1. Trang chủ
  2. » Luận Văn - Báo Cáo

Khóa luận nghiên cứu khai thác lễ hội đền trần hưng hà thái bình phục vụ phát triển du lịch

66 29 0

Đang tải... (xem toàn văn)

Tài liệu hạn chế xem trước, để xem đầy đủ mời bạn chọn Tải xuống

THÔNG TIN TÀI LIỆU

Thông tin cơ bản

Tiêu đề Nghiên Cứu Khai Thác Lễ Hội Đền Trần Hưng Hà Thái Bình Phục Vụ Phát Triển Du Lịch
Tác giả Phạm Văn Duy
Người hướng dẫn Ths. Nguyễn Thị Phương Thảo
Trường học Trường Đại Học Dân Lập Hải Phòng
Chuyên ngành Văn Hóa Du Lịch
Thể loại khóa luận tốt nghiệp
Năm xuất bản 2018
Thành phố Hải Phòng
Định dạng
Số trang 66
Dung lượng 1,19 MB

Cấu trúc

  • CHƯƠNG 1: CƠ SỞ LÝ LUẬ N V Ề L Ễ H ỘI VÀ DU LỊ CH L Ễ H Ộ I (8)
    • 1.1. Cơ sở lý luậ n v ề l ễ h ộ i (8)
      • 1.1.1. Khái niệ m l ễ h ội và mố i quan h ệ gi ữ a l ễ và hộ i (8)
        • 1.1.1.1. Khái niệ m v ề l ễ h ộ i (8)
        • 1.1.1.2. M ố i quan h ệ gi ữ a l ễ và hộ i (9)
      • 1.1.2. Đặc điể m c ủ a l ễ h ộ i (10)
        • 1.1.2.1. V ề th ờ i gian (10)
        • 1.1.2.2. V ề không gian (10)
        • 1.1.2.3. V ề quy trình tổ ch ứ c l ễ h ộ i (10)
      • 1.1.3. Phân loạ i l ễ h ội và cấu trúc lễ h ộ i (11)
        • 1.1.3.1. Phân loạ i l ễ h ộ i (11)
        • 1.1.3.2. C ấu trúc lễ h ộ i. ........................................ Error! Bookmark not defined. 1.2. Du l ị ch l ễ h ộ i (0)
      • 1.2.1. Khái niệ m (14)
    • 1.3. Vai t rò củ a l ễ h ội trong đờ i s ống văn hóa con người và đố i v ớ i du l ị ch (16)
      • 1.3.1. Vai trò củ a l ễ h ộ i v ới đờ i s ống văn hóa (16)
      • 1.3.2. Vai trò củ a l ễ h ộ i v ớ i du l ị ch (16)
    • 1.4. Tác độ ng qua l ạ i gi ữ a l ễ h ội và du lị ch (18)
      • 1.4.1. Tác động tích cự c c ủ a l ễ h ội và du l ị ch (18)
      • 1.4.2. Tác động tiêu cự c c ủ a l ễ h ội đế n du l ị ch (20)
  • CHƯƠNG 2: THỰ C TR ẠNG KHAI THÁC LỄ H ỘI ĐỀ N TR ẦN, THÁI BÌNH (22)
    • 2.1. Khái quát về Đề n Tr ần, Thái Bình (22)
      • 2.1.1. V ị trí địa lý, lị ch s ử hình thành Đề n Tr ầ n (22)
      • 2.1.2. Các giá trị c ủa Đề n Tr ần, Thái Bình (24)
    • 2.2. Khái quát về l ễ h ội Đề n Tr ầ n (30)
      • 2.2.1. L ị ch s ử hình thành và phát triể n (30)
      • 2.2.2. Các yế u t ố c ấu thành củ a l ễ h ội đề n Tr ầ n (31)
      • 2.2.3. Nh ững giá trị đặ c s ắ c c ủ a l ễ h ộ i (36)
      • 2.2.4. Vai trò củ a l ễ h ội Đề n Tr ầ n v ớ i s ự phát triể n du l ị ch c ủa địa phương (37)
    • 2.3. Th ự c tr ạng khai thác lễ h ội Đề n Tr ần , Thái Bình phụ c v ụ phát triể n du l ị ch (39)
      • 2.3.1. S ố lượng khách, đối tượng khách (39)
      • 2.3.2. Các hoạt độ ng c ủ a du khách khi đế n l ễ h ộ i (40)
      • 2.3.3. Các dị ch v ụ ph ụ c v ụ khách du lị ch trong l ễ h ộ i (40)
      • 2.3.4. Công tác tổ ch ứ c l ễ h ộ i (0)
      • 2.3.5. Th ự c tr ạ ng v ề công tác sử d ụng cơ sở h ạ t ầng, cơ sở v ậ t ch ất kĩ thuậ t (43)
    • 2.4. Đánh giá những tích cự c, h ạ n ch ế trong khai thác lễ h ội Đề n Tr ần cho phát (45)
      • 2.4.1. Tích cự c (45)
      • 2.4.2. H ạ n ch ế (47)
  • CHƯƠNG 3: GI ẢI PHÁP KHAI THÁC HIỆ U QU Ả L Ễ H ỘI ĐỀ N TR ẦN,THÁI BÌNH ĐỂ PHÁT TRIỂ N DU L Ị CH (49)
    • 3.1. Định hướng phát triể n du l ị ch ở Đề n Tr ầ n, Thái Bình (49)
    • 3.2. M ộ t s ố g ải pháp phát triể n du l ị ch t ại đề n Tr ầ n (49)
      • 3.2.1. Gi ải pháp quản lý khai thác và phát huy các giá trị c ủ a l ễ h ộ i trong phát (49)
      • 3.2.2. Tu b ổ c ả i t ạo di tích đề n Tr ần và lễ h ội đề n Tr ầ n (51)
      • 3.2.3. Gi ải pháp tuyên truyền và quảng bá (52)
      • 3.2.4. Đào tạ o ngu ồn nhân lự c du l ị ch (53)
      • 3.2.5. Xây dựng các chương trình , và các sả n ph ẩ m du l ịch đặc trưng (55)
      • 3.2.6. Xây dựng thương hiệ u cho du l ịch văn hóa ở Khu di tích đề n Tr ần (Hưng Hà - Thái Bình) (58)

Nội dung

CƠ SỞ LÝ LUẬ N V Ề L Ễ H ỘI VÀ DU LỊ CH L Ễ H Ộ I

Cơ sở lý luậ n v ề l ễ h ộ i

1.1.1 Khái niệ m l ễ h ội và mố i quan h ệ gi ữ a l ễ và hộ i

Mỗi quốc gia và vùng miền đều có cách tổ chức lễ hội riêng, dẫn đến nhiều định nghĩa khác nhau về hình thức sinh hoạt văn hóa này Dưới đây là một số khái niệm tiêu biểu về "Lễ hội".

Khi nghiên cứu về đặc tính và ý nghĩa “Lễ hội” ở Nga, M Bachie cho rằng lễ hội là cuộc sống được tái hiện qua tế lễ và trò biểu diễn, phản ánh cuộc sống chiến đấu của cộng đồng Tuy nhiên, để trở thành lễ hội, cuộc sống cần được thăng hoa và kết nối với thế giới tâm linh, vượt lên trên thực tại Ở Việt Nam, khái niệm lễ hội chỉ mới xuất hiện gần đây, với các thuật ngữ “lễ” và “hội” đều có nguồn gốc Hán, dùng để chỉ các phong tục như Lễ Thành Hoàng hay lễ gia tiên Việc thêm chữ “Lễ” vào “hội” nhằm nhấn mạnh sự kết hợp giữa lễ bái, tôn thờ thần linh và hoạt động vui chơi, giải trí trong không gian đông đúc và vui vẻ.

Lễ hội được định nghĩa trong “Từ điển tiếng Việt” là sự kết hợp giữa lễ và hội Lễ là những hành vi thể hiện lòng tôn kính của con người đối với thần linh, phản ánh ước mơ chính đáng mà con người chưa thể thực hiện Hội là hoạt động văn hoá, tôn giáo và nghệ thuật của cộng đồng, xuất phát từ nhu cầu sống, sự phát triển của cộng đồng và mong muốn về bình yên, hạnh phúc cho từng cá nhân và gia đình Lễ hội từ lâu đã trở thành nơi quy tụ những ước mơ chung của con người về sự sinh sôi nảy nở và bội thu trong cuộc sống.

Trong cuốn “Hội hè Việt Nam,” các tác giả khẳng định rằng hội và lễ là những hoạt động văn hóa lâu đời của dân tộc Việt Nam Những sự kiện này không chỉ thu hút mọi tầng lớp trong xã hội mà còn trở thành nhu cầu và khát vọng của nhân dân qua nhiều thập kỷ.

Trong cuốn “Lễ hội cổ truyền”, Phan Đăng Nhật cho rằng lễ hội là một pho lịch sử khổng lồ, tích tụ nhiều phong tục, tín ngưỡng, văn hóa, nghệ thuật và các sự kiện xã hội - lịch sử quan trọng của dân tộc Lễ hội không chỉ là nơi bảo tồn văn hóa mà còn là sự kết nối giữa các thời kỳ lịch sử, tạo nên một thể thống nhất không thể tách rời Phần lễ thể hiện đạo đức tín ngưỡng và tâm linh sâu sắc của con người, trong khi phần hội bao gồm các trò diễn nghi thức và trò chơi dân gian, phản ánh cuộc sống thường nhật và kỷ niệm những sự kiện quan trọng của cộng đồng.

Lễ hội là hoạt động tập thể gắn liền với tín ngưỡng và tôn giáo, phản ánh niềm tin của người xưa vào các yếu tố tự nhiên như trời, đất, sông, núi Trong các làng, thường có miếu thờ các vị thần như Tiên thần, Tổ thần, Thủy thần, Sơn thần, và nhiều làng coi những vị thần này là Thành hoàng làng Nhân vật tham gia lễ hội, từ chủ tế đến người xem, đóng vai trò quan trọng, tạo nên sự thành công cho sự kiện Khác với lễ, thường mang tính quy phạm và diễn ra tại đình, hội là hoạt động dân dã, phóng khoáng, diễn ra trên sân bãi, cho phép người dân tham gia vào nhiều trò chơi và hoạt động giải trí phong phú như thượng võ, thi tài, và các trò chơi phong tục Hội có tính linh hoạt, cho phép điều chỉnh các trò chơi theo điều kiện vật chất và thời tiết mà vẫn giữ được bản chất tổng thể, ngoại trừ những trò chơi nghi lễ.

Lễ và hội thường được coi là hai khía cạnh tách biệt, với lễ mang tính thiêng liêng và hội mang tính tục Tuy nhiên, thực tế cho thấy sự giao thoa giữa chúng là rất chặt chẽ Trong nhiều trường hợp, việc gọi là Lễ hay Hội đều có thể đúng Ví dụ, trong các đám rước, cả phần nghi lễ và sự tham gia của đông đảo người dân đều có vai trò quan trọng, thể hiện sự kết hợp hài hòa giữa hai yếu tố này.

Lễ và Hội có mối quan hệ chặt chẽ, thường không thể tách rời; trong Lễ đã có Hội và trong Hội cũng có Lễ Cả hai yếu tố này là những thành phần chính cấu thành nên hội làng Mức độ đậm nhạt giữa Lễ và Hội phụ thuộc vào đặc điểm của từng địa phương và tính chất của từng loại hội.

1.1.2 Đặc điểm của lễ hội

Lễ hội ở Việt Nam diễn ra chủ yếu vào mùa xuân và mùa thu, khi người dân có thời gian rảnh rỗi Mùa xuân với thời tiết ấm áp và mùa thu mát mẻ tạo điều kiện thuận lợi cho việc tổ chức các lễ hội Hai yếu tố này góp phần tạo nên bầu không khí thoải mái và vui vẻ cho những người tham gia.

Việc lựa chọn những không gian linh thiêng tự nhiên như rừng cấm, đầu nguồn nước, hay đình làng để tổ chức lễ hội hàng năm thể hiện cách ứng xử của con người đối với thiên nhiên Tín ngưỡng sùng bái tự nhiên không chỉ là biểu hiện của sự tôn trọng mà còn là một trong những cách ứng xử khôn ngoan, phản ánh thái độ trân trọng thế giới tự nhiên của chúng ta.

Trong lễ hội, không gian linh thiêng tự nhiên và xã hội hòa quyện tạo nên những quần thể kiến trúc gắn liền với các địa điểm thiêng liêng Các quần thể này có kích thước và kiểu loại đa dạng, tùy thuộc vào từng vùng miền và dân tộc Chúng phản ánh trình độ phát triển qua các thời kỳ lịch sử và đều xuất phát từ niềm tin linh thiêng của con người Những không gian này, nơi thờ phụng thần thánh và Phật, tập trung những giá trị quý báu nhất, càng làm tăng thêm tính linh thiêng của chúng Đây là nơi con người cầu khấn, đặt niềm tin và hy vọng Các không gian linh thiêng nhân tạo của các dân tộc Việt Nam như Đền, Miếu, Đình, Chùa đều mang đậm bản sắc văn hóa và tinh thần cộng đồng.

Thông thường địa phương nào mở hội đều tiến hành theo ba bước sau:

Chuẩn bị cho lễ hội được chia thành hai giai đoạn: chuẩn bị cho mùa lễ hội tiếp theo ngay sau khi mùa hội trước kết thúc và công tác chuẩn bị khi ngày hội sắp đến Giai đoạn đầu bao gồm việc phân công nhiệm vụ và tổ chức các công việc cần thiết để đón mùa lễ hội mới Khi ngày hội gần kề, các công việc như kiểm tra đồ tế lễ, trang phục, dọn dẹp, mở cửa di tích, rước nước để thực hiện lễ tắm tượng và thay trang phục cho thần sẽ được tiến hành.

Trong các ngày lễ hội, nhiều hoạt động diễn ra như nghi thức tế lễ, lễ rước, dâng hương và tổ chức các trò vui, tạo nên những trải nghiệm ý nghĩa cho người tham gia Lễ hội không chỉ thu hút đông đảo khách tham quan mà còn diễn ra trong nhiều ngày hoặc một ngày, với các hoạt động chính chi phối toàn bộ không khí lễ hội.

Kết thúc hội (xuất tịch, giã đám, giã hội): Ban tổ chức làm lễ tạ, đóng cửa di tích

1.1.3 Phân loạ i l ễ h ội và cấu trúc lễ h ộ i

1.1.3.1 Phân loạ i l ễ h ộ i Ở nước ta Lễ hội là sinh hoạt văn hoá vô cùng phong phú và đa dạng, mà lại thường đanxen hoà lẫn vào nhau về cả nội dung lẫn hình thức Vì vậy việc phân loại lễ hội càng trở nên cần thiết trong quá trình tìm hiểu nghiên cứu Tuy nhiên, mỗi lễ hội đều có những tín ngưỡng riêng và với nhiều mục đích khác nhau như: Lễ hội Nông nghiệp, Lễ hội Thi tài,…

Khi phân loại lễ hội dựa trên mục đích, phương thức tổ chức sẽ có sự khác biệt rõ rệt Tuy nhiên, việc phân tích ý nghĩa và cội nguồn của hội làng đóng vai trò quan trọng trong việc hiểu rõ hơn về các lễ hội này.

Thường người ta chia lễ hội làm 5 loại:

Vai t rò củ a l ễ h ội trong đờ i s ống văn hóa con người và đố i v ớ i du l ị ch

1.3.1 Vai trò củ a l ễ h ộ i v ới đờ i s ống văn hóa

Lễ hội cổ truyền Việt Nam là sản phẩm văn hóa độc đáo của cư dân nông nghiệp lúa nước, mang ý nghĩa to lớn về tinh thần và vật chất trong cộng đồng Những giá trị này không chỉ giúp gắn kết các thành viên trong làng xã mà còn tạo cơ hội cho họ hiểu biết và quý mến nhau hơn Qua từng dịp lễ hội, mối quan hệ làng xã được củng cố, sự hiểu biết giữa các dân tộc được nâng cao, và tinh thần chia sẻ giữa các thành viên ngày càng trở nên mạnh mẽ, góp phần phát triển bền vững cho cộng đồng địa phương.

Lễ hội là dịp để tưởng nhớ các anh hùng dân tộc, giúp thế hệ trẻ hiểu rõ về truyền thống đấu tranh kiên cường của đất nước, từ đó nuôi dưỡng tình yêu quê hương và lòng kính trọng đối với tổ tiên.

Ngày hội không chỉ là cơ hội để thể hiện sức mạnh của cộng đồng mà còn là dịp để bộc lộ các mối quan hệ và cách ứng xử giữa cá nhân với cá nhân, cá nhân với cộng đồng, và giữa cộng đồng với cá nhân.

Cộng đồng cung cấp cơ hội thuận lợi để mỗi cá nhân thể hiện uy lực và chứng minh giá trị của mình Đây cũng là dịp để "cái tôi vô danh" hòa nhập vào "cái ta chung", khi mỗi thành viên bày tỏ thái độ và tham gia với cảm xúc mạnh mẽ, thể hiện sự gắn bó với cộng đồng mà họ sống.

Ngày nay, khi đời sống vật chất phát triển, con người phải sống trong khuôn phép, dẫn đến sự hạn chế trong đời sống tinh thần Để cân bằng tâm linh và tình cảm, họ tìm đến lễ hội như một cách thể hiện những nỗi niềm băn khoăn và nguyện vọng về hiện tại và tương lai Những hoạt động này được thể hiện sinh động qua các biểu tượng nghệ thuật, nghi lễ trang nghiêm hay trần tục, cùng với các trò chơi và cuộc đua tài.

1.3.2 Vai trò củ a l ễ h ộ i v ớ i du l ị ch

Theo Điều 79 của Luật Du lịch, nhà nước có trách nhiệm tổ chức hoạt động hướng dẫn và xúc tiến du lịch thông qua việc tuyên truyền rộng rãi về đất nước, con người, danh lam thắng cảnh và di tích lịch sử của Việt Nam Các lễ hội không chỉ làm cho du lịch trở nên hấp dẫn hơn mà còn thu hút đông đảo du khách, từ đó thúc đẩy sự phát triển của ngành du lịch Sự tương tác giữa lễ hội và du lịch là rõ ràng, khi lượng khách tham gia lễ hội tăng lên kéo theo nhu cầu về dịch vụ du lịch gia tăng, góp phần nâng cao kinh tế Lễ hội cũng làm nổi bật bản sắc văn hóa của từng vùng miền, tạo sức hút mạnh mẽ đối với du khách và giúp lượng khách du lịch tăng trưởng hàng năm.

Du lịch Việt Nam chủ yếu là du lịch văn hóa, vì vậy việc phát triển ngành này cần khai thác giá trị văn hóa truyền thống một cách hiệu quả, bao gồm cả kho tàng lễ hội truyền thống Lễ hội không chỉ là một phần quan trọng của văn hóa Việt Nam mà còn là yếu tố thu hút khách du lịch, tạo nên mùa lễ hội đồng thời là mùa du lịch Những lễ hội đặc sắc phản ánh bản sắc văn hóa dân tộc qua các vùng miền đa dạng, góp phần làm tăng lượng khách và doanh thu cho ngành du lịch, từ đó mang lại hiệu quả kinh tế cao.

Lễ hội và du lịch có mối quan hệ tương tác mạnh mẽ, cùng nhau phát triển và hoàn thiện ngành du lịch Du lịch không chỉ làm phong phú thêm các lễ hội truyền thống mà còn tạo ra những cơ hội kinh tế cho các địa phương thông qua việc tạo việc làm và cung cấp dịch vụ như vận chuyển khách và bán hàng hóa Đồng thời, lễ hội cũng giúp quảng bá văn hóa địa phương và tạo cơ hội giao lưu văn hóa với du khách Sự hỗ trợ lẫn nhau giữa lễ hội và du lịch góp phần thu hút ngày càng nhiều khách tham gia, làm cho du lịch lễ hội trở nên hấp dẫn hơn Tuy nhiên, bên cạnh những tác động tích cực, cũng cần nghiên cứu và khắc phục những vấn đề tiêu cực mà ngành du lịch gặp phải.

Du lịch mang lại cả tác động tích cực lẫn tiêu cực đối với lễ hội truyền thống Trong khi lễ hội thường chỉ phù hợp với điều kiện địa phương, sự gia tăng lượng khách du lịch có thể làm thay đổi và thậm chí đảo lộn các hoạt động bình thường của cộng đồng Những du khách với nhu cầu và thành phần khác nhau có thể gây ra ảnh hưởng lớn đến tình hình an ninh trật tự tại địa phương, dẫn đến tình trạng lộn xộn trong các lễ hội.

Tác độ ng qua l ạ i gi ữ a l ễ h ội và du lị ch

1.4.1 Tác động tích c ự c c ủ a l ễ h ội và du lị ch

Việt Nam xác định du lịch là một ngành kinh tế tổng hợp quan trọng, mang đậm bản sắc văn hóa và có tính liên ngành, liên vùng Ngành du lịch không chỉ đáp ứng nhu cầu giải trí và nghỉ dưỡng của người dân và du khách quốc tế mà còn góp phần nâng cao dân trí, tạo việc làm và phát triển kinh tế - xã hội Pháp luật đã nhấn mạnh rằng bản chất của du lịch Việt Nam là du lịch văn hóa, do đó, việc khai thác và sử dụng các giá trị văn hóa truyền thống, hiện đại hóa và phát triển các lễ hội truyền thống sẽ tạo ra lợi thế cho du lịch Việt Nam trong việc thu hút và phục vụ khách du lịch.

Ngành kinh tế du lịch Việt Nam chủ yếu dựa vào nền tảng văn hóa dân tộc, với lễ hội truyền thống là một tài nguyên văn hóa quý giá Trong giai đoạn đầu phát triển, lễ hội không chỉ là phần của văn hóa xã hội mà còn là sản phẩm du lịch nổi bật, giúp Việt Nam cạnh tranh trên thị trường du lịch quốc tế hiện nay.

Tháng giêng ăn Tết ởnhà,

Tháng hai cờ bạc - Tháng ba hội hè.

Mùa lễ hội hiện nay không chỉ là dịp để thưởng thức văn hóa dân tộc mà còn là mùa du lịch đặc sắc, phản ánh sự phong phú của các vùng miền Trong bối cảnh hiện đại, mỗi dân tộc cần trở về nguồn cội, giữ gìn và phát triển văn hóa của mình Việc thu hút du khách trong và ngoài nước đến tham quan, nghiên cứu, và trải nghiệm văn hóa truyền thống của Việt Nam đã tạo ra những cuộc du lịch bổ ích và thú vị Du lịch lễ hội không chỉ giúp phổ biến văn hóa địa phương mà còn góp phần quảng bá hình ảnh văn hóa dân tộc ra thế giới.

Việt Nam trên trường quốc tế và bạn bè thế giới

Du lịch lễ hội không chỉ tạo ra sự giao thoa văn hóa mà còn làm phong phú kho tàng văn hóa truyền thống của cha ông Những lễ hội này thu hút đông đảo khách du lịch, góp phần tăng doanh thu cho các công ty du lịch Sự kết hợp giữa tính quần thể và mùa vụ của lễ hội với du lịch tạo ra sự tương tác tích cực, hỗ trợ nhau phát triển và đạt được những thành tựu mới Khi tham gia lễ hội, du khách được hòa mình vào không gian văn hóa đặc sắc của địa phương, cảm nhận tình cảm cộng đồng sâu sắc và các giá trị văn hóa đã được kiểm nghiệm qua thời gian Đồng thời, sự hiện diện của khách du lịch cũng làm phong phú thêm diện mạo lễ hội, tăng tính hấp dẫn và xóa bỏ sự nhàm chán Tham gia lễ hội còn giúp du khách tiếp cận với những giá trị tâm linh thiêng liêng, đáp ứng nhu cầu thiết yếu của một bộ phận lớn khách nội địa.

Du lịch mang lại lợi ích kinh tế cho các địa phương, tạo ra việc làm cho người dân thông qua các dịch vụ như vận chuyển khách, trông giữ xe, bán đồ lưu niệm, dịch vụ lưu trú và ẩm thực Các lễ hội địa phương không chỉ quảng bá văn hóa và đời sống của cộng đồng mà còn tạo cơ hội giao lưu, học hỏi từ những tinh hoa văn hóa mà du khách mang đến, góp phần xóa bỏ sự cách biệt văn hóa.

Khu biệt văn hóa đóng vai trò quan trọng trong đời sống cư dân các địa phương, đặc biệt là những vùng sâu, vùng xa và khó khăn, nơi chủ yếu phụ thuộc vào ngân sách nhà nước Việc phát huy nội lực và khai thác giá trị địa phương giúp các khu vực này từng bước hội nhập vào giao lưu quốc gia và quốc tế Thông qua các hoạt động lễ hội, du lịch được kiểm chứng và đánh giá bởi đa dạng đối tượng khách, từ đó những người tổ chức lễ hội có thể rút ra bài học và tự đổi mới để phù hợp với điều kiện mới.

Hiện nay, đời sống chính trị, kinh tế và văn hóa xã hội đang có những biến đổi mạnh mẽ, dẫn đến sự ra đời và hoàn thiện của nhiều hình thái văn hóa xã hội mới Các lễ hội du lịch và liên hoan du lịch được tổ chức dựa trên nền tảng lễ hội dân gian truyền thống, trở thành hoạt động văn hóa tổng hợp và công cụ văn hóa đa năng với yếu tố kinh tế quan trọng Trong các lễ hội này, giá trị văn hóa đặc sắc được kết nối, tạo ra sắc thái mới trong đời sống văn hóa xã hội Mối quan hệ giữa cá nhân, tổ chức và các hoạt động diễn ra đa chiều, không còn đơn lẻ, tạo nên sức mạnh tổng hợp của các loại hình văn hóa, mở ra những chân trời và vận hội mới.

1.4.2 Tác động tiêu cự c c ủ a l ễ h ội đế n du l ị ch

Các lễ hội truyền thống thường chỉ phù hợp với điều kiện riêng của từng địa phương, nhưng khi có sự tham gia đông đảo của khách du lịch, hoạt động của họ có thể làm thay đổi, thậm chí đảo lộn các hoạt động bình thường tại nơi diễn ra lễ hội Sự đa dạng về thành phần và nhu cầu của du khách có thể ảnh hưởng đến tình hình trật tự an toàn xã hội địa phương Nếu không tổ chức và quản lý lễ hội một cách chu đáo, có thể dẫn đến sự lộn xộn trong quản lý xã hội Hoạt động du lịch với những đặc thù riêng có thể làm biến dạng các lễ hội truyền thống, vốn có những hạn chế nhất định về kinh tế và văn hóa xã hội Khi du lịch trở nên liên ngành, liên vùng và xã hội hóa cao, sự mất cân bằng có thể xảy ra, dẫn đến việc phá vỡ các khuôn mẫu truyền thống trong quá trình diễn ra lễ hội.

Hiện tượng thương mại hóa lễ hội, cùng với lừa đảo và chèn ép du khách, tạo ra hình ảnh xấu và tâm lý ức chế cho du khách, dẫn đến giảm lượng khách tham gia lễ hội trong tương lai Sự gia tăng du khách kéo theo nhu cầu đa dạng, gây mất cân đối trong quan hệ cung - cầu và dễ dẫn đến ô nhiễm môi trường sinh thái tự nhiên và nhân văn Bản sắc văn hóa vùng miền đang đối mặt với nguy cơ bị “mờ” do sự giao thoa văn hóa thiếu lành mạnh từ một bộ phận du khách.

Trong quá trình tổ chức và duy trì các hoạt động lễ hội, cần tránh hai khuynh hướng: bảo thủ và cấp tiến thái quá Nếu không, sẽ dễ dàng dẫn đến hiện tượng nệ cổ, phục cổ hoặc sự lai căng trong cách nhìn, cách hiểu và ứng xử lệch lạc đối với văn hóa dân tộc ở các địa phương.

Du lịch lễ hội thường gặp khó khăn trong việc quản lý và điều phối do sự đa dạng của khách tham gia Một số đối tượng xấu lợi dụng tình huống đông người để thực hiện hành vi móc túi và lừa đảo khách du lịch, gây phiền toái cho ban tổ chức và ảnh hưởng tiêu cực đến hình ảnh lễ hội cũng như địa phương trong mắt du khách Nếu không có sự quản lý chặt chẽ, các lễ hội sẽ phải đối mặt với tình trạng hỗn loạn và mất an ninh.

“Một lần đến, một lần đi, không một lần trở lại” nhấn mạnh tầm quan trọng của việc các nhà tổ chức và khai thác lễ hội cần phối hợp chặt chẽ trong mọi hoạt động của mình để đảm bảo sự thành công và bền vững cho sự kiện.

Tác giả đã trình bày các định nghĩa về lễ hội và mối quan hệ giữa lễ hội và du lịch, giúp chúng ta hiểu rõ hơn về tầm quan trọng của lễ hội đối với đời sống của người dân cũng như ngành du lịch.

THỰ C TR ẠNG KHAI THÁC LỄ H ỘI ĐỀ N TR ẦN, THÁI BÌNH

Khái quát về Đề n Tr ần, Thái Bình

2.1.1 V ị trí địa lý, lị ch s ử hình thành Đề n Tr ầ n

Đền Trần nằm cách Hà Nội 80km về hướng Đông Nam, thuộc xã Tiến Đức, huyện Hưng Hà, tỉnh Thái Bình Du khách có thể di chuyển từ Hà Nội theo quốc lộ 39A, đi qua cầu Triều Dương để vào tỉnh Thái Bình Tiếp tục đi 5km đến thị trấn Phú Sơn, sau đó 2km nữa đến ngã ba Cầu Lê, rẽ phải 1km sẽ tới làng Tam Đường Ngoài ra, từ trung tâm thành phố Thái Bình, du khách cũng có thể đi theo đường 39A, tới km số 36, rẽ trái khoảng 1km để đến thôn Tam Đường, xã Tiến Đức, huyện Hưng Hà.

Tam Đường, một trong 8 thôn thuộc xã Tiến Đức, được hình thành từ sự hợp nhất của ba làng Thái, Phú và Ngọc Đường sau năm 1924 Với diện tích tự nhiên 90ha, trong đó 70ha là đất canh tác và 14ha là đất ở, Tam Đường nằm ở vị trí địa lý thuận lợi: phía Tây giáp sông Hồng, phía Đông giáp sông Thái Sư, phía Nam giáp xã Hồng An và phía Bắc giáp thôn Đặng xã Phú Sơn Địa hình đa dạng với nhiều gò đống có độ cao khác nhau, nơi đây đã tạo điều kiện thuận lợi cho cư dân Việt cổ định cư và khai thác các vùng đầm lầy, cũng như phát triển nghề đánh bắt cá.

Có thể nói vùng đất Tam Đường, phủ Long Hưng nay là vùng đất Hưng

Hà không phải là quê hương đầu tiên của họ Trần; tổ tiên của dòng dõi Trần có nguồn gốc từ dân tộc Mân ở quận Tần Châu, tỉnh Phúc Kiến, Trung Hoa Trần Quốc Kinh đã di cư từ Phúc Kiến sang Việt Nam vào khoảng năm 1110, trong thời kỳ vua Lý Nhân Tông (1072-1127), và ban đầu cư trú tại xã An.

Sinh, huyện Đông Triều, tỉnh Quảng Ninh hiện nay, cư dân chủ yếu sống bằng nghề chài lưới trên sông nước Trong quá trình làm ăn, họ đã chuyển dần vào hương Tức Mạc, huyện Thiên Trường, Nam Định Đến thời Trần, tổ tiên đã dời mộ sang sinh sống tại Tam Đường phủ Long Hưng, nay là vùng đất thuộc Thái Bình.

L ị ch s ử hình thành và phát triể n

Văn hóa dân gian ghi nhận câu chuyện thần bí về việc chọn đất đặt mộ tổ của họ Trần Ông tổ họ Trần, đến từ hương Tức Mặc (Nam Định ngày nay), là người rất am hiểu sông nước và sống bằng nghề chài lưới trên sông Nhị Hà Tại đây, ông đã lập gia đình với một người con gái ở hương ấy, và sinh ra Trần Hấp vào thời Lý Thần Tông.

Vào khoảng năm 1128-1138, một thầy địa lý đã đến hương Tinh Cương, xã Thái Đường, huyện Ngự Thiên, phủ Long Hưng để xem tướng đất Tại đây, thầy phát hiện một gò Hoa Tinh nổi bật giữa vùng đất bằng phẳng, và ông cười nhận định rằng nơi này không thể là hoang địa Sau đó, thầy đã đến làng Tây Nha để gặp một người họ Nguyễn nhằm xin đặt đất táng mộ.

Sau khi hoàn thành công việc, những người họ Nguyễn đã phản bội và trói thầy địa lý, quẳng ông xuống sông Rất may, vào lúc thủy triều xuống, thầy không chết Trần Hấp, khi đánh cá, nghe thấy tiếng kêu cứu đã cởi trói cho thầy và hỏi về nguyên nhân Thầy địa lý kể lại chuyện bị hại và bày tỏ lòng biết ơn đối với người đã cứu mình, ngỏ ý muốn tìm nơi đất cát để đền ơn.

Theo chỉ dẫn của thầy, vào ngày Tân Dậu tháng Đinh Tỵ năm Quý Sửu, Trần Hấp đã di dời mộ cha từ Tức Mặc (Nam Định) về gò hỏa tinh, với chi phí tốn hơn nghìn hốt Mộ được đặt ở hướng Càn (Bắc), nhìn ra ngã ba sông lớn, còn gọi là cửa Vàng, với phía sau gối lên cổ bi phục tượng và hai bên là cờ trống Thế đất nơi đặt mộ cha Trần Hấp được thầy địa lý cho rằng có ý nghĩa tốt đẹp, với câu nói “phấn đại đương giao chiếu, liên hoa đối diện sinh, tha nhật dĩ đắc thiên hạ”, ngụ ý rằng nhan sắc sẽ mang lại quyền lực và thành công trong tương lai.

Sau này do nhiều nguyên nhân, đặc biệt là sự sắp đặt khéo léo của Trần

Thủ Độđã để Lý Chiêu Hoàng (công chúa nhà Lý) nhường ngôi cho Trần Cảnh

Gia tộc nhà Trần đã mở ra một kỷ nguyên mới cho Đại Việt, trở thành một triều đại nổi tiếng không chỉ trong khu vực mà còn trên toàn thế giới Trong suốt 175 năm trị vì, nhà Trần đã đóng góp lớn vào công cuộc xây dựng và bảo vệ tổ quốc, sản sinh ra nhiều anh hùng kiệt xuất như thái sư Trần Thủ Độ, linh từ quốc mẫu Trần Thị Dung, và Hưng đạo vương Trần Quốc Tuấn Các vị vua tài ba như Trần Nhân Tông và Trần Thánh Tông đã tạo dựng một thương hiệu vương triều được nể phục trong lịch sử Việt Nam.

Các vị vua Trần đã chọn Long Hưng làm địa điểm xây dựng lăng miếu, không chỉ vì đây là nơi đặt mộ tổ và là vùng đất phát tích của dòng họ, mà còn vì những lý do khác liên quan đến vị trí và ý nghĩa văn hóa của nơi này.

Hưng có vị trí thuận lợi cho giao thông, phát triển kinh tế và quân sự Long Hưng là bãi bồi mới được hình thành từ phù sa của các con sông lớn, đặc biệt là sông.

Hồng tạo nên đất đai màu mỡ, thuận lợi cho sản xuất nông nghiệp phát triển Vùng đất này có nhiều sông lạch, tạo điều kiện cho nghề sông nước, giao thông vận tải và sản xuất nông nghiệp.

Khu di tích này đã trải qua nhiều giai đoạn hủy hoại và phục hồi trong các triều đại khác nhau, với nhiều tài liệu cổ ghi chép về giá trị lịch sử của nó Sách Đồng Khánh Dư Địa Chí cung cấp thông tin chi tiết về các di tích, trong đó có đền Trần ở làng Thái Đường, nơi được ghi nhận là miếu của các vua Trần Năm 2000, Uỷ Ban Nhân Dân tỉnh đã khởi công tái tạo khu di tích đền Trần ở Tam Đường, mang lại diện mạo mới cho nơi đây Các hội thảo và khảo cổ học đã chứng minh Tam Đường là nơi phát tích của nhà Trần, thu hút sự quan tâm lớn từ các cấp chính quyền nhằm tôn tạo khu di tích Năm 1990, khu di tích được Bộ Văn Hóa, Thể thao và Du lịch công nhận là di tích khảo cổ học và di tích lịch sử cấp quốc gia.

2.1.2 Các giá trị c ủa Đề n Tr ần, Thái Bình

Giá trị tâm linh, tín ngưỡ ng

Vào thời nhà Trần, các vua Trần dấy nghiệp từ đất Long Hưng, chọn

Long Hưng là căn cứ địa và hậu phương quan trọng trong ba cuộc kháng chiến chống quân Nguyên Mông, cung cấp sức người và sức của cho sự nghiệp bảo vệ Tổ quốc Các vua Trần rất trân trọng nhân dân Long Hưng, và ngược lại, người dân nơi đây cũng hoàn thành nghĩa vụ của mình như những thần dân trung thành Vua Trần xem người dân Long Hưng như dòng tộc của mình, thể hiện lòng biết ơn và tình cảm bằng cách thường xuyên trở về tôn vinh miếu ở Long Hưng sau mỗi chiến thắng trước quân Mông Nguyên.

Người dân Tam Đường đang nỗ lực tôn tạo và tu sửa khu tôn miếu năng mộ của các vị vua triều Trần, thể hiện lòng thành kính và tín ngưỡng đối với những anh hùng dân tộc, đồng thời tiếp nối truyền thống văn hóa của cha ông.

Khái quát về l ễ h ội Đề n Tr ầ n

2.2.1 L ị ch s ử hình thành và phát triể n

Lễ hội đền Tam Đường, từ xa xưa, được tổ chức bởi dân làng Tam Đường và vùng lân cận để tưởng nhớ các vua Trần và mừng chiến thắng của nhà Trần trước quân xâm lược Nguyên - Mông và quân Chiêm Trong lễ hội, các quân đầu phủ và đầu tỉnh thường tham gia làm chủ tế Nếu năm nào kinh tế khó khăn, huyện Ngự Thiên sẽ đảm nhiệm Theo quy định, lễ hội bao gồm việc giết trâu, mổ lợn và làm cỗ cá để tế các vua, với chi phí cụ thể cho từng loại vật tế, tổng cộng được lấy từ tiền bán hoa màu của 10 mẫu thần điền.

Trong những năm kháng chiến chống Pháp và chống Mỹ, lễ hội truyền thống đã bị gián đoạn Tuy nhiên, từ năm 2000, tỉnh Thái Bình đã tiến hành xây dựng lại đền thờ các vua, khôi phục văn hóa và truyền thống của địa phương.

Lễ hội văn hóa và du lịch đền Trần tại Tam Đường, Thái Bình, được tổ chức vào ngày giỗ của Thái tổ Trần Thừa (18 tháng Giêng) từ năm 2010, đã thu hút sự quan tâm lớn Năm 2010, lễ hội vinh dự đón Chủ tịch nước Nguyễn Minh Triết tham dự, cùng với sự hiện diện của nhiều lãnh đạo nhà nước như Tổng bí thư Đỗ Mười, Chủ tịch nước Trần Đức Lương, và Chủ tịch nước Trương Tấn Sang, cùng đông đảo du khách đến từ khắp nơi.

2.2.2 Các yế u t ố c ấu thành củ a l ễ h ội đề n Tr ầ n

Lễ hội làng Tam Đường được diễn ra vào đêm ngày 13/01 (âm lịch) Đêm ngày

Vào ngày 13, tại đền Trần sẽ diễn ra lễ dâng hương và lễ tế trình Ngày 14, sẽ tổ chức lễ rước nước, sau đó khai mạc lễ hội Các làng sẽ tham gia lễ tế theo ba tuần: tuần sơ, tuần á và tuần trung.

Lễ hội đền Trần diễn ra vào đêm 13 tháng Giêng, bắt đầu bằng màn đánh trống khai hội và múa rồng lân Sau đó, lễ dâng hương tại ba ngôi mộ các vị vua triều Trần diễn ra, cùng với nghi lễ rước nước để tri ân tổ tiên nhà Trần, thể hiện mong muốn của ngư dân về một năm mưa thuận gió hòa Nghi lễ rước nước có sự tham gia của 9 bộ ngênh kiệu, đoàn múa rồng, múa lân, và đông đảo tín đồ, lão làng, cùng nhân dân khắp vùng Hành trình rước nước kéo dài gần 20 km, từ đền Trần ra sông Nhật Tảo, nơi nước được lấy từ khúc sông sâu và linh thiêng Sau khi hoàn thành lễ rước nước, hội chính thức mở cửa cho bà con và du khách tham dự Điều đặc biệt trong lễ hội là du khách có cơ hội tìm hiểu về vai trò của Thái sư Trần Thủ Độ trong tiến trình lịch sử qua các hoạt động chèo đời luận anh hùng.

Lễ khai ấn được coi là "linh hồn" của lễ hội đền Trần, diễn ra vào ngày 14 tháng Giêng hàng năm, đánh dấu sự trở lại của quốc sự sau kỳ nghỉ Tết âm lịch Từ thế kỷ XIII, vua Trần đã thực hiện nghi lễ này tại phủ Thiên Trường, nơi không phải là kinh đô nhưng có vai trò quan trọng trong kháng chiến chống Nguyên Mông Lễ khai ấn bị gián đoạn trong thời gian kháng chiến nhưng được khôi phục vào năm 1262 Ấn cũ không còn, nhưng vào năm 1822, vua Minh Mạng đã cho khắc lại ấn mới với nội dung mang ý nghĩa nhắc nhở về truyền thống văn hóa và lòng biết ơn đối với tổ tiên Lễ khai ấn diễn ra vào giờ Tý ngày rằm tháng Giêng, không chỉ là một tập tục văn hóa mà còn là tín hiệu chấm dứt ngày Tết và khởi đầu công việc năm mới.

Lễ khai ấn hiện nay do những người cao tuổi trong địa phương chủ trì, diễn ra vào tối ngày 14 tháng Giêng tại làng Tức Mặc Người dân từ khắp nơi tập trung trước đền để tham dự buổi lễ trọng thể bắt đầu từ giờ Hợi (11h00 đêm) Người chủ trì lễ, ăn mặc chỉnh tề, vào chính cung để thực hiện nghi lễ xin rước hòm ấn sang đền, trong hòm có hai con dấu: một con dấu nhỏ ghi chữ “Trần miếu” và một con dấu lớn.

Trần miếu tự điển, được khắc theo kiểu chữ chân, là một phần quan trọng trong lễ thờ tự tại đền Trần Hai con dấu hiện có đều được làm bằng gỗ, trong khi trước đây còn tồn tại một con dấu bằng đồng khắc bốn chữ triện.

Con dấu “Trần triều chi bảo” là dấu quốc bảo của triều Trần, từng được sử dụng trong lễ khai ấn nhưng đã bị thất lạc do thời gian và chiến tranh Lễ rước hòm ấn được tổ chức trang trọng với sự tham gia của nhiều người, bắt đầu bằng cờ thần, phù giá, kiệu rước hòm ấn, cùng với các mâm hoa quả và đoàn âm nhạc Đoàn diễu hành theo nhịp trống chiêng, vòng quanh hồ dưới ánh sáng lung linh của đèn nến và đèn cao áp Khi vào đền, đoàn tề tiến lên, làm lễ tê xong, đại diện dòng họ Trần dâng sớ lên các vua Trần, kèm theo sớ của chính quyền đương chức Sau khi hoàn tất các thủ tục, người chủ lễ đóng dấu lên tờ giấy đầu tiên và phát cho mọi người để lấy may Hiện nay, dấu được in trên vải thay vì giấy để bền hơn, và việc chuẩn bị cho lễ khai ấn phục vụ du khách phải được thực hiện trước hàng tháng Kết thúc lễ, các cụ già tổ chức lễ tạ, mang lại không khí vui vẻ cho mọi người ra về.

Sau khi hoàn tất phần lễ, phần hội đền Trần (Tiến Đức - Hưng Hà) được tổ chức long trọng và hoành tráng, kéo dài từ 3 đến 7 ngày.

Lễ hội truyền thống bao gồm nhiều hoạt động hấp dẫn như thi vật cầu, hội chọi gà, hội kéo gậy, thi thả diều, thi câu cá và thi bắt vịt, thu hút hàng nghìn người tham gia và đến xem Sự kiện này không chỉ mang lại niềm vui mà còn là dịp để tưởng niệm các vua Trần.

Để tưởng nhớ các chiến sĩ thời Trần thuộc đạo quân Tinh Cương, những người đã rèn luyện sức khỏe và sự nhanh nhẹn để bảo vệ sơn lăng và chống lại quân xâm lược Nguyên - Mông, lễ hội vật cầu được tổ chức hàng năm vào dịp đầu xuân tại đền Trần, Hưng Hà, Thái Bình.

Tục vật cầu được tổ chức trước cửa đền thờ các vua Trần, với một hố bùn ở giữa sân rộng 40cm và sâu 50cm Người ta chọn củ chuối hột lớn, gọt sạch vỏ và thả vào hố Sân chơi rộng 360m2, có 4 lỗ ở 4 góc và trọng tài mặc khăn đỏ, thắt lưng đỏ, cầm trống khẩu Bốn phe đại diện cho các giáp Đông, Đoài, Tây, Nam, mỗi phe chọn 1 thanh niên khỏe mạnh đứng chờ ở miệng hố Khi trống vang lên, các thanh niên tranh nhau bốc cầu và mang về hố của mình Cuộc thi diễn ra cho đến khi một người mang cầu về cho đội mình thì thắng cuộc Sau hội trống lạy, các đội tiếp tục cử người vào tranh cầu, với số lượng từ 3-5 người tùy theo thời gian Đội thắng nhận phần thưởng là một phần oản to và 10 phần oản chay cùng một đĩa chè khô, được chia cho cả phe như một dấu hiệu may mắn trong năm mới Những người tổ chức lễ hội thường là Chánh tổng, Lý trưởng hoặc tiên chỉ làng.

Trong dịp lễ hội đền Trần, thi đấu gà chọi là một hoạt động được yêu thích Trước ngày lễ hội hàng tháng, các già làng và người dân trong xã, huyện đã được giao nhiệm vụ tìm kiếm gà chọi để tham gia thi đấu Hưng Hà nổi tiếng với các làng chuyên nuôi gà chọi chất lượng.

Tại làng Nứa, làng Ngừ và làng Me, gà được tuyển chọn và chăm sóc kỹ lưỡng trước khi thi đấu Cân nặng của gà được điều chỉnh để các cặp thi đấu có trọng lượng tương đồng Chế độ ăn của gà bao gồm chân chó ninh nhừ và có thể thêm thuốc bổ để tăng cường sức khỏe Sau nhiều lần tập luyện, chỉ những chú gà có chân săn, da thịt đỏ au và chân cựa đẹp mới được chọn tham gia thi đấu Trước khi bắt đầu trận đấu, ban tổ chức thực hiện lễ dâng hương để tưởng nhớ các tướng lĩnh và quân sĩ.

Th ự c tr ạng khai thác lễ h ội Đề n Tr ần , Thái Bình phụ c v ụ phát triể n du l ị ch

2.3.1 S ố lượng khách, đối tượng khách

Lễ hội đền Trần không chỉ là một sự kiện tâm linh mà còn mang đậm giá trị nhân văn, thể hiện niềm tự hào của tỉnh Thái Bình Để nâng cao trải nghiệm cho du khách, vào năm 2010, đền Trần đã được đầu tư cải tạo hạ tầng, trùng tu và tôn tạo di tích, tạo nên một không gian khang trang Đường dẫn vào đền được mở rộng và nâng cấp, cùng với bãi đỗ xe quy hoạch hợp lý, đảm bảo sự thông thoáng và văn minh Công tác vệ sinh môi trường cũng được chú trọng, góp phần thu hút lượng khách đến tham quan ngày càng tăng, từ 40.000 người vào năm 2015 lên 70.000 người vào năm 2016.

Thống kê sốlượng khách đến với cụm di tích đền Trần qua một số năm.

Khách DL Số Lượng Khách đến Thái Bình Số Lượng khách đến đền Trần

Nội Địa Quốc tế Nội Địa Quốc Tế

Nguồn: Sở Văn Hóa ThểThao Và Du Lịch Tỉnh Thái Bình

Số liệu cho thấy lượng khách du lịch đến đền Trần đã tăng đáng kể so với trước đây, đặc biệt là trong lễ khai ấn diễn ra vào đêm 13 rạng sáng 14, khi lượng khách đổ về tăng đột biến mặc dù thời gian khai ấn diễn ra vào nửa đêm.

Lượng khách tham quan đền Trần chủ yếu tăng cao vào mùa xuân, đặc biệt trong dịp lễ khai ấn và các trò chơi dân gian Ngoài ra, vào các thời điểm khác trong năm, lượng khách cũng tương đối ổn định và có xu hướng tăng, đặc biệt là trong các dịp lễ 30/4 và 1/5.

Khách du lịch đến đền Trần chủ yếu là người nội địa, chiếm tỷ lệ gần như tuyệt đối trong tổng lượng khách Hầu hết du khách đến từ các tỉnh lân cận như Nam Định, Hưng Yên, Hải Dương, Ninh Bình, Hà Nội, và Hà Nam Vào mùa lễ hội, đặc biệt trong đêm khai ấn, còn có sự xuất hiện của du khách từ những vùng xa xôi như Lạng Sơn, Tuyên Quang, Điện Biên, và Quảng Ninh.

Du khách đến đền Trần chủ yếu để tham quan, tham gia lễ hội và tìm hiểu tín ngưỡng Bên cạnh đó, một số khách còn kết hợp nghiên cứu về khu di tích lịch sử và ảnh hưởng của nhà Trần đối với vùng đất này Tuy nhiên, thời gian lưu trú của du khách tại đây vẫn còn thấp do hạn chế về dịch vụ du lịch và cơ sở hạ tầng giao thông.

2.3.2 Các hoạt độ ng c ủa du khách khi đế n l ễ h ộ i

Hằng năm, vào ngày 13 tháng giêng âm lịch, lễ hội đền Trần tại Tam Đường diễn ra sôi nổi, thu hút đông đảo du khách Người dân và ban quản lý di tích chuẩn bị chu đáo để chào đón khách tham quan, giúp họ tìm hiểu về lịch sử và những chiến công của quân dân nhà Trần Vào đêm 13, du khách từ khắp nơi tụ tập để xin ấn cầu may mắn cho cuộc sống và công việc Lễ hội không chỉ có phần lễ trang nghiêm mà còn rất nhiều hoạt động vui tươi như hát chèo, đấu vật, trò chơi dân gian, thi thổi cơm, đánh cờ người, và đặc biệt là trải nghiệm phần thi cỗ cá do người dân địa phương mang đến.

2.3.3 Các dị ch v ụ ph ụ c v ụ khách du lị ch trong l ễ h ộ i

Các dịch vụ phục vụ du khách tại xã Tiến Đức chủ yếu mang tính tự phát và mùa vụ, với chỉ ba cơ sở lưu trú và ít lựa chọn ăn uống, gây bất tiện cho khách Mục đích chính của du khách khi đến đây là tham quan và lễ đền, do đó nhu cầu nghỉ lại rất thấp Các dịch vụ kinh doanh mặt hàng lưu niệm và giải trí cũng chỉ tồn tại tạm bợ, thường do người dân địa phương cung cấp và sẽ bị giảm đi sau mùa lễ hội.

Tỉnh Thái Bình, với đặc thù phát triển nông nghiệp, và khu di tích đền Trần xã Tiến Đức huyện Hưng Hà, vẫn còn hạn chế trong việc cung cấp dịch vụ cho khách du lịch Mỗi năm, vào mùa lễ hội, hoạt động kinh doanh du lịch mới trở nên sôi nổi, nhưng dịch vụ lưu trú tại đây vẫn hạn chế do phần lớn du khách chỉ đến tham quan mà không ở lại.

Các cơ sở kinh doanh dịch vụ ăn uống tại địa phương chủ yếu do người dân tự phát triển Tuy nhiên, toàn xã chỉ có hai cơ sở nhỏ, không đủ khả năng phục vụ cho lượng khách đông đảo Du khách thường phải đặt trước để sử dụng dịch vụ ăn uống, trong khi các cơ sở lớn hơn lại nằm cách xa khu di tích đền Trần, gây bất tiện cho việc di chuyển của họ.

Dịch vụ vui chơi giải trí tại địa phương chủ yếu do người dân tự phát tổ chức, cung cấp các trò chơi tạm bợ trong mùa lễ hội Sau khi lễ hội kết thúc, các trò chơi này thường được dọn dẹp để chuẩn bị cho năm sau, chưa có khu vui chơi giải trí quy mô lớn Ngoài ra, các gian hàng bán đồ lưu niệm chủ yếu là ven đường với sản phẩm thủ công, chưa có những cơ sở lớn phục vụ khách du lịch.

2.3.4 Đánh giá chung công tác quản lý lễ h ộ i Để hoạt động du lịch đền Trần (Hưng Hà - Thái Bình) mang đúng tính chất văn hóa, thể hiện nét đẹp văn hóa” uống nước nhớ nguồn, ăn quả nhớ kẻ trồng cây”thì các cơ quan chức năng, ban tổ chức lễ hội, ban quản lý di tích cần có những phương án cụ thể để sẵn sàng đón du khách cũng như có những biện pháp phù hợp nhằm hạn chế tình trạng quá tải, ngăn chặn các hành vi xấu làm ảnh hưởng đến mỹ quan của điểm du lịch Để chuẩn bị cho mùa lễ hội, huyện Hưng Hà cho biết đã đầu tư hệ thống xử lý rác thải Số lượng thùng chứa rác so với năm ngoái tăng lên đáng kể Năm nay, để giảm thiểu tình trạng xả rác bừa bãi, tất cả các trường hợp vất rác không đúng nơi quy định sẽ bị phạt hành chính từ 50.000 đến 100.000 đồng Công tác vệ sinh môi trường cũng được quan tâm nhiều hơn Bên cạnh đó, ban quản lý di tích đền Trần (Hưng Hà - Thái Bình) cũng phối hợp với lực lượng công an kiểm soát, ngăn chặn ngay hành vi chèo kéo du khách gây mất mỹ quan và nguy hiểm cho người tham gia giao thông Đặc biệt là nạn bán hàng dong ở cổng đền, đã bị cơ quan chức năng nghiêm cấm Năm nay sốhướng dẫn viên điểm ởđền Trần là

2 người để có thể sẵn sàng phục vụ du khách có nhu cầu tham quan, tìm hiểu cặn kẽ về cụm di tích

Để một tài nguyên du lịch trở thành điểm đến hấp dẫn, việc đầu tư vào cơ sở hạ tầng là rất cần thiết Trước tình trạng quá tải du khách vào mùa lễ hội tại đền Trần (Hưng Hà - Thái Bình), Ban Quản Lý khu di tích đã chủ động nâng cấp và xây dựng thêm nhiều cơ sở phục vụ du khách.

Hiện nay, tại đền Trần, để ngăn chặn tình trạng thất thoát, tiền công đức từ người dân được ghi chép đầy đủ trong một quyển sổ riêng, phục vụ cho các nhu cầu như hương hoa, oản quả, đèn nhang và bảo dưỡng di tích Mỗi cá nhân khi đóng góp sẽ nhận được một giấy chứng nhận ghi rõ tên, tuổi, địa chỉ và số tiền đã công đức Đối với hòm công đức, mỗi lần mở hòm đều có sự chứng kiến của đại diện huyện Hưng Hà, đại diện xã Tiến Đức và Ban quản lý di tích.

Khu vực đền Trần hiện nay đã có sự phát triển mạnh mẽ về giao thông, đáp ứng nhu cầu di chuyển của du khách Trước đây, người dân thường “trẩy hội” bằng cách đi bộ hoặc đi đò trong các dịp lễ hội, nhưng ngày nay, họ đến tham dự lễ hội bằng nhiều phương tiện cơ giới như xe máy và ô tô Để phục vụ nhu cầu này, hệ thống đường giao thông dẫn vào khu di tích đã được tôn tạo và xây mới, đặc biệt là hệ thống đường vành đai quanh ba ngôi mộ, được thiết kế hoàn toàn mới với hai làn đường rộng và hệ thống đèn cao áp chiếu sáng vào ban đêm.

Lễ khai ấn đền Trần diễn ra vào mùa xuân, thời điểm cây cối đâm chồi và hoa nở rộ Nhằm bảo vệ thiên nhiên và tạo môi trường văn hóa trong lành, các cán bộ đảng, nhà nước và ban quản lý di tích đã trồng cây lưu niệm tại đền Khuôn viên vườn của đền còn được trồng nhiều loại cây ăn quả và hoa, tạo sự hòa quyện giữa không gian cây xanh và kiến trúc của ngôi đền.

Đánh giá những tích cự c, h ạ n ch ế trong khai thác lễ h ội Đề n Tr ần cho phát

Từ năm 2000, tỉnh Thái Bình đã nhận thức được tầm quan trọng của di tích lịch sử đền thờ và lăng mộ các vua Trần tại Thái Đường lăng Chính quyền tỉnh đã có những biện pháp nhằm bảo tồn và phát huy giá trị của di tích này.

Huyện ủy và UBND huyện Hưng Hà đã quy hoạch và mở rộng khu di tích với diện tích 32,4ha Trong những năm qua, nhờ sự quan tâm và đầu tư của Đảng, Nhà nước, Bộ Văn hóa - Thể thao và Du lịch, cùng với Tỉnh ủy, UBND tỉnh, các sở, ban ngành đã tiến hành xây dựng và tôn tạo nhiều công trình trong khu di tích Các công trình bao gồm đền thờ các vua Trần, đền Thánh, đền Mẫu, sân lễ hội, trục thần đạo, cổng ngũ thiên môn, và bảo tồn ba ngôi mộ còn nguyên vẹn: mộ phần Đa, phần Trung, phần Bụt Theo truyền thuyết của người dân địa phương, đây là Chiêu Lăng của vua Trần Thái Tông, Dụ Lăng của vua Trần Thánh Tông, và Đức Lăng của vua Trần Nhân Tông Ngôi mộ phần cựu đã được khai quật và hiện vật được trưng bày tại bảo tàng Thái Bình, được cho là mộ của Thái Tổ Trần Thừa, như ghi chép trong sách Kiến Văn tiểu lục của Lê Quý Đôn.

Trong những năm gần đây, đền Trần tại Hưng Hà, Thái Bình đã nổi lên như một điểm du lịch văn hóa tâm linh hấp dẫn Lễ hội đền Trần diễn ra vào đầu năm, từ 13 đến 18 tháng Giêng, là thời điểm chính thu hút đông đảo du khách khắp nơi đến tham dự Đây là một lễ hội lớn, mang đến cơ hội cho mọi người tìm hiểu về văn hóa và tín ngưỡng địa phương.

Trần thắp hương để tưởng nhớ công lao to lớn của các anh hùng nhà Trần, những người đã đánh đuổi ngoại xâm và mang lại hạnh phúc, ấm no cho dân tộc.

Lễ hội đầu xuân tại đền Trần xã Tiến Đức, huyện Hưng Hà, tỉnh Thái Bình năm nay được UBND tỉnh Thái Bình, UBND huyện Hưng Hà và nhân dân địa phương chú trọng khôi phục Sự kiện này thu hút sự quan tâm của cộng đồng và mang ý nghĩa văn hóa sâu sắc.

Lễ hội Trần Thái Bình năm nay có quy mô lớn, dự kiến thu hút 200,000 du khách Các hoạt động lễ hội bao gồm lễ khai mạc, lễ bái yết, lễ dâng hương và lễ tế mộ, cùng với các hoạt động truyền thống như rước nước, làm cỗ cá dâng vua, thi gói bánh chưng và các trò chơi dân gian Đặc biệt, tục giao chạ giữa hai làng Tam Đường và Vân Đài đã được duy trì gần 700 năm Để tổ chức lễ hội thành công và an toàn, UBND huyện Hưng Hà đã xây dựng kế hoạch chi tiết và thành lập Ban tổ chức lễ hội, bao gồm lãnh đạo các phòng, ngành và nhân dân địa phương Nhờ sự chuẩn bị kỹ lưỡng và nỗ lực của cộng đồng, lễ hội đền Trần tại xã Tiến Đức đã diễn ra thành công, để lại ấn tượng tốt đẹp cho du khách.

Sự phát triển của du lịch không chỉ cải thiện cuộc sống của người dân địa phương mà còn nâng cao thu nhập và kiến thức của họ Người dân có cơ hội tiếp xúc với những điều mới mẻ, từ đó làm giàu thêm trải nghiệm sống Họ nhận thức được rằng khách du lịch là nguồn thu nhập quan trọng, nên có thái độ ứng xử văn minh và thân thiện hơn Việc này không chỉ giúp họ thích nghi với nếp sống mới mà còn góp phần làm phong phú thêm văn hóa địa phương.

Mỗi năm, tình trạng chặt chém khách du lịch tại khu di tích đền Trần thường xảy ra trong mùa lễ hội Tuy nhiên, năm nay, Ban Quản lý di tích đã thiết lập mức giá thống nhất cho tất cả các cửa hàng, bao gồm cả cửa hàng ăn uống và bán đồ lưu niệm Đặc biệt, giá gửi xe cũng đã được quy định cụ thể: xe máy 5.000 đồng, xe ô tô từ 4 đến 16 chỗ là 10.000 đồng, và ô tô từ 16 chỗ trở lên là 20.000 đồng Nhờ đó, du khách có thể yên tâm khi gửi xe mà không lo bị chặt chém.

Lực lượng an ninh được triển khai đã giảm thiểu đáng kể tình trạng ăn xin, chèo kéo, cũng như nạn móc túi và trộm cắp, mang lại sự hài lòng cho du khách khi tham gia lễ hội.

BQL khu di tích đền Trần (Hưng Hà- Thái Bình) đang nỗ lực cải thiện những bất cập làm mất đi vẻ đẹp vốn có của đền Trần Họ đang triển khai các biện pháp nhằm phát triển du lịch đền Trần bền vững theo 4 tiêu chí: kinh tế, văn hóa, xã hội và môi trường.

Lễ hội đền Trần tại Hưng Hà, Thái Bình, như nhiều lễ hội khác, đang gặp phải nhiều vấn đề bất cập Nếu không được xử lý kịp thời, những vấn đề này có thể làm giảm ý nghĩa và tính chất thiêng liêng của lễ hội.

Mùa lễ hội tại đền Trần (Hưng Hà - Thái Bình) thường xuyên xảy ra tình trạng quá tải, đặc biệt vào ngày lễ hội chính khi lượng khách đổ về đông đúc Sự chen chúc này không chỉ khiến du khách cảm thấy mệt mỏi mà còn gây áp lực lên di tích, dẫn đến nguy cơ hư hại Dù tình trạng này đã được nhận thức bởi cả du khách và ban quản lý di tích, nhưng đến nay vẫn chưa có biện pháp hiệu quả nào được triển khai để giải quyết vấn đề.

Trong mùa lễ hội năm nay, tình trạng tăng giá dịch vụ diễn ra mạnh mẽ, đặc biệt là dịch vụ ăn uống Ban Quản lý đã kiểm soát giá cả nhưng vẫn xuất hiện nhiều quán ăn bán bún, phở với giá 30.000 đồng mỗi bát và trứng 8.000 đồng, trong khi giá nước uống đã tăng gấp đôi Đặc biệt, giá vé xe tăng gấp đôi so với quy định, khiến du khách rất bức xúc Tại các bãi giữ xe, tình trạng chèo kéo khách diễn ra phổ biến, với giá trông xe chính thức là 5.000 đồng nhưng thực tế nhiều khách phải trả từ 8.000 đến 10.000 đồng Khi khách phản ánh, nhân viên chỉ giải thích rằng chi phí thêm là cho mũ bảo hiểm và áo mưa, khiến du khách phải chấp nhận trả tiền nhanh chóng để lấy xe.

Tình trạng chèo kéo khách du lịch và ăn xin, mặc dù đã được cơ quan chức năng quản lý, vẫn diễn ra thường xuyên vào mùa lễ hội Du khách cảm thấy khó chịu với những màn chào mời từ người địa phương, gây mất thiện cảm và ảnh hưởng đến mỹ quan của lễ hội.

Lượng rác thải tại các điểm du lịch gia tăng do đông đảo du khách và ý thức bảo vệ môi trường còn hạn chế Nhiều du khách xả rác bừa bãi, không đúng nơi quy định, dẫn đến tình trạng rác thải bừa bãi, gây mất mỹ quan và ô nhiễm môi trường, ảnh hưởng tiêu cực đến đời sống của người dân địa phương.

GI ẢI PHÁP KHAI THÁC HIỆ U QU Ả L Ễ H ỘI ĐỀ N TR ẦN,THÁI BÌNH ĐỂ PHÁT TRIỂ N DU L Ị CH

Ngày đăng: 25/07/2021, 12:08

Nguồn tham khảo

Tài liệu tham khảo Loại Chi tiết
1. Phạm Trung Lương (2008), Tài nguyên và môi trường du lịch Việt Nam, Nxb Giáo Dụ c Sách, tạp chí
Tiêu đề: Tài nguyên và môi trường du lịch Việt Nam
Tác giả: Phạm Trung Lương
Nhà XB: Nxb Giáo Dụ c
Năm: 2008
2. Tr ầ n Ng ọc Thêm (1999), Cơ sở văn hóa Việt Nam, Nxb Giáo dụ c Sách, tạp chí
Tiêu đề: Cơ sở văn hóa Việt Nam
Tác giả: Tr ầ n Ng ọc Thêm
Nhà XB: Nxb Giáo dụ c
Năm: 1999
7. Tr ầ n Di ễm Thúy (2006), Văn hóa du lịch, Nxb Văn hóa - Thông tin Sách, tạp chí
Tiêu đề: Văn hóa du lịch
Tác giả: Tr ầ n Di ễm Thúy
Nhà XB: Nxb Văn hóa - Thông tin
Năm: 2006
8. Trang web: http://www.dulichthaibinh.com 9. Trang web: http://www.laodong.com.vn 10. Trang web: http://www.vietnamtourism.com PHỤ LỤC Link
3. Tổng cục du lịch, Báo cáo tổng hợp Chiến lược Phát triển du lịch Vệt Nam đến năm 2020, tầm nhìn đến năm 2030 Khác

TÀI LIỆU CÙNG NGƯỜI DÙNG

TÀI LIỆU LIÊN QUAN

w