại các cơ sở y tế công có ảnh hưởng thống kê đáng kể đến quyết định tự dùng thuốc của nhóm 1 Khi thời gian chờ đợi tăng lên, phụ nữ có xu hướng chọn tự điều trị tại nhà, điều này phù hợp với kỳ vọng ban đầu.

Bảng 4-4: Tóm tắt kết quả hồi quy

Lựa chọn hình thức chăm sóc sức khỏe B Wald df Sig Exp(B)

Chỉ tự dùng thuốc so với

Tự dùng thuốc và đến bác sĩ khám

AVA Khả năng sẵn có 0,573** 4,740 1 0,029 1,774

AFF Khả năng chi trả 0,163 0,408 1 0,523 1,177

[TNCao=0] Thu nhập dưới 5 triệu đồng/tháng 0,461 0,666 1 0,414 1,586

[TNCao=1] Thu nhập từ 5 triệu đồng/tháng trở lên 0 b 0

[NgTrong=0] Bệnh không nghiêm trọng 1,714*** 10,471 1 0,001 5,553

[NgTrong=1] Bệnh có nghiêm trọng 0 b 0

Chỉ tự dùng thuốc so với

Chỉ đến bác sĩ khám

AVA Khả năng sẵn có 0,274 1,003 1 0,317 1,316

AFF Khả năng chi trả 0,563** 4,023 1 0,045 1,756

[TNCao=0] Thu nhập dưới 5 triệu đồng/tháng -2,071*** 10,529 1 0,001 0,126

[TNCao=1] Thu nhập từ 5 triệu đồng/tháng trở lên 0 b 0

[NgTrong=0] Bệnh không nghiêm trọng 2,504*** 18,276 1 0,000 12,230

[NgTrong=1] Bệnh có nghiêm trọng 0 b 0

Hệ số hồi quy B có ý nghĩa thống kê với mức ý nghĩa 0,1, trong khi kiểm định Wald đạt mức ý nghĩa 0,05 Bậc tự do (df) cho thấy ý nghĩa thống kê với mức 0,01 Hệ số sig phản ánh ý nghĩa thống kê, trong đó b được thiết lập bằng 0 do nó dư.

Chi phí thực hiện dịch vụ y tế có ảnh hưởng đáng kể đến lựa chọn tự dùng thuốc trong nhóm 2, với việc chi phí cao hơn làm tăng nguy cơ người bệnh chọn tự dùng thuốc tại nhà Phát hiện này phù hợp với kỳ vọng ban đầu và lý thuyết cơ bản về hành vi tiêu dùng, cho thấy giá cả đóng vai trò quan trọng trong quyết định mua sắm của người tiêu dùng.

Yếu tố này có tác động thống kê đáng kể đến sự lựa chọn tự dùng thuốc trong nhóm 1, phù hợp với kỳ vọng ban đầu Khi phụ nữ đánh giá cao chất lượng dịch vụ y tế công, họ có xu hướng giảm việc tự dùng thuốc Kết quả này khẳng định lý thuyết cầu tiêu dùng, cho thấy rằng cải thiện chất lượng sản phẩm sẽ làm tăng sự thỏa mãn nhu cầu và khuyến khích khách hàng sử dụng sản phẩm nhiều hơn.

Thu nhập cao ảnh hưởng đến lựa chọn tự dùng thuốc của phụ nữ, khi họ coi việc tự dùng thuốc như hàng hóa thông thường Ngược lại, với mức thu nhập thấp, phụ nữ thường thiếu thông tin và kiến thức về tự dùng thuốc, dẫn đến việc tự điều trị không hiệu quả Do đó, họ có xu hướng lựa chọn đến bác sĩ thay vì tự dùng thuốc tại nhà.

Biến này có ảnh hưởng đáng kể đến quyết định tự dùng thuốc của cả nhóm 1 và 2 Mối quan hệ này cho thấy sự tương phản như đã dự đoán, khi phụ nữ có xu hướng tự dùng thuốc tại nhà nhiều hơn khi tình trạng bệnh không nghiêm trọng.

Nghiên cứu cho thấy điều kiện tiếp cận hệ thống y tế công có ảnh hưởng đáng kể đến lựa chọn tự dùng thuốc của phụ nữ đã có gia đình tại thành phố Hồ Chí Minh Cụ thể, việc cải thiện thời gian chờ đợi khám bệnh và nâng cao sự phù hợp của hệ thống y tế công sẽ giảm xu hướng tự dùng thuốc, khuyến khích họ đến bác sĩ khám Hơn nữa, việc nâng cao khả năng chi trả cho dịch vụ y tế công cũng sẽ làm tăng khả năng phụ nữ chuyển từ việc tự dùng thuốc tại nhà sang việc thăm khám bác sĩ khi bị bệnh.

Chương 5 KẾT LUẬN VÀ KIẾN NGHỊ CHÍNH SÁCH

Ngày đăng: 01/08/2021, 15:18

HÌNH ẢNH LIÊN QUAN

Bảng 1-1: Tỷ trọng các hình thức chăm sĩc sức khỏe tại Việt Nam năm 2002 - Tài liệu Điều Kiện Tiếp Cận Hệ Thống Y Tế Công Ảnh Hưởng Đến Lựa Chọn Tự Dùng Thuốc
Bảng 1 1: Tỷ trọng các hình thức chăm sĩc sức khỏe tại Việt Nam năm 2002 (Trang 14)
Bảng 1-2: Chi tiê uy tế Việt Nam so sánh với các nƣớc - Tài liệu Điều Kiện Tiếp Cận Hệ Thống Y Tế Công Ảnh Hưởng Đến Lựa Chọn Tự Dùng Thuốc
Bảng 1 2: Chi tiê uy tế Việt Nam so sánh với các nƣớc (Trang 15)
Sơ đồ 2.1: Mơ hình thực hiện sự lựa chọn của Young (1981) - Tài liệu Điều Kiện Tiếp Cận Hệ Thống Y Tế Công Ảnh Hưởng Đến Lựa Chọn Tự Dùng Thuốc
Sơ đồ 2.1 Mơ hình thực hiện sự lựa chọn của Young (1981) (Trang 19)
Sự lựa chọn các hình thức chăm sĩc sức khỏe khác nhau phụ thuộc cấu trúc của hệ thốn gy tế - Tài liệu Điều Kiện Tiếp Cận Hệ Thống Y Tế Công Ảnh Hưởng Đến Lựa Chọn Tự Dùng Thuốc
l ựa chọn các hình thức chăm sĩc sức khỏe khác nhau phụ thuộc cấu trúc của hệ thốn gy tế (Trang 20)
Sơ đồ 3.1: Mơ hình cho đề tài nghiên cứu - Tài liệu Điều Kiện Tiếp Cận Hệ Thống Y Tế Công Ảnh Hưởng Đến Lựa Chọn Tự Dùng Thuốc
Sơ đồ 3.1 Mơ hình cho đề tài nghiên cứu (Trang 29)
Bảng 3-1: Tổng hợp các yếu tố sử dụng thang đo Likert - Tài liệu Điều Kiện Tiếp Cận Hệ Thống Y Tế Công Ảnh Hưởng Đến Lựa Chọn Tự Dùng Thuốc
Bảng 3 1: Tổng hợp các yếu tố sử dụng thang đo Likert (Trang 30)
Sơ đồ 3.2: Các biến trong mơ hình - Tài liệu Điều Kiện Tiếp Cận Hệ Thống Y Tế Công Ảnh Hưởng Đến Lựa Chọn Tự Dùng Thuốc
Sơ đồ 3.2 Các biến trong mơ hình (Trang 33)
Bảng 4-2: Kết quả phân tích nhân tố - Tài liệu Điều Kiện Tiếp Cận Hệ Thống Y Tế Công Ảnh Hưởng Đến Lựa Chọn Tự Dùng Thuốc
Bảng 4 2: Kết quả phân tích nhân tố (Trang 38)
Bảng 4-3: Ma trận nhân tố - Tài liệu Điều Kiện Tiếp Cận Hệ Thống Y Tế Công Ảnh Hưởng Đến Lựa Chọn Tự Dùng Thuốc
Bảng 4 3: Ma trận nhân tố (Trang 39)
Lựa chọn hình thức chăm sĩc sức khỏ eB Wald df Sig Exp(B) - Tài liệu Điều Kiện Tiếp Cận Hệ Thống Y Tế Công Ảnh Hưởng Đến Lựa Chọn Tự Dùng Thuốc
a chọn hình thức chăm sĩc sức khỏ eB Wald df Sig Exp(B) (Trang 45)
 Căn cứ vào bảng ma trận này, các trị số quan sát của từng nhân tố đƣợc tính ra. - Tài liệu Điều Kiện Tiếp Cận Hệ Thống Y Tế Công Ảnh Hưởng Đến Lựa Chọn Tự Dùng Thuốc
n cứ vào bảng ma trận này, các trị số quan sát của từng nhân tố đƣợc tính ra (Trang 63)

TÀI LIỆU CÙNG NGƯỜI DÙNG

TÀI LIỆU LIÊN QUAN