Khái niệ m v ề văn hóa và văn hóa tộc ngườ i
Khái niệm về văn hóa
Văn hóa là tập hợp các giá trị vật chất và tinh thần mà con người tạo ra thông qua lao động và hoạt động thực tiễn trong suốt lịch sử Nó phản ánh trình độ phát triển xã hội ở mỗi thời kỳ lịch sử cụ thể.
Khi nghiên cứu quy luật vận động và phát triển của xã hội loài người, C.Mác và Ph.Ăngghen đã khái quát các hoạt động của xã hội thành hai hình thức chính, trong đó có đời sống tộc người H’mong.
-Đề xuất các phương pháp khai thác, giữ gìn nét văn hóa vốn có của dân tộc H’mong phục vụ du lịch.
Văn hóa bao gồm hai loại hình hoạt động cơ bản: sản xuất vật chất và sản xuất tinh thần Điều này cho thấy rằng văn hóa không chỉ phản ánh các giá trị và ý tưởng mà còn bao gồm cả những sản phẩm vật chất mà con người tạo ra trong cuộc sống hàng ngày.
Văn hóa vật chất thể hiện năng lực sáng tạo của con người qua các sản phẩm cụ thể, trong khi văn hóa tinh thần bao gồm tư tưởng, lý luận và giá trị được hình thành trong đời sống tinh thần Những giá trị này không chỉ cần thiết cho hoạt động tinh thần mà còn định hướng cho hành vi và ứng xử của con người, bao gồm tri thức, kỹ năng và giá trị khoa học, nghệ thuật được tích lũy qua lịch sử Đồng thời, văn hóa tinh thần cũng phản ánh nhu cầu và thị hiếu của con người cùng các phương thức thỏa mãn những nhu cầu này.
Văn hóa gắn liền với con người và việc phát huy các năng lực bản chất của họ để hoàn thiện bản thân Chính vì vậy, văn hóa hiện diện trong mọi hoạt động của con người, từ các lĩnh vực thực tiễn đến đời sống tinh thần trong xã hội.
Văn hóa, với tư cách là hoạt động tinh thần của con người, luôn bị ảnh hưởng bởi cơ sở kinh tế và chính trị của mỗi chế độ xã hội Để hiểu rõ bản chất của văn hóa, không thể tách rời nó khỏi các yếu tố kinh tế và chính trị Trong xã hội có giai cấp, văn hóa mang tính giai cấp, phản ánh sự chi phối của phương thức sản xuất vật chất Điều kiện sinh hoạt vật chất của mỗi giai cấp, đặc biệt là giai cấp thống trị, đóng vai trò quyết định trong việc hình thành các nền văn hóa khác nhau.
Văn hóa không chỉ là một khía cạnh của đời sống xã hội mà còn phản ánh ý thức hệ và tính giai cấp, giúp hiểu rõ sự vận động của văn hóa trong xã hội có giai cấp Nền văn hóa được hình thành và phát triển dựa trên cơ sở kinh tế - chính trị của từng thời kỳ lịch sử, trong đó ý thức hệ của giai cấp thống trị ảnh hưởng đến phương hướng phát triển và quyết định hệ thống chính sách, pháp luật quản lý các hoạt động văn hóa.
Mọi nền văn hóa trong xã hội có giai cấp đều mang tính giai cấp, phản ánh bản chất của giai cấp cầm quyền Văn hóa không chỉ có tính kế thừa mà còn thể hiện sự kế thừa giai cấp, được biểu hiện rõ ràng trong nền văn hóa của từng thời kỳ lịch sử dựa trên cơ sở kinh tế và chính trị của nó.
Một nền kinh tế vững mạnh cần dựa trên các nguyên tắc công bằng, nhằm cải thiện đời sống của người lao động, từ đó góp phần hình thành một nền văn hóa tinh thần lành mạnh Ngược lại, nếu nền kinh tế được xây dựng trên sự bất bình đẳng và chế độ tư hữu với sự phân hóa sâu sắc, thì nền văn hóa sẽ không thể phát triển một cách lành mạnh.
Kinh tế được xem là nền tảng vật chất của văn hóa, trong khi chính trị đóng vai trò quyết định hướng đi của sự phát triển văn hóa và hình thành nội dung ý thức hệ của nó.
Trong xã hội có giai cấp, các giai cấp thống trị qua từng thời kỳ lịch sử đã để lại dấu ấn sâu sắc trong quá trình phát triển văn hóa, từ đó hình thành nền văn hóa đặc trưng của xã hội đó.
Văn hóa ở Việt Nam được định nghĩa đa dạng, với Hồ Chí Minh nhấn mạnh rằng văn hóa bao gồm tất cả những sáng tạo và phát minh của con người như ngôn ngữ, đạo đức, và nghệ thuật, tạo nên một “bách khoa toàn thư” về đời sống Phạm Văn Đồng mở rộng khái niệm văn hóa, coi nó là hệ thống giá trị liên quan đến tư tưởng, tình cảm, và sự phát triển của con người trong lịch sử Nguyễn Đức Từ Chi tiếp cận văn hóa từ hai góc độ: góc độ hẹp là “góc nhìn báo chí”, nơi văn hóa chỉ được đánh giá qua kiến thức sách vở, và góc độ dân tộc học, trong đó văn hóa được hiểu là toàn bộ cuộc sống vật chất, xã hội và tinh thần của từng cộng đồng, phản ánh sự khác biệt giữa các tộc người trong môi trường sống khác nhau Văn hóa vì vậy không chỉ là sản phẩm của tri thức mà còn là biểu hiện của bản sắc và sự kiểm soát xã hội.
Trong những năm gần đây, nhiều nhà nghiên cứu tại Việt Nam và quốc tế thường trích dẫn định nghĩa văn hóa của UNESCO từ năm 1994 Theo UNESCO, văn hóa được hiểu theo hai nghĩa: nghĩa rộng và nghĩa hẹp Nghĩa rộng cho rằng văn hóa là một phức hệ tổng hợp các đặc trưng tinh thần, vật chất, tri thức và tình cảm, phản ánh bản sắc của cộng đồng như gia đình, xóm làng, vùng miền, quốc gia và xã hội Văn hóa không chỉ bao gồm nghệ thuật và văn chương mà còn bao hàm lối sống, quyền cơ bản của con người, hệ thống giá trị, truyền thống và tín ngưỡng Trong khi đó, nghĩa hẹp định nghĩa văn hóa là tổng thể các hệ thống biểu trưng chi phối cách ứng xử và giao tiếp trong cộng đồng, tạo nên những đặc thù riêng biệt.
Văn hóa hiện nay có nhiều định nghĩa đa dạng, mỗi định nghĩa nhấn mạnh các khía cạnh khác nhau Theo Tylor và Hồ Chí Minh, văn hóa là tập hợp những thành tựu của con người trong quá trình phát triển, bao gồm tri thức, tôn giáo, đạo đức, ngôn ngữ, âm nhạc, và pháp luật Ngược lại, F Boas, Nguyễn Đức Từ Chi và UNESCO mở rộng định nghĩa văn hóa đến tất cả các lĩnh vực mà con người đạt được trong cuộc sống Dựa trên những định nghĩa này, chúng tôi xác định văn hóa là sản phẩm của con người trong quá trình lao động, chịu ảnh hưởng bởi môi trường tự nhiên, xã hội và tính cách của từng tộc người Văn hóa giúp con người khác biệt với các loài động vật và mang những đặc trưng riêng biệt ở mỗi tộc người.
1.1.3 Đặc trưng và chức năng của văn hóa
Văn hóa phải có tính hệ thống:
Đặc trưng này rất quan trọng để phân biệt hệ thống với tập hợp, giúp phát hiện các mối liên hệ chặt chẽ giữa các hiện tượng và sự kiện trong một nền văn hóa, cũng như nhận diện các đặc điểm và quy luật hình thành, phát triển của nó.
L ị ch s ử hình thành tộc người H’mong ở Sapa Lào Cai
Dân tộc H’mong, với khoảng 800.000 người, thuộc nhóm ngôn ngữ Hmông-Dao, đã di cư từ các vùng như Quý Châu, Vân Nam và Quảng Tây (Trung Quốc) vào Việt Nam khoảng 300 năm trước Sự di cư này diễn ra qua nhiều đợt và kéo dài cho đến cuối thế kỷ XIX, chủ yếu do các cuộc chiến tranh tàn bạo và sự đàn áp của các triều đại phong kiến Trung Hoa, buộc người Hmông phải rời bỏ quê hương để tìm kiếm nơi ở mới.
Điểm khởi đầu cho hành trình khám phá của họ là Mèo Vạc, nằm trên cao nguyên Đồng Văn (Hà Giang), được xem là nơi địa đầu Tổ quốc Việt Nam Cao nguyên Đồng Văn không chỉ là quê hương của người Hmông, mà còn là biểu tượng văn hóa của họ Người Hmông tại Việt Nam được chia thành 4 nhóm chính: Hmông Hoa, Hmông Đen, Hmông Xanh và Hmông Trắng Mặc dù có sự phân chia này, ngôn ngữ và văn hóa của các nhóm Hmông vẫn có nhiều điểm tương đồng, với sự khác biệt chủ yếu nằm ở trang phục của phụ nữ.
Dân tộc Hmông phân bố rộng rãi tại các tỉnh miền núi phía Bắc Việt Nam như Quảng Ninh, Lạng Sơn, Bắc Cạn, Cao Bằng, Hà Giang, Tuyên Quang, Yên Bái, Lào Cai, Lai Châu, Điện Biên, Sơn La, Hòa Bình, Thanh Hóa, Nghệ An và một số ít ở Phú Thọ Sau năm 1975, một bộ phận người Hmông di cư vào các tỉnh Tây Nguyên Người Hmông tại Việt Nam có mối quan hệ chặt chẽ về nguồn gốc, ngôn ngữ và văn hóa với cộng đồng người Mẹo ở Lào, người Mông ở Thái Lan, người Miêu ở Trung Quốc và Myanmar.
Tộc người Hmông, cư trú ở độ cao từ 700m đến 1.500m tại miền núi phía Bắc Việt Nam và Tây Nguyên, vẫn giữ gìn được bản sắc văn hóa độc đáo trong cộng đồng dân tộc Việt Nam.
Điề u ki ệ n kinh t ế - xã hộ i
2.2.1 Thực trạng về kinh tế tộc người H’mong
Đồng bào dân tộc H’mông chủ yếu canh tác trên diện tích lúa nước và nương trồng ngô, đỗ Năm 2012, khảo sát tại 1.757 hộ cho thấy 93,34% đã áp dụng giống lúa mới và ngô mới có năng suất cao vào sản xuất Tại 45 thôn bản, 42 mô hình sản xuất nông, lâm nghiệp đã được triển khai, với 1.870 lượt người được tập huấn kỹ thuật và 1.044 hộ được hỗ trợ máy móc, thiết bị Hơn 4.440 hộ cũng nhận được hỗ trợ vật tư sản xuất và khai hoang mới diện tích lúa nước, đồng thời mở rộng thâm canh lúa, ngô hàng hóa và hình thành các vùng trồng cây ăn quả, thuốc lá, chè, sắn Ngoài ra, một số thôn bản đã được quy hoạch trồng cây cao su Số hộ có nguyện vọng vay vốn hỗ trợ sản xuất ngày càng tăng, với 68,86% số hộ sử dụng nguồn vốn vay để phát triển sản xuất.
Năm 2012, khảo sát và phỏng vấn 1.757 hộ tại 19 xã cho thấy tổng đàn đại gia súc đạt 10.078 con, trong đó có 8.282 trâu, 993 bò và 803 ngựa, trung bình mỗi hộ nuôi 1,25 con Đàn lợn ghi nhận 19.980 con, với trung bình 2,48 con mỗi hộ Ngoài ra, có hơn 80.000 con gia cầm, trung bình mỗi hộ sở hữu khoảng 15 con.
Lào Cai có diện tích đất lâm nghiệp và rừng chiếm 79,67% tổng diện tích tự nhiên, tương đương 336.210,6 ha, với hơn 80% dân số là đồng bào dân tộc thiểu số phụ thuộc vào tài nguyên rừng Theo Chỉ thị 38 của Chính phủ, tỉnh đã hoàn tất việc cắm 4.946 mốc giới các loại rừng theo mục đích sử dụng, đồng thời chuyển hơn 200.000 ha đất lâm nghiệp và rừng phòng hộ ít xung yếu để phát triển rừng sản xuất Tính đến năm 2012, Lào Cai đã cơ bản hoàn thành việc giao đất lâm nghiệp.
Hơn 286 nghìn ha đất lâm nghiệp đã được giao cho hơn 50 nghìn hộ gia đình và 15 tổ chức để thực hiện khoanh nuôi, bảo vệ và trồng rừng kinh tế Sau hai năm triển khai đề án chuyển đổi nương rẫy sang trồng rừng, gần 400 hộ nông dân tại ba huyện nghèo Mường Khương, Bắc Hà và Si Ma Cai đã chuyển đổi 350 ha nương rẫy sang trồng các loại cây bản địa như trám, sơn tra, trẩu và tre măng Bát Độ Những loại cây này không chỉ có khả năng thích nghi cao mà còn mang lại hiệu quả kinh tế cao thông qua việc cung cấp gỗ và quả, hạt để bán ra thị trường.
Thương mại và dịch vụ đang phát triển mạnh mẽ tại vùng đồng bào dân tộc Mông, đặc biệt ở các địa phương như Hầu Thào và Lao Chải Sự hình thành ban đầu của ngành du lịch tại đây đã mở ra nhiều cơ hội mới cho người dân địa phương, góp phần nâng cao đời sống và bảo tồn văn hóa dân tộc.
Tại các xã như Bản Phố (Bắc Hà), Sín Chéng (Si Ma Cai) và Bản Lầu (Mường Khương), nhiều hộ gia đình đã tự mua hoặc góp vốn để sở hữu ô tô tải, nhằm phục vụ việc vận chuyển vật liệu và nông sản cho bản thân và cộng đồng Tuy nhiên, lĩnh vực này vẫn còn tiềm năng lớn chưa được khai thác và phát triển, đặc biệt trong cộng đồng dân tộc H’mông.
2.2.2 Thực trạng cơsở hạ tầngdu lịch
Tại tỉnh, trong số 462 thôn bản với hơn 90% dân tộc H’mông, chỉ có 11,9% thôn bản được đầu tư đường nhựa, trong khi 35,28% có đường cấp phối và 49,36% làm đường đất Đáng chú ý, 16 thôn bản vẫn chưa có đường liên thôn, với 3,46% đi lại bằng đường mòn Trong 45 thôn bản được khảo sát, tỷ lệ hộ sở hữu xe máy đạt 72,90%.
Tỉnh đã bê tông hóa 69,8% công trình thủy lợi, giúp chủ động tưới tiêu cho 86,16% diện tích lúa, đáp ứng nhu cầu sản xuất và dân sinh Hiện tại, tổng chiều dài kênh mương kiên cố đạt 843 km, góp phần vào tiêu chí nông thôn mới về thủy lợi, với 120/144 xã đạt tiêu chí này Tuy nhiên, vẫn còn 110 thôn bản vùng dân tộc H’mông chưa được đầu tư thủy lợi (chiếm 24%) Tại 19 xã khảo sát, có 15.870m kênh mương được cứng hóa, chiếm 83,63%, giúp giảm thất thoát nước và công sức lao động của người dân, hỗ trợ sản xuất nông nghiệp, đảm bảo an ninh lương thực và ổn định đời sống, đồng thời tạo ra sản phẩm để bán ra thị trường.
Việc phát sóng qua vệ tinh VINASAT1 đã bao phủ 100% địa bàn, với số giờ phát sóng tiếng dân tộc tăng từ 1700 giờ năm 2012 lên 2700 giờ năm 2013 Tỷ lệ hộ dân sở hữu thiết bị xem truyền hình đạt 79%, trong khi 87% hộ dân được xem truyền hình Việt Nam và 65% hộ dân xem truyền hình Lào Cai Tỷ lệ hộ dân nghe đài Tiếng nói Việt Nam là 97%, và 98% hộ dân nghe phát thanh địa phương Khảo sát tại 19 xã cho thấy 77,50% hộ dân tộc H’mông có khả năng xem truyền hình, với 3315 hộ nghe đài Tiếng nói Việt Nam, chiếm 80,18% Đến cuối năm 2012, toàn tỉnh có 131 xã có điểm bưu điện văn hóa xã, 912 trạm phát sóng di động, và 85% thôn bản được phủ sóng điện thoại di động, đáp ứng tốt nhu cầu sử dụng dịch vụ điện thoại và internet của người dân.
Tính đến năm 2012, toàn tỉnh có 164 xã, phường, thị trấn được cung cấp điện, đạt tỷ lệ 100% Trong số 2.187 thôn bản, 1.869 thôn có điện, tương đương 85,5% Tại khu vực nông thôn, 100% các xã (143/143) và 80,4% thôn bản (1.344/1.671) có điện, với 87,4% hộ nông thôn (120.715/138.082) được sử dụng điện Đến tháng 4/2014, vẫn còn 261 thôn bản chưa có điện, trong đó 16.530 hộ đồng bào H’mông chiếm 67,61% được sử dụng điện lưới.
Trong những năm gần đây, Nhà nước đã đầu tư cho nhiều thôn bản người Mông để cải thiện hệ thống nước sinh hoạt, như xây dựng bể nước và lu nước Tỷ lệ hộ sử dụng nước sinh hoạt hợp vệ sinh năm 2010 đạt 83,82%, nhưng đến năm 2012 giảm xuống còn 80,14% (thành thị 87,88%; nông thôn 77,24%) Trong số đó, có 16.290 hộ dân tộc H’mông được cấp nước sinh hoạt, chiếm 66,62% Tuy nhiên, nhiều công trình nước được đầu tư hoạt động không hiệu quả; tại huyện Sa Patính, tính đến tháng 7/2014, trong số 140 công trình cấp nước sinh hoạt tập trung, chỉ có 27 công trình hoạt động tốt, 94 công trình hoạt động kém và 19 công trình hỏng hoàn toàn.
Về tỷ lệ hộ sử dụng hố xí hợp vệ sinh toàn tỉnh, năm 2010 là 55,88 % (thành thị
Theo số liệu khảo sát, tỷ lệ hộ gia đình sử dụng hố xí hợp vệ sinh trong cộng đồng người H’mông còn thấp, với 58,67% chưa áp dụng Năm 2012, tỷ lệ này ở khu vực thành thị đạt 100%, trong khi nông thôn chỉ là 34,49% Tỷ lệ chung cho toàn quốc là 55,30%, cho thấy sự chênh lệch rõ rệt giữa các khu vực.
Theo Sở Văn hóa Thể thao và Du lịch tỉnh Lào Cai, hiện tỉnh có 867 cơ sở lưu trú với hơn 10.000 buồng, đạt công suất sử dụng phòng bình quân khoảng 60% Tỉnh cũng sở hữu trên 500 nhà hàng phục vụ du khách và nhiều khu vui chơi giải trí đang phát triển như cáp treo Fansipan, Hàm Rồng, Cát Cát (Sa Pa), Hồ Na Cồ (Bắc Hà), công viên Nhạc Sơn, cùng các khu tổ hợp dịch vụ và giải trí, đáp ứng nhu cầu đa dạng của du khách.
2.2.3 Thực trạng văn hóa, xã hội tộc người H’mông
Tại các xã có đông người H’mông, tỷ lệ học sinh dân tộc Mông đến trường đạt cao, với 90% ở bậc mầm non, 98% ở tiểu học và 97% ở THCS Việc dạy và học tiếng nói, chữ viết của dân tộc H’mông đã được triển khai tại một số trường mầm non và tiểu học ở 4 huyện Bắc Hà, Si Ma Cai, Sa Pa và Mường Khương Đội ngũ giáo viên dân tộc H’mông cũng đang được tăng cường, từ 176 giáo viên (1,72%) năm 2003 lên 409 giáo viên (2,45%) vào năm 2012.
65 giáo viên có trình độ cao đẳng, đại học; năm 2012có 223 giáo viên có trình độ cao đẳng, đại học và 03 giáo viên có trình độ trên đại học
Lễ hội truyền thống của đồng bào H’mông, như lễ hội Gầu tào và các hoạt động múa khèn, thổi sáo, đàn môi, đang được gìn giữ và phát huy Tuy nhiên, giới trẻ hiện nay đang dần mất đi những giá trị văn hóa đặc trưng, như trang phục truyền thống và các phong tục thờ cúng tổ tiên Sự suy giảm này đặc biệt rõ ràng trong các lễ hội dân tộc H’mông, nơi mà hát dân ca và các hoạt động văn hóa truyền thống khác gần như không còn được thực hiện.