M ộ t s ố khái niệ m v ề t ộc người và văn hóa tộc ngườ i
Khái niệ m t ộc ngườ i
Trong 60 năm qua, ở Việt Nam đã sử dụng khái niệm “Dân tộc” để chỉ một cộng đồng người cụ thể ( Việt, Thái, Dao, Hoa, Mường, Tày ) nhưng thực ra khái niệm đó là “Tộc người”.
Thuật ngữ “Dân tộc học” (Ethnography) xuất phát từ hai yếu tố trong tiếng Hy Lạp cổ: “Ethnos” có nghĩa là tộc người và “Graphy” nghĩa là miêu tả, mô tả.
Tộc người là một hình thái tập đoàn xã hội, hình thành qua quá trình phát triển tự nhiên và lịch sử, được phân biệt bởi ba đặc trưng chính: ngôn ngữ, văn hóa và ý thức cộng đồng Những đặc điểm này bền vững qua hàng ngàn năm, tồn tại trong mọi chế độ kinh tế - xã hội, từ nguyên thủy đến xã hội chủ nghĩa Tộc người có thể được gọi bằng nhiều tên khác nhau như bộ lạc, bộ tộc chiếm nô, bộ tộc phong kiến, dân tộc tư bản chủ nghĩa và dân tộc xã hội chủ nghĩa.
Theo định nghĩa này thì Việt Nam có 54 “tộc người” chứ không phải 54
Mỗi dân tộc tại Việt Nam đều sở hữu nền văn hóa độc đáo, góp phần làm phong phú thêm bản sắc văn hóa đa dạng của đất nước Sự đa dạng này không chỉ thể hiện trong các phong tục tập quán mà còn trong nghệ thuật, ẩm thực và ngôn ngữ, tạo nên một bức tranh văn hóa Việt Nam đầy màu sắc và ý nghĩa.
Khái niệm dân tộc thực chất là tộc người (ethnic), một hình thái đặc biệt của tập đoàn xã hội hình thành từ quá trình tự nhiên-lịch sử, không phải do ý nguyện của con người Tộc người có tính bền vững, tồn tại hàng nghìn năm, với sự thống nhất bên trong giúp phân biệt nó với các tộc người khác Ý thức tự giác của các thành viên trong tộc người đóng vai trò quan trọng trong việc duy trì sự thống nhất và tạo ra sự khác biệt với các cộng đồng tương tự, thể hiện qua sự phân định “chúng ta” và “họ”.
Nhiều nhà khoa học cho rằng việc đồng nhất bản chất của tộc người với ý thức tự giác là không chính xác Thực tế, đằng sau ý thức tự giác đó còn tồn tại những giá trị khách quan trong các tộc người và mối quan hệ giữa những con người thân thuộc.
Khái niệ m v ề văn hóa tộc ngườ i
Văn hóa phản ánh sinh động cuộc sống con người qua các thời kỳ lịch sử, tạo nên hệ thống giá trị truyền thống bao gồm thẩm mỹ và lối sống, từ đó hình thành bản sắc riêng của mỗi dân tộc Nó bao gồm tất cả những sáng tạo của con người, khác biệt với những gì tồn tại trong tự nhiên Văn hóa là hệ thống hữu cơ các giá trị tinh thần và vật chất do con người tích lũy trong quá trình thực tiễn và tương tác với môi trường tự nhiên và xã hội.
Văn hóa tộc người là tổng thể các yếu tố văn hóa đặc trưng của từng dân tộc, đóng vai trò quan trọng trong việc gắn kết và phân biệt các tộc người Nó bao gồm toàn bộ giá trị văn hóa vật thể và phi vật thể của các dân tộc thiểu số có lịch sử sinh tụ lâu đời tại Việt Nam, thể hiện sự thích ứng và sáng tạo của con người trong môi trường tự nhiên và xã hội cụ thể Những giá trị này không chỉ phản ánh sự thống nhất mà còn là sự giao thoa văn hóa giữa các tộc người trong nước và quốc tế Hệ thống di tích lịch sử, thắng cảnh, kiến trúc làng bản, nhà ở các đô thị cổ cùng với các hoạt động văn hóa và lễ hội đã thu hút đông đảo du khách đến tham quan và nghiên cứu.
Vào những năm 70 của thế kỷ XX, các nhà dân tộc học tại Cộng hòa Xô viết Ác Mê Ni đã phân chia văn hóa tộc người thành nhiều bộ phận khác nhau.
- Văn hóa sản xuất: là các yếu tố phục vụ trực tiếp sản xuất ( công cụ sản xuất, tri thức và kinh nghiệm sản xuất, cách thức sản xuất)
- Văn hóa bảo đảm đời sống: gồm các yếu tố liên quan trực tiếp đến ăn, mặc, ở
- Văn hóa chuẩn mực xã hội: gồm các thiết chế xã hội, các ứng xử văn hóa được cốđịnh thành phong tục tập quán, luật tục
Văn hóa nhận thức xã hội bao gồm các yếu tố tư tưởng, chủ yếu liên quan đến nhận thức về tự nhiên và xã hội, như tri thức dân gian, tín ngưỡng và tôn giáo Những yếu tố này đóng vai trò quan trọng trong việc hình thành quan điểm và giá trị của cộng đồng.
Từnăm 1988, UNESCO chia văn hóa thành hai bộ phận:
- Văn hóa vật thể: những yếu tố văn hóa tồn tại dưới dạng vật chất
Văn hóa phi vật thể: những yếu tố văn hóa tồn tại vô hình, không ở dạng vật chất.
Khái niệm văn hóa Then củ a t ộc ngườ i
Then trong tiếng Tày tức là Thiên, Thiên tức là Trời
Then là tín ngưỡng cúng vía của người Tày, Nùng, Thái ở Việt Nam
Then xuất phát từ tín ngưỡng của người dân về một thế giới huyền bí, nơi có những nhân vật và sức mạnh kỳ diệu như Bụt, Giàng, và Trời Chỉ có ông Then và bà Then mới có khả năng tiếp cận thế giới này Khi thực hiện nghi lễ, họ dâng lên trời những sản vật của con người, kết hợp với việc hát, đệm nhạc và nhảy múa Lời hát Then hòa quyện với nhịp đàn Tính và tiếng xóc nhạc, giúp ông Then, bà Then truyền tải lời thỉnh cầu của con người tới các đấng thần linh.
Then là một phần quan trọng trong văn hóa của người Tày và Nùng, xuất hiện từ rất lâu trong đời sống của họ Mặc dù không có tài liệu ghi chép cụ thể về thời gian ra đời của Then, nhưng có thể khẳng định rằng ở bất kỳ nơi nào có người Tày và Nùng sinh sống, thì ở đó đều có sự hiện diện của Then.
Người Tày ở Bình Liêu không theo tôn giáo chính thức mà chủ yếu thực hành tín ngưỡng dân gian, thờ cúng tổ tiên và các thế lực siêu nhiên mà họ gọi là Phi, bao gồm cả Phi lành và Phi dữ Họ thực hiện nhiều nghi lễ cúng khấn nhằm cầu xin sự phù hộ từ Phi lành, mong muốn những điều tốt đẹp đến với cuộc sống, đồng thời xua đuổi Phi dữ và những điều xấu xa.
Trong các nghi lễ gọi là đường the, những lời cúng khấn được thực hiện bởi các Then, tạo nên một hệ thống nghi lễ phong phú Nghi lễ Then không chỉ bao gồm các làn điệu độc đáo mà còn gắn liền với các nghi thức sinh hoạt của cộng đồng người Tày.
Tín ngưỡng Then bao gồm nhiều nghi lễ khác nhau, được thực hiện bởi thầy Then theo yêu cầu của gia chủ nhằm cầu an cho gia đình Các loại nghi lễ của Then rất đa dạng và phong phú.
- Then cầu an giải hạ, thường được diễn ra vào dịp đầu năm
- Then Nàng Hang, thường được diễn ra vào dịp trung thu
- Then cúng mụ, diễn ra vào dịp cúng đầy tháng của đứa trẻ
Lẩu Then, hay còn gọi là Lễ cấp sắc, là nghi lễ cúng lớn nhất của người Then, bao gồm nhiều loại như lẩu Then khai quang, lẩu Then tăng sắc, lẩu Then khao quân và lẩu Then cáo lão.
Lễ Then là một nghi thức truyền thống, trong đó người tham gia phải vượt qua nhiều cung cửa từ gia đình gia chủ để tiến lên Ngọc Hoàng, Thổ Công, Thành Hoàng, Táo Quân, Tổ Tiên và pháp sư, cửa tướng.
Then là một nghi lễ quan trọng trong đời sống văn hóa của người Tày và Nùng, thể hiện sức mạnh và bản sắc dân tộc PGS.TS Nguyễn Thị Yên cho rằng Then là minh chứng cho tinh thần dân tộc trường tồn Thiếu Then, miền núi phía Bắc Việt Nam sẽ mất đi phần hồn của rừng núi Vào đầu năm 2017, Bộ trưởng Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch đã ký hồ sơ “Thực hành Then của người Tày, Nùng” để trình UNESCO xem xét đưa vào Danh sách Di sản văn hóa phi vật thể đại diện của nhân loại.
Văn hóa Then ở các địa phương khác
- Then của người Tày ởHà Giang
Hà Giang, tỉnh miền núi biên giới phía Bắc của Việt Nam, là vùng đất cổ giàu di sản văn hóa dân gian cần được khám phá Nơi đây nổi bật với văn hóa tín ngưỡng Then, góp phần làm phong phú thêm bức tranh văn hóa của các dân tộc Tày - Nùng Then Hà Giang không chỉ là một phần quan trọng của di sản văn hóa mà còn là niềm tự hào của người dân nơi đây.
Dân tộc Tày ở Hà Giang có hơn 130.000 người, chiếm 23,1% dân số tỉnh, là dân tộc đông thứ hai sau dân tộc Mông Họ chủ yếu sinh sống tại các huyện Vị Xuyên, Bắc Quang và Quang Bình.
Bắc Mê và thành phố Hà Giang là nơi sinh sống của một dân tộc có lịch sử cộng cư lâu dài, mang đến nhiều di sản văn hóa truyền thống phong phú Trong số đó, di sản hát Then - đàn Tính nổi bật, thể hiện nét đẹp văn hóa đặc trưng của vùng đất Hà Giang.
Theo bà Triệu Thị Tình, Phó Giám đốc Sở Văn hóa, Thể thao và Du lịch
Hà Giang là nơi diễn ra lễ hội Then, một loại hình diễn xướng dân gian quan trọng trong đời sống tâm linh của người Tày Hội lẩu Then bjoóc mạ tại xã Phương Độ, thành phố Hà Giang, nổi bật với quy mô lớn và sự phong phú của các nghệ thuật Then Lễ hội mang ý nghĩa cầu xin vua cha ban phước lành cho nhân gian, mong muốn một năm an lành, mưa thuận gió hòa và mùa màng bội thu Với nguồn gốc lâu đời, lẩu Then bjoóc mạ đã trở thành một phần không thể thiếu trong tâm linh và văn hóa cộng đồng của người Tày ở Hà Giang, được gìn giữ và truyền lại qua nhiều thế hệ.
Sự phong phú của Then phản ánh phong tục tập quán của từng địa phương, với các hình thức như Then cầu mong, chữa bệnh, bói toán, đưa người khuất, cầu mùa, chúc tụng và lẩu Then Ông Nguyễn Văn Chự từ Câu lạc bộ Then xã Phương Độ (thành phố Hà Giang) cho biết rằng những ông Then, bà Then khi hành nghề thường được "ông ma Then" nhập vào, trở thành "con trời" để tỏ lòng biết ơn Ngọc Hoàng và Chúa Then Vào dịp đầu năm mới, khi hoa nở rộ, lễ dâng rượu, dâng hoa cho Ngọc Hoàng và Chúa Then diễn ra, và lẩu Then Bjoóc Mạ thường được tổ chức vào mùa xuân khi hoa bjoóc mạ nở rộ, tạo nên nét độc đáo riêng của Hà Giang.
Hội lẩu Then bjoóc mạ, trước đây chỉ diễn ra trong phạm vi gia đình, nay đã được tổ chức rộng rãi và mang tính quần chúng Kể từ năm 2016, hội Lẩu Then bjoóc mạ được cấp ủy và chính quyền xã Phương Độ (thành phố Hà Giang) tổ chức tại các buổi chợ phiên, nhằm quảng bá giá trị tâm linh và văn hóa đặc sắc của lễ hội đến đông đảo du khách Sự kiện này không chỉ giúp bảo tồn những giá trị văn hóa truyền thống mà còn thu hút sự chú ý của cộng đồng trong và ngoài tỉnh Để tổ chức một hội lẩu Then bjoóc mạ thành công, cần có sự chuẩn bị chu đáo.
Gần đến ngày tổ chức hội lẩu Then bjoóc mạ, nhân dân trong xã đã họp mặt tại nhà thầy Then, ông Nguyễn Văn Chự, để bàn bạc và hỗ trợ nhau trong việc chuẩn bị các vật dụng và lễ vật Các nam giới đã vào rừng để đào măng và vầu, loại 2 củ mọc cùng nhau.
Rễ cây được hái cùng với các loại hoa như bjoóc mạ, hoa chuối rừng, hoa trứng cá, tạo thành hình nón độc đáo Các bà, mẹ, chị cắt và dán các hình vật trang trí, chuẩn bị lễ vật như hình con én, con ương, bánh sừng bò, bánh dày hình nón, và rượu nếp cái làm từ gạo cẩm ngon nhất Vào ngày tổ chức hội lẩu Then, người ta sẽ thêm thịt lợn, gà, vịt để làm lễ, tạo nên không khí trang trọng và ấm cúng.
Một hội lẩu Then bjoóc mạ thường được thực hiện bởi 1 thầy Then cả và
Hội Lẩu Then diễn ra trong 2 ngày 1 đêm, có sự tham gia của 5 thầy phụ, mỗi thầy được phục vụ bởi 2 nàng Hương Sự kiện bắt đầu bằng việc mời Chúa Then và đoàn Then lên đường vượt qua các chặng.
Hội Lẩu Then diễn ra qua nhiều cung chặng quan trọng, bao gồm: Cung trình tổ Then, tổ tiên; trình thổ công, trình thần; cung ve sầu; thanh lâm, lên cửa trời; chờ đò; khảm hải; lên phủ Ngọc Hoàng; lồng mường, đón Chúa Then và Ngọc Hoàng giáng trần.
Cả chặng đường, các ông, bà Then diễn xướng, hát bằng các làn điệu
Âm nhạc Then kết hợp với đàn Tính và chùm xóc nhạc tạo nên những giai điệu trầm bổng, vừa trang nghiêm vừa rộn ràng, để lại ấn tượng sâu sắc trong lòng người nghe Những lời ca Then hòa quyện cùng nhịp đàn Tính, dẫn dắt các ông, bà Then đến Mường Trời cầu xin sự che chở từ các vị thần linh, mong muốn vua cha ban phước lành cho nhân gian, và cầu khẩn cho một năm an lành, mưa thuận gió hòa, mùa màng bội thu.
Xã Phương Độ, nơi chủ yếu có người Tày sinh sống, nổi tiếng là "địa chỉ đỏ" của Lẩu Then, hát Then và đàn Tính Những nét văn hóa này đã trở thành phần không thể thiếu trong đời sống tâm linh, in đậm trong từng nếp nhà của cư dân nơi đây.
Hội Nghệ nhân dân gian xã Phương Độ và các Câu lạc bộ hát Then đã trở thành cầu nối quan trọng giúp đưa nghệ thuật Then đến gần hơn với cộng đồng Ông Nguyễn Văn Chự, thầy Then cả trong hội lẩu Then bjoóc mạ, đã dày công sưu tầm và bảo tồn những điệu Then cổ, đồng thời truyền lửa cho thế hệ trẻ và bà con trong vùng nhằm khôi phục và gìn giữ nét đẹp văn hóa dân tộc Việc tổ chức hội lẩu Then bjoóc mạ hàng năm không chỉ góp phần bảo tồn giá trị văn hóa truyền thống mà còn thể hiện sự đoàn kết trong cộng đồng, đồng thời tạo sự cân bằng giữa bảo tồn văn hóa và phát triển du lịch cộng đồng tại địa phương.
Lẩu Then bjoóc mạ là một hình thức nghệ thuật tổng hợp đặc sắc, gắn liền với văn hóa và cộng đồng người Tày tại xã Phương Độ, thành phố Hà Giang.
Lẩu Then bjoóc mạngoài những nét đẹp về văn hóa tâm linh nó còn mang giá trị về mặt nghệ thuật, âm nhạc, múa, trang trí
Hội lẩu Then bjoóc mạ, với những giá trị văn hóa to lớn, đã được tỉnh Hà Giang lựa chọn để trình diễn tại Liên hoan Nghệ thuật hát Then, đàn Tính các dân tộc Tày - Nùng - Thái toàn quốc lần thứ VI vào năm 2018.
- Then của người Tày ở Lào Cai
Phân loại văn hóa tộc ngườ i
Ở Việt Nam, có rất nhiều cách để phân loại văn hóa như phân loại dựa trên đặc điểm vềngôn ngữ, môi trường địa lý, tựnhiên, xã hội, nhân văn.
Phân loại theo nhóm ngôn ngữ cho thấy rằng các tộc người có chung ngôn ngữ và ngữ hệ thường chia sẻ những đặc điểm văn hóa tương đồng.
Nghiên cứu văn hóa tộc người tại Việt Nam không chỉ dựa vào ngôn ngữ mà còn xem xét các yếu tố môi trường địa lý tự nhiên và xã hội nhân văn Việc phân loại các “Vùng văn hóa” có vai trò quan trọng trong việc hiểu rõ sự ảnh hưởng của điều kiện tự nhiên, địa lý và môi trường cư trú đến sự phát triển văn hóa của các tộc người thiểu số Đồng thời, nó cũng giúp làm sáng tỏ mối quan hệ và tác động qua lại giữa các yếu tố kinh tế và văn hóa ở các vùng lãnh thổ khác nhau Các công trình nghiên cứu đã xác định rõ ràng các vùng văn hóa tại Việt Nam, góp phần vào việc bảo tồn và phát triển văn hóa tộc người.
- Vùng văn hóa Tây Bắc
- Vùng văn hóa Việt Bắc và Đông Bắc
- Vùng văn hóa Bắc Trung Bộ
- Vùng văn hóa Nam Trung Bộ
- Vùng văn hóa Trường Sơn Tây Nguyên.
- Vùng văn hóa Đồng bằng sông Cửa Long
Việc phân loại nghiên cứu văn hóa theo vùng được thực hiện dựa trên địa vực cư trú và độ cao so với mặt nước biển Do đó, các công trình nghiên cứu văn hóa tộc người đã được phân chia thành những loại hình cụ thể.
- Văn hóa tộc người ởtrên cao: HMông, Tạng, Miến
- Văn hóa tộc người ở rẻo giữa: Các nhóm làm nương
- Văn hóa tộc người ởthung lũng chân núi: Tày, Thái, Mường
- Văn hóa tộc người ở trung du: Việt, Sán Dìu, Hoa.
- Văn hóa tộc người ởchâu thổ: Việt, Hoa, Chăm, Khmer.
- Văn hóa tộc người ở ven biển: Việt, Hoa, Chăm.
(Theo Văn hóa vùng và phân vùng Văn hóa Việ t Nam, NXB Tr ẻ 2001, Ngô Đứ c Th ị nh)
Vai trò của văn hóa tộc người đố i v ới phát triể n du l ị ch
Các đối tượng văn hóa được coi là tài nguyên du lịch đặc biệt hấp dẫn
Tài nguyên du lịch văn hóa ở Việt Nam thu hút du khách nhờ vào sự phong phú, đa dạng và tính độc đáo của các nền văn hóa tộc người Mỗi cá thể văn hóa mang đến những đặc trưng riêng biệt, tạo nên sức hấp dẫn đặc biệt cho khách du lịch, đặc biệt là du khách quốc tế Sự khác biệt này không chỉ thể hiện tính truyền thống mà còn phản ánh bản sắc địa phương, góp phần làm phong phú thêm trải nghiệm du lịch.
Văn hóa tộc người là một nguồn tài nguyên du lịch quý giá, bao gồm hai thành phần chính: văn hóa vật thể và văn hóa phi vật thể.
Tài nguyên văn hóa vật thể
Tài nguyên văn hóa vật thể của các tộc người bao gồm những yếu tố tiêu biểu như nhà ở, trang phục, sản vật địa phương và các sản phẩm nghệ thuật đặc trưng.
Nhà ở là yếu tố thu hút sự chú ý lớn từ du khách, góp phần xác định tính độc đáo của du lịch văn hóa tộc người Tại Việt Nam, có nhiều loại hình nhà ở đa dạng như nhà sàn ở Tây Bắc, nhà nửa sàn nửa đất ở Đông Bắc và nhà Rông ở Tây Nguyên.
Nguyên Do vậy, nhà ở là yếu tố quan trọng trong quá trình thúc đẩy du lịch văn hóa tộc người phát triển
Trang phục là yếu tố quan trọng giúp phân biệt các tộc người khác nhau Khi du lịch đến một tộc người, du khách thường mong muốn được mặc thử trang phục đặc trưng của dân tộc đó để lưu giữ những kỷ niệm qua những bức ảnh.
Các sản vật đặc trưng của địa phương, như bộ quần áo dân tộc, món ăn ngon, túi đeo, đồ trang sức truyền thống, cây sáo và cây đàn, không chỉ mang ý nghĩa văn hóa sâu sắc mà còn góp phần tăng doanh thu du lịch Những sản phẩm này là kỷ niệm quý giá, thể hiện bản sắc của đồng bào nơi đó và được chính họ sản xuất.
Tài nguyên phi vật thể
Tài nguyên văn hóa phi vật thể của các tộc người bao gồm nhiều yếu tố quan trọng như ngôn ngữ, ẩm thực, phong tục tập quán, trò chơi dân gian và lễ hội truyền thống Những yếu tố này không chỉ phản ánh bản sắc văn hóa độc đáo mà còn góp phần bảo tồn và phát huy giá trị văn hóa của mỗi tộc người.
Ngôn ngữ đóng vai trò quan trọng trong việc khai thác văn hóa tộc người, góp phần thúc đẩy sự phát triển của du lịch Nó không chỉ là đặc trưng phân biệt giữa các tộc người mà còn tạo nên sự hấp dẫn đặc biệt cho du khách khi họ học một ngôn ngữ mới Sự tìm hiểu về ngôn ngữ của một tộc người sẽ kích thích sự quan tâm và mong muốn khám phá văn hóa phong phú của họ.
Ẩm thực là một phần quan trọng trong văn hóa của mỗi tộc người, ảnh hưởng sâu sắc đến trải nghiệm của du khách trong chuyến du lịch Khi thưởng thức các món ăn, du khách không chỉ đơn thuần cảm nhận hương vị mà còn mong muốn khám phá cách chế biến và phong cách thưởng thức đúng cách.
Mỗi tộc người đều sở hữu những phong tục, tập quán, sinh hoạt và tín ngưỡng độc đáo Du khách khi đến thăm cộng đồng người thiểu số thường rất quan tâm đến việc khám phá các thói quen và kiêng kị của đồng bào.
Nghệ thuật truyền thống là biểu hiện độc đáo của văn hóa các tộc người, thu hút sự tán thưởng và tham gia nhiệt tình từ du khách Nhiều người không chỉ thưởng thức mà còn mua băng đĩa ghi lại những bài hát, điệu nhảy đặc trưng của tộc người Những điệu nhảy này tạo ra sức lôi cuốn mạnh mẽ, cùng với các chương trình văn nghệ đa sắc màu, trang phục cổ truyền và âm nhạc phong phú, càng làm tăng sức hấp dẫn đối với du khách.
Các lễ hội truyền thống của các tộc người mang đến ấn tượng sâu sắc cho du khách Tham gia lễ hội, du khách không chỉ được khám phá văn hóa mà còn được trải nghiệm những trò chơi đầy sắc màu.
Khái quát chung về t ộc người Tày ở huy ện Bình Liêu t ỉ nh Qu ả ng Ninh 17
Khái quát chung về huy ện Bình Liêu
1.3.1.1 L ị ch s ử hình thành Đồng bào huyện Bình Liêu có truyền thống đánh giặc giữ nước từ lâu đời Trên đỉnh núi Cao Ba Lanh giáp biên giới có những hòn đá rất lạ, gõ vào đá phát ra tiếng kêu gần giống tiếng chuông và lại nghe tiếng vang ở cả các hòn khác
Truyền thuyết về những “hòn đá thần” vang dội đã làm quân giặc bên kia biên giới gục ngã, cùng với hình ảnh người dũng sĩ cưỡi ngựa chiến đấu, để lại dấu ấn tại nhiều địa danh như Bãi Dáo và Mạ Trạt Câu chuyện về giống tre mọc ngược cũng xuất phát từ lời thề của người dũng sĩ khi dừng chân chống gậy Sử sách ghi lại những trận đánh đuổi giặc cướp từ bên kia biên giới, đặc biệt vào cuối thế kỷ XVIII và đầu thế kỷ XIX, trong bối cảnh thời Nguyễn đối đầu với nhà Thanh.
Trong thời kỳ Pháp thuộc, viên đội người Tày Thàm Cam Sláy, hay còn gọi là Đội Sáng, đã lãnh đạo binh sĩ tại đồn Bình Liêu tổ chức lực lượng làm binh biển Cuộc khởi nghĩa được nhân dân hưởng ứng mạnh mẽ, sau khi đánh chiếm đồn Bình Liêu, nghĩa quân đã lập căn cứ ở vùng rừng núi phía đông, mở rộng tới Bắc Hà Cối và PanNai của Móng Cái Lực lượng nghĩa quân ngày càng đông, lên tới vài trăm người, đã nhiều lần tấn công đồn Hà Cối và uy hiếp Móng Cái Cuộc khởi nghĩa kéo dài gần 2 năm, gây chấn động toàn vùng Đông Bắc, từ cuối năm 1917 đến giữa năm 1919 mới thất bại Đến Cách mạng Tháng Tám, khi các sĩ quan Nhật rút lui, nhân dân Bình Liêu và binh lính đồn Bình Liêu đã nô nức chào đón Việt Minh.
Năm 1945, chính quyền cách mạng được thành lập tại Bình Liêu Giữa năm 1946, lực lượng Việt Cách theo quân Tưởng xâm nhập Bình Liêu, và đầu năm 1947, quân Pháp trở lại chiếm đóng Nhân dân Bình Liêu đã kiên cường kháng chiến chống lại sự xâm lược.
Vào ngày 25-12-1950, trong chiến dịch Biên giới, quân đội ta đã bao vây đồn Bình Liêu, buộc quân Pháp phải rút lui Sự kiện này đã dẫn đến việc Bình Liêu được giải phóng hoàn toàn và trở thành căn cứ kháng chiến quan trọng của tỉnh Hải Ninh Từ đó, các cơ quan đầu não của tỉnh đã di chuyển về các huyện để tăng cường hoạt động chiến tranh du kích.
Bình Liêu nổi bật với các tập quán và hình thức sinh hoạt văn hóa dân gian đặc sắc của nhiều dân tộc Huyện không có chùa hay nhà thờ, chỉ có vài đình nhỏ thờ thành hoàng, và các gia đình chủ yếu thờ cúng tổ tiên Một trong những hoạt động văn hóa nổi bật là hội au-pò của người Tày và Sán Chay diễn ra vào các ngày 14, 15, 16 tháng 3 âm lịch, thu hút đông đảo thanh niên từ các bản làng về thị trấn huyện lỵ để giao lưu, hát đối đáp bằng các làn điệu dân ca như sli, tì làu của người Tày và hát xoóng cộ của người Sán Chay Trong những ngày này, bà con còn tham gia các trò chơi như đàn tính, ném còn và chơi gụ.
Bình Liêu là một huyện miền núi, biên giới phía Đông Bắc của tỉnh
Huyện Quảng Ninh nằm ở phía Đông Bắc tỉnh Quảng Ninh, giáp với Sùng Tả và Phòng Thành Cảng, Quảng Tây, Trung Quốc ở phía bắc; tỉnh Lạng Sơn ở phía tây; tỉnh Hải Hà ở phía đông; và huyện Tiên Yên cùng huyện Đầm Hà ở phía nam.
Bình Liêu là huyện miền núi nằm ở cực bắc tỉnh Quảng Ninh, tọa lạc tại vị trí 21027’ đến 21039’ vĩ độ bắc và 107017’ đến 107036’ kinh độ đông Huyện cách thành phố Hạ Long 130 km và huyện Tiên Yên 40 km Bình Liêu có 42,7 km đường biên giới giáp với Trung Quốc ở phía bắc, phía đông giáp huyện Quảng Hà, phía tây giáp huyện Đình Lập tỉnh Lạng Sơn, và phía nam giáp huyện Tiên Yên.
Bình Liêu có tổng diện tích tự nhiên khoảng 417 km 2 , dân số trên 27.629
Huyện Bình Liêu, được thành lập vào năm 2009, là nơi sinh sống của nhiều dân tộc như Tày, Dao, Sán Chỉ, Kinh và Hoa Để đến huyện Bình Liêu, du khách có thể khởi hành từ thành phố Hạ Long, di chuyển theo quốc lộ 18A đến ngã ba Tiên Yên, sau đó rẽ vào quốc lộ 18C.
Huyện sở hữu diện tích đất đai phong phú, đặc biệt là đất rừng thích hợp cho trồng cây công nghiệp, cây ăn quả và phát triển chăn nuôi theo mô hình trang trại, đồng thời bảo vệ môi trường sinh thái Ngoài ra, huyện còn có nguồn nước ngầm dồi dào, chất lượng tốt, đảm bảo vệ sinh, đáp ứng nhu cầu nước sinh hoạt cho cư dân.
Mặc dù nước phục vụ sản xuất nông nghiệp vẫn gặp nhiều khó khăn, nhưng ngành nông nghiệp vẫn là lĩnh vực chủ yếu, chiếm tỷ trọng lớn trong cơ cấu kinh tế của huyện Sự phát triển các ngành nghề từ rừng còn hạn chế, trong khi sản xuất lương thực, thực phẩm chỉ đáp ứng nhu cầu tiêu dùng tại chỗ Hơn nữa, sản xuất hàng hóa nông, lâm sản vẫn còn ít ỏi và chưa khai thác hết tiềm năng sẵn có của huyện.
Bình Liêu là huyện miền núi với địa hình đa dạng và hùng vĩ, có tổng diện tích tự nhiên lên đến 471,38 km² Nơi đây nổi bật với nhiều dãy núi cao, trong đó đỉnh Cao Xiêm là cao nhất với chiều cao 1.330m, cùng với ngọn núi Cao Ba Lanh dài 1.050m.
Đất nông nghiệp trong huyện rất hạn chế, chỉ chiếm 15,6% tổng diện tích với hơn 7000ha, trong đó hơn 4000ha là đất đồi thích hợp cho chăn nuôi gia súc Diện tích đất trồng lúa và hoa chỉ có hơn 2000ha, chủ yếu là ruộng bậc thang nằm dọc theo các thung lũng và ven sông Ngược lại, đất lâm nghiệp chiếm tới 70% tổng diện tích, tạo điều kiện thuận lợi cho việc trồng các loại cây đặc sản như hồi, quế, trầu, sở, cùng với nhiều loại cây gỗ như sa mộc, thông, keo và các cây ăn quả.
Bình Liêu, mặc dù không xa biển, nhưng chịu ảnh hưởng của khí hậu lục địa do được che chắn bởi các dãy núi cao Nơi đây có 4 mùa rõ rệt, với mùa đông lạnh kéo dài, nhiệt độ có thể xuống tới 4°C và thường xuất hiện sương muối.
+ Nhiệt độ trung bình từ 17-22°C Lượng mưa trung bình hàng năm trên 2400mm, năm cao nhất lên đến hơn 3000mm, năm thấp nhất là hơn 1000mm
Trung bình, mỗi năm có khoảng 165 ngày mưa, với mùa mưa chính kéo dài từ tháng 5 đến tháng 10, trong khi từ tháng 11 đến tháng 4 năm sau, lượng mưa giảm đáng kể Độ ẩm không khí thường cao, vượt quá 80%, và phụ thuộc vào độ cao cũng như địa hình, với mùa mưa có độ ẩm cao hơn mùa khô.
Lịch sử hình thành tộc người
Viết về tộc người Tày ở Quảng Ninh, Thiếu tá Reversery (trong Revoi
Indochinose (1905) cho rằng khu vực Tày chỉ giới hạn ở phía Bắc vùng biển trong quân khu Móng Cái, nhưng trong khu vực Hán-Việt, có những nhóm nói tiếng Tày sống lẫn lộn ở các cánh đồng và dãy núi phía Nam Ông phân loại hai nhóm Tày đến địa phương trong những điều kiện khác với những người Tày sinh cơ lập nghiệp ở các vùng đất khác của Đạo quan binh thứ nhất Qua quá trình tiếp xúc với người Hán và người Việt, họ dần mất đi các đặc điểm văn hóa và ngôn ngữ của tộc mình, trong đó bao gồm nhóm Phén và nhóm Thủ.
Tên Phén là cách tự gọi của người Phén, được người Tày và người Việt gọi là Phén, trong khi người Hán và các tộc miền núi nói tiếng Hán gọi họ là Phén Lão Họ cho biết rằng nguồn gốc của mình đến từ huyện Phòng Thành, tỉnh Quảng Đông, Trung Quốc, và đã định cư ở đây từ rất lâu, thậm chí trước cả người Việt Trước khi bị xâm chiếm, nam giới Phén ăn mặc giống người Việt, trong khi phụ nữ thường mặc áo dài và yếm thêu giống như phụ nữ Sán Chỉ; khi sống cùng người Hán, họ cũng ăn mặc theo phong cách của người Hán, ngoại trừ cách đội khăn Giống như người Việt, người Phén cũng có thói quen ăn trầu và nhuộm răng, đặc biệt là phụ nữ.
Tên Thổ hay còn gọi là Thổ Nhằn hoặc Thôn Nhằn theo Reversery, Thổ
Nhằn, được gọi bởi người Hán và người Mán, còn người Việt gọi là Thổ Nhân, đã định cư tại vùng đất Khâm Châu, thuộc tỉnh Quảng Đông, Trung Quốc từ lâu Khác với các nhóm Tày ở địa phương khác, nhóm Phén và Thổ tại đây dễ dàng hòa nhập với người Việt và người Hán.
Người Thổ và người Phén sử dụng cùng một loại ngôn ngữ, cho thấy sự tương đồng giữa họ Qua việc so sánh với các ngôn ngữ khác, các nhà nghiên cứu đã phân chia thành 5 nhóm, trong đó 2 nhóm đầu có vẻ có mối quan hệ gần gũi với nhau.
- Pùn Tỷ Hạc, Hạc, Ngái, Hắc Cá.
- Sán Dìu, Sán Chỉ Hà, Sán Chỉ
Về dân số, theo cuốn “ Tiểu dẫn về tỉnh Hải Ninh (1932)” Bình Liêu có
Trong cuốn “ Lược chí địa lý khu tự trị vùng Hải Ninh” của Voong A Sáng (1949) đề cập đến người Thổ và cho rằng “Người Thổ từ Quảng Tây,
Người Trung Quốc đã di cư qua nhiều thế hệ và hiện đang sinh sống tại huyện Bình Liêu, những chân núi màu mỡ của Tiên Yên, cũng như vùng sâu cuối sông Ba Chẽ thuộc Đình Lập và khu vực cuối sông Kỳ Cùng.
Tên gọi Tày được xem là tên gọi thống nhất, đại diện cho tất cả các nhóm có tên gọi địa phương khác Nhiều nhà nghiên cứu cho rằng Tày và Nùng có nguồn gốc lịch sử chung, thuộc khối Bách Việt xưa Sau khi biên giới Việt-Trung được thiết lập, cư dân Tày, Nùng, Thái ở hai nước đã phát triển dưới những điều kiện riêng biệt.
Người Tày, một tộc người có nguồn gốc lâu đời từ cuối thiên niên kỷ thứ nhất sau công nguyên, sinh sống chủ yếu ở vùng núi phía Bắc Việt Nam Họ còn gìn giữ nhiều truyền thuyết cổ về nguồn gốc của tộc mình, bao gồm các câu chuyện như Nạn Hồng Thủy, Báo Luông Slao và Pú Lương Quân.
Năm 1989 cả tỉnh Quảng Ninh có 23130 người Tày thì huyện Bình Liêu đã có 10758 người (chiếm 46%).
Th ự c tr ạng đờ i s ố ng, kinh t ế, văn hóa, xã hộ i
Cộng đồng người Tày ở Bình Liêu, giống như nhiều dân tộc thiểu số khác, vẫn đang phải đối mặt với nhiều khó khăn trong đời sống kinh tế Sản xuất chủ yếu dựa vào nông nghiệp và lâm nghiệp, nhưng kỹ thuật canh tác còn lạc hậu và trình độ thâm canh chưa cao Hơn nữa, cuộc sống hàng ngày của họ vẫn phụ thuộc lớn vào thiên nhiên.
Hiện tượng phát nương làm rẫy, khai thác lâm sản và săn bắn động vật vẫn diễn ra phổ biến, gây đe dọa nghiêm trọng đến tài nguyên thiên nhiên và môi trường sinh thái.
Người Tày đã định cư lâu đời tại Bình Liêu, với kiến thức trồng lúa nước phát triển sớm Ngoài việc trồng lúa và hoa màu, họ còn đào ao nuôi cá, chăn nuôi gia súc, gia cầm và trồng rừng Lịch sinh hoạt sản xuất của người Tày tương đồng với nhiều dân tộc thiểu số khác trong huyện Bình Liêu.
- Tháng 1: Ăn tết nguyên đán, chọn ngày tốt làm lễ xuống đồng, phát nương trồng ngô
- Tháng 2: Tiếp tục trồng ngô và các loại màu.
- Tháng 3: Trồng ngô, vun xới ngô, màu, cày bừa ruộng, gieo mạ
- Tháng 4: Tiếp tục cày bừa ruộng làm nương phai.
- Tháng 5, tháng 6: nhổ mạ, thu hoạch màu.
- Tháng 7, tháng 8: chăm sóc lúa, thu hái lâm, thổ sản
- Tháng 9, tháng 10: thu hoạch lúa, làm lễ mời cơm, sửa chữa nhà, tiến hành các nghi lễ cưới hỏi
Tháng 11 và tháng 12 là thời điểm diễn ra các nghi lễ cưới hỏi, đồng thời cũng là lúc mọi người nghỉ ngơi, thăm hỏi họ hàng, chuẩn bị cho Tết Nguyên Đán và đón chào một mùa sản xuất mới.
Mặc dù tỉ lệ đói nghèo đã giảm, nhưng vẫn còn nhiều người, đặc biệt là người Tày ở vùng sâu vùng xa huyện Bình Liêu, đang gặp khó khăn về thu nhập Trong khi đó, những người Tày sống ở khu vực thị trấn có thu nhập ổn định hơn Tình trạng này đã hạn chế khả năng nâng cao dân trí của cộng đồng người Tày.
Trong những năm gần đây, mặc dù được sự hỗ trợ từ chính quyền và chính sách của nhà nước, vẫn tồn tại tỷ lệ bỏ học và tái mù chữ ở nhiều gia đình Một số học sinh vùng cao chưa đi học đều, tỷ lệ tuyển sinh vào lớp 6 và lớp 10 còn thấp, dẫn đến chất lượng giáo dục không đạt yêu cầu và tiến triển chậm.
Đặc trưng văn hóa của người Tày ở huy ện Bình Liêu
- Kiến trúc dân gian (nhà ở)
Người Tày có tư tưởng ổn định về nơi ở, khác với phong cách du canh của nhiều tộc người thiểu số khác, và họ thường sống quần tụ thành từng bản với 20 đến 100 nóc nhà Các bản của người Tày thường được dựng ở chân núi hoặc những vùng đất bằng phẳng như ven sông, ven suối Tính cộng đồng trong bản làng đóng vai trò quan trọng trong đời sống, góp phần bảo tồn những phong tục tập quán truyền thống của dân tộc Tày.
Nhà của người Tày bao gồm nhà sàn, nhà đất và một số kiểu nhà phòng thú ở các bản giáp biên giới Nhà sàn không chỉ là nơi cư trú truyền thống của gia đình mà còn là không gian cho các hoạt động văn hóa và thờ cúng tổ tiên Nhà sàn truyền thống có cấu trúc từ 4 đến 7 hàng cột, với mái lợp ngói tranh hoặc lá, xung quanh được che bằng ván gỗ hoặc liếp nứa Bên trong nhà được chia thành hai phần: phòng nam ở ngoài và phòng nữ trong buồng Các gia đình khá giả thường xây dựng nhà sàn bằng gỗ tết, có ván bưng xung quanh và mái lợp ngói, tạo nên vẻ khang trang.
Người Tày ở Bình Liêu, như nhiều dân tộc khác, rất chú trọng vào việc chọn đất, hướng nhà, tuổi tác và ngày tốt khi xây dựng nhà mới Trong ngày chuyển vào nhà, chủ gia đình cần nhóm lửa và giữ cho ngọn lửa cháy suốt đêm Qua hàng thế kỷ, người Tày không ngừng sáng tạo để cải thiện ngôi nhà của mình, phù hợp với điều kiện tự nhiên và cuộc sống nông nghiệp, đồng thời vẫn gìn giữ các nét truyền thống đặc trưng Điều này đã hình thành nên phong cách riêng biệt của tộc người Tày.
Hiện nay, với sự phát triển kinh tế và đời sống ngày càng nâng cao, người Tày ở Bình Liêu đã chuyển từ nhà sàn truyền thống sang xây dựng nhà ở bằng gạch và vật liệu hiện đại, tạo nên những ngôi nhà khang trang, hiện đại như ở thành phố.
Bộ y phục truyền thống của người Tày được làm từ vải sợi bông dệt và nhuộm chàm, với thiết kế đơn giản, hầu như không có thêu thùa trang trí Phụ nữ Tày thường mặc váy hoặc quần áo, bao gồm áo cánh ngắn bên trong và áo dài bên ngoài Đặc biệt, nhóm Phén thường chọn áo màu nâu.
Y phục truyền thống của nam giới Tày bao gồm áo cánh bốn thân, áo dài năm thân, khăn đội đầu, quần và giày vải Áo cánh bốn thân có thiết kế xẻ ngực, cổ tròn cao, không cầu vai, xẻ tà và cài cúc vải với hai túi nhỏ ở hai thân trước Trong các dịp lễ tết, nam giới thường mặc áo dài năm thân, có xẻ nách phải và đơm cúc vải hoặc đồng Quần được may từ vải sợi bông chàm, kiểu dáng đũng chéo, dài tới mắt cá chân và có cạp rộng luồn rút, thường được buộc bằng dây chun bên ngoài Khăn đội đầu màu chàm được quấn theo kiểu chữ nhân.
Y phục truyền thống của nữ giới bao gồm áo cánh, áo dài năm thân, quần váy, thắt lưng, khăn đội đầu và hài vải Áo cánh, được thiết kế với bốn thân, xẻ ngực và cổ tròn, thường có hai túi nhỏ ở phía trước, thường được may từ vải chàm hoặc trắng Khi tham gia hội, áo cánh thường được mặc lót bên trong áo dài Áo dài, với thiết kế năm thân, xẻ nách và cài cúc bằng vải hoặc đồng, có cổ tròn, ống tay và thân hẹp, tạo nên vẻ đẹp thanh lịch cho người mặc.
Trong thời gian gần đây, trang phục của phụ nữ đã có sự chuyển biến từ việc mặc váy sang mặc quần, với kiểu dáng gần giống quần nam nhưng kích thước hẹp hơn Phụ nữ Tày thường đội khăn vuông màu chàm, gập chéo theo kiểu mỏ quạ đặc trưng của người Kinh Nón của họ được làm từ nan tre và lá, với thiết kế mái nón bằng và rộng, tạo nên nét độc đáo riêng Trang sức của phụ nữ Tày cũng rất đa dạng, bao gồm vòng cổ, vòng tay, vòng chân, xà tích, và đôi khi họ còn mang theo túi vải.
Người Tày nổi bật với trang phục sử dụng màu chàm đồng nhất cho cả nam và nữ, cùng với áo lót trắng bên trong áo dài chàm Trong khi nhiều tộc khác cũng dùng màu chàm, họ thường thêm các màu sắc khác vào trang phục Đặc biệt, người Tày ít khi sử dụng màu sắc đa dạng, mà chủ yếu thể hiện qua hoa văn trên mặt chăn và thổ cẩm Trang phục của trẻ em, cả bé trai và bé gái, cũng được thiết kế tương tự như trang phục của người lớn trong cộng đồng người Tày.
Trang phục của người Tày chủ yếu mang màu sắc chàm đơn giản, nhưng nổi bật với những hoa văn đa dạng trên vải Vải thổ cẩm được dệt thủ công với các họa tiết màu đen trên nền trắng, sau đó phát triển thành nhiều kiểu dáng phong phú, thể hiện gu thẩm mỹ và sở thích của người dệt Các loại thổ cẩm hình vuông và chữ nhật được sử dụng để may mặt địu, chăn và màn che Đặc biệt, màn che ở nơi thờ cúng thường có các hình ảnh tôn giáo, như các vị thần linh và biểu tượng của thiên nhiên Màu sắc của thổ cẩm rất rực rỡ, kết hợp các màu tương phản, từ sắc trầm đến tươi sáng, thể hiện sự sáng tạo phong phú và đa dạng của nghệ nhân.
- Công cụ lao động, sản xuất, chiến đấu
Người Tày truyền thống chủ yếu canh tác nương rẫy, nhờ vào địa hình đồi núi và nhiều mảnh đất màu mỡ, thuận lợi cho việc trồng lúa nương, ngô, khoai và sắn.
Người Tày, với truyền thống nông nghiệp lâu đời, đã phát triển kỹ thuật canh tác lúa nước thông qua việc áp dụng các biện pháp thủy lợi như đào mương và bắc máng Trước đây, họ sử dụng cày chìa vôi và trâu để làm đất, nhưng hiệu quả kinh tế thấp Hiện nay, nhờ vào khoa học kỹ thuật, người Tày đã chuyển sang sử dụng máy móc hiện đại như máy cày và máy bừa, giúp giảm sức lao động và tăng hiệu quả sản xuất Quá trình thu hoạch cũng đã được cải thiện với sự xuất hiện của máy tuốt lúa và máy gặt Ngoài lúa nước, họ còn trồng lúa khô, hoa màu, cây ăn quả và phát triển chăn nuôi với nhiều loại gia súc, gia cầm.
Người Tày ở Bình Liêu từng có nghề trồng dâu, nuôi tằm và dệt vải, mặc dù ngày nay nghề này không còn phổ biến, nhưng nhiều gia đình vẫn giữ máy dệt để tạo ra thổ cẩm phục vụ đời sống sinh hoạt.
Vũ khí của dân tộc Tày gồm súng kíp, bẫy, vừa dùng đểsăn bắn, vừa dùng để tự vệ, bảo vệ con người khỏi thú dữvà kẻthù.
Cư dân vùng núi cao, đặc biệt là người Tày, đối mặt với nhiều khó khăn trong giao thông do địa hình hiểm trở với sự đan xen giữa núi và sông suối Họ chủ yếu sử dụng sức người để vận chuyển hàng hóa, đặc biệt là trong sản xuất và di chuyển lương thực thiết yếu Những đồ vật nhỏ gọn thường được cho vào dậu hoặc túi vải đeo trên người, trong khi những vật phẩm lớn hơn thì được khiêng, vác hoặc kéo bằng sức trâu.
Nhờ sự phát triển kinh tế - xã hội, đời sống của người Tày đã được cải thiện, và họ hiện đang sử dụng nhiều phương tiện cơ giới trong sinh hoạt hàng ngày.
Văn hóa phi vật thể