1. Trang chủ
  2. » Giáo Dục - Đào Tạo

Nghiên cứu tri thức bản địa sử dụng cây thuốc tại xã lê lai, huyện thạch an, tỉnh cao bằng

102 6 0

Đang tải... (xem toàn văn)

Tài liệu hạn chế xem trước, để xem đầy đủ mời bạn chọn Tải xuống

THÔNG TIN TÀI LIỆU

Thông tin cơ bản

Tiêu đề Nghiên cứu tri thức bản địa sử dụng cây thuốc tại xã Lê Lai, huyện Thạch An, tỉnh Cao Bằng
Tác giả Vàng Sảo Hai
Người hướng dẫn TS. Nguyễn Thị Thu Hiền
Trường học Đại học Nông Lâm Thái Nguyên
Chuyên ngành Sinh thái và Bảo tồn đa dạng sinh học
Thể loại khóa luận tốt nghiệp đại học
Năm xuất bản 2020
Thành phố Thái Nguyên
Định dạng
Số trang 102
Dung lượng 9,14 MB

Cấu trúc

  • PHẦN 1:MỞ ĐẦU (11)
    • 1.1 Đặt vấn đề (11)
    • 1.2. Mục tiêu và yêu cầu của đề tài (12)
    • 1.3. Ý nghĩa của đề tài (13)
      • 1.3.1. Ý nghĩa về mặt khoa học (13)
      • 1.3.2. Ý nghĩa thực tiễn (13)
  • PHẦN 2: TỔNG QUAN VẤN ĐỀ NGHIÊN CỨU (14)
    • 2.1. Cơ sở khoa học của vấn đề nghiên cứu (14)
    • 2.2. Tình hình nghiên cứu và sử dụng cây thuốc trong nước và trên Thế giới 5 1. Tình hình nghiên cứu trên Thế giới (15)
      • 2.2.2. Tình hình nghiên cứu ở Việt Nam (19)
    • 2.3. Tổng quan khu vực nghiên cứu (24)
      • 2.3.1. Điều kiện tự nhiên khu vực nghiên cứu (24)
      • 2.3.2. Điều kiện kinh tế - xã hội khu vực nghiên cứu (26)
    • 3.1. Đối tượng, phạm vi thời gian và địa điểm nghiên cứu (27)
      • 3.1.1. Đối tượng nghiên cứu (27)
      • 3.1.2. Phạm vi nghiên cứu (27)
    • 3.2. Nội dung nghiên cứu (27)
    • 3.3. Phương pháp nghiên cứu (28)
      • 3.3.1. Phương pháp kế thừa (28)
      • 3.3.2. Phương pháp điều tra cộng đồng (28)
      • 3.3.3. Phương pháp thu thập mẫu (31)
      • 3.3.4. Phương pháp đánh giá tính đa dạng nguồn tài nguyên cây thuốc (31)
      • 3.3.5. Phương pháp đánh giá mức độ nguy cấp (32)
      • 3.3.6. Phương pháp nghiên cứu hoạt tính kháng khuẩn (32)
  • PHẦN 4: KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU VÀ THẢO LUẬN (34)
    • 4.1. Đa dạng nguồn tài nguyên cây thuốc được sử dụng trong cộng đồng các dân tộc thiểu số ở xã Lê Lai, huyện Thạch An, tỉnh Cao Bằng (34)
      • 4.1.1 Đa dạng về các bậc Taxon (34)
      • 4.1.2. Đa dạng về dạng cây của nguồn tài nguyên cây thuốc (0)
      • 4.1.3. Đa dạng về nơi sống của nguồn tài nguyên cây thuốc (47)
    • 4.2. Những cây thuốc thuộc diện cần bảo tồn ở Việt Nam đã ghi nhận được ở khu vực nghiên cứu (49)
    • 4.3. Vốn tri thức trong việc sử dụng cây thuốc của cộng đồng dân tộc thiểu số ở xã Lê Lai, huyện Thạch An, tỉnh Cao Bằng (53)
      • 4.3.1. Kinh nghiệm sử dụng bộ phận làm thuốc của cộng đồng dân tộc thiểu số ở xã Lê Lai (53)
      • 4.3.2. Kinh nghiệm về nhóm bệnh chữa trị của cộng đồng dân tộc thiểu số ở xã Lê Lai (57)
      • 4.3.3. Ảnh hưởng của sự giao thoa giữa các dân tộc đến vốn tri thức bản địa (63)
      • 4.3.4. Vấn đề truyền thụ kiến thức về cây thuốc trong cộng đồng các dân tộc ở xã Lê Lai (70)
    • 5.1. Kết luận (75)
    • 5.2. Kiến nghị (76)
  • TÀI LIỆU THAM KHẢO (77)
  • PHỤ LỤC (85)

Nội dung

ĐẦU

Đặt vấn đề

Việt Nam, với 3/4 diện tích đồi núi, sở hữu nguồn tài nguyên cây thuốc phong phú và là nơi sinh sống của 54 dân tộc, trong đó có khoảng 24 triệu người dân tộc thiểu số, chiếm hơn 1/3 dân số cả nước Sự đa dạng về dân tộc, điều kiện tự nhiên, khí hậu và văn hóa đã tạo ra một kho tàng tri thức dân gian phong phú về việc sử dụng cây cỏ làm thuốc chữa bệnh Mỗi dân tộc đều có những kinh nghiệm và tri thức về thuốc được truyền từ thế hệ này sang thế hệ khác, giúp cho các bài thuốc ngày càng trở nên độc đáo và phổ biến trong việc chăm sóc sức khỏe cho cộng đồng.

Trong tri thức chăm sóc sức khỏe dân gian, các tộc người thường sử dụng cây cỏ địa phương như thuốc chữa bệnh Cây cỏ là sản phẩm của quá trình tiến hóa tự nhiên, trong khi tri thức chăm sóc sức khỏe được hình thành từ kinh nghiệm sống và đấu tranh sinh tồn của con người qua nhiều thế hệ Tri thức bản địa về sức khỏe không chỉ quan trọng cho sự tồn tại của một tộc người mà còn cho toàn nhân loại Vì vậy, việc phục dựng và bảo tồn tri thức này không chỉ giúp bảo tồn bản sắc văn hóa mà còn mang lại giá trị thiết thực cho đời sống.

Sự phát triển của nền kinh tế thị trường và quá trình đô thị hóa đang đe dọa nhiều loài cây thuốc quý, khiến chúng có nguy cơ tuyệt chủng do khai thác quá mức Bên cạnh đó, những bài thuốc và kinh nghiệm quý báu của cộng đồng dân tộc cũng dần bị mai một Thế hệ trẻ hiện nay ít tiếp thu kiến thức bản địa, thay vào đó lại ưa chuộng những xu hướng hiện đại, dẫn đến việc các bài thuốc và cây thuốc quý ngày càng bị lãng quên.

Huyện Thạch An, với diện tích tự nhiên 690,79 km², sở hữu nguồn tài nguyên phong phú, đặc biệt là rừng và đất rừng chiếm 90% diện tích canh tác Huyện có 16 đơn vị hành chính, bao gồm 01 thị trấn và 15 xã, nơi sinh sống của các dân tộc Tày, Nùng, Mông, Dao, Kinh, Hoa, mỗi dân tộc mang những bản sắc và kinh nghiệm chữa bệnh bằng thực vật riêng Xã Lê Lai nổi bật với nhiều cộng đồng dân tộc có kinh nghiệm điều trị bằng cây thuốc, nhưng chưa có nghiên cứu nào về tri thức bản địa tại đây Để bảo tồn và phát triển những kinh nghiệm quý giá này, đồng thời bảo vệ nguồn gen cây thuốc và phát triển bài thuốc của cộng đồng dân tộc thiểu số, tôi tiến hành nghiên cứu về tri thức bản địa sử dụng cây thuốc tại xã Lê Lai, huyện Thạch An, tỉnh Cao Bằng.

Lê Lai, huyện Thạch An, tỉnh Cao Bằng”.

Mục tiêu và yêu cầu của đề tài

Tại xã Lê Lai, huyện Thạch An, tỉnh Cao Bằng, nguồn tài nguyên cây thuốc được sử dụng trong các cộng đồng dân tộc thiểu số rất đa dạng Các loại cây thuốc không chỉ phong phú về chủng loại mà còn mang lại nhiều lợi ích cho sức khỏe của người dân Việc đánh giá tính đa dạng này giúp bảo tồn và phát huy giá trị văn hóa truyền thống, đồng thời nâng cao nhận thức về việc sử dụng cây thuốc trong điều trị bệnh tật Sự phong phú của nguồn tài nguyên cây thuốc là yếu tố quan trọng trong việc duy trì sự sống và phát triển bền vững của các cộng đồng dân tộc thiểu số tại đây.

- Xác định những cây thuốc thuộc diện quý hiếm ở Việt Nam, hiện có ở khu vực nghiên cứu.

- Xác định vốn tri thức bản địa trong việc sử dụng cây thuốc của các cộng đồng dân tộc thiểu số ở khu vực nghiên cứu.

Ý nghĩa của đề tài

1.3.1 Ý nghĩa về mặt khoa học

Nghiên cứu tri thức bản địa về việc sử dụng cây thuốc của các cộng đồng dân tộc thiểu số tại xã Lê Lai, huyện Thạch An, tỉnh Cao Bằng, nhằm bảo tồn và phát huy giá trị y học truyền thống Các loài cây thuốc không chỉ đóng vai trò quan trọng trong việc chăm sóc sức khỏe của người dân mà còn góp phần vào việc duy trì văn hóa và phong tục tập quán địa phương Việc xác định và ghi chép tri thức này sẽ giúp bảo tồn di sản văn hóa quý giá và thúc đẩy nghiên cứu về dược liệu tự nhiên tại khu vực.

Kết quả thu được sẽ là cơ sở thực tiễn cho việc đề xuất các biện pháp bảo tồn và phát triển nguồn gen cây thuốc của các cộng đồng dân tộc tại xã Lê Lai, huyện Thạch An, tỉnh Cao Bằng.

TỔNG QUAN VẤN ĐỀ NGHIÊN CỨU

Cơ sở khoa học của vấn đề nghiên cứu

Nhiều dân tộc, đặc biệt là ở các nước nghèo, phụ thuộc vào cây thu hái hoang dại cho thực phẩm, vật liệu xây dựng, chất đốt, thuốc chữa bệnh và nhiều mục đích khác Hiện nay, tri thức bản địa về cách sử dụng thuốc từ thiên nhiên đang ngày càng phát triển tại một số quốc gia trên thế giới.

Tại Việt Nam, nguồn tài nguyên thực vật đang đối mặt với nguy cơ mai một do tăng dân số và sự cạnh tranh trong việc sử dụng đất cho canh tác và xây dựng Ngoài ra, kho tàng tri thức dân gian quý báu của các dân tộc thiểu số, đặc biệt là tri thức y học bản địa, cũng đang dần bị lãng quên Việt Nam sở hữu nhiều loại dược liệu quý hiếm và tri thức y học truyền thống phong phú, tạo nên một kho tàng giá trị cho việc phát triển y dược cổ truyền.

Theo Tổ chức Y tế Thế giới (WHO), 80% dân số ở các nước đang phát triển vẫn phụ thuộc vào thuốc thảo dược cho chăm sóc sức khỏe Tại Việt Nam, mỗi năm tiêu thụ khoảng 50-60 nghìn tấn dược liệu cho y học cổ truyền, ngành dược và xuất khẩu Việc bảo tồn cây thuốc dân tộc không chỉ là bảo tồn thực vật mà còn liên quan đến tri thức của dân tộc thiểu số; nếu tri thức này bị mất, cây thuốc sẽ trở thành hoang dại và không còn tác dụng Do đó, nghiên cứu về các loài cây thuốc là rất cần thiết để bảo tồn và phát triển nguồn dược liệu cho các thế hệ tương lai.

Tình hình nghiên cứu và sử dụng cây thuốc trong nước và trên Thế giới 5 1 Tình hình nghiên cứu trên Thế giới

2.2.1 Tình hình nghiên cứu trên Thế giới

Trong những năm gần đây, nghiên cứu về việc sử dụng cây thuốc của người dân bản địa đã thu hút sự quan tâm của các nhà khoa học trên toàn cầu Ở Châu Á, nơi có nhiều dân tộc bản địa, tri thức về việc sử dụng thực vật làm thuốc rất phong phú và đa dạng Nhiều nghiên cứu đã được thực hiện tại các cộng đồng và khu vực khác nhau, nhằm khám phá và bảo tồn những giá trị y học truyền thống này.

Nghiên cứu của Manju Panghal và cộng sự (2010) về kiến thức bản địa về cây thuốc ở cộng đồng Saperas tại làng Khetawas, quận Jhajjar, Haryana, Ấn Độ đã ghi nhận 57 loài thực vật thuộc 51 chi và 35 họ được sử dụng để điều trị nhiều loại bệnh Đặc biệt, cây thuốc phổ biến nhất trong cộng đồng Saperas là các loài thuộc họ Fabaceae.

Arshad Abbasi và cộng sự (2013) đã nghiên cứu về thực vật học và giá trị văn hóa của các loại rau ăn được hoang dã quan trọng trong y học tại Lesser dãy Hymalaya Họ đã ghi nhận 45 loại rau ăn được hoang dã thuộc 38 chi và 24 họ, được người dân địa phương sử dụng để điều trị nhiều loại bệnh và phục vụ cho nhu cầu tiêu thụ hàng ngày.

Mi-Jang Song và cộng sự (2013) đã tiến hành nghiên cứu về cây thuốc tại đảo Jeju, Hàn Quốc, phát hiện 171 loài thực vật thuộc 141 chi và 68 họ, cùng với 777 cách sử dụng các loài cây thuốc của người dân địa phương được ghi nhận.

Nghiên cứu của Auemporn Junsongduang và các cộng sự (2013) về cây thuốc từ nương rẫy và rừng thiêng của dân tộc Karen và Lawa ở Thái Lan đã phát hiện 365 loài thực vật thuộc 244 chi và 82 họ được sử dụng làm thuốc Trong số đó, các loài cây thuộc họ Euphorbiaceae và Lauraceae là được người dân sử dụng phổ biến nhất.

Mi-Jang Song và cộng sự (2014) đã tiến hành nghiên cứu và phân tích các kiến thức truyền thống về cây thuốc của cư dân tại Vườn quốc gia Gayasan, Hàn Quốc Nghiên cứu này đã thống kê được 200 loài thực vật thuộc 168 chi khác nhau.

Các cư dân đã sử dụng 87 loại thảo dược để điều trị nhiều bệnh khác nhau, bao gồm rối loạn cơ xương, đau nhức, rối loạn hệ hô hấp, bệnh gan và các vết thương Châu Âu nổi bật với lịch sử y học dân gian phong phú, nơi tri thức dân gian được truyền lại qua các thế hệ thông qua ghi chép và truyền miệng suốt nhiều thế kỷ.

Trong những năm gần đây, nhiều nghiên cứu khoa học đã được thực hiện nhằm khám phá việc sử dụng các loài thực vật để điều trị các bệnh lý của người dân bản địa.

Nghiên cứu của Maria Leporatti và cộng sự (2007) về các công dụng của cây thuốc tại Alto Tirreno Cosentino, Calabria, miền Nam Ý đã xác định 52 loài thực vật thuộc 35 họ, được người dân sử dụng để điều trị các bệnh phổ biến như bệnh ngoài da, bệnh hô hấp, đau răng, sâu răng và đau thấp khớp.

Montse Parada và cộng sự (2009) đã tiến hành nghiên cứu thực vật dân tộc tại khu vực Alt Empordà, Catalonia, bán đảo Iberia, phát hiện ra 518 loài thực vật thuộc 335 chi và 80 họ, được người dân sử dụng để điều trị nhiều loại bệnh khác nhau.

Behxhet Mustafa và cộng sự (2012) đã tiến hành nghiên cứu về các loài thực vật thuốc tại dãy núi Alps Albania ở Kosovo, ghi nhận 98 loài thuộc 39 họ được người dân sử dụng để chữa trị nhiều loại bệnh Trong số đó, các loài thực vật phổ biến nhất chủ yếu thuộc các họ Rosaceae, Asteraceae và Lamiaceae Tương tự, nghiên cứu về việc sử dụng cây thuốc của người dân bản địa cũng đã được thực hiện ở Châu Mỹ.

Nghiên cứu của Rainer W Bussmann và Douglas Sharon (2006) về việc sử dụng cây thuốc cổ truyền ở miền Bắc Peru đã phát hiện 510 loài thực vật được người dân địa phương sử dụng để điều trị bệnh Các họ thực vật được sử dụng phổ biến nhất bao gồm Asteraceae, Fabaceae, Lamiaceae, Solanaceae, Euphorbiaceae và Poaceae.

Nghiên cứu của Cecilia Almeida và cộng sự (2006) về các cây thuốc phổ biến tại khu vực Xingo, Đông Bắc Brazil, đã phát hiện 187 loài thực vật thuộc 128 chi và 64 họ, được người dân sử dụng để điều trị nhiều bệnh như cảm lạnh thông thường, viêm phế quản, bệnh tim mạch, bệnh thận, viêm và an thần.

Gabriele Volpato và cs (2009) kết quả nghiên cứu sử dụng cây thuốc của người nhập cư Haiti và con cháu của họ ở tỉnh Camaguey, Cuba đã chỉ ra

123 loài thực vật thuộc 112 chi và 63 họ được người nhập cư Haiti sử dụng để điều trị các bệnh khác nhau [51].

Trong nghiên cứu của Gaia Luziatelli và các cộng sự (2010) về cây thuốc của cộng đồng Ashaninka tại Bajo Quimiriki, Junin, Peru, đã phát hiện 402 loài thực vật được sử dụng để điều trị bệnh Các loài cây này chủ yếu thuộc các họ Asteraceae, Araceae, Rubiaceae, Euphorbiaceae, Solanaceae và Piperaceae.

Nghiên cứu của Yadav Uprety và cộng sự (2012) về cây thuốc trong rừng phương Bắc Canada đã phát hiện và thống kê 546 loài cây thuốc được người thổ dân sử dụng để điều trị 28 bệnh và triệu chứng khác nhau Trong số đó, các loại cây thuốc chủ yếu được dùng để chữa các rối loạn liên quan đến dạ dày – ruột và cơ xương.

Theo nghiên cứu “Thực vật dân tộc của người dân Rayones, Nuevo León,Mexico” năm 2014, đã ghi nhận 252 loài thực vật thuộc 228 chi và 91 họ được

8 người dân Rayones sử dụng để điều trị các bệnh, trong đó các họ được sử dụng chủ yếu là: Asteraceae và Fabaceae (Eduardo Estrada-Castillón và cs., 2014) [50].

Tổng quan khu vực nghiên cứu

2.3.1 Điều kiện tự nhiên khu vực nghiên cứu

Xã Lê Lai thuộc huyện Thạch An, tỉnh Cao Bằng, nằm ở phía Bắc huyện Thạch An và cách trung tâm huyện khoảng 2 km Địa giới hành chính của xã được xác định rõ ràng.

+ Phía Đông giáp xã Thụy Hùng, xã Danh Sỹ

+ Phía Tây giáp xã Trọng Con, xã Thái Cường

+ Phía Nam giáp xã thị trấn Đông Khê, xã Đức Xuân

+ Phía Bắc giáp xã Vân Trình, xã Thị Ngân

- Diện tích tự nhiên: 3238,51 ha

Xã Lê Lai có vị trí địa lý thuận lợi, nằm gần trung tâm huyện Đông Khê Nơi đây có hai tuyến quốc lộ 4A cũ và 4A mới chạy qua, cùng với tỉnh lộ 208 kết nối huyện Thạch An và huyện Phục Hòa, tạo điều kiện thuận lợi cho giao thông và phát triển kinh tế.

Đường 209 kết nối huyện Thạch An với Cửa Khẩu xã Đức Long, tạo điều kiện thuận lợi cho giao thông giữa các xã lân cận Sự phát triển này không chỉ thúc đẩy giao lưu kinh tế - xã hội mà còn giúp người dân học hỏi và tiếp thu các ứng dụng khoa học kỹ thuật phục vụ cho sản xuất và đời sống.

Địa hình xã Lê Lai phức tạp với sự chia cắt của các dãy núi đá vôi và núi đất xen kẽ, tạo nên những thung lũng đất đai màu mỡ thích hợp cho nông nghiệp Tuy nhiên, do địa hình không bằng phẳng, việc tổ chức sản xuất, tưới tiêu và giao thông tại đây gặp nhiều khó khăn.

Theo báo cáo thống kê đất đai tính đến ngày 31/12/2019 của UBND xã

Lê Lai, huyện Thạch An, tỉnh Cao Bằng [40] đã thống kê được như sau:

Tổng diện tích tự nhiên: 3238,51 ha

Diện tích đất nông nghiệp: 2913,3757ha

Diện tích đất phi nông nghiệp: 207,4943ha

Diện tích đất chưa sử dụng: 117,64ha

Xã Lê Lai nằm trong vùng khí hậu nhiệt đới gió mùa, với thời tiết nóng ẩm và mưa nhiều Năm được chia thành hai mùa rõ rệt: mùa mưa từ tháng 5 đến tháng 10, với lượng mưa chiếm 80% tổng lượng mưa cả năm Trong mùa mưa, có thể xảy ra những trận mưa rào lớn.

Khu vực này chịu ảnh hưởng của gió bão từ 2 đến 4 ngày, với mùa khô kéo dài từ tháng 11 đến tháng 4 năm sau, trong thời gian này, lượng mưa ít và có thể xảy ra hanh khô kéo dài từ 15 đến 25 ngày, gây khô cạn cho nhiều diện tích canh tác, ao, hồ Nhiệt độ trung bình hàng năm là 23,4°C, trong đó tháng 7 có nhiệt độ cao nhất đạt 28,9°C, và tháng 1 có nhiệt độ thấp nhất là 15,8°C, với sự chênh lệch giữa tháng cao nhất và tháng thấp nhất là 13,1°C Tổng số giờ nắng trong năm dao động từ 1.530 đến 1.776 giờ, tháng 7 có nhiều giờ nắng nhất, trong khi tháng 1 có ít giờ nắng nhất Lượng mưa hàng năm dao động từ 1.400 đến 1.500 mm, chủ yếu tập trung vào các tháng 6, 7, và 8, với lượng mưa lớn nhất có thể lên tới 2.000 mm, dẫn đến hiện tượng ngập úng trong một số năm.

Xã hiện có hai hồ chứa nước là hồ Nà Danh và hồ Khuổi Vàng, cùng với hai đập chắn nước tại xóm Nà Cốc và xóm Nà Vàng, cùng một số tuyến kênh mương để điều chỉnh nước phục vụ tưới tiêu cho đồng ruộng Tuy nhiên, do địa hình phức tạp, hệ thống tưới tiêu này chưa phát huy hiệu quả tối đa, chỉ cung cấp một phần nhỏ cho sản xuất nông nghiệp.

2.3.2 Điều kiện kinh tế - xã hội khu vực nghiên cứu

Xã Lê Lai có 14 xóm với tổng số hộ là 759 hộ, tổng số nhân khẩu là 2.950 người, nhân khẩu lao động là 1.322 người (lao động nam là 793, nữ là

529) trong đó lao động nông nghiệp có 1.256 người chiếm 95% tổng lao động toàn xã Tỷ lệ tăng dân số trung bình là 1%.

Lao động đã qua đào tạo 238 người (chiếm 18% tổng số lao động), trong đó lao động nông nghiệp là 1071 người chiếm 81%, lao động phi nông nghiệp là 26 người (chiếm 0,02%).

Trên địa bàn xã, có bốn dân tộc anh em sinh sống, trong đó dân tộc Nùng chiếm tỷ lệ cao nhất với 1.443 người (49,66%), tiếp theo là dân tộc Tày với 1.347 người (46,35%), dân tộc Dao có 94 người (3%), và dân tộc Kinh chỉ có 22 người (0,76%).

PHẦN 3 ĐỐI TƯỢNG, NỘI DUNG VÀ PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU

Đối tượng, phạm vi thời gian và địa điểm nghiên cứu

Các cộng đồng dân tộc thiểu số tại xã Lê Lai, huyện Thạch An, tỉnh Cao Bằng, đã sử dụng nhiều loài thực vật để làm thuốc chữa bệnh Kinh nghiệm sử dụng cây thuốc của họ đóng vai trò quan trọng trong việc bảo tồn và phát huy giá trị y học truyền thống của địa phương.

- Địa điểm nghiên cứu: Công tác điều tra thực địa được tiến hành tại xã

Lê Lai, huyện Thạch An, tỉnh Cao Bằng.

- Thời gian nghiên cứu: Từ tháng 1 đến tháng 5/2020

- Nghiên cứu tri thức về kinh nghiệm sử dụng nguồn tài nguyên cây thuốc của các cộng đồng dân tộc thiểu số gồm: dân tộc Nùng, Tày và Dao.

Nội dung nghiên cứu

* Đánh giá đa dạng nguồn tài nguyên cây thuốc được sử dụng trong các cộng đồng dân tộc tại xã Lê Lai, huyện Thạch an, tỉnh Cao Bằng:

- Đánh giá đa dạng các bậc taxon của nguồn tài nguyên cây thuốc: đa dạng bậc họ; đa dạng bậc chi.

- Đánh giá đa dạng về dạng sống của thực vật làm thuốc.

- Đánh giá về môi trường sống của thực vật làm thuốc.

* Xác định những cây thuốc thuộc diện cần bảo tồn: Đánh giá ở mức độ quý hiếm của các loài cây thuốc ở khu vực nghiên cứu.

* Vốn tri thức bản địa trong việc sử dụng cây thuốc của các cộng đồng dân tộc thiểu số ở xã Lê Lai, huyện Thạch An, tỉnh Cao Bằng.

- Kinh nghiệm sử dụng bộ phận làm thuốc của cộng đồng dân tộc thiểu số ở xã Lê Lai.

- Kinh nghiệm về nhóm bệnh chữa trị của cộng đồng dân tộc thiểu số ở xã Lê Lai.

- Ảnh hưởng của sự giao thoa giữa các dân tộc đến vốn tri thức bản địa trong việc sử dụng cây thuốc.

- Vấn đề truyền thụ kiến thức về cây thuốc trong cộng đồng dân tộc thiểu số ở xã Lê Lai.

Nghiên cứu này đánh giá hoạt tính kháng khuẩn của một số loài cây thuốc quý được sử dụng bởi các cộng đồng dân tộc thiểu số tại xã Lê Lai Các loài cây này không chỉ mang giá trị y học mà còn thể hiện tiềm năng trong việc phát triển các sản phẩm kháng khuẩn tự nhiên Kết quả nghiên cứu sẽ góp phần nâng cao nhận thức về việc bảo tồn và phát huy giá trị của các cây thuốc truyền thống trong việc chăm sóc sức khỏe cộng đồng.

Phương pháp nghiên cứu

Đề tài được triển khai tại xã Lê Lai, huyện Thạch An, tỉnh Cao Bằng, nhằm đạt được các kết quả liên quan đến nội dung nghiên cứu Các phương pháp và giải pháp thực hiện ý tưởng sẽ được áp dụng để đảm bảo hiệu quả và tính khả thi của dự án.

Kế thừa các tài liệu về điều kiện tự nhiên và kinh tế - xã hội trong khu vực nghiên cứu là rất quan trọng Những tài liệu này cung cấp nền tảng vững chắc cho việc phân tích và đánh giá các vấn đề liên quan đến nghiên cứu Việc tham khảo các tài liệu nghiên cứu liên quan cũng giúp làm phong phú thêm thông tin và đảm bảo tính chính xác của các kết quả nghiên cứu.

- Kế thừa kinh nghiệm sử dụng cây thuốc của các ông lang, bà mế người dân tộc ở khu vực nghiên cứu.

3.3.2 Phương pháp điều tra cộng đồng

Trong khu vực nghiên cứu, chúng tôi tiến hành điều tra phỏng vấn các ông lang, bà mế và người dân có kinh nghiệm trong việc sử dụng cây thuốc cũng như các bài thuốc gia truyền của các cộng đồng dân tộc Mẫu phiếu điều tra được xây dựng dựa trên phiếu điều tra cây thuốc trong cộng đồng và phiếu điều tra bài thuốc dân gian do Viện Dược liệu phát triển vào năm 1993.

Để thu thập thông tin về cây thuốc, cần ghi chép đầy đủ các yếu tố như tên phổ thông và tên địa phương, số hiệu mẫu hoặc ảnh cây thuốc, dạng sống và môi trường sống của cây Ngoài ra, cần xác định bộ phận sử dụng làm thuốc, bao gồm thân, rễ, hoa, quả, hạt, nhựa hoặc vỏ, cùng với công dụng của chúng Đặc điểm dễ nhận biết của cây trong thiên nhiên cũng cần được ghi chú, kèm theo thời gian, địa điểm và người thu thập thông tin.

Để định danh tên cây, cần thực hiện theo các bước sau: (i) tiến hành định danh tại thực địa để quan sát trực tiếp; (ii) áp dụng kiến thức và kinh nghiệm từ các chuyên gia, đồng thời tham khảo các tài liệu tin cậy đã được công bố để xác minh thông tin.

Bước đầu tiên trong quá trình điều tra là xác định tên địa phương và tên thường gọi của các loài Đối với những loài chưa xác định rõ, cần chú thích để kiểm tra lại sau Đối với các loài không biết tên, cần thu thập mẫu (lá, hoa, quả ) và ghi chú vào biểu điều tra bằng ký hiệu sp1, sp2 để phục vụ cho việc giám định sau này.

Bước 2: Tất cả các cây sẽ được thẩm định lại tên gọi và lập danh mục cây thuốc dựa trên kiến thức chuyên môn của các chuyên gia thực vật cùng với tài liệu đáng tin cậy đã được công bố, bao gồm tác phẩm "Cây cỏ Việt Nam" của Phạm Hoàng Hộ.

Danh sách cây thuốc Việt Nam sẽ được cập nhật và hoàn thiện dựa trên các nguồn tài liệu uy tín, bao gồm Từ điển Cây thuốc Việt Nam của Võ Văn Chi (2012), Những cây thuốc và vị thuốc Việt Nam của Đỗ Tất Lợi (2005), và Danh lục các loài thực vật Việt Nam được biên soạn bởi Trung tâm NCTN&MT – Đại học Quốc gia Hà Nội và Viện ST&TNSV (2006).

Bảng 3.1 Mẫu bảng điều tra cây thuốc được các cộng đồng dân tộc ở khu

Thời gian điều tra: Địa điểm điều tra: vực nghiên cứu

Người điều tra: Địa chỉ điều tra:

3.3.3 Phương pháp thu thập mẫu Đối với loài cây chưa xác định được tên ở ngoài thực địa và loài cần giám định lại tên.

Trong quá trình thu mẫu ở thực địa, mỗi cây thuốc sẽ được thu từ 3 đến 10 mẫu Các mẫu này cần được gắn nhãn rõ ràng với thông tin về ký hiệu mẫu, địa điểm, thời gian thu và tên người thu mẫu Các mẫu từ cùng một cây sẽ được đánh số với cùng một số hiệu mẫu để đảm bảo tính nhất quán.

Dụng cụ thu mẫu bao gồm bản gỗ ép mẫu, túi đựng mẫu, bao tải dứa, kéo cắt cây, giấy báo, dây buộc, etyket, bút chữ A, sổ ghi chép và máy ảnh (Nguyễn Nghĩa Thìn, 1997) [34].

Hình 3.1 Các dụng cụ sử dụng cho nghiên cứu trong đề tài

3.3.4 Phương pháp đánh giá tính đa dạng nguồn tài nguyên cây thuốc Đánh giá tính đa dạng nguồn tài nguyên cây thuốc của các cộng đồng dân tộc ở xã Lê Lai, huyện Thạch An, tỉnh Cao Bằng, đề tài sử dụng phương pháp đánh giá của Nguyễn Nghĩa Thìn (1997) [34]:

- Đa dạng về bậc phân loại: ngành, lớp, họ, chi, loài.

- Đa dạng về dạng sống: kí sinh, dây leo, gỗ trung bình, gỗ nhỏ, thảo, bụi.

- Đa dạng về môi trường sống: rừng, đồi, vườn, ven suối hoặc nơi ẩm ướt.

- Đa dạng về bộ phận sử dụng làm thuốc: thân, rễ, lá, hoa, quả, hạt, nhựa, cả cây.

- Đa dạng về cách chế biến cây thuốc: khô và tươi.

- Đa dạng về các nhóm bệnh chữa trị: bệnh về khớp, tim, dạ dày, gan, giải độc, xương,…

3.3.5 Phương pháp đánh giá mức độ nguy cấp Đánh giá mức độ nguy cấp của các loài cây thuốc, xác định những cây thuốc thuộc diện bảo tồn ở khu vực nghiên cứu theo: Sách đỏ Việt Nam, phần thực vật rừng (Bộ KH&CN, 2007) [3], Nghị định 06/2019/NĐ-CP (Chính phủ nước Việt Nam, 2019) [10], Danh sách đỏ cây thuốc Việt Nam trong Cẩm nang cây thuốc cần được bảo vệ ở Việt Nam (Nguyễn Tập, 2007) [31].

3.3.6 Phương pháp nghiên cứu hoạt tính kháng khuẩn

- Bước 1: Chuẩn bị nguyên liệu

Nguyên liệu lá, thân, rễ cây thuốc sau khi thu hái được rửa sạch, để ráo nước sau đó đem sấy khô ở 90 0 C đến khối lượng không đổi.

Nguyên liệu sau khi sấy khô cần được nghiền mịn bằng máy xay đa năng nhỏ, sau đó bảo quản ở nơi khô ráo để sử dụng cho các nghiên cứu tiếp theo.

Nguyên liệu được chiết xuất bằng phương pháp ngâm nóng, với tỷ lệ 10 g nguyên liệu dạng bột khô trên 100 ml dung môi methanol Quá trình chiết diễn ra trong máy lắc với tần số 200 vòng/phút trong 24 giờ để đảm bảo các chất có hoạt tính sinh học hòa tan đều Sau khi lọc qua giấy lọc, 80 ml dịch lọc được cô đặc bằng máy cô quay hoặc sấy khô cho đến khi đạt khối lượng khô ổn định, sau đó được bảo quản ở 4°C để phục vụ cho các nghiên cứu về khả năng kháng khuẩn.

- Bước 3: Chuẩn bị giống vi khuẩn

Sử dụng hai chủng vi khuẩn, bao gồm Staphylococcus aureus (gram dương) và Escherichia coli (gram âm), được lấy từ phòng thí nghiệm Vi sinh - Trường Đại học Khoa học Thái Nguyên Các vi sinh vật này được bảo quản trên môi trường thạch nghiêng, sau khi được hoạt hóa trong môi trường LB, chúng được cấy chuyển sang môi trường thạch nghiêng và nuôi trong 24 giờ ở nhiệt độ 37 độ C Cuối cùng, chúng được giữ trong tủ lạnh để phục vụ cho các nghiên cứu tiếp theo.

- Bước 4: Thử khả năng kháng khuẩn

KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU VÀ THẢO LUẬN

Đa dạng nguồn tài nguyên cây thuốc được sử dụng trong cộng đồng các dân tộc thiểu số ở xã Lê Lai, huyện Thạch An, tỉnh Cao Bằng

4.1.1 Đa dạng về các bậc Taxon

Nghiên cứu cây thuốc tại xã Lê Lai, dựa trên kinh nghiệm của cộng đồng các dân tộc Nùng, Tày và Dao, đã xác định được 107 loài thực vật bậc cao có mạch thuộc 102 chi và 70 họ được sử dụng làm thuốc Kết quả chi tiết được trình bày trong Bảng 4.1.

Bảng 4.1 Phân bố các ngành thực vật làm thuốc ở xã Lê Lai, huyện Thạch An

Dựa trên dữ liệu, các loài cây thuốc được người dân tộc Nùng, Tày, Dao tại xã Lê Lai, huyện Thạch sử dụng chủ yếu dựa vào kinh nghiệm truyền thống của cộng đồng.

Ngành Ngọc lan (Magnoliophyta) là ngành thực vật đa dạng nhất, với 100 loài, chiếm 93,46% tổng số loài, 95 chi (93,14%) và 64 họ (91,43%) Tiếp theo là ngành Dương xỉ (Pteridophyta) với 6 loài (5,61%), 6 chi (5,88%) và 5 họ (7,14%) Ngành Dây gắm (Gnetophyta) có sự hiện diện thấp nhất với chỉ 1 loài, 1 chi và 1 họ, cho thấy sự phân bố không đồng đều trong các ngành thực vật.

Bảng 4.2 Số lượng họ, chi, loài thuộc 2 lớp trong ngành Ngọc lan

Tỉ lệ lớp Ngọc lan/lớp Hành

Kết quả nghiên cứu cho thấy lớp Ngọc lan (Magnoliopsida) chiếm ưu thế với 51 họ, tương đương 79,69% tổng số họ trong ngành Ngọc lan (Magnoliophyta) Trong đó, số chi là 80, chiếm 84,21%, và tổng số loài là 84, tương ứng 84% Một số loài tiêu biểu thuộc lớp Ngọc lan bao gồm Sói rừng - Sarcandra glabra (Thunb.) Nakai, được sử dụng trong điều trị viêm khớp; Xạ đen - Celastrus hindsii Benth, được dân tộc Nùng dùng để chữa ung thư gan; Tơ hồng vàng - Cuscuta chinensis Lamk, hỗ trợ điều trị tiểu đường; và Giảo cổ lam - Gynostemma pentaphyllum (Thunb.) Makino, được biết đến như một loại thuốc bổ giúp điều trị huyết áp và thận.

Lớp Hành (Liliopsida) bao gồm 16 loài, 15 chi và 13 họ, với một số loài tiêu biểu như Bách bộ (Stemona tuberosa Lour), được sử dụng để điều trị rối loạn tiền đình và chứng rậm lông ở phụ nữ Bảy lá một hoa (Paris chinensis Franch) có tác dụng trong việc chữa rắn cắn và gãy xương Khúc khắc (Heterosmilax gaudichaudiana) được biết đến như một loại thuốc bổ, giúp mát tim, gan và điều trị ỉa chảy Lan kim tuyến (Anoectochilus setaceus Blume) không chỉ là thuốc điều trị bệnh máu trắng mà còn được dùng làm thuốc bổ.

Tỉ lệ giữa lớp Ngọc lan và lớp Hành là 3,92, cho thấy trung bình cứ 3 họ thuộc lớp Ngọc lan sẽ có 1 họ thuộc lớp Hành Tương tự, tỉ lệ các bậc chi và bậc loài lần lượt là 5,33 và 5,25, nghĩa là trung bình cứ 5 chi và 5 loài thuộc lớp Ngọc lan sẽ có 1 chi và 1 loài thuộc lớp Hành.

Sa nhân tím - Amomum longiligulare T L Wu

Mật gấu – VernoniaXạ đen - Celastrus hindsii Benth amygdalina Del.

4.1.1.2 Số lượng phâns bố các loài cây trong từng họ.

Khu vực nghiên cứu đã ghi nhận tổng cộng 70 họ cây thuốc, với sự phân bố số lượng các loài cây thuốc trong từng họ được trình bày chi tiết trong Bảng 4.3.

Bảng 4.3 Sự phân bố số lượng loài cây thuốc trong các họ

Tỷ lệ số họ/ Tổng số họ (%)

Tỷ lệ số loài/ Tổng số loài (%)

(Nguồn số liệu được tổng hợp từ bảng Phụ lục 3)

7,48% so với tổng số loài Có 1 họ có 6 loài là họ Moraceae (họ Dâu tằm) thuộc

Trong ngành Ngọc lan, có 27 lớp Hai lá mầm, chiếm 1,43% tổng số họ và 5,61% tổng số loài Họ Euphorbiaceae (họ Thầu dầu) là họ duy nhất có 4 loài, cũng chiếm 1,43% tổng số họ và 3,74% tổng số loài Bên cạnh đó, có 5 họ khác với 3 loài, trong đó họ Smilacaceae (họ Khúc khắc) thuộc lớp Một lá mầm, còn lại các họ Araliaceae (họ Ngũ gia bì), Rutaceae (họ Cam), Polygonaceae (họ Rau răm) và Menispermaceae (họ Tiết dê) thuộc lớp Hai lá mầm, chiếm 7,14% tổng số họ và 14,02% tổng số loài Ngoài ra, có 13 họ có 2 loài, trong đó 1 họ Zingiberaceae (họ Nghệ) thuộc lớp Một lá mầm và 1 họ thuộc lớp Dương xỉ (Polypodiopsida) trong ngành Dương xỉ (Pteridophyta), còn lại tập trung ở lớp Hai lá mầm, chiếm 17,14% tổng số họ và 22,43% tổng số loài điều tra.

Trong số các họ thực vật, có 50 họ cây thuốc chiếm tỷ lệ 71,43% tổng số họ và 46,73% tổng số loài Đặc biệt, các họ này chủ yếu thuộc lớp Hai la mầm của ngành Ngọc lan, cho thấy sự đa dạng phong phú trong hệ thực vật.

Kết quả đánh giá cho thấy có 8 họ cây thuốc đa dạng nhất, được sử dụng dựa trên kinh nghiệm của cộng đồng các dân tộc thiểu số Nùng, Tày và Dao tại xã Lê Lai, huyện Thạch An, như được trình bày trong Bảng 4.4.

Các họ đa dạng nhất ở khu vực nghiên cứu bao gồm: họ Cúc (Asteraceae) có

Họ Dâu tằm (Moraceae) bao gồm 2 chi và 6 loài, trong khi họ Thầu dầu (Euphorbiaceae) có 4 chi và 4 loài Các họ Ngũ gia bì (Araliaceae), Cam (Rutaceae), Rau răm (Polygonaceae) và Tiết dê (Menispermaceae) đều có 3 chi và 3 loài, còn họ Khúc khắc (Smilacaceae) có 3 loài và 2 chi.

Bảng 4.4 Các họ đa dạng nhất ở khu vực nghiên cứu

Trong 8 họ giàu loài được xác định ở xã Lê Lai thì phần lớn cũng được gặp ở các họ giàu loài của hệ thực vật Việt Nam Các họ cây thuốc giàu loài tại khu vực nghiên cứu có 2 họ nằm trong 10 họ đa dạng nhất của hệ thực vật Việt Nam là: họ Cúc (Asteraceae), họ Thầu dầu (Euphorbiaceae); 6 họ còn lại không nằm trong 10 họ lớn nhất ở Việt nam đó là họ Cam, họ Tiết dê, họ Râu răm, ho Ngũ gia bì, họ Khúc khắc, họ Dâu tằm Điều này chứng minh rằng nguồn cây thuốc ở xã Lê Lai tuy phong phú nhưng vẫn có nét khác biệt so với tính đa dạng chung của hệ thực vật Việt Nam.

Kết quả so sánh các họ giàu loài của nguồn cây thuốc tại xã Lê Lai với họ giàu loài của hệ thực vật Việt Nam được trình bày trong Bảng 4.5 (Nguyễn Nghĩa Thìn, 2005).

Bảng 4.5 So sánh các họ giầu loài ở KVNC (1) với số loài của từng họ trong hệ thực vật Việt Nam (2).

7 Araliaceae - Họ ngũ gia bì

Theo Danh lục các loài thực vật Việt Nam (Trung tâm NCTN&MT – Đại học Quốc gia Hà Nội và Viện ST&TNSV, 2006), số lượng loài cây thuốc thuộc các họ trong khu vực phía Bắc Việt Nam có ý nghĩa quan trọng trong việc nghiên cứu và bảo tồn nguồn tài nguyên thiên nhiên.

Từ Bảng kết quả cho thấy, họ Cúc – Asteraceae của nguồn cây thuốc ở xã

Xã Lê Lai có sự đa dạng sinh học phong phú với 8 loài thuộc họ Cúc, chiếm 2,105% tổng số loài trong họ này của hệ thực vật Việt Nam Họ Dâu tằm - Moraceae có 6 loài, tương đương 3,352% tổng số loài trong họ, trong khi họ Thầu dầu – Euphorbiaceae có 4 loài, chiếm 0,839% Ngoài ra, họ Cam có 3 loài, chiếm 2,344% tổng số loài trong họ Cam Những số liệu này cho thấy Lê Lai là môi trường thuận lợi cho sự phát triển của các loài thuộc các họ thực vật này, đồng thời mở ra khả năng phát hiện thêm nhiều loài cây thuốc mới trong tương lai.

4.1.2 Đa dạng về dạng sống của nguồn tài nguyên cây thuốc

30 con nơi đây sử dụng làm thuốc với sự đa dạng về các dạng sống khác nhau. Kết quả được thể hiện ở Bảng 4.6 dưới đây:

Bảng 4.6 Đa dạng về dạng sống của nguồn cây thuốc ở KVNC

7 Ký sinh và bán ký sinh

Những cây thuốc thuộc diện cần bảo tồn ở Việt Nam đã ghi nhận được ở khu vực nghiên cứu

Dựa trên các tài liệu bảo tồn như Sách đỏ Việt Nam - Phần II Thực vật (2007), Danh lục đỏ cây thuốc Việt Nam trong “Cẩm nang cây thuốc cần bảo vệ ở Việt Nam” của Nguyễn Tập (2007) và Nghị định số 06/2019/NĐ-CP, việc bảo vệ các loài thực vật quý hiếm và cây thuốc ở Việt Nam trở nên cấp thiết.

Chính phủ ngày 22 tháng 01 năm 2019, tôi tiến hành xác định các loài cây thuốc thuộc diện cần bảo tồn và kết quả được thể hiện Bảng 4.8 như sau:

Bảng 4.8 Danh lục cây thuốc thuộc diện cần bảo tồn ghi nhận ở xã Lê

Lai, huyện Thạch An, tỉnh Cao Bằng

2 Tắc kè đá - Drynaria bonii

3 Cẩu tích - Cibotium barometz Đảng sâm - Codonopsis

5 Bình vôi - Stephania rotunda Lour

Smith Hoàng tinh hoa trắng -

8 Bảy lá một hoa - Paris chinensis Franch

Chú thích: SĐVN: Sách đỏ Việt Nam; NĐ 06/2019/NĐ-CP: Nghị định 06 của Chính phủ; DLĐCTVN: Danh lục đỏ cây thuốc Việt Nam 2006; VU: Sắp nguy cấp –

Vulnerable; EN: Nguy cấp - Endangered; IA: Nghiêm cấm khai thác, sử dụng vì mục đích thương mại; IIA: Hạn chế khai thác, sử dụng vì mục đích thương mại

Theo bảng kết quả, có 11 loài cây thuốc cần được bảo tồn, chiếm 10,28% tổng số loài đã được điều tra, thuộc 12 họ khác nhau.

12 chi được cộng đồng dân Nùng, Tày và Dao ở xã Lê Lai, huyện Thạch An, tỉnh Cao Bằng sử dụng chữa bệnh Cụ thể:

Số loài có tên trong Nghị định số 06/2019/NĐ-CP là 8 loài, trong đó có

1 loài ở mức IA - Nghiêm cấm khai thác sử dụng đó là loài Lan kim tuyến -

Anoectochilus setaceus Blume là một loại thảo dược được cộng đồng dân tộc Nùng ở KVNC sử dụng để điều trị bệnh tim và bệnh máu trắng Ngoài ra, trong danh sách các loài thực vật ở mức IIA - Hạn chế khai thác, có 7 loài đáng chú ý như: Tắc kè đá (Drynaria bonii Christ), Cẩu tích (Cibotium barometz), Bình vôi (Stephania rotunda Lour) và Na rừng (Kadsura coccinea).

Lem A C Smith và Hoàng tinh hoa trắng (Disporopsis longifolia Craib) cùng với Bảy lá một hoa (Paris chinensis Franch) chiếm 58,33% tổng số loài cần bảo tồn đã được phát hiện tại khu vực Vườn Quốc gia Cúc Phương.

Theo Sách đỏ Việt Nam (2007), có 6 loài cây thuốc được ghi nhận, trong đó 2 loài đang ở mức độ nguy cấp (EN), chiếm 16,67% tổng số loài cần bảo tồn Một trong những loài này là Lan kim tuyến.

Anoectochilus setaceus Blume và Giảo cổ lam - Gynostemma pentaphyllum

Trong khu vực núi cao, có 4 loài cây thuốc thuộc diện cần bảo tồn đang ở mức độ sắp nguy cấp (VU), chiếm 33,33% tổng số loài đã được phát hiện Các loài này bao gồm Tắc kè đá (Drynaria bonii Christ), Đảng sâm (Codonopsis javanica (Blume) Hook f & Thoms), Khôi tía (Ardisia silvestris Pitard) và Hà thổ ô đỏ.

Theo Danh lục đỏ cây thuốc Việt Nam (2006), có tổng cộng 5 loài cây thuốc cần bảo tồn, trong đó 3 loài được xếp vào mức độ nguy cấp (EN), chiếm 25% tổng số loài Ngoài ra, còn có 2 loài thuộc mức độ đang nguy cấp (VU), trong đó có Giảo cổ lam.

Gynostemma pentaphyllum (Thunb.) Makino và Tắc kè đá - Drynaria bonii

Ngoài ra, trong số 11 loài cây thuốc này có 2 loài là: Tắc kè đá -

Drynaria bonii Christ; Đảng sâm - Codonopsis javanica (Blume) Hook f &

Thoms được ghi nhận trong Nghị định số 06/2019/NĐ-CP của Chính phủ, Sách đỏ Việt Nam (2007) và Danh lục đỏ cây thuốc Việt Nam (2006) Do đó, việc áp dụng các biện pháp hợp lý để sử dụng và khai thác các loài cây thuốc này là cần thiết, nhằm phục vụ cho công tác chữa bệnh lâu dài cho cộng đồng dân tộc thiểu số trong khu vực nghiên cứu cũng như cho toàn bộ Việt Nam.

Vốn tri thức trong việc sử dụng cây thuốc của cộng đồng dân tộc thiểu số ở xã Lê Lai, huyện Thạch An, tỉnh Cao Bằng

4.3.1 Kinh nghiệm sử dụng bộ phận làm thuốc của cộng đồng dân tộc thiểu số ở xã Lê Lai

Nghiên cứu về các bộ phận sử dụng của cây thuốc không chỉ làm nổi bật tính đa dạng trong khả năng chữa bệnh của chúng mà còn có ý nghĩa quan trọng trong công tác bảo tồn Việc tìm hiểu các bộ phận này giúp đánh giá tính bền vững trong việc khai thác và sử dụng tài nguyên cây thuốc trong cộng đồng dân tộc thiểu số Kết quả thống kê về các bộ phận dùng làm thuốc theo kinh nghiệm của dân tộc Nùng, Tày và Dao ở xã Lê Lai, huyện Thạch An, tỉnh Cao Bằng được trình bày chi tiết trong Bảng 4.9.

Kết quả thống kê cho thấy ba cộng đồng dân tộc Nùng, Tày và Dao sử dụng đa dạng bộ phận cây thuốc, với 9 bộ phận được ghi nhận Trong số đó, bộ phận cả cây, lá, củ và rễ được sử dụng nhiều hơn so với các bộ phận khác.

Bộ phận sử dụng cả cây là phần được 3 dân tộc sử dụng phổ biến nhất, trong đó dân tộc Nùng chiếm ưu thế với 30/62 loài, tương đương 48,39% tổng số loài được khảo sát từ dân tộc này.

Cộng đồng dân tộc Tày và Nùng sử dụng 14/32 (43,75%) và 14/30 (46,67%) loài cây trong số các loài được điều tra Trong số đó, cây Si (Ficus benjamina L.) được dân tộc Nùng sử dụng để ngâm rượu xoa bóp và làm thuốc bổ, trong khi dân tộc Dao dùng để điều trị bệnh xương khớp Cây Quế (Cinnamomum bejolghota) được dân tộc Tày sử dụng để hỗ trợ lưu thông huyết mạch Ngoài ra, cây Bòn bọt (Glochidion eriocarpum) được dân tộc Dao sử dụng để điều trị lợi tiểu.

Dân tộc Nùng sử dụng bộ phận lá với số lượng cao nhất, chiếm 32,26% trong tổng số 62 loài được khảo sát, trong khi dân tộc Tày và Dao có tỷ lệ thấp hơn, lần lượt là 34,38% và 16,67% Một số loài tiêu biểu trong nhóm này bao gồm Cốt khí củ (Reynoutria japonica Houtt), được sử dụng để điều trị xương khớp và ngâm rượu; Sữa (Alstonia scholaris) cũng được dân tộc Nùng dùng để điều trị các bệnh liên quan đến xương khớp.

Cộng đồng dân tộc Nùng sử dụng cây Chromolaena odorata (l.) r.m king & h.rob để cầm máu, trong khi cây Đơn buốt - Bidens pilosa L được dùng để điều trị đau răng.

Cộng đồng dân tộc Nùng đã sử dụng 12/62 loài củ, chiếm 19,35%, trong khi cộng đồng Tày và Dao sử dụng lần lượt 4/32 loài và 3/30 loài, tương ứng với 12,50% và 10% Một số loài tiêu biểu trong nhóm này bao gồm Thạch vĩ (Pyrrhosia lingua) được người Nùng dùng làm thuốc bổ thận và Tắc kè đá (Drynaria bonii), cũng được biết đến và sử dụng bởi cộng đồng dân tộc Nùng.

Người Tày sử dụng cây thuốc để điều trị các bệnh nhức xương khớp ở đầu gối và lưng, đồng thời cũng áp dụng để chữa trị chấn thương Cốt cắn là một trong những vị thuốc quan trọng trong phương pháp điều trị này.

Nephrolepis cordifolia (L.) Presl., hay còn gọi là cốt cắn, được cộng đồng dân tộc Tày sử dụng để điều trị huyết áp Ngoài ra, cộng đồng dân tộc Dao còn sử dụng loại cây này để chữa trị các vết cắn của rắn và rết.

Cộng đồng dân tộc Nùng đã sử dụng 11 trong số 62 loài cây thuốc, chiếm 17,74% tổng số loài được điều tra, trong khi cộng đồng dân tộc Tày và Dao biết sử dụng lần lượt 3/32 và 8/30 loài, tương ứng với 9,38% và 26,67% Một số loài tiêu biểu được nhắc đến là Ngũ gia bì.

Acanthopanax lasiogyne Harms, hay còn gọi là Mảy tảng, được cộng đồng dân tộc Nùng sử dụng như một loại thuốc bồi bổ cơ thể Trong khi đó, Thôi ba (Alangium chinense) được cộng đồng dân tộc Dao áp dụng để điều trị tình trạng đái rát Màng tang cũng là một loại cây thuốc quý được biết đến trong y học cổ truyền của các dân tộc thiểu số.

Litsea cubeba (Lour.) Pers (1 Khẩu khinh) được cộng đồng dân tộc Nùng sử dụng để điều trị bệnh đau thần kinh tọa và rắn căn…

Bảng 4.9 Bộ phận sử dụng của cây thuốc theo kinh nghiệm sử dụng trong cộng đồng dân tộc ở KVNC

Chú thích: Tỷ lệ % trong bảng lớn hơn 100% do một số loài có thể sử dụng nhiều bộ phận khác nhau làm thuốc

Nghiên cứu cho thấy các bộ phận của cây thuốc được sử dụng bởi ba cộng đồng Tày, Nùng và Dao rất đa dạng, đặc biệt là kinh nghiệm của cộng đồng Nùng Tuy nhiên, việc sử dụng toàn bộ cây hoặc chỉ một phần như thân, rễ, hay củ có thể gây hại cho việc bảo tồn nguồn gen cây thuốc Do đó, cần phát triển các phương pháp trồng cây thuốc bền vững, sử dụng toàn bộ cây hoặc một phần cụ thể, nhằm bảo tồn và phát triển tài nguyên dược liệu tại khu vực nghiên cứu và trên toàn Việt Nam.

4.3.2 Kinh nghiệm về nhóm bệnh chữa trị của cộng đồng dân tộc thiểu số ở xã Lê Lai

Qua quá trình điều tra, tôi nhận thấy cộng đồng dân tộc Nùng, Tày và Dao sở hữu kiến thức phong phú về cây thuốc trong điều trị bệnh, với nhiều kinh nghiệm gia truyền cho từng nhóm bệnh khác nhau Kết quả này được thể hiện rõ trong Bảng 4.10 và Hình 4.1.

Bảng 4.10 Tỷ lệ số loài có công dụng chữa các nhóm bệnh cụ thể

Stt Nhóm bệnh cụ thể

1 Nhóm thuốc bổ (bổ gan, mát gan tim và thận, bổ máu, bổ tim )

Nhóm bệnh xương khớp, hệ vận

2 động (gẫy xương, đau xương khớp khủy tay, đau đầu gối, teo cơ…)

Nhóm bệnh đường tiêu hóa (đau

3 bụng, tiêu chảy, táo bón, kiết lỵ, đau bụng đi ngoài )

Nhóm bệnh đường tiết niệu (lợi

4 tiểu, sỏi thận, Sỏi thận bàng quang, tiểu đường…)

Stt Nhóm bệnh cụ thể

Nhóm bệnh ngoài da (ghẻ lở, hắc

5 lào lang beng, dị ứng, da khô, lở ngữa, bỏng )

Nhóm bệnh về thần kinh (rối loạn

6 tiền đình, thần kinh tọa, tê bì chân tay…)

7 Nhóm bệnh do động vật cắn(rắn cắn, rết cắn)

8 Nhóm bệnh về tim mạch (huyết áp cao, huyết áp thấp)

9 Nhóm bệnh đường hô hấp (ho gió, ho đờm, viêm họng, hen suyễn, )

Nhóm bệnh phụ nữ, sinh sản, sinh

10 dục, sinh lý (vô sinh, điều kinh, viêm phụ khoa )

11 Nhóm bệnh trẻ em (hen trẻ em, tắm cho trẻ bị ngứa dị ứng )

12 Nhóm bệnh về gan (giải độc gan, xơ gan cổ trướng, viêm gan.)

13 Nhóm bệnh về ung bướu (ung thư gan, bệnh máu trắng)

15 Nhóm bệnh về răng miệng (nhiệt miệng, đau răng)

16 Nhóm bệnh về ngộ độc (giải độc, giải độc rượu.)

Tổng số loài đã được phát hiện theo từng đối tượng là một yếu tố quan trọng trong nghiên cứu sinh học Lưu ý rằng tỷ lệ phần trăm trong bảng có thể vượt quá 100% do một số loài có khả năng điều trị nhiều nhóm bệnh khác nhau.

Hình 4.2 Tỷ lệ nhóm bệnh chữa trị từ nguồn cây thuốc theo kinh nghiệm sử dụng trong cộng đồng dân tộc Tày, Nùng, Dao tại xã Lê Lai

Bảng 4.10 cho thấy cộng đồng ba dân tộc Nùng, Tày và Dao sử dụng các loài cây thuốc để điều trị 16 nhóm bệnh khác nhau Cụ thể, người Nùng có khả năng sử dụng thuốc để điều trị 15 nhóm bệnh, người Tày 13 nhóm bệnh, và người Dao 12 nhóm bệnh, bao gồm cả những căn bệnh nan y như ung thư gan, bệnh tim mạch, thận, và gan.

Kết luận

Quá trình điều tra, nghiên cứu tri thức bản địa sử dụng cây thuốc tại xã

Lê Lai huyện Thạch An, tỉnh Cao Bằng, chúng tôi đã thu được những kết quả như sau:

Quá trình điều tra đã xác định được 107 loài thực vật bậc cao có mạch, thuộc 102 chi và 70 họ, trong đó ngành ngọc lan chiếm ưu thế với 100 loài từ 95 chi và 64 họ Tám họ thực vật có số loài phong phú nhất bao gồm họ cúc (Asteraceae) với 8 loài, họ Dâu tằm (Moraceae) có 6 loài, và họ thầu dầu (Euphorbiaceae) với 4 loài, trong khi bốn họ còn lại mỗi họ có 3 loài Hai chi có số loài nhiều nhất trong số 102 chi là chi Ficus và chi Smilax.

Nghiên cứu xác định 7 dạng sống khác nhau, trong đó dạng sống thân thảo chiếm ưu thế với 39 loài, tiếp theo là bụi với 26 loài, dây leo 22 loài, gỗ nhỏ và gỗ trung bình có 7 loài, gỗ lớn gồm 4 loài, và cuối cùng là kí sinh và bán kí sinh với 2 loài.

Môi trường sống chủ yếu của các loài cây thuốc được xác định như sau: có 79 loài phát triển trong rừng, 44 loài ở vườn làng xóm, 14 loài ven sông, và 9 loài tại các đồi cây bụi, trảng cỏ.

Đã có thống kê cho thấy có 11 loài cần bảo tồn, trong đó 6 loài được liệt kê trong sách đỏ Việt Nam năm 2007, 8 loài nằm trong Nghị Định 06/2019/NĐ-CP, và 5 loài có tên trong Danh lục đỏ cây thuốc Việt Nam năm 2006.

Tại xã Lê Lai, các cộng đồng dân tộc Tày, Nùng, Dao đã xác định được 9 bộ phận khác nhau của cây cỏ được sử dụng trong y học dân gian Trong số đó, cả cây, lá, củ và rễ là 4 bộ phận được sử dụng phổ biến nhất để chữa trị bệnh cho người dân địa phương.

- Đã thống kê được 16 nhóm bệnh khác nhau được chữa trị bằng kinh nghiệm sử dụng cây thuốc trong cộng đồng dân tộc Tày, Nùng, Dao tại khu vực

Trong 53 nghiên cứu, các cây thuốc được sử dụng chủ yếu để điều trị các nhóm bệnh như: bệnh lý về xương khớp và hệ vận động, bệnh tiêu hóa, bệnh đường tiết niệu, bệnh ngoài da, và bệnh hô hấp Bên cạnh đó, một số cây thuốc cũng được sử dụng để làm thuốc bổ.

Theo kết quả điều tra về kinh nghiệm sử dụng cây thuốc của ba cộng đồng Nùng, Tày và Dao, đã xác định được năm loài cây cỏ được cả ba cộng đồng sử dụng trong việc phòng và chữa bệnh, bao gồm Bảy lá một hoa (Paris chinensis Franch), tắc kè đá (Drynaria bonii Christ) và Giảo cổ lam (Gynostemma pentaphyllum (Thunb.) Makino).

Kết quả phân tích hoạt tính kháng khuẩn cho thấy cây Sói rừng và Khoan cân đằng có tiềm năng trong việc phòng ngừa và kiểm soát các bệnh nhiễm khuẩn do S aureus (tụ cầu vàng) và E coli gây ra.

Kiến nghị

Cần mở rộng khu vực nghiên cứu và điều tra tài nguyên cây thuốc nhằm xây dựng kế hoạch bảo tồn và phát triển nguồn dược liệu cho tương lai.

Nghiên cứu và đánh giá hiệu quả của các loài cây thuốc truyền thống được cộng đồng dân tộc tại xã Lê Lai, huyện Thạch An, tỉnh Cao Bằng sử dụng vẫn đang được tiếp tục thực hiện.

Xây dựng vườn thuốc gia đình là cách hiệu quả để bảo vệ nguồn gen quý, đặc biệt cho các gia đình lương y và những người biết sử dụng thuốc trong thôn bản Việc hướng dẫn cách trồng, hái và chế biến thảo dược phù hợp sẽ giúp nâng cao giá trị sử dụng của chúng trong đời sống hàng ngày.

Để bảo vệ các loài cây thuốc quý hiếm, cần hướng dẫn người dân nhận biết và thực hiện các biện pháp bảo vệ rừng, đồng thời hạn chế việc khai thác cạn kiệt các loài cây thuốc nhằm ngăn chặn việc buôn bán sang Trung Quốc.

Ngày đăng: 25/07/2021, 20:27

Nguồn tham khảo

Tài liệu tham khảo Loại Chi tiết
2. Hờ A Bình (2019) “Nghiên cứu về đa dạng tài nguyên cây thuốc của người Hmong, huyện Mù Cang Chải, tỉnh Yên Bái”, Khóa luận tốt nghiệp Đại học Trường Đại học Nông Lâm Thái Nguyên Sách, tạp chí
Tiêu đề: Nghiên cứu về đa dạng tài nguyên cây thuốc củangười Hmong, huyện Mù Cang Chải, tỉnh Yên Bái
6. Đặng Quang Châu (2011), “Một số dẫn liệu về cây thuốc của dân tộc Thái ở huyện Nghĩa Đàn – Nghệ An”. Tạp chí Sinh học, tập 23 Sách, tạp chí
Tiêu đề: Một số dẫn liệu về cây thuốc của dân tộc Tháiở huyện Nghĩa Đàn – Nghệ An
Tác giả: Đặng Quang Châu
Năm: 2011
7. Đặng Quang Châu, Bùi Hồng Hải (2003), “Điều tra cây thuốc của đồng bào dân tộc Thái, xã Xuân Hạnh, huyện Quỳ Châu – Nghệ An”, Báo cáo Khoa học Hội nghị toàn quốc lần 2. Những vấn đề nghiên cứu cơ bản trong Khoa học Sự sống, Nxb Khoa học và Kỹ Thuật, Hà Nội Sách, tạp chí
Tiêu đề: Điều tra cây thuốc của đồngbào dân tộc Thái, xã Xuân Hạnh, huyện Quỳ Châu – Nghệ An
Tác giả: Đặng Quang Châu, Bùi Hồng Hải
Nhà XB: Nxb Khoa học và Kỹ Thuật
Năm: 2003
12. Lưu Đàm Cư, Hà Tuấn Anh, Trương Anh Thư (2004), “Các cây có ích của dân tộc H’mông và khả năng ứng dụng trong phát triển kinh tế”, Báo cáo Khoa học Hội nghị toàn quốc lần 3. Những vấn đề nghiên cứu cơ bản trong Khoa học Sự sống, Thái Nguyên, Nxb Khoa học và Kỹ Thuật, Hà Nội Sách, tạp chí
Tiêu đề: Các cây có ích củadân tộc H’mông và khả năng ứng dụng trong phát triển kinh tế
Tác giả: Lưu Đàm Cư, Hà Tuấn Anh, Trương Anh Thư
Nhà XB: Nxb Khoa học và Kỹ Thuật
Năm: 2004
13. Nguyễn Thượng Dong (2006), “Nghiên cứu thuốc từ thảo dược” (Giáo Trình sau đại học). Nxb Khoa học và Kỹ Thuật, Hà Nội Sách, tạp chí
Tiêu đề: Nghiên cứu thuốc từ thảo dược
Tác giả: Nguyễn Thượng Dong
Nhà XB: Nxb Khoa học và Kỹ Thuật
Năm: 2006
15. Nông Thu Hằng (2019) “Nghiên cứu kiến thức bản địa về khai thác và sử dụng một số cây dược liệu (lâm sản ngoài gỗ) tại vườn quốc gia Phia Oắc- Phia Đén, huyện Nguyên Bình, tỉnh Cao Bằng”, Khóa luận tốt nghiệp Đại học, Trường Đại học Nông Lâm Thái Nguyên Sách, tạp chí
Tiêu đề: Nghiên cứu kiến thức bản địa về khai thác và sửdụng một số cây dược liệu (lâm sản ngoài gỗ) tại vườn quốc gia Phia Oắc-Phia Đén, huyện Nguyên Bình, tỉnh Cao Bằng
16. Nguyễn Minh Hiếu (2019) “Nghiên cứu tri thức bản địa sử dụng cây thuốc tại xã Nặm Pung, huyện Bát Xát, tỉnh Lào Cai của đồng bào dân tộc Dao”, Khóa luận tốt nghiệp Đại học, Trường Đại học Nông Lâm Thái Nguyên Sách, tạp chí
Tiêu đề: Nghiên cứu tri thức bản địa sử dụng cây thuốctại xã Nặm Pung, huyện Bát Xát, tỉnh Lào Cai của đồng bào dân tộc Dao
19. Nông Thái Hòa (2018) “Nghiên cứu cây thuốc và đánh giá hoạt tính kháng khuẩn của một số loài cây thuốc tại xã Hoàng Nông, huyện Đại Từ, tỉnh Thái Nguyên”, Khóa luận tốt nghiệp Đại học, Trường Đại học Nông Lâm Thái Nguyên Sách, tạp chí
Tiêu đề: Nghiên cứu cây thuốc và đánh giá hoạt tínhkháng khuẩn của một số loài cây thuốc tại xã Hoàng Nông, huyện Đại Từ,tỉnh Thái Nguyên
20. Dương Văn Hưng (2018) “Nghiên cứu tri thức sử dụng cây thuốc tại xã Yên Ninh, huyện Phú Lương, tỉnh Thái Nguyên”, Khóa luận tốt nghiệp Đại học, Trường Đại học Nông Lâm Thái Nguyên Sách, tạp chí
Tiêu đề: Nghiên cứu tri thức sử dụng cây thuốc tại xãYên Ninh, huyện Phú Lương, tỉnh Thái Nguyên
22. Quàng Văn Kiêm (2019), “Nghiên cứu tri thức bản địa sử dụng cây thuốc tại xã Kim Đồng, huyện Thạnh An, tỉnh Cao Bằng”, Khóa luận tốt nghiệp Đại học, Trường Đại học Nông lâm Thái Nguyên Sách, tạp chí
Tiêu đề: Nghiên cứu tri thức bản địa sử dụng cây thuốc tại xã Kim Đồng, huyện Thạnh An, tỉnh Cao Bằng
Tác giả: Quàng Văn Kiêm
Năm: 2019
26. Lương Minh Ngọc (2018) “Nghiên cứu tính đa dạng nguồn cây thuốc được sử dụng trong đồng bào dân tộc Bru – Việt Kiều ở Xã Thượng Trạch, huyện Bổ Trạch, tỉnh Quảng Nam”, Khóa luận tốt nghiệp Đại học, Trường Đại học Nông Lâm Thái Nguyên Sách, tạp chí
Tiêu đề: Nghiên cứu tính đa dạng nguồn cây thuốcđược sử dụng trong đồng bào dân tộc Bru – Việt Kiều ở Xã ThượngTrạch, huyện Bổ Trạch, tỉnh Quảng Nam
28. Lò Thị Quý (2018) “Nghiên cứu tính đa dạng nguồn cây thuốc được sử dụng trong một số dân tộc thiểu số tại xã Chiềng Đông, huyện Tuần Giáo, tỉnh Điện Biên”, Khóa luận tốt nghiệp Đại học, Trường Đại học Nông Lâm Thái Nguyên Sách, tạp chí
Tiêu đề: Nghiên cứu tính đa dạng nguồn cây thuốc được sửdụng trong một số dân tộc thiểu số tại xã Chiềng Đông, huyện Tuần Giáo,tỉnh Điện Biên
29. Lục Thanh Sắc (2018) “Tri thức bản địa trong sử dụng, bảo tồn và phát triển tài nguyên cây thuốc của cộng đồng dân tộc Dao tại xã Hà Lang, huyện Chiêm Hóa, tỉnh Tuyên Quang”, Khóa luận tốt nghiệp Đại học, Trường Đại học Nông Lâm Thái Nguyên Sách, tạp chí
Tiêu đề: Tri thức bản địa trong sử dụng, bảo tồn và pháttriển tài nguyên cây thuốc của cộng đồng dân tộc Dao tại xã Hà Lang,huyện Chiêm Hóa, tỉnh Tuyên Quang
30. Hoàng Văn Sinh (2020) “Nghiên Cứu Tri Thức Bản Địa Sử Dụng Cây Thuốc Tại Xã Đức Thông, Huyện Thạnh An, Tỉnh Cao Bằng”, Khóa luận tốt nghiệp Đại học, Trường Đại học Nông Lâm Thái Nguyên Sách, tạp chí
Tiêu đề: Nghiên Cứu Tri Thức Bản Địa Sử Dụng CâyThuốc Tại Xã Đức Thông, Huyện Thạnh An, Tỉnh Cao Bằng
32. Hoàng Thị Thanh (2019), “Nghiên cứu tri thức bản địa sử dụng cây thuốc tại xã Y Tý, huyện Bát Xát, tỉnh Lào Cai của đồng bào dân tộc Hà Nhì”, Khóa luận tốt nghiệp Đại học, Trường Đại học Nông Lâm Thái Nguyên Sách, tạp chí
Tiêu đề: Nghiên cứu tri thức bản địa sử dụng cây thuốctại xã Y Tý, huyện Bát Xát, tỉnh Lào Cai của đồng bào dân tộc Hà Nhì
Tác giả: Hoàng Thị Thanh
Năm: 2019
33. Phạm Thiệp, Lê Văn Thuần, Bùi Xuân Chương (2000), Cây thuốc, bài thuốc và biệt dược, Nxb. Y học, Hà Nội Sách, tạp chí
Tiêu đề: Cây thuốc, bài thuốc và biệt dược
Tác giả: Phạm Thiệp, Lê Văn Thuần, Bùi Xuân Chương
Nhà XB: Nxb. Y học
Năm: 2000
36. Nguyễn Thị Thủy, Phạm Văn Thỉnh (2004), “Nghiên cứu xây dựng và bảo tồn cây thuốc ở Sa Pa”, Báo cáo Khoa học Hội nghị toàn quốc lần 3 - Những vấn đề cơ bản trong Khoa học Sự sống, Thái Nguyên, Nxb Khoa học và Kỹ thuật, Hà Nội Sách, tạp chí
Tiêu đề: Nghiên cứu xây dựng và bảotồn cây thuốc ở Sa Pa
Tác giả: Nguyễn Thị Thủy, Phạm Văn Thỉnh
Nhà XB: Nxb Khoahọc và Kỹ thuật
Năm: 2004
37. Vàng Văn Trung (2019), “Nghiên cứu tri thức bản địa sử dụng cây thuốc của cộng đồng dân tộc Hmông tại xã Trung Lèng, huyện Bát Xát, tỉnh Lào Cai”, Khóa luận tốt nghiệp Đại Học, Trường Đại học Nông Lâm Thái Nguyên Sách, tạp chí
Tiêu đề: Nghiên cứu tri thức bản địa sử dụng cây thuốc củacộng đồng dân tộc Hmông tại xã Trung Lèng, huyện Bát Xát, tỉnh Lào Cai
Tác giả: Vàng Văn Trung
Năm: 2019
41. Nguyễn Thị Thanh Vân (2005), Bước đầu tìm hiểu cây thuốc của đồng bào dân tộc thiểu số ở việt nam, sách Nam Bộ Dân tộc và tôn giáo, 165-190 Sách, tạp chí
Tiêu đề: sách Nam Bộ Dân tộc và tôn giáo
Tác giả: Nguyễn Thị Thanh Vân
Năm: 2005
42. Nguyễn Thị Thanh Vân (2015), Tìm hiểu tri thức sử dụng cây cỏ trong chăm sóc sức khỏe của người H’Mông, Tạp chí Đại học Thủ Dầu Một, 4, 53-58.B. Tiếng nước ngoài Sách, tạp chí
Tiêu đề: Tạp chí Đại học Thủ Dầu Một
Tác giả: Nguyễn Thị Thanh Vân
Năm: 2015

TỪ KHÓA LIÊN QUAN

TÀI LIỆU CÙNG NGƯỜI DÙNG

TÀI LIỆU LIÊN QUAN

w