PHẦN MỞ ĐẦU
1 Tính cấp thiết của đề tài nghiên cứu
Sau hơn 20 năm đổi mới, Đảng ta đã nhận diện rõ những thành tựu và hạn chế trong phát triển nông nghiệp nông thôn Trong bối cảnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước, nông nghiệp, nông dân và nông thôn đóng vai trò chiến lược, là nền tảng quan trọng cho sự phát triển kinh tế - xã hội, cũng như đảm bảo ổn định chính trị và an ninh quốc phòng Do đó, các vấn đề liên quan đến nông nghiệp nông thôn cần được giải quyết đồng bộ, gắn liền với quá trình đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa.
(BCHTW Đảng, năm 2008, Nghị quyết số 26-NQ/TW).
Tại Hội nghị BCHTW Đảng lần thứ 7 (khóa X), Nghị quyết số 26-NQ/TW đã nhấn mạnh vai trò quan trọng của nông nghiệp, nông dân và nông thôn trong phát triển kinh tế xã hội.
Nghị quyết về nông nghiệp, nông dân, nông thôn đã xác định các quan điểm, mục tiêu và nhiệm vụ trong việc xây dựng nông thôn mới (NTM) Theo Nghị quyết số 26-NQ/TW, Chính phủ đã ban hành Nghị quyết số 24/2008/NQ-CP, nhằm triển khai Chương trình mục tiêu quốc gia về NTM Ngày 16/4/2009, Thủ tướng Chính phủ ký Quyết định số 491/QĐ-TTg, ban hành Bộ tiêu chí quốc gia về NTM với 19 tiêu chí, làm cơ sở cho việc đánh giá và công nhận xã, huyện, tỉnh đạt tiêu chuẩn NTM Bộ tiêu chí này bao gồm các lĩnh vực kinh tế - xã hội nông thôn, hướng tới công nghiệp hóa, hiện đại hóa Thủ tướng cũng đã phê duyệt Chương trình mục tiêu quốc gia về xây dựng NTM giai đoạn 2010 - 2020, với mục tiêu phát triển nông thôn toàn diện, bao gồm kinh tế, văn hóa, xã hội, môi trường và an ninh quốc phòng, nhằm xây dựng NTM hiện đại, gắn nông nghiệp với công nghiệp và dịch vụ, phát triển nông thôn đồng bộ với đô thị, bảo vệ môi trường và nâng cao đời sống người dân theo định hướng xã hội chủ nghĩa.
Xây dựng cơ sở hạ tầng (CSHT) là yếu tố then chốt trong việc nâng cao hiệu quả của Chương trình NTM Đầu tư vào CSHT không chỉ làm đổi mới bộ mặt nông thôn mà còn tạo điều kiện cho sự phát triển kinh tế - xã hội, đồng thời nâng cao đời sống người dân Đây chính là động lực quan trọng thúc đẩy công nghiệp hóa, hiện đại hóa, phát triển xã hội và tăng trưởng kinh tế bền vững.
Từ năm 2011 đến nay, huyện Gio Linh đã tích cực thực hiện Chương trình Mục tiêu Quốc gia xây dựng Nông thôn mới (CTMTQG NTM) bằng cách huy động mọi nguồn lực để phát triển cơ sở hạ tầng thiết yếu Trong giai đoạn 2011 - 2015, tổng nguồn lực đầu tư cho cơ sở hạ tầng đạt 239.816 triệu đồng, trong đó ngân sách Trung ương và địa phương đóng góp 45.870 triệu đồng Bên cạnh đó, huyện còn lồng ghép và huy động thêm từ các tổ chức, doanh nghiệp, hợp tác xã, hệ thống ngân hàng và sự đóng góp của người dân.
Hiện nay, huyện đã có nhiều xã đạt tiêu chí cơ sở hạ tầng nông thôn mới (NTM), với 19/19 xã đạt tiêu chí điện nông thôn, 18/19 xã đạt tiêu chí bưu điện, 15/19 xã đạt tiêu chí nhà ở dân cư, và 13/19 xã đạt tiêu chí chợ nông thôn Tuy nhiên, số xã đạt tiêu chí về giao thông, thủy lợi, trường học và cơ sở vật chất văn hóa vẫn còn hạn chế, cụ thể chỉ có 3/19 xã đạt tiêu chí giao thông, 4/19 xã đạt tiêu chí thủy lợi, 2/19 xã đạt tiêu chí cơ sở vật chất văn hóa, và 8/19 xã đạt tiêu chí trường học Việc xây dựng cơ sở hạ tầng NTM tại nhiều xã vẫn đang gặp nhiều khó khăn.
Một trong những nguyên nhân chính dẫn đến tình trạng thiếu vốn cho Chương trình xây dựng NTM là sự hạn chế trong việc huy động vốn từ ngân sách và cộng đồng Nguồn ngân sách đầu tư cho chương trình còn thấp, trong khi khả năng thu hút vốn từ nhân dân và doanh nghiệp cũng rất hạn chế Vì vậy, đề tài “Huy động vốn đầu tư xây dựng cơ sở hạ tầng nông thôn mới ở huyện Gio Linh, tỉnh Quảng Trị” đã được chọn làm nội dung nghiên cứu cho luận văn thạc sĩ tại Đại học Kinh tế Huế.
Nghiên cứu nhằm đề xuất các giải pháp huy động vốn đầu tư xây dựng cơ sở hạ tầng phục vụ phát triển nông thôn mới tại huyện Gio Linh, tỉnh Quảng Trị, với mục tiêu đáp ứng yêu cầu phát triển cho giai đoạn đến năm 2020.
- Làm rõ cơ sở khoa học về huy động vốn đầu tư xây dựng CSHT NTM.
Trong giai đoạn 2011 - 2015, huyện Gio Linh, tỉnh Quảng Trị đã thực hiện việc huy động vốn đầu tư xây dựng cơ sở hạ tầng nông thôn mới (NTM) với nhiều thách thức Bài viết phân tích thực trạng huy động vốn, chỉ ra những nguyên nhân và hạn chế từ các nguồn vốn khác nhau, ảnh hưởng đến kết quả đầu tư xây dựng CSHT NTM trong giai đoạn này Việc hiểu rõ những yếu tố này sẽ giúp cải thiện hiệu quả huy động vốn trong tương lai.
Để thực hiện thành công Chương trình Mục tiêu Quốc gia xây dựng Nông thôn mới (NTM) tại huyện Gio Linh, tỉnh Quảng Trị, cần đề xuất các giải pháp huy động vốn đầu tư cho xây dựng cơ sở hạ tầng (CSHT) NTM Những giải pháp này sẽ góp phần quan trọng trong việc nâng cao chất lượng cuộc sống của người dân và phát triển kinh tế địa phương Việc tìm kiếm nguồn vốn hiệu quả sẽ thúc đẩy tiến độ thực hiện các dự án CSHT, từ đó tạo nền tảng vững chắc cho sự phát triển bền vững của huyện Gio Linh.
3 Đối tượng, phạm vi nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu của luận văn này tập trung vào các vấn đề lý luận và thực tiễn liên quan đến NTM và cơ sở hạ tầng NTM Luận văn phân tích các nguồn vốn đầu tư xây dựng cơ sở hạ tầng NTM, bao gồm vốn Nhà nước, tín dụng, đầu tư doanh nghiệp và đặc biệt là vốn huy động từ cộng đồng dân cư Trong đó, vốn huy động từ cộng đồng dân cư sẽ được nghiên cứu sâu hơn thông qua kết quả khảo sát của đề tài.
Nội dung nghiên cứu trong luận văn này được giới hạn ở một số hạng mục cơ sở hạ tầng (CSHT) liên quan đến kinh tế - xã hội ở nông thôn, cùng với các vấn đề về huy động vốn đầu tư xây dựng CSHT nông thôn.
Nghiên cứu này tập trung vào việc đánh giá thực trạng huy động vốn đầu tư cho xây dựng cơ sở hạ tầng nông thôn mới (NTM) tại các xã tham gia Chương trình NTM ở huyện Gio Linh, tỉnh Quảng Trị Được thực hiện bởi Đại học Kinh tế Huế, nghiên cứu nhằm cung cấp cái nhìn tổng quan về tình hình tài chính và nguồn lực đầu tư trong khu vực này.
Nghiên cứu thực trạng huy động vốn đầu tư xây dựng cơ sở hạ tầng nông thôn mới (NTM) trong giai đoạn 2011 - 2015 nhằm đề xuất giải pháp hiệu quả cho việc huy động vốn trong xây dựng NTM Mục tiêu là hoàn thành Chương trình Mục tiêu Quốc gia xây dựng NTM cho giai đoạn từ nay đến năm 2020.
Phương pháp thu thập số liệu
Dữ liệu thứ cấp được thu thập từ Văn phòng điều phối Chương trình Mục tiêu Quốc gia xây dựng Nông thôn mới huyện Gio Linh, bao gồm thông tin từ Phòng Nông nghiệp và Phát triển nông thôn, Phòng Thống kê huyện Gio Linh, cùng với các UBND xã như Gio Sơn, Gio Hải, Gio Mai và các tài liệu liên quan đã được công bố.
- Số liệu sơ cấp: Được thu thập thông qua bảng câu hỏi phỏng vấn đã được thiết kế sẵn cho các xã trên địa bàn huyện.
NỘI DUNG NGHIÊN CỨU
1.1 Cơ sở lý luận về nông thôn mới và cơ sở hạ tầng nông thôn mới
Nông thôn hiện đại đang không ngừng phát triển, với đời sống vật chất, văn hóa và tinh thần của người dân ngày càng được cải thiện, góp phần thu hẹp khoảng cách giữa nông thôn và thành phố Nông dân được đào tạo bài bản, tiếp cận các tiến bộ kỹ thuật tiên tiến và có bản lĩnh chính trị vững vàng, từ đó đóng vai trò chủ động trong việc xây dựng nông thôn mới (NTM) tại tỉnh Hà Tĩnh.
(2013), Tài liệu đào tạo, bồi dưỡng cán bộ xây dựng NTM).
1.1.1.2 Đặc trưng của nông thôn mới thời kỳ công nghiệp hóa, hiện đại hóa
Nghị quyết số 26 của BCHTW khóa X ngày 5 tháng 8 năm 2008 xác định NTM là khu vực nông thôn với hạ tầng KT-XH hiện đại, cơ cấu kinh tế hợp lý, gắn nông nghiệp với phát triển công nghiệp, dịch vụ và đô thị theo quy hoạch NTM có xã hội ổn định, giàu bản sắc văn hóa dân tộc, dân trí cao, môi trường sinh thái được bảo vệ, an ninh trật tự được giữ vững Mục tiêu là nâng cao đời sống vật chất và tinh thần của người dân, tạo nền tảng vững chắc cho sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa.
1.1.1.3 Bộ tiêu chí quốc gia về nông thôn mới
Bộ tiêu chí quốc gia về nông thôn mới (NTM) được ban hành theo Quyết định số 491/QĐ-TTg ngày 16/4/2009 của Thủ tướng Chính phủ, bao gồm 19 tiêu chí, được khái quát thành nhiều lĩnh vực khác nhau nhằm nâng cao chất lượng sống và phát triển kinh tế xã hội tại các vùng nông thôn.
Nhóm 1: Quy hoạch: 1 tiêu chí (Quy hoạch);
Nhóm 2: Hạ tầng KT-XH: 8 tiêu chí (Giao thông; Thủy lợi; Điện; Trường học; Cơ sở vật chất văn hóa; Chợ nông thôn; Bưu điện; Nhà ở dân cư);
Nhóm 3: Kinh tế và tổ chức sản xuất: 4 tiêu chí (Thu nhập; Tỷ lệ hộ nghèo;
Cơ cấu lao động; Hình thức tổ chức sản xuất); Đại học Kinh tế Huế
CƠ SỞ LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN VỀ HUY ĐỘNG VỐN ĐẦU TƯ XÂY DỰNG CƠ SỞ HẠ TẦNG NÔNG THÔN MỚI
Cơ sở lý luận về nông thôn mới và cơ sở hạ tầng nông thôn mới
Nông thôn hiện đại đang trải qua sự nâng cao rõ rệt về đời sống vật chất, văn hóa và tinh thần của người dân, đồng thời giảm bớt khoảng cách với thành phố Nông dân được đào tạo bài bản, tiếp thu các tiến bộ kỹ thuật tiên tiến và có bản lĩnh chính trị vững vàng, góp phần làm chủ và phát triển chương trình xây dựng nông thôn mới (NTM) tại tỉnh Hà Tĩnh.
(2013), Tài liệu đào tạo, bồi dưỡng cán bộ xây dựng NTM).
1.1.1.2 Đặc trưng của nông thôn mới thời kỳ công nghiệp hóa, hiện đại hóa
Nghị quyết số 26 của BCHTW khóa X ngày 5 tháng 8 năm 2008 xác định rằng nông thôn mới (NTM) là khu vực có hạ tầng kinh tế - xã hội hiện đại, với cơ cấu kinh tế và tổ chức sản xuất hợp lý NTM gắn kết nông nghiệp với sự phát triển nhanh chóng của công nghiệp, dịch vụ và đô thị theo quy hoạch Xã hội nông thôn cần ổn định, giàu bản sắc văn hóa dân tộc, nâng cao dân trí, bảo vệ môi trường sinh thái, duy trì an ninh trật tự, và cải thiện đời sống vật chất, tinh thần của người dân Điều này tạo nền tảng vững chắc cho sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa.
1.1.1.3 Bộ tiêu chí quốc gia về nông thôn mới
Bộ tiêu chí quốc gia về NTM, được ban hành theo Quyết định số 491/QĐ-TTg ngày 16/4/2009 của Thủ tướng Chính phủ, bao gồm 19 tiêu chí quan trọng Những tiêu chí này được khái quát nhằm hướng tới việc nâng cao chất lượng đời sống nông thôn và phát triển bền vững.
Nhóm 1: Quy hoạch: 1 tiêu chí (Quy hoạch);
Nhóm 2: Hạ tầng KT-XH: 8 tiêu chí (Giao thông; Thủy lợi; Điện; Trường học; Cơ sở vật chất văn hóa; Chợ nông thôn; Bưu điện; Nhà ở dân cư);
Nhóm 3: Kinh tế và tổ chức sản xuất: 4 tiêu chí (Thu nhập; Tỷ lệ hộ nghèo;
Cơ cấu lao động; Hình thức tổ chức sản xuất); Đại học Kinh tế Huế
Nhóm 4: Văn hóa - Xã hội - Môi trường: 4 tiêu chí (Giáo dục; Y tế; Văn hóa; Môi trường);
Nhóm 5: Hệ thống chính trị: 2 tiêu chí (Hệ thống tổ chức chính trị xã hội vững mạnh và An ninh, trật tự xã hội).
1.1.2 Cơ sở hạ tầng nông thôn mới
1.1.2.1 Khái niệm Để định nghĩa về CSHT NTM, trước hết cần làm rõ khái niệm CSHT Hiện nay, cách hiểu về CSHT khá đa dạng Có quan điểm cho rằng: “CSHT là tổng thể các ngành kinh tế, các ngành công nghệ dịch vụ”[14,153] Quan điểm khác lại cho rằng: “CSHT là hệ thống các công trình làm nền tảng cung cấp những yếu tố cần thiết cho phát triển sản xuất và nâng cao chất lượng cuộc sống”[7,65] Sở dĩ có những cách hiểu khác nhau như vậy là do sự không thống nhất trong sử dụng các thuật ngữ “cơ sở hạ tầng”, “kết cấu hạ tầng”, “hạ tầng cơ sở” Để làm rõ khái niệm này, trước hết cần bắt đầu bằng một thuật ngữ được sử dụng trong tiếng Anh, đó là từ “infrastructure” Từ này bắt nguồn từ hai từ “infra” và “structura” trong tiếng Latin “Infra” có nghĩa là nền móng, nền tảng, phần bên dưới hay còn gọi là hạ tầng.
"Structura" có nghĩa là kết cấu hay cấu trúc, từ đó "infrastructure" được dịch là "kết cấu hạ tầng" Kết cấu hạ tầng bao gồm các ngành phục vụ liên kết với nhau, tạo nền móng cho xã hội Theo nghĩa hẹp, kết cấu hạ tầng là những công trình công cộng phục vụ sản xuất và sinh hoạt, được gọi là CSHT CSHT NTM là các công trình vật chất, kỹ thuật được xây dựng ở nông thôn nhằm phát triển kinh tế - xã hội theo tiêu chí xây dựng NTM.
1.1.2.2 Nội dung cơ sở hạ tầng nông thôn mới
Hệ thống CSHT kinh tế
• Hệ thống giao thông nông thôn
Hệ thống giao thông nông thôn bao gồm các tuyến đường phục vụ giao lưu trong khu vực nông thôn và kết nối với bên ngoài, như đường liên huyện, liên xã, và liên thôn Phát triển giao thông nông thôn là rất cần thiết và quan trọng cho đời sống kinh tế - xã hội của khu vực này Mạng lưới giao thông được coi là huyết mạch của kinh tế - xã hội nông thôn, giúp gắn kết các vùng nông thôn với nhau và với thành phố, thúc đẩy buôn bán, trao đổi hàng hóa, cung cấp dịch vụ, giao lưu văn hóa, và các hoạt động xã hội khác.
• Hệ thống thủy lợi nông thôn
Hệ thống cơ sở hạ tầng thủy lợi nông thôn bao gồm các công trình thiết yếu nhằm khai thác và sử dụng hiệu quả nguồn nước, đồng thời giảm thiểu tác động tiêu cực của nước đối với sản xuất, đời sống và môi trường Các công trình chính trong hệ thống thủy lợi bao gồm hồ, đập giữ nước, đê biển, đê sông, kênh mương, cùng với các trạm bơm tưới và tiêu nước.
• Hệ thống điện nông thôn
Hệ thống điện nông thôn là nền tảng quan trọng cho việc cung cấp điện phục vụ tưới tiêu, sản xuất và sinh hoạt tại các khu vực nông thôn Nó bao gồm mạng lưới đường dây tải điện, trạm hạ thế, và hệ thống phân phối điện đến các thiết bị sử dụng điện Ở những vùng sâu, xa, hệ thống này còn có các máy phát điện nhỏ chạy bằng dầu hoặc năng lượng tái tạo như nước và gió Điện không chỉ đáp ứng nhu cầu sinh hoạt hàng ngày mà còn hỗ trợ phát triển nông nghiệp, nâng cao văn minh nông thôn, và thu hẹp khoảng cách giữa nông thôn và thành thị.
• CSHT thông tin - viễn thông nông thôn
Hệ thống thông tin - viễn thông nông thôn bao gồm các cơ sở vật chất và phương tiện cung cấp thông tin, phục vụ nhu cầu sản xuất và đời sống ở nông thôn Hệ thống này bao gồm mạng lưới bưu điện, điện thoại, internet, cùng với truyền thanh và truyền hình Thông tin đóng vai trò quan trọng trong việc xây dựng nông thôn mới (NTM), ảnh hưởng quyết định đến sự phát triển kinh tế - xã hội và văn hóa ở khu vực nông thôn Việc xây dựng và phát triển một hệ thống thông tin hiện đại và hoàn chỉnh là nhiệm vụ thiết yếu trong việc phát triển cơ sở hạ tầng của NTM.
Chợ nông thôn không chỉ là địa điểm trao đổi buôn bán của người dân mà còn là nơi diễn ra nhiều hoạt động văn hóa - xã hội phong phú Vai trò của chợ nông thôn rất quan trọng trong việc cung ứng hàng hóa và dịch vụ cho cộng đồng nông thôn.
Theo Luật Nhà ở 2014, nhà ở được định nghĩa tại khoản 1 Điều 3 là “công trình xây dựng với mục đích để ở và phục vụ các nhu cầu sinh hoạt của hộ gia đình, cá nhân” Điều này cho thấy nhà ở thuộc nhóm hàng hóa cá nhân, khác biệt với các hàng hóa công cộng như giao thông, thủy lợi, điện, trường học, chợ, bưu điện, cơ sở vật chất văn hóa và cơ sở hạ tầng y tế.
Hệ thống CSHT xã hội nông thôn
• Hệ thống CSHT giáo dục - đào tạo nông thôn
CSHT giáo dục - đào tạo ở nông thôn bao gồm các cấp học từ mầm non đến THPT, cùng với các trường dạy nghề Trong quá trình xây dựng NTM, phát triển giáo dục - đào tạo là yếu tố then chốt cho sự phát triển kinh tế - xã hội nông thôn và toàn quốc Việc mở rộng số lượng và nâng cấp cơ sở vật chất của các cơ sở giáo dục sẽ nâng cao trình độ dân trí và cung cấp nguồn nhân lực chất lượng cho việc xây dựng NTM.
• Hệ thống CSHT y tế nông thôn
Hệ thống cơ sở hạ tầng y tế nông thôn bao gồm bệnh viện, phòng khám đa khoa, trung tâm y tế dự phòng, phòng khám chuyên khoa, cơ sở y học cổ truyền, trạm y tế xã, và các cơ sở cung cấp dược phẩm Việc chăm sóc và bảo vệ sức khỏe cộng đồng nông thôn là mục tiêu thiết yếu trong xây dựng nông thôn mới, nhằm nâng cao chất lượng cuộc sống cho người dân.
• Hệ thống CSHT văn hóa nông thôn
Hệ thống cơ sở hạ tầng văn hóa nông thôn bao gồm các trung tâm văn hóa huyện, nhà văn hóa cấp xã, thôn và đình làng, đóng vai trò quan trọng trong việc xây dựng nền văn hóa nông thôn mới (NTM) Nó không chỉ giúp bảo tồn và phát huy bản sắc văn hóa dân tộc mà còn hạn chế và tiến tới xóa bỏ các hoạt động mê tín dị đoan cùng những hủ tục lạc hậu tồn tại lâu dài ở nông thôn.
1.1.2.3 Yêu cầu của hệ thống cơ sở hạ tầng nông thôn mới
- CSHT NTM có tính đồng bộ và liên thông
Các nhu cầu về giao thông, điện, nước sạch, môi trường và giáo dục có mối liên hệ chặt chẽ với nhau trong thực tiễn, không thể tách rời hoàn toàn Chất lượng của cơ sở hạ tầng (CSHT) này ảnh hưởng trực tiếp đến hiệu quả của CSHT khác Do đó, hệ thống CSHT nông thôn mới (NTM) cần đảm bảo tính đồng bộ và liên thông, đáp ứng đầy đủ các nhu cầu kinh tế - xã hội Sự liên kết giữa các loại CSHT giúp tối ưu hóa chi phí xây dựng và nâng cao hiệu quả sử dụng, đồng thời có tác động tích cực đến phân bố dân cư và hình thành cảnh quan văn hóa nông thôn, cải thiện môi trường sống và hoạt động trong cộng đồng.
Cơ sở lý luận về huy động vốn đầu tư xây dựng cơ sở hạ tầng nông thôn mới
Theo lý thuyết kinh tế vi mô của Rober S.Pindyck và Daniel L.Rubinfeld
Vốn là một yếu tố quan trọng trong sản xuất kinh doanh, bao gồm các tài sản lâu bền như máy móc, thiết bị, nhà xưởng và nguyên vật liệu Quan điểm nhìn nhận vốn dưới dạng hiện vật mang lại sự đơn giản và dễ hiểu, phù hợp với trình độ quản lý thấp Tuy nhiên, nhược điểm của quan điểm này là không xem xét đến vốn tài chính, điều này đặc biệt quan trọng trong nền kinh tế thị trường, nơi vốn tài chính đóng vai trò then chốt trong quản lý và sử dụng.
Theo Paul A Samuelson và William D Nordhaus, vốn là khái niệm chỉ các hàng hóa làm vốn, đóng vai trò là một yếu tố sản xuất Khác với các yếu tố sơ yếu như đất đai và lao động, hàng hóa làm vốn là đầu vào đồng thời cũng là đầu ra của nền kinh tế, bao gồm vốn vật chất như nhà máy, thiết bị, kho tàng và vốn tài chính Do đó, vốn được chia thành hai loại chính: vốn vật chất và vốn tài chính.
Vốn là khái niệm rộng, bao gồm toàn bộ của cải vật chất như đất đai, tài nguyên, tài sản, nhà xưởng, nguồn nhân lực, vàng và tiền Đây là tài sản mà con người tích lũy trong một thời gian nhất định và sử dụng để cải biến nền kinh tế - xã hội.
Vốn đầu tư là khái niệm bắt nguồn từ đầu tư, được hiểu là việc sử dụng các nguồn lực hiện có như tiền, sức lao động, của cải và trí tuệ để đạt được lợi ích trong tương lai Hoạt động này có mục tiêu chính là sinh lời thông qua việc sử dụng vốn một cách hiệu quả trong các hoạt động kinh tế.
Vốn đầu tư không chỉ đơn thuần là khái niệm về vốn mà là nguồn lực được sử dụng trong hoạt động đầu tư nhằm đạt được lợi ích lớn hơn trong tương lai Để đánh giá hiệu quả sử dụng vốn đầu tư, các loại vốn khác nhau cần được quy về một thước đo giá trị Vốn đầu tư thường được thể hiện dưới dạng giá trị tiền tệ của các nguồn lực đã đầu tư, bao gồm của cải vật chất, sức lao động, tài nguyên thiên nhiên và các tài sản vật chất khác.
Cơ sở hạ tầng nông thôn (CSHT NTM) là hệ thống các công trình vật chất hiện đại, đồng bộ, cần thiết cho sự phát triển nông thôn, và việc xây dựng chúng đòi hỏi đầu tư vốn từ Đại học Kinh tế Huế Vốn đầu tư cho CSHT NTM bao gồm tất cả các nguồn lực như của cải vật chất, sức lao động và tài nguyên thiên nhiên, được thể hiện bằng tiền, nhằm phục vụ cho việc phát triển nông thôn theo định hướng NTM.
Huy động vốn đầu tư xây dựng cơ sở hạ tầng nông thôn (CSHT NTM) là việc tập hợp các nguồn lực cần thiết, bao gồm nhân lực, vật lực và kinh phí, để thực hiện các chương trình và dự án phát triển Điều này đóng vai trò quan trọng trong việc tạo nền tảng cho các hoạt động kinh tế ở khu vực nông thôn.
XH được diễn ra một cách bình thường.
1.1.2 Đặc điểm của vốn đầu tư xây dựng cơ sở hạ tầng nông thôn mới
- Xây dựng CSHT NTM cần nhiều vốn, thời gian đầu tư xây dựng dài, thời gian thu hồi vốn chậm
Việc xây dựng hệ thống cơ sở hạ tầng nông thôn (CSHT NTM) có quy mô lớn và thời gian kéo dài, phụ thuộc vào điều kiện tự nhiên và cấu trúc xây dựng phức tạp Các công trình này cần đảm bảo nhiều yếu tố kỹ thuật, độ bền, kinh tế, mỹ quan và chất lượng, dẫn đến yêu cầu vốn đầu tư lớn Hơn nữa, do các công trình CSHT ở nông thôn chủ yếu là hàng hóa công cộng, việc thu hồi vốn không thể thực hiện qua giao dịch hàng hóa thông thường mà phải thông qua thu phí, dẫn đến thời gian thu hồi vốn chậm Do đó, việc huy động vốn cho xây dựng CSHT NTM cần kết hợp nhiều nguồn vốn khác nhau và áp dụng các phương thức huy động đa dạng để đáp ứng nhu cầu đầu tư.
- Đối tượng trực tiếp thụ hưởng kết quả sử dụng vốn đầu tư xây dựng CSHT NTM là cộng đồng dân cư ở địa phương
Các công trình cơ sở hạ tầng nông thôn mới (CSHT NTM) không chỉ phục vụ một nhóm đối tượng cụ thể mà còn ảnh hưởng trực tiếp đến đời sống và sinh kế của mọi tầng lớp dân cư nông thôn Điều này đòi hỏi sự minh bạch và trách nhiệm trong việc huy động và sử dụng vốn đầu tư, đồng thời cần phát huy tối đa nguồn vốn đầu tư từ cộng đồng trong quá trình xây dựng CSHT NTM.
Công tác quản lý vốn đầu tư xây dựng cơ sở hạ tầng nông thôn mới (CSHT NTM) có tính chất phức tạp do phải trải qua nhiều giai đoạn, bao gồm chuẩn bị đầu tư, thực hiện đầu tư và kết thúc đầu tư Mỗi giai đoạn yêu cầu thực hiện hàng loạt công việc và phát sinh các loại chi phí khác nhau Sự phức tạp này ảnh hưởng đến quá trình lập dự toán, tổ chức thực hiện dự toán và quyết toán vốn đầu tư, đòi hỏi sự chú ý đặc biệt trong quản lý để đảm bảo hiệu quả và tính chính xác.
- Hiệu quả sử dụng vốn đầu tư xây dựng CSHT NTM được nhìn nhận tổng hợp cả về kinh tế và xã hội
Khác với việc đánh giá hiệu quả vốn đầu tư phát triển sản xuất kinh doanh, việc đánh giá hiệu quả sử dụng vốn đầu tư xây dựng cơ sở hạ tầng nông thôn mới (NTM) cần xem xét cả hiệu quả kinh tế và xã hội Điều này có nghĩa là không chỉ tập trung vào chi phí và lợi nhuận mà còn phải đánh giá tác động xã hội của các dự án đầu tư này.
XH cần được đánh giá tổng thể để hiểu rõ hiệu quả sử dụng vốn đầu tư xây dựng cơ sở hạ tầng nông thôn (CSHT NTM) Việc đầu tư vào các công trình CSHT NTM thường gặp phải nguy cơ thất thoát và lãng phí lớn do tính phức tạp và rủi ro liên quan Do đó, việc tổ chức quản lý huy động và sử dụng vốn đầu tư CSHT NTM cần phải chặt chẽ và khoa học, nhằm giảm thiểu thất thoát, lãng phí và ngăn ngừa các rủi ro tiêu cực có thể xảy ra.
1.1.3 Nguồn vốn đầu tư xây dựng cơ sở hạ tầng nông thôn mới
Nguồn vốn đầu tư xây dựng cơ sở hạ tầng nông thôn (CSHT NTM) bao gồm các nguồn lực tài chính trong nền kinh tế, thể hiện bằng tiền Những nguồn vốn này được huy động và sử dụng nhằm mục đích đầu tư vào việc xây dựng CSHT nông thôn theo định hướng phát triển nông thôn mới (NTM).
Các nguồn vốn đầu tư chủ yếu trong xây dựng CSHT NTM bao gồm:
Nguồn vốn NSNN (Trung ương và địa phương) bao gồm:
- Vốn ngân sách hỗ trợ trực tiếp của Chương trình xây dựng NTM (bao gồm cả trái phiếu Chính phủ).
Vốn từ các Chương trình Mục tiêu Quốc gia và các dự án hỗ trợ có mục tiêu đang được triển khai và sẽ tiếp tục được thực hiện trong những năm tới trên địa bàn.
Nguồn vốn NSNN đảm bảo cung cấp nguồn lực tài chính để xây dựng các hạng mục CSHT mang tính “xương sống” ở nông thôn
Các hạng mục cần đầu tư cho phát triển nông thôn bao gồm hệ thống giao thông liên huyện và liên xã, các công trình thủy lợi như đập, trạm bơm, hồ chứa, lưới điện nông thôn, trường học, hệ thống thông tin và viễn thông, chợ nông thôn, nhà văn hóa, trạm y tế và cung cấp nước sạch từ Đại học Kinh tế Huế Tuy nhiên, việc đầu tư cho những hạng mục này đòi hỏi nguồn vốn lớn mà khu vực ngoài nhà nước ở nông thôn chưa đủ khả năng đáp ứng Hơn nữa, do tính chất là hàng hóa công cộng, việc thu hút vốn từ bên ngoài cũng gặp nhiều khó khăn.
Nguồn vốn NSNN có vai trò tạo tiền đề, động lực để thu hút các nguồn vốn ngoài NSNN vào xây dựng CSHT ở nông thôn
Cơ sở thực tiễn về huy động vốn đầu tư xây dựng cơ sở hạ tầng nông thôn mới
Kinh nghiệm của huyện Cát Tiên, tỉnh Lâm Đồng
Cát Tiên là huyện nông thôn sâu, chủ yếu trồng lúa nước, dẫn đến thu nhập của người dân thấp hơn so với các huyện chuyên canh rau, hoa và cây công nghiệp Tuy nhiên, tỷ lệ hộ nghèo đang giảm dần Để thực hiện hiệu quả Chương trình Xây dựng NTM, từ đầu năm 2011, Huyện ủy và UBND đã chỉ đạo thành lập Ban Chỉ đạo Chương trình xây dựng NTM tại tất cả 11 xã trong huyện.
Từ năm 2011 đến 2015, Cát Tiên đã huy động tổng cộng 1.834 tỷ đồng cho Chương trình xây dựng NTM tại Đại học Kinh tế Huế, với số vốn huy động hàng năm tăng dần Cụ thể, năm 2011 huy động 150,4 tỷ đồng, năm 2012 đạt 259,7 tỷ đồng, năm 2013 là 351,1 tỷ đồng, và năm 2014 vượt 481,5 tỷ đồng.
Năm 2015, tổng vốn huy động cho chương trình xây dựng nông thôn mới (NTM) đạt 1.834 tỷ đồng, trong đó chỉ khoảng 42,4 tỷ đồng là vốn từ chương trình NTM, 28,8 tỷ đồng là vốn nhân dân đóng góp, và 1.078,4 tỷ đồng từ tín dụng Địa phương đã sử dụng nguồn vốn này để đầu tư vào hạ tầng kinh tế - xã hội, bao gồm xây dựng 2 công trình chứa nước, kiên cố hóa 7,45 km kênh mương nội đồng, và đưa điện lưới quốc gia tới 9.423 hộ dân, đạt 96% tổng số hộ Hơn nữa, 52 tuyến đường giao thông nông thôn dài 37,2 km đã được thi công, cùng với việc xây dựng 2 chợ xã và 9 trường học, đồng thời cải tạo khoảng 215 phòng học Hiện tại, trên 82% dân số nông thôn huyện Cát Tiên được sử dụng nước sinh hoạt hợp vệ sinh, hơn 75% thôn đạt chuẩn văn hóa, và 87% hộ gia đình được công nhận là gia đình văn hóa.
Huyện Cát Tiên đã tạo ra sự chuyển biến tích cực trong việc xây dựng nông thôn mới (NTM), khi người dân nhận thức được quyền lợi và nghĩa vụ của mình trong quá trình này Nhờ đó, họ đã tích cực tham gia đóng góp công sức, tiền bạc và đất đai để cùng chính quyền địa phương đầu tư vào các công trình hạ tầng phục vụ phát triển kinh tế - xã hội Theo phương châm “Nhân dân làm công trình, Nhà nước hỗ trợ vật tư”, người dân cũng chủ động đầu tư xây mới, chỉnh trang nhà cửa và phát triển sản xuất.
(Nguồn: Lê Thị Hiệp (2015), Ghi nhận từ Chương trình xây dựng NTM trên địa bàn huyện Cát Tiên, http://www.lamdong.gov.vn/vi-VN/a/dbnd/hdnd/tintuc/Page).
Kinh nghiệm của huyện Hóc Môn, thành phố Hồ Chí Minh
Huyện Hóc Môn đã đạt nhiều thành công trong 5 năm thực hiện Chương trình xây dựng NTM, với diện mạo nông thôn từng bước thay đổi nhờ vào việc nâng cấp hạ tầng giao thông, tạo điều kiện thuận lợi cho người dân Đại học Kinh tế Huế đã góp phần tạo ra môi trường sống xanh, sạch, đẹp, đồng thời thu hút đầu tư cho doanh nghiệp Cơ sở hạ tầng văn hóa, thể dục thể thao, trường học và chợ được đầu tư nâng cấp, trong khi cơ cấu kinh tế nông nghiệp chuyển sang nông nghiệp đô thị, nâng cao thu nhập và đời sống của người dân Thành quả này đạt được nhờ công tác tuyên truyền sâu rộng, nâng cao nhận thức của người dân về xây dựng NTM, cùng với sự tập trung của Ban Chỉ đạo xây dựng NTM và sự tham gia tích cực của cả hệ thống chính trị Đặc biệt, việc đào tạo đội ngũ cán bộ nòng cốt ở cấp xã và cách làm chủ động, sáng tạo phù hợp với từng địa phương cũng đóng vai trò quan trọng Để xây dựng NTM hiệu quả, cần đa dạng hóa nguồn lực huy động vốn.
Qua 5 năm thực hiện Nghị quyết của Huyện ủy về việc lãnh đạo xây dựng NTM, BCĐ huyện chỉ đạo các đơn vị, tổ chức đoàn thể chính trị xã hội trên địa bàn huyện tổ chức quán triệt, tuyên truyền nội dung và tầm quan trọng, mục đích, ý nghĩa Chương trình xây dựng NTM trong đoàn viên, hội viên, các tầng lớp nhân dân: tuyên truyền theo từng cụm tổ nhân dân, các cuộc họp tổ nhân dân định kỳ hàng tháng, các cuộc họp của các đoàn thể từ Ban chấp hành đến các Chi hội, Chi đoàn, thường xuyên phát thanh tuyên truyền trên hệ thống Đài truyền thanh huyện, xã và bản tin Hóc Môn
Thông qua công tác thông tin tuyên truyền và vận động, nhận thức của người dân đã được nâng cao, tạo sự đồng thuận trong việc xây dựng NTM Người dân hiểu rõ mục tiêu và ý nghĩa của chương trình, từ đó tích cực tham gia với 8.434 hộ hiến 272.666 m² đất, đóng góp vật kiến trúc trị giá gần 555,6 tỷ đồng, cùng gần 8.000 ngày công lao động để cải tạo hạ tầng giao thông nông thôn, nạo vét kênh mương và cống rãnh, góp phần đầu tư xây dựng các công trình tại Đại học Kinh tế Huế.
CSHT đã vận động doanh nghiệp thực hiện bê tông hóa 447 tuyến hẻm, ngõ xóm dài 53,2 km với tổng kinh phí 29,1 tỷ đồng Trong quá trình triển khai, các xã luôn đảm bảo công khai, minh bạch, phát huy vai trò giám sát của nhân dân đối với các công trình hạ tầng, thực hiện tốt quy chế dân chủ cơ sở theo phương châm “dân biết, dân bàn, dân làm, dân kiểm tra và dân thụ hưởng” Huyện cũng đẩy mạnh các cuộc vận động như “Toàn dân đoàn kết xây dựng đời sống văn hóa ở khu dân cư” và phong trào vì người nghèo, nhằm củng cố niềm tin và xây dựng khối đại đoàn kết toàn dân trong việc thực hiện chương trình xây dựng nông thôn mới (NTM) Mục tiêu chính của xây dựng NTM là nâng cao chất lượng cuộc sống người dân nông thôn, đạt 19 tiêu chí Quốc gia NTM, phát triển cơ sở hạ tầng và tạo việc làm, lấy lợi ích của người dân làm động lực, với sự tham gia tích cực của cộng đồng và doanh nghiệp là yếu tố quyết định thành công của chương trình.
Vào ngày 10/10/2015, huyện Hóc Môn đã tổng kết 5 năm thực hiện Chương trình xây dựng nông thôn mới (NTM) và công bố Quyết định công nhận huyện NTM từ Thủ tướng Chính phủ Huyện tiếp tục duy trì 19 tiêu chí Quốc gia về đạt chuẩn NTM và đề ra nhiệm vụ cho giai đoạn 2016 - 2020, nhằm hướng tới sự phát triển bền vững và toàn diện cho Hóc Môn.
(Nguồn: Kim Hân (2015), Kinh nghiệm xây dựng NTM ở huyện Hóc Môn, http://www.hocmon.hochiminhcity.gov.vn/tintuc/List).
Kinh nghiệm của huyện Vĩnh Linh, tỉnh Quảng Trị
Sau 5 năm triển khai CTMTQG xây dựng NTM, mặc dù gặp không ít khó khăn nhưng huyện Vĩnh Linh đã đạt được những kết quả quan trọng và là địa phương dẫn đầu ở tỉnh Quảng Trị Bộ mặt nông thôn huyện Vĩnh Linh đã có nhiều khởi sắc, CSHT phát triển đồng bộ, đời sống vật chất, văn hóa, tinh thần của người dân được nâng cao Đến cuối năm 2014 trên địa bàn huyện đã có 3 xã là: Vĩnh Kim, Vĩnh Thạch, Vĩnh Thủy được công nhận đạt chuẩn NTM, đây cũng là 3 xã cán đích đầu tiên của tỉnh Quảng Trị Đến cuối năm 2015, Vĩnh Linh có thêm 4 xã là: Vĩnh Hiền, Vĩnh Thành, Vĩnh Lâm, Vĩnh Nam đạt chuẩn, đưa tỷ lệ xã đạt chuẩn của Đại học Kinh tế Huế huyện lên 36,8% cao nhất so với toàn tỉnh, có 4 xã đạt từ 15 đến 18 tiêu chí, 5 xã đạt 10 đến 14 tiêu chí, riêng 3 xã miền núi là Vĩnh Ô, Vĩnh Hà, Vĩnh Khê đạt 7 đến
9 tiêu chí Có được kết quả trên là nhờ huyện đã có những giải pháp hợp lý và mang tính đột phá.
Xác định vai trò của cấp ủy, chính quyền, Mặt trận và các tổ chức đoàn thể là rất quan trọng trong việc tổ chức thực hiện chương trình xây dựng NTM Huyện đã tập trung vào địa bàn xã, coi người dân là chủ thể của chương trình, xây dựng mô hình xã chuẩn toàn diện trên tất cả các lĩnh vực Nhờ đó, chương trình đã thu hút sự tham gia của cộng đồng và tạo ra phong trào thi đua sôi nổi ở các địa phương.
Huyện đã khởi xướng phong trào "Vĩnh Linh chung sức xây dựng NTM", kêu gọi mỗi ngành và đơn vị cùng tham gia tích cực vào việc xây dựng nông thôn mới.
Thanh niên đang tích cực tham gia xây dựng nông thôn mới, với các hoạt động như "Thắp sáng đường quê" và "Chung sức trợ giúp xóa đói giảm nghèo" cho 11 thôn bản đặc biệt khó khăn của huyện Những nỗ lực này đã tạo ra một làn sóng thi đua sôi nổi, lan tỏa khắp toàn huyện.
Huyện Vĩnh Linh chú trọng xây dựng và bồi dưỡng đội ngũ cán bộ nòng cốt ở các cấp, đặc biệt là cán bộ cơ sở, nhằm nâng cao nhận thức và trách nhiệm trong xây dựng nông thôn mới (NTM) Để chủ động thực hiện Chương trình, huyện đã lập kế hoạch cụ thể cho từng giai đoạn và tiến hành điều tra tình hình cơ bản của 19 xã, phân nhóm xã có cơ sở hạ tầng tốt để triển khai kế hoạch hoàn thành sớm Vĩnh Kim, Vĩnh Thạch, Vĩnh Thủy, Vĩnh Hiền, Vĩnh Thành, Vĩnh Lâm và Vĩnh Nam là những xã đã hoàn thành mục tiêu trước thời hạn Để hoàn thành Chương trình, huyện đã huy động nguồn lực lớn từ nhiều nguồn khác nhau, trong đó nguồn lực tại chỗ và hỗ trợ ngân sách là quan trọng Trong 5 năm qua, Vĩnh Linh đã huy động gần 50 tỷ đồng từ doanh nghiệp và tổ chức tài chính để xây dựng cơ sở hạ tầng, cùng với hơn 40 tỷ đồng đóng góp từ nhân dân Ngoài ra, huyện còn nhận được hơn 400 tỷ đồng vốn ODA và NGO, trong đó quỹ Arập - Xê út tài trợ hơn 330 tỷ đồng, cùng với sự ủng hộ hơn 3 tỷ đồng từ các nhà hảo tâm và con em xa quê cho các công trình phúc lợi và quỹ khuyến học tại địa phương.
(Nguồn: Trần Hữu Hùng (2015), Những kinh nghiệm về xây dựng NTM ở Vĩnh Linh, http://vinhlinhquangtri.gov.vn/default.aspx).
1.3.2 Một số bài học kinh nghiệm rút ra cho huyện Gio Linh, tỉnh Quảng Trị
Để huy động và sử dụng vốn đầu tư cho xây dựng cơ sở hạ tầng nông thôn một cách hiệu quả, việc áp dụng các chính sách khuyến khích và động viên là rất quan trọng, tuy nhiên cần phải phân biệt rõ ràng trong quá trình thực hiện.
Tình hình cơ bản của địa bàn nghiên cứu
2.1.1 Vị trí địa lý, điều kiện tự nhiên
Gio Linh nằm trên tọa độ địa lý từ 16 0 9’ đến 17 0 vĩ Bắc và 106 0 52’40” đến
107 0 10’ độ kinh Đông, được giới hạn bởi ranh giới hành chính như sau:
Huyện nằm ở vị trí địa lý thuận lợi, phía Bắc giáp huyện Vĩnh Linh, phía Nam giáp huyện Triệu Phong, Cam Lộ và thành phố Đông Hà, phía Đông giáp Biển Đông, và phía Tây giáp các huyện Cam Lộ, ĐaKrông, Hướng Hóa.
Diện tích đất tự nhiên: 47.289,56 ha.
Dân số 74.058 người (số liệu thống kê năm 2015)
Huyện này bao gồm 21 đơn vị hành chính, trong đó có 2 thị trấn là Gio Linh và Cửa Việt, cùng với 19 xã: Linh Thượng, Vĩnh Trường, Hải Thải, Gio An, Gio Bình, Gio Châu, Gio Sơn, Gio Hòa, Linh Hải, Gio Phong, Gio Quang, Trung Sơn, Trung Hải, Trung Giang, Gio Mỹ, Gio Thành, Gio Mai, Gio Hải và Gio Việt.
Gio Linh có hệ thống giao thông thuận lợi với Quốc lộ 1A, tuyến đường sắt Bắc - Nam và cảng Cửa Việt, đóng vai trò quan trọng trong kết nối kinh tế Đông - Tây Mạng lưới tỉnh lộ dày đặc cùng với các dự án như đường ven biển Cửa Việt - Cửa Tùng và cầu Cửa Tùng, Cửa Việt tạo điều kiện thuận lợi cho việc lưu thông hàng hóa và phát triển liên kết với các huyện Vĩnh Linh, Triệu Phong, Hải Lăng và các địa phương khác trong tỉnh.
Gio Linh tiếp giáp với thành phố Đông Hà, trung tâm phát triển của tỉnh, và đã hình thành các vùng kinh tế trọng điểm như khu công nghiệp Quán Ngang và khu dịch vụ - du lịch Cửa Việt Những khu vực này đang được đầu tư mạnh mẽ vào hạ tầng và thu hút vốn đầu tư Hệ thống cơ sở hạ tầng như điện, cấp thoát nước, bưu chính viễn thông và các hạ tầng xã hội khác cũng đang được nâng cấp và mở rộng, góp phần thúc đẩy sự phát triển kinh tế - xã hội của huyện.
Gio Linh sở hữu lợi thế về vị trí địa lý và kinh tế vượt trội so với một số huyện trong tỉnh, tạo nền tảng vững chắc cho việc mở rộng giao lưu và hợp tác kinh tế trong tỉnh cũng như trên toàn quốc Điều này giúp tăng cường liên kết và hội nhập với các nước trong khu vực và quốc tế, từ đó thúc đẩy nhanh chóng tốc độ phát triển kinh tế - xã hội trong tương lai.
Huyện này có địa hình bán sơn địa với sự phân chia rõ rệt từ Tây sang Đông Phía Tây là khu vực đồi núi chiếm 31.773,75 ha (67,18%), ở giữa là đồng bằng rộng 12.631,01 ha (26,7%), và phía Đông là bãi cát cùng cồn cát ven biển.
2.1.1.3 Điều kiện thời tiết, khí hậu
Gio Linh nằm trong vùng khí hậu nhiệt đới gió mùa, với mùa hè gió Tây Nam khô nóng và mùa Đông gió Đông Bắc ẩm ướt Nhiệt độ trung bình hàng năm dao động từ 24 đến 25,5 độ C, trong khi lượng mưa bình quân hàng năm đạt từ 2.500 đến 2.700 mm Lượng mưa chủ yếu tập trung từ tháng 9 đến tháng 11, chiếm 70 - 75% tổng lượng mưa cả năm Độ ẩm không khí trung bình hàng năm khoảng 85 - 90%.
+ Mùa mưa: Bắt đầu từ tháng 10 và kết thúc vào tháng 2 năm sau tập trung
80 - 90% lượng mưa cả năm, hướng gió chính là hướng Tây Nam, tốc độ 4 - 5m/s.
+ Mùa khô: Bắt đầu từ tháng 3 và kết thúc vào tháng 9 Vào mùa khô có ít mưa, hướng gió chính là Đông Bắc, tốc độ gió 2,5 - 3,5m/s.
Tình hình khí hậu tại huyện khá phù hợp cho phát triển nông nghiệp, đặc biệt là trồng trọt như cao su, cà phê, tiêu và chè Tuy nhiên, lượng mưa không đồng đều trong năm, với 80% - 90% lượng nước tập trung vào mùa mưa, dẫn đến tình trạng thừa nước, xói mòn và rửa trôi đất.
Gio Linh là một huyện thuộc tỉnh Quảng Trị, nằm trong lưu vực của hai nhánh sông lớn là sông Hiếu và sông Hiền Lương Hai con sông này bắt nguồn từ biên giới Việt - Lào và đổ ra biển qua hai cửa sông Cửa Việt và Cửa Tùng.
Với chiều dài bờ biển kéo dài hơn 16 km, Gio Linh có thế mạnh rất lớn để phát triển ngành đánh bắt cá xa bờ, nuôi trồng thủy sản.
Khu vực này có nguồn tài nguyên khoáng sản đa dạng, bao gồm đá mồ côi, được sử dụng làm nguyên liệu xây dựng Đá mồ côi chủ yếu phân bố tại các xã Gio An, Gio Bình, Gio Hòa, Gio Sơn, Hải Thái, Linh Hải và một số xã miền tây Gio Linh, tuy nhiên, trữ lượng của loại đá này là khá hạn chế.
Mỏ đất đen và than bùn làm nguyên liệu sản xuất phân bón ở Gio Quang và Gio Mai với trữ lượng khoảng 30 - 50 nghìn tấn.
Trữ lượng Titan nằm rải rác ở các xã miền Đông giáp biển của huyện như Gio Mai, Gio Việt, Gio Mỹ, Gio Hải, Trung Giang, Trung Hải.
Vàng sa khoáng ở thượng nguồn sông Bến Hải.
Khoáng sản tại Gio Linh chưa được khảo sát chất lượng và trữ lượng cụ thể, và thực tế khai thác hiện tại còn hạn chế Mặc dù tiềm năng khoáng sản ở đây không phong phú như một số huyện khác, việc khai thác hợp lý có thể mang lại ảnh hưởng tích cực đến sự phát triển kinh tế - xã hội của huyện.
2.1.2 Tình hình kinh tế - xã hội
Theo số liệu từ bảng 2.1, tình hình sản xuất kinh doanh của huyện Gio Linh đã có sự tăng trưởng rõ rệt qua các năm Cụ thể, tổng giá trị sản xuất của huyện năm 2011 đạt 2.138.637 triệu đồng, và đến năm 2015, con số này đã tăng lên 3.209.618 triệu đồng, với mức tăng trung bình hàng năm là 10,68%.
Bảng 2.1: Kết quả sản xuất - kinh doanh của huyện Gio Linh giai đoạn 2011 - 2015
Nông, lâm, ngư nghiệp 1.236.334 57,8 1.380.602 54,8 1.537.566 55,5 1.635.488 52,8 1.552.557 48,4 5,86 Công nghiệp, Tiểu thủ công nghiệp 295.203 13,8 348.315 13,8 355.381 12,8 481.135 15,5 544.278 17,0 16,53 Thương mại, dịch vụ 607.100 28,4 791.068 31,4 878.040 31,7 979.082 31,6 1.112.783 34,7 16,36
Nguồn: Niên giám thống kê huyện Gio Linh Đại học Kinh tế Huế
Huyện này có diện tích đất nông nghiệp lớn, chiếm 83,74% tổng diện tích tự nhiên, dẫn đến cơ cấu kinh tế nông - lâm - ngư nghiệp chiếm tỷ trọng cao Vào năm 2015, cơ cấu kinh tế nông nghiệp đã đóng góp đáng kể vào sự phát triển kinh tế của huyện.
- lâm - ngư nghiệp chiếm 48,4%, công nghiệp, tiểu thủ công nghiệp chiếm 17,0% và thương mại, dịch vụ chiếm 34,7%.
Trong những năm qua, huyện đã chứng kiến sự chuyển dịch tích cực và bền vững trong cơ cấu kinh tế, với tỷ trọng ngành thương mại, dịch vụ và công nghiệp, tiểu thủ công nghiệp tăng lên, trong khi tỷ trọng ngành nông - lâm - ngư nghiệp giảm Sự thay đổi này chủ yếu do một phần diện tích đất nông nghiệp được chuyển đổi sang các mục đích sử dụng khác, ảnh hưởng đến giá trị sản xuất nông - lâm - thủy sản Đồng thời, một lượng lao động từ lĩnh vực nông nghiệp cũng đã chuyển sang làm việc trong các ngành công nghiệp, tiểu thủ công nghiệp, thương mại và dịch vụ cả trong và ngoài huyện.
Trong những năm qua, công nghiệp và tiểu thủ công nghiệp của huyện đã có sự phát triển mạnh mẽ, đặc biệt là các ngành nghề như chế biến nông - lâm - hải sản, sửa chữa tàu thuyền, cơ khí, mộc mỹ nghệ, và khai thác đá, cát sạn Năm 2015, tổng giá trị sản xuất trong lĩnh vực này đạt 544.278 triệu đồng, tăng 13,12% so với năm 2014 và 84,37% so với năm 2011 Mặc dù còn nhiều khó khăn, huyện vẫn chú trọng phát triển bền vững trong lĩnh vực kinh tế, góp phần vào sự tăng trưởng chung của nền kinh tế.
Thực trạng huy động vốn đầu tư xây dựng cơ sở hạ tầng nông thôn mới huyện
2.2.1 Quy mô, cơ cấu các nguồn vốn đầu tư huy động được
Bảng 2.6: Cơ cấu các nguồn vốn đầu tư huy động xây dựng CSHT NTM huyện Gio Linh, tỉnh Quảng Trị giai đoạn 2011-2015 Đơn vị: Triệu đồng
Nguồn vốn Tổng 5 năm Tỷ lệ (%)
- Vốn đầu tư trực tiếp
Nguồn: Phòng Nông nghiệp và Phát triển nông thôn huyện Gio Linh Nguồn vốn NSNN: Xét cơ cấu huy động vốn trong năm năm qua (2011-
Từ năm 2011 đến 2015, nguồn vốn ngân sách nhà nước (NSNN) huy động cho xây dựng cơ sở hạ tầng nông thôn mới (NTM) chỉ đạt 56.030 triệu đồng, trong đó vốn đầu tư trực tiếp chiếm 19,13% và vốn từ các chương trình mục tiêu quốc gia (CTMTQG) chiếm 4,23% Nguồn vốn NSTW hỗ trợ xây dựng CSHT trong giai đoạn này rất hạn chế, trung bình chỉ 2.000 triệu đồng/năm Tuy nhiên, từ năm 2014, sau khi Chính phủ ban hành Quyết định 195/QĐ-TTg, nguồn vốn NSTW đã tăng lên đáng kể, đạt bình quân 5.000 triệu đồng/năm Mặc dù Trung ương đã điều chỉnh cơ chế hỗ trợ vốn, nhưng tổng nguồn vốn NSTW đầu tư cho CSHT chỉ đạt 17.470 triệu đồng trong giai đoạn 2011-2015 Đồng thời, ngân sách địa phương cũng tăng cường huy động, nhưng tổng số chỉ đạt 28.400 triệu đồng trong cùng giai đoạn Ngân sách tỉnh hàng năm bố trí khoảng 2.000 triệu đồng từ các nguồn thu nội địa và các nguồn khác để đầu tư cho các hạng mục hạ tầng thiết yếu, ưu tiên cho các xã có khả năng đạt chuẩn NTM theo lộ trình.
Ngân sách huyện phải dành tối thiểu 30% nguồn thu từ quỹ đất để đầu tư xây dựng hạ tầng NTM sau khi trừ các khoản chi theo chính sách hiện hành Hàng năm, huyện cũng phân bổ ít nhất 30% kinh phí đầu tư cơ bản cho các xã đạt chuẩn NTM theo lộ trình Đối với ngân sách xã, tối thiểu 70% nguồn thu từ quỹ đất (đã phân cấp) cần được sử dụng cho các tiêu chí NTM, sau khi trừ các khoản chi Tuy nhiên, việc khai thác quỹ đất ở cấp xã gặp khó khăn do các quy định trong Luật Đất đai năm 2013 và Nghị định 43/2014, cùng với giá đất nông thôn thấp, khiến các xã không thể đầu tư cho chương trình Ngoài ra, các địa phương vẫn phụ thuộc vào cân đối ngân sách trung ương, gặp khó khăn trong việc bố trí ngân sách cho chương trình do nguồn thu hạn chế và tâm lý trông chờ vào ngân sách trung ương Trung bình, các xã chỉ huy động được khoảng 560 triệu đồng/năm cho xây dựng cơ sở hạ tầng.
Trong 5 năm qua, nguồn vốn lồng ghép huy động chỉ đạt 10.160 triệu đồng, chiếm 4,23%, thấp hơn mong đợi so với nguồn vốn đầu tư trực tiếp 19,13% Nguồn vốn này chủ yếu được huy động từ các chương trình như giảm nghèo, việc làm, nước sạch và vệ sinh môi trường nông thôn, và dự án trồng rừng Tuy nhiên, việc huy động vốn gặp nhiều khó khăn do sự phối hợp kém giữa các Bộ, ngành và địa phương, cùng với việc các ban chỉ đạo chưa hoạt động hiệu quả Các thành viên của ban chỉ đạo thường kiêm nhiệm, dẫn đến hoạt động không thường xuyên và thiếu sự nắm bắt kịp thời các khó khăn Công tác chỉ đạo, phối hợp thực hiện còn hạn chế, và việc tuyên truyền chính sách tới người dân chưa được chú trọng Hệ thống thông tin yếu kém và thiếu quy định về lồng ghép vốn làm giảm sự gắn kết giữa Trung ương và địa phương trong lập kế hoạch và triển khai thực hiện Việc ban hành văn bản hướng dẫn và xây dựng khung kiểm tra, giám sát thực hiện các chương trình diễn ra chậm, với hệ thống văn bản và chính sách thiếu đồng bộ và không phù hợp với thực tế Tính đến tháng 8/2013, cả nước đã có 10 Thông tư hướng dẫn quản lý và sử dụng kinh phí.
Việc ban hành 16 Chương trình Mục tiêu Quốc gia (CTMTQG) đã gặp phải sự chậm trễ trong việc phát hành các văn bản hướng dẫn, ảnh hưởng đến kết quả triển khai và tiến độ giải ngân kinh phí Cơ chế lồng ghép nguồn vốn giữa các CTMTQG vẫn còn nhiều bất cập, dẫn đến tình trạng đầu tư dàn trải và khó quản lý Các địa phương chưa thực hiện lồng ghép một cách chủ động, chỉ mới tiến hành ghép vốn cho những công việc có nội dung tương đồng, gây khó khăn trong việc tổng hợp kết quả dự án Hơn nữa, các chương trình phát triển cộng đồng và ngành cần thời gian dài và kinh phí lớn để lập kế hoạch và thực hiện, đòi hỏi sự thống nhất từ Trung ương đến địa phương để đảm bảo phân bổ ngân sách hợp lý và huy động nguồn lực khả thi.
Nguồn vốn ngân sách nhà nước (NSNN) chưa được huy động hiệu quả do khó khăn trong việc triển khai Chương trình xây dựng nông thôn mới (NTM) trong bối cảnh kinh tế - xã hội gặp nhiều thách thức Tình hình kinh tế khó khăn đã ảnh hưởng lớn đến việc phân bổ nguồn lực cho chương trình, trong khi nguồn thu từ ngân sách địa phương vẫn còn hạn chế, chủ yếu phụ thuộc vào cấp trên Việc trông chờ vào sự hỗ trợ từ Nhà nước vẫn còn nặng nề, do đó cần có các giải pháp quyết liệt và hiệu quả để khắc phục những khó khăn này.
Nguồn vốn tín dụng: trong 5 năm qua (2011-2015), nguồn vốn tín dụng huy động được đạt 50.000 triệu đồng, chiếm tỉ lệ 20,85%.
Nguồn vốn tín dụng bao gồm vốn đầu tư từ Nhà nước được phân bổ cho tỉnh theo các chương trình như kiên cố hóa kênh mương, phát triển đường giao thông nông thôn, và cơ sở hạ tầng cho nuôi trồng thủy sản cũng như làng nghề nông thôn Tỉnh sẽ triển khai và phân bổ nguồn vốn này cho các huyện để thực hiện Ngoài ra, còn có nguồn vốn tín dụng thương mại theo quy định tại Nghị định số 41/2010/NĐ-CP ngày 12 tháng.
4 năm 2010 của Chính phủ về chính sách tín dụng phục vụ nông nghiệp, nông thôn.
Số lượng vốn tín dụng huy động đạt 20,85%, nhưng hiện tại chưa có sự phân tách rõ ràng giữa vốn tín dụng ưu đãi đầu tư phát triển và vốn tín dụng thương mại, điều này ảnh hưởng đến việc đánh giá chính xác nguồn vốn này.
Nguồn vốn tín dụng đầu tư của Nhà nước chủ yếu được huy động qua Ngân hàng chính sách xã hội, Ngân hàng Nông nghiệp và Phát triển nông thôn Việt Nam, và Ngân hàng Phát triển Việt Nam Đối tượng cho vay chủ yếu là các hộ nông thôn tham gia vào các chương trình như cho vay hộ nghèo và cho vay nước sạch Đặc biệt, lãi suất cho vay các dự án thuộc Chương trình kiên cố hóa kênh mương và phát triển đường giao thông nông thôn là 0% Vốn vay này được tổng hợp vào ngân sách nhà nước địa phương và bổ sung cho ngân sách cấp huyện hoặc xã để đầu tư cho các dự án do các cấp này quản lý Các huyện và xã có trách nhiệm sử dụng hiệu quả nguồn vốn này, và nguồn vốn chỉ được sử dụng cho các dự án thuộc Chương trình, không cho các mục tiêu khác Để thực hiện các dự án, địa phương cần bố trí trong ngân sách hàng năm để hoàn trả nợ vay, bao gồm cả vốn đầu tư từ nguồn thu tiền sử dụng đất.
Nguồn vốn tín dụng cho xây dựng cơ sở hạ tầng nông thôn mới (CSHT NTM) hiện vẫn chưa được huy động hiệu quả do phần lớn đầu tư tín dụng tập trung vào phát triển sản xuất, trong khi việc cấp tín dụng cho các dự án CSHT NTM gặp nhiều khó khăn Cơ chế tín dụng của Nhà nước chưa kịp thời điều chỉnh theo thực tế, dẫn đến nguồn vốn không ổn định và khó khăn trong quản lý Ngoài ra, vốn huy động chủ yếu ngắn hạn trong khi nhu cầu vay cho các dự án thường dài hạn, và năng lực tài chính của nhiều nhà đầu tư yếu kém, gây ra tình trạng dừng dự án và chậm tiến độ thi công Nhiều công trình mới khánh thành gặp vấn đề về chất lượng, ảnh hưởng đến khả năng trả nợ của ngân hàng Đối với tín dụng thương mại, mặc dù có chính sách hỗ trợ, nhưng nhiều tổ chức tín dụng không đủ vốn để đáp ứng nhu cầu vay kịp thời, và thủ tục phức tạp khiến địa phương khó tiếp cận Hơn nữa, người dân nông thôn vẫn có khả năng tiếp cận tín dụng thấp và chưa được tuyên truyền đầy đủ về các nguồn vốn này.
Trong giai đoạn hiện nay, nguồn vốn tín dụng đang được mở rộng và cải thiện về chất lượng cũng như phương thức cho vay, góp phần giải quyết các vấn đề cơ sở hạ tầng nông thôn và tạo sự cân đối giữa các vùng miền Nguồn vốn này có tác động trực tiếp đến việc chuyển dịch cơ cấu kinh tế và thúc đẩy tăng trưởng bền vững Tuy nhiên, việc huy động nguồn vốn này vẫn chưa đạt hiệu quả cao, do đó cần có những giải pháp thích hợp để thu hút nhiều hơn vốn tín dụng đầu tư.
CSHT NTM của huyện trong thời gian tới.
Nguồn vốn doanh nghiệp và hợp tác xã (HTX) hiện chiếm tỉ lệ thấp nhất, chỉ 0,83% trong tổng số nguồn vốn, chủ yếu đến từ vốn đầu tư và vay tín dụng phát triển Để thu hút đầu tư vào nông nghiệp, nông thôn, tỉnh Quảng Trị đã ban hành Quyết định 1099/QĐ-UBND và Chính phủ cũng có Nghị định 210/2013/NĐ-CP, cung cấp các ưu đãi như miễn giảm tiền sử dụng đất và hỗ trợ xây dựng cơ sở hạ tầng Tuy nhiên, mức hỗ trợ vẫn còn thấp và thủ tục phức tạp khiến doanh nghiệp nản lòng Các địa phương thiếu vốn đầu tư và không có nguồn hỗ trợ riêng cho các chính sách kêu gọi đầu tư, trong khi doanh nghiệp nông thôn gặp khó khăn do thiếu công trình sinh lợi và nền kinh tế nghèo nàn, dẫn đến thiếu động lực đầu tư.
Hệ thống kết cấu hạ tầng kinh tế - xã hội ở nông thôn đã được đầu tư nhưng vẫn còn yếu và thiếu đồng bộ, dẫn đến chi phí sản xuất kinh doanh tăng cao Đến cuối năm 2015, chỉ có 3 xã đạt tiêu chí giao thông (15,8%) và 4 xã đạt tiêu chí thủy lợi (21,1%), tạo ra rào cản cho hoạt động mở rộng đầu tư của doanh nghiệp Hầu hết các công trình cơ sở hạ tầng nông thôn mới đều do địa phương thực hiện mà không có sự tham gia của doanh nghiệp.
Hoạt động của doanh nghiệp tại khu vực nông thôn đang thúc đẩy sự chuyển dịch cơ cấu kinh tế từ nông nghiệp thuần túy sang nền kinh tế đa dạng hơn, tạo ra việc làm và tăng thu nhập cho người lao động Điều này góp phần thu hẹp khoảng cách giữa thành phố và nông thôn Do đó, việc huy động vốn từ doanh nghiệp đầu tư vào nông thôn là rất cần thiết Hiện nay, tỷ lệ vốn huy động từ doanh nghiệp còn thấp, vì vậy cần có những giải pháp hiệu quả để cải thiện nguồn vốn và thu hút doanh nghiệp tham gia vào việc xây dựng nông thôn mới.
Trong 5 năm qua, cộng đồng địa phương đã đóng góp tích cực cho việc xây dựng cơ sở hạ tầng nông thôn mới (NTM) với tổng nguồn vốn huy động đạt 124.066 triệu đồng, chiếm 51,73% tổng vốn Cụ thể, nhân dân đã góp 2.700 triệu đồng tiền mặt, 23.000 ngày công lao động (tương đương 4.600 triệu đồng), hiến 12.500 m² đất (khoảng 2.490 triệu đồng), và đóng góp 1.660 triệu đồng cho vật tư Ngoài ra, tổng số tiền đóng góp cho các công trình phục vụ đời sống và phát triển sản xuất lên tới 112.616 triệu đồng Kết quả này cho thấy sự chủ động và tích cực của người dân trong việc tham gia xây dựng cơ sở hạ tầng nông thôn.
Theo kết quả điều tra, có tới 61,11% người dân sẵn sàng tham gia đóng góp cho việc xây dựng cơ sở hạ tầng nông thôn, trong khi chỉ 16,67% người dân không muốn tham gia.
Bảng 2.7: Mức độ đóng góp vốn của người dân vào xây dựng CSHT NTM
Mức độ Gio Mai Gio Sơn Gio Hải Tổng Tỷ lệ
Nguồn: Tổng hợp từ số liệu điều tra của Đề tài
Bảng 2.8: Tỷ lệ đồng ý việc xây dựng CSHT NTM tác động tích cực/ tốt đến đời sống tinh thần, việc làm và thu nhập
Gio Hải Tổng Tỷ lệ
Giao thông đi lại được cải thiện 23 27 24 74 82,22
Kênh mương nội đồng được củng cố 18 22 17 57 63,33 Điện được cung cấp đầy đủ 25 30 28 83 92,22
Nước sạch được cung cấp đầy đủ 15 25 17 57 63,33
Hoạt động buôn bán thuận lợi (chợ) 18 24 20 62 68,89
Thông tin liên lạc dễ dàng 14 21 13 48 53,33
Sức khỏe được chăm sóc tốt 24 26 25 75 83,33
Hoạt động giáo dục được cải thiện 25 27 25 77 85,56
Các hoạt động văn hóa, thể thao phong phú 16 22 14 52 57,78
Nhà cửa được chỉnh trang sạch đẹp 26 28 26 80 88,89