TỔNG QUAN VẤN ĐỀ NGHIÊN CỨU
Cơ sở khoa học của vấn đề nghiên cứu
Phòng và chữa bệnh bằng thảo dược đã được con người áp dụng từ hàng ngàn năm, và hiện nay vẫn đang phát triển mạnh mẽ Các hoạt chất quý trong thảo dược có khả năng điều trị nhiều bệnh từ cảm cúm, ho sốt đến những bệnh nan y như ung thư, bệnh tim, suy thận, và các bệnh nhiệt đới nguy hiểm Tuy nhiên, kiến thức về cây thuốc và bài thuốc truyền thống đang dần mai một theo thời gian, làm cho việc gìn giữ và phát triển vốn kiến thức này trở nên cần thiết Theo WHO, khoảng 80% dân số thế giới vẫn sử dụng thuốc có nguồn gốc tự nhiên trong chăm sóc sức khỏe, và tổ chức này khuyến nghị áp dụng thuốc cổ truyền trong y tế cơ sở Do đó, nghiên cứu và bảo tồn các loài cây thuốc là rất quan trọng cho thế hệ hiện tại và tương lai.
Tình hình nghiên cứu trên thế giới và trong nước
2.2.1 Tình hình nghiên cứu và sử dụng cây thuốc trên thế giới
Tổ tiên loài người đã gắn bó chặt chẽ với thiên nhiên từ khi xuất hiện, trải qua nhiều thử thách để sinh tồn Trong quá trình này, họ đã sớm nhận ra các loại cây cỏ trong tự nhiên có thể dùng làm thuốc Qua kinh nghiệm lao động và chiến đấu với bệnh tật, tổ tiên chúng ta đã sáng tạo ra nhiều bài thuốc và phương pháp chữa bệnh hiệu quả.
Trong những năm gần đây, nghiên cứu về việc sử dụng cây thuốc của người dân bản địa để chữa bệnh đã được các nhà khoa học thực hiện trên toàn cầu Tại Châu Á, những nghiên cứu này ngày càng thu hút sự chú ý và đóng góp quan trọng vào việc bảo tồn và phát triển y học cổ truyền.
Châu Á là châu lục đa dạng với nhiều dân tộc bản địa, sở hữu kiến thức phong phú về việc sử dụng thực vật làm thuốc Nhiều nghiên cứu đã được thực hiện tại các cộng đồng và khu vực khác nhau để khám phá và ghi nhận tri thức này.
Arshad Abbasi và cộng sự (2012) đã nghiên cứu về thực vật học và giá trị văn hóa của các loại rau ăn được hoang dã quan trọng trong y học ở Lesser dãy Hymalaya Họ đã ghi nhận 45 loại rau ăn được hoang dã thuộc 38 chi và 24 họ, được người dân sử dụng để điều trị nhiều bệnh khác nhau và tiêu thụ.
Nghiên cứu của Auemporn Junsongduang và các cộng sự (2013) về cây thuốc từ nương rẫy và rừng thiêng của dân tộc Karen và Lawa ở Thái Lan đã phát hiện ra 365 loài thực vật thuộc 244 chi và 82 họ được sử dụng làm thuốc Trong số đó, các loài cây thuộc họ Euphorbiaceae và Lauraceae được người dân địa phương sử dụng phổ biến nhất.
Homervergel G Ong và Young-Dong Kim (2014) đã tiến hành nghiên cứu thực vật học định lượng về các cây thuốc được sử dụng bởi nhóm bản địa Ati Negrito ở đảo Guimaras, Philippines Nghiên cứu này đã phát hiện ra 142 loài cây dược liệu thuộc 55 họ, được sử dụng để điều trị 16 loại bệnh khác nhau.
Dol Luitel và cs (2014) [44] khi nghiên cứu cây thuốc được sử dụng bởi cộng đồng người Tamang ở quận Makawanpur của Trung tâm Nepal đã
Tại Châu Âu, y học dân gian có bề dày lịch sử với 161 loài thực vật thuộc 144 chi và 86 họ được người dân sử dụng để điều trị nhiều loại bệnh khác nhau Tri thức dân gian về các loài thực vật này đã được truyền lại qua các thế hệ thông qua ghi chép và truyền miệng Gần đây, nhiều nghiên cứu khoa học đã được thực hiện để khám phá và xác nhận hiệu quả của các loài thực vật trong việc điều trị bệnh cho người dân bản địa.
Nghiên cứu của Behxhet Mustafa và cộng sự (2012) về các loài thực vật thuốc ở dãy núi Alps Albania tại Kosovo đã ghi nhận 98 loài thực vật thuộc 39 họ được người dân sử dụng để điều trị nhiều loại bệnh khác nhau Trong số đó, các cây thuộc họ Rosaceae, Asteraceae và Lamiaceae là những loài được sử dụng phổ biến nhất.
Nghiên cứu của Gorka Menedez-Baceta và cộng sự (2014) đã chỉ ra rằng ở phía Tây Bắc xứ Basque, bán đảo Iberia, có 139 loài thực vật thuộc 58 họ được người dân sử dụng làm thuốc chữa bệnh, trong đó họ Asteraceae là nhóm cây được sử dụng phổ biến nhất.
Việc nghiên cứu về việc sử dụng cây thuốc của người dân bản địa cũng được thực hiện:
Cecilia Almeida và các cộng sự (2006) đã tiến hành nghiên cứu về các cây thuốc phổ biến tại khu vực Xingo, Đông Bắc Brazil, nơi có khí hậu khô hạn Kết quả nghiên cứu cho thấy có 187 loài thực vật thuộc 128 chi và 64 họ được người dân địa phương sử dụng để điều trị nhiều bệnh lý, bao gồm cảm lạnh thông thường, viêm phế quản, bệnh tim mạch, bệnh thận, viêm và an thần.
Nghiên cứu của Gabriele Volpato và cộng sự (2009) về việc sử dụng cây thuốc của người nhập cư Haiti và thế hệ con cháu của họ tại tỉnh Camaguey, Cuba đã phát hiện ra 123 loài thực vật thuộc 112 chi và 63 họ được áp dụng để điều trị nhiều loại bệnh khác nhau.
Nghiên cứu của Gaia Luziatelli và cộng sự (2010) về cây thuốc của cộng đồng Ashaninka tại Bajo Quimiriki, Junin, Peru đã phát hiện 402 loài thực vật được sử dụng để điều trị bệnh Các loài cây này chủ yếu thuộc các họ Asteraceae, Araceae, Rubiaceae, Euphorbiaceae, Solanaceae và Piperaceae, cho thấy sự đa dạng và giá trị của thảo dược trong nền y học truyền thống của cộng đồng bản địa.
Theo nghiên cứu năm 2014 về "Thực vật dân tộc của người dân Rayones, Nuevo León, Mexico", đã ghi nhận 252 loài thực vật thuộc 228 chi và 91 họ được sử dụng để điều trị bệnh, trong đó các họ chủ yếu là Asteraceae và Fabaceae (Eduardo Estrada - Castillón và cộng sự, 2014).
Người dân Châu Phi đã sử dụng cây thuốc bản địa trong hàng nghìn năm để duy trì sức khỏe, và các nghiên cứu gần đây chỉ ra rằng việc sử dụng các loại cây thuốc này của họ rất đa dạng và phong phú.
Theo nghiên cứu của David J Simbo, có 107 loài thực vật thuộc 98 chi và 54 họ được người dân Babungo, Tây Bắc Cameroon sử dụng làm thuốc để điều trị bệnh, trong đó họ Asteraceae là nhóm thực vật được sử dụng chủ yếu.
Tổng quan khu vực nghiên cứu
2.3.1 Điều kiện tự nhiên khu vực nghiên cứu
Xã Phú Xuyên cách trung tâm huyện Đại Từ 40 km về phía Tây Nam, vị trí địa lý có các mặt tiếp giáp như sau:
Phía đông giáp xã Bản Ngoại và xã Phú Thịnh
Phía tây giáp tỉnh Tuyên Quang Phía nam giáp xã La Bằng
Phía bắc giáp xã Na Mao và xã Yên Lãng.
Xã Phú Xuyên có địa hình tương đối đặc trưng :
Phú Xuyên có địa hình đa dạng với núi cao ở phía Tây và cánh đồng bằng phẳng ở phía Đông dọc theo quốc lộ QL37 Địa hình giảm dần từ Tây xuống Đông Bắc với các đồi núi thấp và đồng bằng xen kẽ sông, suối, ao hồ Trên địa bàn xã, có ba con suối bắt nguồn từ dãy núi Tam Đảo với tổng chiều dài khoảng 9 km Đặc điểm chính của địa hình xã là đồi núi, dốc dần theo hướng Tây Bắc - Đông Nam.
Theo báo cáo tổng kết năm 2019 của UBND xã Phú Xuyên, huyện Đại Từ, tỉnh Thái Nguyên, tổng diện tích tự nhiên của xã là 2.320,06 ha, bao gồm 2.095,33 ha đất nông nghiệp, 216,25 ha đất phi nông nghiệp và 1,84 ha đất chưa sử dụng.
Vùng khí hậu nhiệt đới gió mùa có mùa mưa kéo dài từ tháng 4 đến tháng 11 với thời tiết nóng ẩm và lượng mưa dồi dào Mùa khô diễn ra từ tháng 11 đến tháng 4, khi gió Đông Bắc chiếm ưu thế, mang lại thời tiết hanh khô và lượng mưa ít Chỉ số nhiệt độ trung bình hàng năm phản ánh rõ nét đặc trưng của khí hậu nhiệt đới nóng ẩm này.
23 0 C; tổng lượng mưa bình quân hàng năm 1.700 - 2.200mm, phân bố không đều có chênh lệch lớn giữa mùa mưa và mùa khô.
Tổng diện tích mặt nước của xã là 32,85 ha, bao gồm 9,2 ha ao, hồ, đầm và 23,65 ha đất sông suối, với hai con suối bắt nguồn từ dãy núi Tam Đảo chảy theo hướng Tây - Bắc và Đông Nam Hiện tại, toàn bộ diện tích ao, hồ, đầm đang được các hộ dân sử dụng để nuôi trồng thủy sản và phục vụ tưới tiêu cho sản xuất nông nghiệp.
19 con suối chảy trên địa bàn xã là nguồn cung cấp nước chủ yếu phục vụ sản xuất và sinh hoạt của nhân dân.
* Hiện trạng thảm thực vật Điều kiện sinh thái và địa hình xã Phú Xuyên có thảm thực vật chủ yếu ở trên địa bàn xã là rừng tự nhiên.
2.3.2 Điều kiện kinh tế - xã hội khu vực nghiên cứu
Xã Phú Xuyên bao gồm 18 xóm với sự sinh sống của 7 dân tộc khác nhau Tổng cộng, xã có 2.079 hộ gia đình và 7.608 nhân khẩu, trong đó dân tộc Kinh chiếm 58%, còn lại là các dân tộc thiểu số.
Dao, Tày, Nùng, Cao Lan, Sán Chỉ, Ngái Tỷ lệ hộ nghèo chiếm 6,32% với 119 hộ.
Cuộc sống của đồng bào dân tộc tại địa phương chủ yếu gắn liền với sản xuất nông lâm nghiệp, đặc biệt là cây lúa, rừng và đất rừng Các hoạt động sinh kế truyền thống bao gồm khai thác sản phẩm tự nhiên, canh tác lúa nước, nương rẫy và chăn nuôi Rừng và đất rừng đóng vai trò quan trọng trong việc duy trì sinh kế và cuộc sống của đồng bào người Nùng và Dao.
ĐỐI TƯỢNG, PHẠM VI, NỘI DUNG VÀ PHƯƠNG PHÁP 20 NGHIÊN CỨU
Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
- Đối tượng nghiên cứu: Các loài thực vật được cộng đồng dân tộc Dao,
Cây thuốc Nùng được sử dụng tại xã Phú Xuyên, huyện Đại Từ, tỉnh Thái Nguyên, mang lại những lợi ích trong việc chữa bệnh Kinh nghiệm sử dụng cây thuốc của cộng đồng dân tộc Dao và Nùng tại đây thể hiện sự hiểu biết sâu sắc về dược liệu tự nhiên, góp phần vào việc bảo tồn và phát huy giá trị văn hóa y học truyền thống.
+ Công tác điều tra thực địa được tiến hành tại xã Phú Xuyên, huyện Đại Từ, tỉnh Thái Nguyên.
+ Nghiên cứu thực nghiệm (xác định hoạt tính khánh khuẩn) được tiến hành tại phòng thí nghiệm Khoa công nghệ sinh học - trường Đại học Khoa học Thái nguyên.
- Thời gian nghiên cứu: Từ tháng 01/2020 đến tháng 05/2020.
- Nghiên cứu tri thức dân tộc thiểu số: Dân tộc Dao, Nùng.
Nội dung nghiên cứu
- Đánh giá đa dạng nguồn tài nguyên cây thuốc được sử dụng tại xã Phú Xuyên, huyện Đại Từ, tỉnh Thái Nguyên:
+ Đánh giá đa dạng các bậc taxon của nguồn tài nguyên cây thuốc: đa dạng bậc họ; đa dạng bậc chi.
+ Đánh giá đa dạng về dạng sống của thực vật làm thuốc.
+ Đánh giá về môi trường sống của thực vật làm thuốc.
- Xác định những cây thuốc thuộc diện cần bảo tồn: Đánh giá ở mức độ quý hiếm của các loài cây thuốc ở khu vực nghiên cứu.
- Vốn tri thức bản địa trong việc sử dụng cây thuốc của các cộng đồng dân tộc thiểu số ở xã Phú Xuyên, huyện Đại Từ, tỉnh Thái Nguyên.
+ Kinh nghiệm sử dụng bộ phận làm thuốc của cộng đồng dân tộc thiểu số ở Phú Xuyên.
+ Kinh nghiệm về nhóm bệnh chữa trị của cộng đồng dân tộc thiểu số ở xã Phú Xuyên.
+ Ảnh hưởng của sự giao thoa giữa các dân tộc đến vốn tri thức bản địa trong việc sử dụng cây thuốc.
+ Đánh giá hoạt tính kháng khuẩn của một số loài cây thuốc được sử dụng trong cộng đồng dân tộc thiểu số ở khu vực nghiên cứu.
Phương pháp nghiên cứu
Để đạt được các kết quả gắn với các nội dung nghiên cứu trên, cách thức và giải pháp thực hiện ý tưởng bao gồm như sau:
Kế thừa các tài liệu về điều kiện tự nhiên và kinh tế - xã hội trong khu vực nghiên cứu là rất quan trọng, cùng với việc tham khảo các nghiên cứu liên quan đến vấn đề này.
- Kế thừa kinh nghiệm sử dụng cây thuốc của các ông lang, bà mế người dân tộc Nùng, Dao ở khu vực nghiên cứu.
* Phương pháp điều tra thực địa
Để thu thập thông tin về cây thuốc, chúng tôi đã tiến hành phỏng vấn các ông lang, bà mế và người dân có kinh nghiệm sử dụng cây thuốc cũng như các bài thuốc gia truyền trong cộng đồng dân tộc ít người tại khu vực nghiên cứu Mẫu phiếu điều tra được thiết kế dựa trên phiếu điều tra cây thuốc trong cộng đồng và phiếu điều tra bài thuốc dân gian do Viện Dược liệu, Bộ Y tế cung cấp.
Bảng 3.1 Mẫu bảng điều tra nguồn cây thuốc được cộng đồng một số dân tộc thiểu số ở khu vực nghiên cứu sử dụng trong phòng và điều trị bệnh
Thời gian điều tra: Người điều tra:
Để thu thập thông tin về cây thuốc, cần ghi lại đầy đủ các dữ liệu như tên phổ thông, tên trong tiếng dân tộc Nùng và Dao, số hiệu mẫu hoặc ảnh của cây thuốc Cần xác định dạng sống và môi trường sống của cây, cũng như bộ phận được sử dụng làm thuốc như thân, rễ, hoa, quả, hạt, nhựa hay vỏ Ngoài ra, ghi chép công dụng của cây thuốc và các đặc điểm dễ nhận biết trong tự nhiên, kèm theo thời gian, địa điểm và thông tin người thu thập.
Để định danh tên cây, cần thực hiện theo hai bước chính: đầu tiên, tiến hành định danh tại thực địa để quan sát trực tiếp; sau đó, sử dụng kiến thức và kinh nghiệm của các chuyên gia, cùng với các nguồn tài liệu tin cậy đã được công bố để xác minh lại thông tin.
Bước đầu tiên trong quá trình điều tra là xác định sơ bộ tên địa phương và tên thường gọi của các loài Đối với những loài chưa xác định rõ, cần ghi chú để kiểm tra lại sau Đối với các loài không biết tên, cần thu thập mẫu như lá, hoa, hoặc quả và ghi chú trong biểu điều tra bằng ký hiệu sp1, sp2, để phục vụ cho việc giám định sau này.
Bước 2: Tất cả các cây sẽ được thẩm định lại tên gọi và lập danh mục cây thuốc dựa trên kiến thức chuyên môn của các chuyên gia thực vật, cùng với nguồn tài liệu đáng tin cậy đã được công bố, bao gồm cuốn "Cây cỏ Việt Nam" của Phạm Hoàng Hộ.
Tài liệu tham khảo về cây thuốc Việt Nam bao gồm "Từ điển Cây thuốc Việt Nam" của Võ Văn Chi (2012), "Những cây thuốc và vị thuốc Việt Nam" của Đỗ Tất Lợi (2005), cùng với "Danh lục các loài thực vật Việt Nam" do Trung tâm NCTN&MT – Đại học Quốc gia Hà Nội và Viện nghiên cứu thực hiện.
ST&TNSV, 2001 – 2005) [26] Danh sách tên cây thuốc sẽ được hoàn thiện ở bước này.
* Phương pháp thu thập mẫu: Đối với loài cây chưa xác định được tên ở ngoài thực địa và loài cần giám định lại tên.
Trong quá trình thu mẫu ở thực địa, mỗi cây thuốc được thu từ 3 đến 10 mẫu, bao gồm lá, hoa, quả, thân và rễ Mỗi mẫu sẽ được gắn nhãn với đầy đủ thông tin như ký hiệu mẫu, địa điểm, thời gian thu và tên người thu mẫu Các mẫu thuộc cùng một cây sẽ được đánh số theo cùng một số hiệu mẫu để đảm bảo tính chính xác và dễ dàng trong việc quản lý.
Dụng cụ thu mẫu bao gồm bản gỗ ép mẫu, túi đựng mẫu, bao tải dứa, kéo cắt cây, giấy báo, dây buộc, etyket, bút chữ A, sổ ghi chép và máy ảnh (Nguyễn Nghĩa Thìn, 1997).
Hình 3.1: Các dụng cụ sử dụng cho nghiên cứu trong đề tài
Để đánh giá tính đa dạng nguồn tài nguyên cây thuốc của cộng đồng dân tộc Nùng và Dao trong khu vực nghiên cứu, tôi áp dụng phương pháp đánh giá do Nguyễn Nghĩa Thìn (2007) đề xuất.
- Đa dạng về bậc phân loại: ngành, lớp, họ, chi, loài.
- Đa dạng về dạng sống: dây leo, gỗ trung bình, gỗ nhỏ, thảo, bụi.
- Đa dạng về môi trường sống: rừng, đồi, vườn, ven suối.
- Đa dạng về bộ phận sử dụng làm thuốc: thân, rễ, lá, hoa, quả, hạt, vỏ, cả cây.
- Đa dạng về các nhóm bệnh chữa trị: bệnh về khớp, tim, dạ dày, gan, giải độc, xương,…
Phương pháp đánh giá mức độ nguy cấp của các loài cây thuốc được thực hiện nhằm xác định những cây thuốc cần bảo tồn trong khu vực nghiên cứu Việc này dựa trên các tài liệu quan trọng như Sách đỏ Việt Nam về thực vật rừng (Bộ KH&CN, 2007), Nghị định 06/2019/NĐ-CP của Chính phủ Việt Nam (2019), và Danh sách đỏ cây thuốc Việt Nam.
Cẩm nang cây thuốc cần được bảo vệ ở Việt Nam (Nguyễn Tập, 2007) chỉ ra rằng các mức đánh giá về độ nguy cấp của các loài thực vật được ghi nhận trong Sách Đỏ Việt Nam rất quan trọng.
Cực kỳ nguy cấp (CE): Critically Endangered
Nhóm nguy cấp (EN): Endangered
Sẽ nguy cấp (VU): Vulnerable
Sắp bị đe dọa (NT): Near Threatened
Nhóm thiếu dữ liệu thống kê (K): Insufficiently known
Ngoài ra, theo Nghị định 06/2019 của Chính phủ thì các loài động, thực vật rừng sẽ được chia thành các nhóm chính sau:
Nhóm I: Các loài động thực vật rừng đang có nguy cơ tuyệt chủng, nghiêm cấm mọi hành vi khai thác và sử dụng với mục đích thương mại Nhóm IA là các loài thực vật còn nhóm IB là động vật rừng.
Nhóm II: Bao gồm những loài động thực vật rừng chưa bị đe dọa tuyệt chủng nhưng cần được bảo vệ và hạn chế khai thác, sử dụng với mục đích thương mại Nhóm IIA là các loài thực vật còn IIB là các động vật rừng.
* Phương pháp nghiên cứu hoạt tính kháng khuẩn
- Bước 1: Chuẩn bị nguyên liệu
Nguyên liệu lá, thân, rễ cây thuốc sau khi thu hái được rửa sạch, để ráo nước sau đó đem sấy khô ở 90 0 C đến khối lượng không đổi.
Nguyên liệu sau khi sấy khô cần được nghiền thành bột mịn bằng máy xay đa năng loại nhỏ và được bảo quản ở nơi khô ráo, nhằm phục vụ cho các nghiên cứu tiếp theo.
KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU VÀ THẢO LUẬN
Đa dạng các bậc taxon
4.1.1.1 Đa dạng về bậc ngành
Kết quả điều tra cho thấy, cây thuốc được sử dụng theo kinh nghiệm của đồng bào dân tộc Nùng và Dao trong khu vực nghiên cứu đã được ghi nhận rõ ràng.
Trong khu vực này, có 103 loài thực vật thuộc 3 ngành chính: Ngành Ngọc lan (Magnoliophyta), Ngành Thông (Pinophyta) và Ngành Dây gắm (Gnetophyta), được người dân tộc sử dụng làm thuốc Những loài cây này thuộc 91 chi và 59 họ, thường mọc phổ biến quanh làng, trên đồi và trong rừng Do sự quen thuộc và dễ tiếp cận, người dân đã chọn lựa những loài thực vật này để làm thuốc nhiều hơn so với các loài khác Kết quả nghiên cứu được tổng hợp từ phụ lục 3 và thể hiện trong bảng dưới đây.
Bảng 4.1 Số loài cây thuốc đã phát hiện ở khu vực nghiên cứu
Ngành Ngọc lan (Magoliophyta) nổi bật với số lượng loài được sử dụng làm thuốc vượt trội hơn hẳn so với hai ngành còn lại, với 57 họ (chiếm 96,61% tổng số họ), 89 chi (chiếm 97,80% tổng số chi) và 101 loài (chiếm 98,06% tổng số loài) Ngành Dây gắm (Gnetophyta) và ngành Thông chỉ có 1 loài, chiếm 1,69% tổng số họ, 1 họ (1,10% tổng số chi), và 1 chi (0,97% tổng số chi).
Sự phân bố không đồng đều của các taxon không chỉ diễn ra giữa các ngành mà còn thể hiện rõ qua sự chiếm ưu thế của các lớp trong ngành Ngọc lan (Magnoliophyta).
Bảng 4.2 Số lượng họ, chi, loài thuộc hai lớp trong ngành Ngọc lan
Lớp Hai lá mầm- Magnoliopsida
Lớp Một lá mầm - Liliopsida
Tỉ lệ lớp Ngọc lan/lớp Hành
Kết quả nghiên cứu cho thấy lớp Hai lá mầm (Magnoliopsida) chiếm ưu thế trong ngành Ngọc lan (Magnoliophyta) với 43 họ, tương đương 75,44% tổng số họ, 72 chi (80,90%) và 81 loài (80,20%) Một số loài tiêu biểu trong lớp Ngọc lan bao gồm cây giảo cổ lam - Gynostemma pentaphyllum, được sử dụng để điều trị huyết áp cao và mỡ máu, cùng với Dây đau xương - Tinospora sinensis, thường được dùng để giảm đau lưng và đau nhức xương khớp.
Lớp Một lá mầm (Liliopsida) chiếm tỉ trọng thấp hơn với 20 loài, 17 chi và 14 họ Có thể kể đến một số loài thuộc lớp Hành là: cây Huyết dụ -
Cordyline fruticosa (L.) Goepp được sử dụng để chữa bệnh kinh nguyệt, mát thận, phụ khoa, xấu máu; cây ráy - Alocasia macrorhizos (L.) G Don được sử dụng để chữa bệnh gút.
Tỉ lệ giữa lớp Hai lá mầm và lớp Một lá mầm là 3,07, cho thấy trung bình cứ 3 đến 4 họ thuộc lớp Hai lá mầm thì có 1 họ thuộc lớp Một lá mầm Tương tự, tỉ lệ các bậc chi và bậc loài lần lượt là 4,24 và 4,05, có nghĩa là trung bình cứ 4 chi và 4 loài thuộc lớp Ngọc lan sẽ có 1 chi và 1 họ thuộc lớp Hành.
Các loài cây trong ngành Ngọc lan, đặc biệt là những loài thuộc lớp Hai lá mầm (Magnoliopsida), chiếm tỷ lệ lớn và có vai trò quan trọng trong các loại thực vật làm thuốc Chúng được cộng đồng dân tộc trong khu vực nghiên cứu sử dụng để phòng ngừa và chữa trị bệnh.
Dưới đây là một số hình ảnh một số loài cây thuốc ở khu vực nghiên cứu:
A Gối hạc (Leea rubra Blume) B Vẩy ốc (Ficus pumila)
D Thạch xương bồ (Acorus gramineus Soland)
Hình 4.1: Hình ảnh một số loài cây thuốc ở khu vực nghiên cứu
4.1.1.2 Phân bố số lượng loài trong từng họ
Số lượng họ cây thuốc thu được ở khu vực nghiên cứu bao gồm 59 họ.
Sự phân bố các họ trong các lớp như sau:
Bảng 4.3 Sự phân bố số lượng loài cây thuốc trong các họ
Tỷ lệ số họ/tổng số họ %
Tỷ lệ số loài/tổng số loài%
Theo bảng 4.3, sự phân bố số lượng loài cây trong các họ chủ yếu tập trung ở hai lớp của ngành Ngọc Lan, với 38 họ có 1 loài cây và 10 họ có 2 loài cây, chiếm 16,95% tổng số họ và 5,83% tổng số loài Số lượng các họ có từ 3 loài cây trở lên khá ít, chỉ có 1 họ với 9 loài cây, chiếm 8,74% tổng số loài thuốc đã thu thập Lớp Hai lá mầm chiếm 5,83% số loài so với tổng số loài, với 2 họ điều tra có 5 loài, chiếm 3,39% tổng số loài điều tra Ngoài ra, có 3 họ với 4 loài, chiếm 5,08% trong tổng số họ và 11,65% trong tổng số loài điều tra.
Họ lá mầm bao gồm 2 họ và 3 loài, chiếm 3,39% tổng số họ và 5,83% tổng số loài đã được khảo sát Cả hai họ này đều thuộc lớp Một lá mầm.
Gừng và họ Hòa thảo là hai trong mười họ thực vật, chiếm 16,95% tổng số họ và 19,42% tổng số loài đã được khảo sát Cả hai họ này thuộc lớp Một lá mầm.
Trong nghiên cứu về thực vật, có tổng cộng 8 họ thuộc lớp Hai lá mầm, trong đó 40 họ chỉ có 1 loài, chiếm 67,80% tổng số họ và 38,83% tổng số loài được điều tra Ngoài ra, có 10 họ thuộc lớp Một lá mầm, 28 họ thuộc lớp Hai lá mầm ngành Ngọc Lan và 1 họ thuộc lớp Thông.
(Pinopsida) ngành Thông - 1 họ lớp Dây gắm (Gnetopsida) ngành Gắm.
Sự đa dạng họ của các loài tại khu vực nghiên cứu được thu thập và tổng hợp trong bảng sau:
Bảng 4.4 Các họ đa dạng nhất ở khu vực nghiên cứu
7 Họ Ngũ Da Bì - Araliaceae
Trong xã Phú Xuyên, có 7 họ thực vật được xác định, trong đó phần lớn cũng xuất hiện trong các họ thực vật phong phú của hệ thực vật Việt Nam Những họ cây thuốc này rất đa dạng và giàu loài.
Họ Euphorbiaceae, cùng với bốn họ khác là Ngũ da bì, Cà phê, Rau dền và Bông bụp, không nằm trong số mười họ thực vật lớn nhất Việt Nam Điều này cho thấy nguồn cây thuốc tại xã Phú Xuyên khá phong phú, mặc dù vẫn có những nét khác biệt so với sự đa dạng chung của thực vật Việt Nam.
Kết quả điều tra đã thu được những loài cây thuốc nằm trong những họ có nhiều loài nhất ở Việt Nam
(Bảng 10 họ giàu loài nhất theo danh lục thực vật Việt Nam phụ lục 4 trang 3)
Số lượng thống kê và so sánh được thể hiện ở Bảng 4.5:
Bảng 4.5 So sánh các họ có nhiều loài cây thuốc ở khu vực nghiên cứu (1) với số loài của từng họ trong hệ thực vật Việt Nam (2)
7 Araliaceae - Họ Ngũ da bì
Tổng số được phát hiện:
Chú thích: (2) theo Danh lục các loài thực vật Việt Nam (Trung tâm NCTN & MT – Đại học Quốc gia Hà Nội và Viện ST&TNSV, 2009)
Kết quả từ Bảng 4.5 cho thấy có 7 họ thực vật với nhiều loài được cộng đồng dân tộc tại khu vực nghiên cứu sử dụng làm thuốc phòng và chữa bệnh Tỷ lệ số loài trong cùng một họ được sử dụng làm thuốc tại khu vực này so với tổng số loài trong họ đó tại Việt Nam có sự chênh lệch lớn Cụ thể, họ Cúc (Asteraceae) là họ có nhiều loài được sử dụng nhất, chiếm tỷ lệ 2,37%, bao gồm các loài như Nhọ nồi (Eclipta prostrata L.) có tác dụng giải độc gan và Ngải cứu (Artemisia vulgaris).
L.) chữa đau thận, họ Thầu dầu (Euphorbiaceae) có 6 loài, chiếm tỷ lệ 1,26
Họ Đậu (Fabaceae) và Họ Cà phê (Rubiaceae) có 5 loài được sử dụng làm thuốc, chiếm tỷ lệ lần lượt là 1,06% và 1,02% Trong khi đó, Họ Rau dền (Amaranthaceae), Họ Bông bụp (Malvaceae) và Họ Ngũ da bì (Araliaceae) có 4 loài sử dụng làm thuốc, với tỷ lệ lần lượt là 12,50%; 5,80%; và 2,53%.
Đa dạng về dạng sống của thực vật làm thuốc
Sự đa dạng về dạng sống của loài thực vật làm thuốc tại khu vực nghiên cứu được thể hiện trong Bảng 4.6 như sau:
Bảng 4.6 Đa dạng về dạng sống của nguồn cây thuốc ở khu vực nghiên cứu
Dữ liệu cho thấy, hai cộng đồng dân tộc Nùng và Dao tại KNNC sử dụng nguồn tài nguyên cây thuốc dựa trên kinh nghiệm, tập trung vào năm dạng sống, chủ yếu là cây thân thảo, cây bụi và dây leo.
Thân thảo là nhóm thực vật phong phú nhất với 41/103 loài, chiếm 39,8% tổng số loài, chủ yếu thuộc họ Cúc (Asteraceae) dùng chữa sốt, viêm khớp, và giải độc gan; họ Hòa thảo (Poaceae) chữa viêm thận và hậu sản; họ Rau dền (Amaranthaceae) trị đau thận và viêm nhiễm phụ khoa; và họ Đại kích (Euphorbiaceae) chữa tắc sữa và viêm đại tràng Tiếp theo, cây bụi có 37/103 loài (35,92%), chủ yếu từ họ Bông bụp (Malvaceae) và họ Cà phê (Rubiaceae), với các loài như Đinh lăng lá to trị mất ngủ và Dâm bụt hoa trắng chữa tiểu dắt Cuối cùng, cây dây leo có 13/103 loài (12,62%), tập trung ở họ tiết Dê (Menispermaceae) và họ Bầu bí (Cucurbitaceae), với cây Giảo cổ lam chữa huyết áp cao và Hoàng đằng trị viêm đường tiết niệu.
Nghiên cứu của Nguyễn Minh Hiếu và cộng sự (2018) cho thấy rằng hoạt tính kháng khuẩn của một số loài cây thuốc tại xã Liên Minh, huyện Võ Nhai, tỉnh Thái Nguyên tương đồng với sự đa dạng các dạng sống của cây thuốc ở xã Phú Xuyên.
Nhìn chung, vấn đề sử dụng các dạng cây cỏ làm thuốc chữa bệnh của
2 dân tộc Nùng, và Dao tại khu vực nghiên cứu khá đa dạng và phong phú.
Các dạng sống thực vật chủ yếu được sử dụng làm thuốc trong khu vực nghiên cứu bao gồm thân thảo, dây leo và cây bụi Những loại thực vật này phát triển phổ biến quanh nhà và làng bản, dễ trồng và dễ thu hái, tạo điều kiện thuận lợi cho việc sử dụng chúng trong y học.
Đa dạng về môi trường sống của thực vật làm thuốc
Để bảo tồn các loài cây thuốc trong khu vực nghiên cứu, tôi đã thực hiện đánh giá sự đa dạng môi trường sống của chúng Việc phân loại các loại môi trường sống dựa trên địa hình, đất đai, khí hậu và vị trí phát triển của cây thuốc Các dạng môi trường sống bao gồm:
- Làng xóm, làng bản, vườn (Vu)
- Rừng (trồng, tái sinh, tự nhiên) (R)
Bảng 4.7 Sự phân bố nguồn cây thuốc theo môi trường sống ở khu vực nghiên cứu
1 Rừng (trồng, tái sinh, tự nhiên) (R)
2 Làng xóm, làng bản, vườn (Vu)
Ghi chú: Tỉ lệ % trong Bảng hơn 100% do một số loài có thể sống ở nhiều môi trường khác nhau
Kết quả Bảng 4.7 cho thấy, có 3 môi trường sống chính của cây thuốc ở KVNC là: sống ở vườn (Vu), sống ở rừng (R) và sống ở ven sông ven suối (Vs).
Môi trường rừng chiếm tỷ lệ cao nhất trong số các loài được điều tra, cho thấy sự gắn bó lâu đời của người dân với núi rừng Kiến thức phong phú của họ về các loài cây trong rừng phản ánh mối quan hệ mật thiết giữa con người và thiên nhiên.
Tỷ lệ số loài sống ở rừng chiếm cao nhất với 81,55% (84/103 loài), bao gồm các loài như Gắm (Gnetum montanum Markgr) chữa viêm đại tràng và Ráy (Alocasia macrorhizos (L.) G Don) chữa bệnh gút Sự hiểu biết về cây dược liệu đã cải thiện đời sống cộng đồng dân tộc, nhưng việc phụ thuộc vào rừng có thể làm giảm đa dạng sinh học và cạn kiệt nguồn tài nguyên cây thuốc Người dân đã nhận thức được giá trị của cây thuốc và bắt đầu trồng trong vườn nhà, với tỷ lệ cây thuốc sống ở vườn đạt 34,95% (36/103 loài), bao gồm Nghệ (Curcuma longa L.) và Mã đề (Plantago major L.).
Peliosanthes teta Andr is known for its benefits in enhancing male sexual health, while Piper lolot C DC, commonly referred to as lá lốt, is effective in alleviating back pain Notably, among the 103 species found along rivers and streams, only Ficus var badiostrigosa Corn, with a mere 0.97% prevalence, is utilized for bathing purposes.
Môi trường rừng chiếm tỷ lệ cao nhất trong số các loài cây thuốc được điều tra, tuy nhiên, số lượng cây thuốc trồng tại vườn nhà vẫn còn hạn chế Người dân địa phương cho biết, việc tìm kiếm cây thuốc trong rừng ngày càng khó khăn, thường phải vào sâu mới tìm được các loài như Paris chinensis Franch (Thất diệp) và Fibraurea recisa Pierre (Hoàng đằng), vốn được sử dụng để chữa trị các bệnh như ho, hen suyễn và viêm đường tiết niệu Mặc dù nhiều loài cây thuốc mọc hoang trong rừng đã được người dân đưa về trồng tại vườn, nhưng không có loài nào trong số đó là đặc hữu của Việt Nam.
Những cây thuốc thuộc diện cần bảo tồn ở Việt Nam đã ghi nhận được tại xã Phú Xuyên, huyện Đại Từ, tỉnh thái Nguyên
Kết quả điều tra đã xác định các loài cây thuốc thuộc diện cần bảo vệ ở khu vực xã Phú Xuyên được ghi tại Bảng 4.8.
Bảng 4.8 Danh lục cây thuốc thuộc diện cần bảo tồn ghi nhận
4 Thất diệp - Paris chinensis Franch
6 Sâm cau - Peliosanthes teta Andr
Theo Nghị định 06 của Chính phủ, để xác định các loài cây thuộc diện bảo tồn, cần tra cứu tên Việt Nam và tên khoa học trong Danh lục đỏ Việt Nam Khu vực nghiên cứu ghi nhận có 6 loài cây thuốc quý hiếm, đang bị đe dọa tuyệt chủng, thuộc 6 chi và 6 họ khác nhau trong ngành Ngọc lan (Magnoliophyta) Đặc biệt, 4 trong số các loài này đã được đưa vào Sách đỏ Việt Nam.
(2007) và trong Danh lục đỏ cây thuốc Việt Nam, 2 loài trong Nghị định 06 Dựa vào bảng trên đã thống kê được:
Cấp VU - Sâm cau (Peliosanthes teta Andr.) là một loài thực vật thuộc họ Mạnh môn đông, được ghi nhận trong sách đỏ Việt Nam năm 2007 Loài này có tác dụng quan trọng trong việc chữa trị các vấn đề sinh lý nam giới.
Cấp VU – Sắp nguy cấp trong danh lục đỏ cây thuốc Việt Nam 2006 có
Four notable medicinal plants include Gynostemma pentaphyllum, known for its ability to lower high blood pressure; Ardisia silvestris, which is effective in treating acid reflux; Paris chinensis, used for alleviating coughs and asthma; and Acanthopanax trifoliatus, recognized for its role in treating arthritis.
Cấp EN - nguy cấp trong sách đỏ Việt Nam năm 2007 ghi nhận ba loài thực vật quý hiếm Đầu tiên là Giảo cổ lam (Gynostemma pentaphyllum), thuộc họ Bầu bí (Cucurbitaceae), nổi bật với tác dụng hạ huyết áp Thứ hai là Khôi (Ardisia silvestris Pitard), thuộc họ Đơn nem (Myrsinaceae), có khả năng hỗ trợ điều trị trào ngược dạ dày Cuối cùng, Ngũ da b (Acanthopanax trifoliatus), thuộc họ Ngũ da bì (Araliaceae), được biết đến với công dụng chữa viêm khớp.
- Nghị định 06/NĐ - CP có 2 loài:
+ Thất diệp - Paris chinensis Franch thuộc họ Trọng lâu – Trilliaceae có tác dụng trị ho, hen suyễn.
+ Hoàng đằng - Fibraurea recisa Pierre thuộc họ Tiết dê, có tác dụng chữa viêm đường tiết niệu, đau khớp.
Trong quá trình nghiên cứu tại xã Phú Xuyên, huyện Đại Từ, tỉnh Thái Nguyên, tôi phát hiện có 6 loài cây thuốc đang bị đe dọa tuyệt chủng tại Việt Nam Điều này nhấn mạnh tầm quan trọng của việc nâng cao ý thức bảo vệ để bảo tồn nguồn gen quý hiếm, phục vụ cho công tác chữa bệnh lâu dài của cộng đồng địa phương.
Theo kết quả nghiên cứu công trình của Nguyễn Minh Hiếu và cs.
Nghiên cứu năm 2018 tại xã Liên Minh, huyện Võ Nhai, tỉnh Thái Nguyên cho thấy sự đa dạng và số lượng cây thuốc cần bảo vệ ở xã Phú Xuyên, huyện Đại Từ, tỉnh Thái Nguyên vượt trội hơn so với xã Liên Minh Cụ thể, trong khi xã Liên Minh chỉ ghi nhận 2 loài cây thuốc cần bảo tồn, thì xã Phú Xuyên đã phát hiện tới 6 loài.
Vốn tri thức bản địa trong việc sử dụng cây thuốc của cộng đồng dân tộc thiểu số ở xã Phú Xuyên, Huyện Đại Từ, Tỉnh Thái Nguyên
4.3.1 Kinh nghiệm sử dụng bộ phận làm thuốc của cộng đồng dân tộc thiểu sốở xã Phú Xuyên
Nghiên cứu về các bộ phận sử dụng của cây thuốc không chỉ làm rõ tính đa dạng trong khả năng chữa bệnh của chúng mà còn có ý nghĩa quan trọng đối với công tác bảo tồn và đánh giá tính bền vững trong việc khai thác tài nguyên cây thuốc của các dân tộc thiểu số Kinh nghiệm sử dụng cây thuốc của người dân tộc tại xã Phú Xuyên, huyện Đại Từ, tỉnh Thái Nguyên rất phong phú và đặc sắc, cho thấy sự đa dạng trong việc áp dụng các bộ phận khác nhau của cây để chữa bệnh Kết quả thống kê được tổng hợp trong Bảng 4.9 sẽ cung cấp cái nhìn rõ nét hơn về vấn đề này.
Bảng 4.9 Đa dạng của các bộ phận cây được sử dụng làm thuốc
(Ghi chú: Tỉ lệ % trong Bảng hơn 100% do một số loài có thể sử dụng nhiều bộ phận khác nhau làm thuốc): Dân tộc: 1 – Nùng, 2 – Dao.
(Bảng loài cây cụ thể theo từng bộ phận sử dụng của từng dân tộc trích phụ lục 4 trang 1).
Theo Bảng 4.9, cộng đồng dân tộc Nùng và Dao đã sử dụng 9 bộ phận cây thuốc để chữa trị bệnh cho người dân, trong đó cả cây và lá là hai bộ phận được sử dụng nhiều nhất.
Bộ phận sử dụng của cây là một yếu tố quan trọng trong đời sống của hai dân tộc, với dân tộc Dao sử dụng nhiều nhất, chiếm 69,07% trong tổng số 97 loài cây được khảo sát Dân tộc Nùng cũng tham gia sử dụng với tỷ lệ 60,0% từ 10 loài Các loài cây có giá trị như Móc (còng giòng) – Caryota urens L và cây Kim giao (2.Miền đìa chai) – Nageia fleuryi (Hickel) de Laub được biết đến với khả năng chữa trị các bệnh ngộ độc thức ăn và xoang.
Bộ phận lá của các loài thực vật được dân tộc Dao sử dụng nhiều nhất, với 40/97 loài, chiếm 44,33% tổng số loài điều tra, trong khi dân tộc Nùng chỉ sử dụng 3/10 loài, tương đương 30,00% Một số loài nổi bật trong nhóm này bao gồm cây Sổ (2.Sổ bà) thuộc họ Dillenniaceae, được dân tộc Dao sử dụng để tắm đan giật, và cây Đu đủ rừng (2.Nhiềm đèng kem).
Trevesia palmata (Roxb ex Lindl.) Visan được sử dụng để chữa bênh đau lưng,…
Cộng đồng dân tộc Dao đã sử dụng 28 trong số 97 loài thực vật (chiếm 28,87%) cho mục đích y học, trong khi cộng đồng Nùng biết sử dụng 2 trong 10 loài (chiếm 20,00%) Một số loài tiêu biểu bao gồm cây Mắc ca (Macadamia integrifolia) được dùng để chữa tim đập thất thường và bảo vệ sức khỏe tim mạch, cùng với cây Khế (Averrhoa carambola L) được sử dụng để điều trị dị ứng.
Sự phân bố không đồng đều của các bộ phận sử dụng làm thuốc chịu ảnh hưởng bởi đặc tính thời vụ, quan niệm chữa bệnh, loại bệnh và hạn chế về số lượng các loài cây thuốc.
4.3.2 Kinh nghiệm về nhóm bệnh chữa trị của cộng đồng dân tộc thiểu số ở xã Phú Xuyên
Nghiên cứu đã chỉ ra rằng cộng đồng dân tộc Dao và Nùng tại khu vực nghiên cứu đã sử dụng cây thuốc để phòng ngừa và chữa trị cho 16 nhóm bệnh khác nhau.
Kết quả chi tiết được ghi tại Bảng 4.10:
Bảng 4.10 Tỷ lệ số loài có công dụng chữa các nhóm bệnh cụ thể
STT Nhóm bệnh chữa trị
Nhóm bệnh đường tiêu hóa (viêm đại tràng, trĩ,
1 nhiễm trùng đường ruột, loét dạ dày, viêm đường ruột,…) Nhóm bệnh về xương khớp, hệ vận động (gai cột
2 sống, thấp khớp, phong thấp, đau cơ khớp, gút,…)
3 Nhóm bệnh đường tiết niệu (viêm thận, tan sỏi thận, thận hư, phù thận, suy thận,…)
4 Nhóm bệnh phụ nữ, sinh sản, sinh dục, sinh lý
(viêm nhiễm phụ khoa, tắc sữa, điều kinh,…)
5 Nhóm bệnh về gan (viêm gan B, đau gan, xơ gan, giải độc gan, mát gan)
6 Nhóm bệnh của trẻ em (tắm trẻ em, cam sài trẻ con, tắm đan giật, cam trẻ con)
7 Nhóm bệnh ngoài da (dị ứng ngoài da, mụn nhọt, đắp nhọt,…)
8 Nhóm bệnh đường hô hấp (ho, hen suyễn, viêm họng)
9 Nhóm bệnh về mắt (sạch mắt)
10 Nhóm bệnh về mũi (xoang, viêm xoang mũi)
11 Nhóm bệnh về tim mạch (suy tim, tim đập thất thường, loan nhịp tim, bảo về tim khỏe)
12 Nhóm bệnh về thần kinh ( huyết áp cao, mỡ máu, máu trắng )
14 Nhóm bệnh do thời tiết (Trúng gió )
Nhóm bệnh về ung bướu (…Ung thư lá nách, Trị
16 Nhóm về ngộ độc ( giải độc )
Tổng số loài phát hiện của mỗi dt:
Chú thích: Tỷ lệ % ở bảng lớn hơn 100 do một số loài có thể sử dụng chữa.
(Bảng tên chi tiết các loài cây theo bộ nhóm bệnh trích phụ lục 4 trang 2).
Hình 4.2: Tỷ lệ nhóm bệnh chữa trị từ nguồn cây thuốc theo kinh nghiệm sử dụng trong cộng đồng dân tộc
Theo điều tra, người dân địa phương sử dụng cây thuốc để điều trị 16 nhóm bệnh khác nhau, bao gồm cả những bệnh nan y như gan, thận và tim Trong số đó, 4 nhóm bệnh chủ yếu nhận được sự quan tâm trong việc sử dụng cây thuốc.
Cộng đồng dân tộc Nùng sử dụng một số lượng lớn cây thuốc để chữa trị, tập trung chủ yếu vào hai nhóm bệnh Nhóm bệnh đường tiết niệu chiếm 30% với 3/11 loài cây, trong khi nhóm bệnh phụ nữ, sinh sản, sinh dục, sinh lý chiếm 20% với 2/11 loài cây.
Cộng đồng dân tộc Dao sử dụng một số lượng lớn cây thuốc để chữa trị, tập trung chủ yếu vào ba nhóm bệnh Nhóm bệnh đường tiêu hóa chiếm 20,62% với 20/110 loài cây, trong khi nhóm bệnh về xương khớp và hệ vận động chiếm 24,74% với 24/110 loài cây.
Nhóm bệnh phụ nữ, sinh sản, sinh dục và sinh lý trong cộng đồng người Dao bao gồm 14 trong tổng số 110 loài cây, chiếm tỷ lệ 14,43% so với tổng số loài được sử dụng theo kinh nghiệm dân gian.
Kinh nghiệm sử dụng cây cỏ làm thuốc của các dân tộc thiểu số Nùng và Dao ở xã Phú Xuyên rất phong phú Dân tộc Dao nổi bật với sự đa dạng trong việc sử dụng cây thuốc, thể hiện qua số lượng loài cây và nhóm bệnh mà họ có khả năng chữa trị cho cộng đồng.
4.3.3 Ảnh hưởng của sự giao thoa giữa các dân tộc đến vốn tri thức bản địa trong việc sử dụng cây thuốc ở xã Phú Xuyên
Mỗi cộng đồng dân tộc, qua thời gian dài sinh sống và lịch sử chinh phục thiên nhiên, đã phát triển những sáng tạo riêng biệt trong việc chăm sóc sức khỏe Dân tộc Nùng và Dao tại xã Phú Xuyên đã khai thác nguồn tài nguyên cây cỏ tự nhiên để chữa bệnh, thể hiện tập quán lâu đời trong việc sử dụng cây thuốc Kinh nghiệm này được truyền từ thế hệ này sang thế hệ khác, cho thấy sự quan trọng của cây thuốc trong đời sống của cả hai dân tộc Dưới đây là bảng kết quả về các loại cây thuốc mà cả Nùng và Dao cùng sử dụng để chữa bệnh.
Bảng 4.11 Danh sách cây thuốc được cả 2 dân tộc Nùng, Dao tại xã Phú Xuyên sử dụng STT
Theo Bảng 4.11, hai dân tộc này cùng sử dụng ba loài cây thuốc thuộc ba họ thực vật khác nhau Những loài cây này chủ yếu mọc tự nhiên trong rừng, quanh làng, đồi cây bụi, đồi trọc, trảng cỏ và ven suối.
Kinh nghiệm sử dụng cây thuốc thường chỉ được truyền miệng trong từng cộng đồng, dẫn đến nguy cơ mai một cao Do đó, cần có biện pháp thu thập và phổ biến tri thức quý giá này để phục vụ công tác chữa bệnh Mặc dù mỗi dân tộc có ngôn ngữ riêng, sự giao thoa giữa các dân tộc sống xen kẽ nhau đã tạo ra ảnh hưởng nhất định về ngôn ngữ và tri thức bản địa trong việc sử dụng cây thuốc.
Đánh giá hoạt tính kháng khuẩn của một số loài cây thuốc được sử dụng
Dựa trên nghiên cứu về kinh nghiệm sử dụng cây thuốc của các cộng đồng dân tộc trong khu vực, tôi đã chọn cây Mã tiền lông (Strychnos ignatii Berg) và cây Vẩy ốc (Phyllanthus virgatus Forst & Forst F) để đánh giá hoạt tính kháng khuẩn Kết quả của nghiên cứu được trình bày trong bảng 4.14 và hình 4.4.
Bảng 4.14 Hoạt tính kháng khuẩn của cao chiết từ cây Mã tiền lông và cây
Vẩy ốc Đơn vị tính: mm
Dữ liệu cho thấy, hai loài khảo sát là Mã tiền lông và Vẩy ốc đều có khả năng ức chế hoạt động của vi khuẩn gây bệnh Cụ thể, Mã tiền lông ức chế vi khuẩn Gram dương (S Aureus) với vòng ức chế đạt 23,4 mm và vi khuẩn Gram âm (E coli) với vòng 25,1 mm Tương tự, cây Vẩy ốc cho kết quả 10,7 mm với S aureus và 23 mm với E coli Cả hai loài đều thể hiện hoạt tính ức chế cao đối với vi khuẩn Gram âm.
So sánh hoạt tính kháng khuẩn giữa hai loài cây Mã tiền lông và Vẩy ốc cho thấy loài Mã tiền lông có hiệu quả kháng khuẩn mạnh hơn Mặc dù cả hai loài đều thể hiện hoạt tính kháng khuẩn khá tốt, nhưng khả năng ức chế vi khuẩn Gram dương của chúng vẫn thấp hơn so với kháng sinh Kanamicin Đặc biệt, sự khác biệt này không đáng kể ở loài Mã tiền lông Khi so với đối chứng âm (dung môi), cả hai loài đều cho thấy tính kháng khuẩn, trong khi đối chứng âm không có khả năng ức chế vi khuẩn gây bệnh Gram dương (S Aureus) và Gram âm (E coli).
Dựa trên phân tích hoạt tính kháng khuẩn, tôi khuyến nghị sử dụng cây Mã tiền lông và Vẩy ốc để phòng ngừa và kiểm soát các bệnh nhiễm khuẩn do S aureus (Tụ cầu vàng) và E coli Kết quả này cung cấp bằng chứng khoa học về việc áp dụng các cây thuốc này trong việc phòng chống bệnh nhiễm khuẩn, đặc biệt trong cộng đồng các dân tộc thiểu số tại xã Phú Xuyên, huyện Đại Tư, tỉnh Thái Nguyên.
Hình 4.3: Hoạt tính ức chế E coli và S aureus của cây Mã tiền lông và cây Vẩy ốc
Chú thích: TVC: Staphylococus aureus; E coli: Escherichia coli; ĐC: Đối chứng âm (Dung môi); K1: Đối chứng dương (Amikacin); K2: Đối chứng dương (Kanamicin); MTL: Mã tiền lông; VO: Vẩy ốc