1. Trang chủ
  2. » Luận Văn - Báo Cáo

Nghiên cứu các nhân tố ảnh hưởng đến việc áp dụng IFRS tại các doanh nghiệp Việt Nam.

220 40 0

Đang tải... (xem toàn văn)

Tài liệu hạn chế xem trước, để xem đầy đủ mời bạn chọn Tải xuống

THÔNG TIN TÀI LIỆU

Thông tin cơ bản

Tiêu đề Nghiên Cứu Các Nhân Tố Ảnh Hưởng Đến Việc Áp Dụng IFRS Tại Các Doanh Nghiệp Việt Nam
Tác giả Lê Việt
Người hướng dẫn PGS. TS. Mai Thị Hoàng Minh
Trường học Trường Đại Học Kinh Tế Tp. Hồ Chí Minh
Chuyên ngành Kế toán
Thể loại luận án tiến sĩ kinh tế
Năm xuất bản 2020
Thành phố Thành Phố Hồ Chí Minh
Định dạng
Số trang 220
Dung lượng 4,63 MB

Cấu trúc

  • 1. Sự cần thiết của nghiên cứu (14)
  • 2. Mục tiêu nghiên cứu và câu hỏi nghiên cứu (16)
  • 3. Đối tượng nghiên cứu và phạm vi nghiên cứu (17)
  • 4. Phương pháp nghiên cứu (17)
  • 5. Đóng góp mới của luận án (19)
  • 6. Kết cấu của luận án (20)
  • CHƯƠNG 1: TỔNG QUAN NGHIÊN CỨU (21)
    • 1.1 Những nghiên cứu ở nước ngoài (21)
      • 1.1.1 Nhóm nghiên cứu nhân tố về môi trường kinh doanh (22)
        • 1.1.1.1 Các nhân tố ảnh hưởng ở phạm vi quốc tế (22)
        • 1.1.1.2 Các nhân tố ảnh hưởng ở phạm vi quốc gia (25)
      • 1.1.2 Nhóm nghiên cứu nhân tố hành vi (28)
        • 1.1.2.1 Những nghiên cứu vận dụng lý thuyết Đẳng cấu thể chế (28)
        • 1.1.2.2 Những nghiên cứu vận dụng lý thuyết hành vi dự định TPB hoặc nghiên cứu chung về nhận thức (31)
      • 1.1.3 Nhận xét các nghiên cứu ở nước ngoài (39)
    • 1.2 Những nghiên cứu tại Việt Nam (41)
      • 1.2.1 Nghiên cứu về sự hòa hợp giữa VAS với IFRS (41)
      • 1.2.2 Nghiên cứu về các nhân tố ảnh hưởng đến việc áp dụng IFRS (42)
    • 1.3 Khe hổng nghiên cứu (48)
  • CHƯƠNG 2: CƠ SỞ LÝ THUYẾT (52)
    • 2.1 Tổng quan về IFRS (52)
      • 2.1.1 Quá trình phát triển của IFRS (52)
      • 2.1.2 Tình hình áp dụng IFRS trên thế giới (55)
      • 2.1.3 Tình hình thực tế áp dụng IFRS tại Việt Nam (59)
        • 2.1.3.1 Thực trạng áp dụng IFRS tại các doanh nghiệp trong nước (59)
        • 2.1.3.2 Thực trạng về hệ thống kế toán doanh nghiệp tại Việt Nam (64)
        • 2.1.3.3 Đề án áp dụng chuẩn mực BCTC quốc tế vào Việt Nam (65)
    • 2.2 Những lý thuyết nền được vận dụng trong luận án (66)
      • 2.2.1 Lý thuyết Hành vi dự định (67)
        • 2.2.1.1 Lý thuyết hành động hợp lý TRA (67)
        • 2.2.1.2 Lý thuyết hành vi dự định TPB (68)
        • 2.2.1.3 Các mô hình phát triển từ mô hình TRA và mô hình TPB (69)
        • 2.2.1.4 Ứng dụng của mô hình TPB (71)
        • 2.2.1.5 Vận dụng lý thuyết TPB vào nghiên cứu việc áp dụng IFRS (73)
      • 2.2.2 Lý thuyết Đẳng cấu thể chế (75)
        • 2.2.2.1 Đặc điểm cơ bản của lý thuyết Đẳng cấu thể chế (75)
        • 2.2.2.2 Vận dụng lý thuyết đẳng cấu thể chế vào nghiên cứu việc áp dụng (76)
  • IFRS 63 (0)
    • 2.2.3 Mô hình kết hợp lý thuyết hành vi dự định TPB và lý thuyết đẳng cấu thể chế 65 (78)
    • 2.3 Giả thuyết nghiên cứu (79)
      • 2.3.1 Tổng hợp các khái niệm nghiên cứu sử dụng trong luận án (79)
      • 2.3.2 Để xuất giả thuyết nghiên cứu (80)
    • 2.4 Mô hình nghiên cứu lý thuyết dự kiến (84)
  • CHƯƠNG 3: PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU (86)
    • 3.1 Quy trình nghiên cứu (86)
    • 3.2 Xây dựng thang đo (89)
    • 3.3 Thiết kế nghiên cứu (92)
      • 3.3.1 Thiết kế nghiên cứu sơ bộ (92)
        • 3.3.1.1 Mục tiêu của nghiên cứu sơ bộ (92)
        • 3.3.1.2 Mẫu nghiên cứu sơ bộ (93)
        • 3.3.1.3 Thiết kế bảng câu hỏi (94)
      • 3.3.2 Thiết kế nghiên cứu định lượng chính thức (95)
        • 3.3.2.1 Mục tiêu (95)
        • 3.3.2.2 Mẫu nghiên cứu (96)
        • 3.3.2.3 Kỹ thuật xử lý dữ liệu (101)
  • CHƯƠNG 4: KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU VÀ BÀN LUẬN (104)
    • 4.1 Kết quả nghiên cứu sơ bộ (104)
      • 4.1.1 Nghiên cứu định tính (104)
      • 4.1.2 Nghiên cứu định lượng sơ bộ (112)
        • 4.1.2.1 Mẫu nghiên cứu (112)
        • 4.1.2.2 Kỹ thuật phân tích trong nghiên cứu định lượng sơ bộ (114)
        • 4.1.2.3 Đánh giá giá trị hội tụ và độ tin cậy nhất quán nội tại của thang đo (115)
        • 4.1.2.4 Đánh giá giá trị phân biệt của thang đo (120)
        • 4.1.2.5 Tổng kết nghiên cứu sơ bộ (123)
    • 4.2 Kết quả nghiên cứu chính thức (125)
      • 4.2.1 Mẫu nghiên cứu (125)
      • 4.2.2 Các thủ tục nghiên cứu chính thức (128)
      • 4.2.3 Đánh giá thang đo (129)
        • 4.2.3.1 Đánh giá độ tin cậy nhất quán nội tại (129)
        • 4.2.3.2 Đánh giá giá trị hội tụ (130)
        • 4.2.3.3 Đánh giá giá trị phân biệt (131)
      • 4.2.4 Đánh giá mô hình cấu trúc (134)
        • 4.2.4.1 Đánh giá đa cộng tuyến (134)
        • 4.2.4.2 Đánh giá hệ số xác định R 2 (0)
        • 4.3.4.3 Đánh giá hệ số tác động f 2 (0)
        • 4.2.4.4 Đánh giá sự phù hợp của các mối quan hệ (137)
        • 4.2.3.5 Đánh giá khả năng dự báo với hệ số Q 2 (0)
        • 4.2.4.6 Đánh giá hệ số q 2 (0)
    • 4.3 Tổng hợp kết quả và bàn luận (144)
      • 4.3.1 Tổng hợp kết quả (144)
      • 4.3.2 Bàn luận (148)
        • 4.3.2.1 Tác động của các biến Thái độ, Nhận thức về ảnh hưởng xã hội, và Nhận thức về sự kiểm soát đối với Việc áp dụng IFRS (148)
        • 4.3.2.2 Tác động của các biến trong phần mở rộng của mô hình TPB gốc đối với các biến Thái độ, Nhận thức về ảnh hưởng xã hội, và Nhận thức về sự kiểm soát (148)
        • 4.3.3.3 Tác động của các thành phần mở rộng trong mô hình nghiên cứu đối với Việc áp dụng IFRS (150)
  • CHƯƠNG 5: KẾT LUẬN VÀ HÀM Ý (152)
    • 5.1 Kết luận (152)
    • 5.2 Hàm ý lý thuyết và hàm ý quản trị (155)
      • 5.2.1 Hàm ý lý thuyết (155)
      • 5.2.2 Hàm ý quản trị (157)
    • 5.3 Hạn chế của luận án và đề xuất cho các nghiên cứu tiếp theo (160)
  • PHỤ LỤC (179)

Nội dung

Nghiên cứu các nhân tố ảnh hưởng đến việc áp dụng IFRS tại các doanh nghiệp Việt Nam. Nghiên cứu các nhân tố ảnh hưởng đến việc áp dụng IFRS tại các doanh nghiệp Việt Nam. Nghiên cứu các nhân tố ảnh hưởng đến việc áp dụng IFRS tại các doanh nghiệp Việt Nam. Nghiên cứu các nhân tố ảnh hưởng đến việc áp dụng IFRS tại các doanh nghiệp Việt Nam. Nghiên cứu các nhân tố ảnh hưởng đến việc áp dụng IFRS tại các doanh nghiệp Việt Nam.

Sự cần thiết của nghiên cứu

Theo thống kê của IFRS Foundation, tính đến tháng 4/2020, có 166 quốc gia đã hoặc đang áp dụng IFRS, chiếm 98.8% tổng GDP toàn cầu Châu Âu dẫn đầu với 44 quốc gia áp dụng IFRS, tiếp theo là Châu Phi (38 nước), Châu Mỹ (37 nước), Châu Á và Châu Đại Dương (34 nước), và Trung Đông (13 nước) Trong bối cảnh toàn cầu hóa, việc thống nhất ngôn ngữ kế toán qua việc lập báo cáo tài chính và trình bày thông tin là rất cần thiết Mặc dù một số quốc gia như Mỹ, Trung Quốc và Ấn Độ còn chần chừ trong việc áp dụng IFRS, nhưng những lợi ích tích cực của IFRS đã được chứng minh qua nhiều nghiên cứu trong hai thập kỷ qua.

• Áp dụng IFRS làm giảm quản trị lợi nhuận: Barth và cộng sự (2008) Christensen và cộng sự (2015);

• Áp dụng IFRS làm tăng giá trị thích hợp của thông tin: Bartov và cộng sự

(2005), Horton và Serafeim (2010), Barth và cộng sự (2012);

• Áp dụng IFRS giúp cho việc ghi nhận lỗ đúng kỳ hơn: Barth và cộng sự (2008), Chen và cộng sự (2010), Sun và cộng sự (2011), Christensen và cộng sự (2015);

• Áp dụng IFRS làm tăng tính so sánh của thông tin: Joshi và cộng sự (2008); Li (2010)

• Áp dụng IFRS làm tăng giá và tính thanh khoản của cổ phiếu: Daske và cộng sự

(2008), Barth và cộng sự (2014); Barth và cộng sự (2018).

IFRS không chỉ mang lại lợi ích cho các nước phát triển mà còn tạo cơ hội nâng cao chất lượng thông tin trên báo cáo tài chính (BCTC) cho các quốc gia đang phát triển Nghiên cứu của Dante và cộng sự (2018) đã phân tích dữ liệu từ năm 2000 đến 2016 của 2.458 công ty từ 13 quốc gia mới nổi, cho thấy tiềm năng cải thiện trong việc áp dụng IFRS.

14 quốc gia, bao gồm Argentina, Brazil, Chile, Colombia, Malaysia, Mexico, Nigeria, Pakistan, Peru, Philippines, Ba Lan, Nga, và Nam Phi, đã kết luận rằng việc áp dụng IFRS đã nâng cao chất lượng thông tin trên báo cáo tài chính (BCTC) và giảm thiểu quản trị lợi nhuận Tuy nhiên, vẫn tồn tại những quan điểm trái chiều về việc áp dụng IFRS Verschoor (2010) đã nêu ra những lo ngại từ Ủy ban chứng khoán Mỹ (SEC) liên quan đến tính thích hợp của IFRS đối với BCTC, sự hiểu biết của nhà đầu tư về IFRS so với US GAAP, cũng như tác động của IFRS đối với luật thuế, yêu cầu pháp lý, và các doanh nghiệp, bao gồm thay đổi hợp đồng, quản trị doanh nghiệp, và khả năng kiện tụng tiềm tàng.

Mỹ chưa chính thức áp dụng IFRS, do đó, những lo ngại của quốc gia này có thể là bài học quý giá cho Việt Nam trong việc chuẩn bị cho việc triển khai IFRS trong tương lai.

Việc áp dụng IFRS tại Việt Nam đã được thảo luận từ vài năm trước, nhưng theo IFRS Foundation, tính đến tháng 4/2020, Việt Nam vẫn chưa chính thức cam kết Tuy nhiên, Bộ Tài chính đã ban hành dự thảo Đề án áp dụng chuẩn mực BCTC quốc tế vào năm 2019 và Quyết định 345/QĐ-BTC vào ngày 16 tháng 3 năm 2020, cho thấy việc áp dụng IFRS là điều chắc chắn Do IFRS dựa trên nguyên tắc, việc áp dụng sẽ phụ thuộc nhiều vào trình độ và kỹ năng của kế toán, kiểm toán, điều này có thể tạo ra thách thức trong quá trình thực hiện.

Đến cuối năm 2017, chỉ có khoảng 17 doanh nghiệp tại Việt Nam áp dụng IFRS trong việc công bố báo cáo tài chính, cho thấy số lượng doanh nghiệp áp dụng chuẩn mực này vẫn còn hạn chế Do đó, Bộ Tài chính cần tiến hành đánh giá kỹ lưỡng nhu cầu và năng lực của các doanh nghiệp để xây dựng một hướng tiếp cận phù hợp.

Tác giả nhận thấy rằng, trong các nghiên cứu về việc áp dụng IFRS tại Việt Nam và trên thế giới, phần lớn tập trung vào dữ liệu BCTC và nguồn dữ liệu thứ cấp, trong khi nghiên cứu hành vi áp dụng IFRS còn hạn chế và có nhiều khoảng trống để khai thác Nhiều nghiên cứu trước đây chưa kết hợp lý thuyết nền một cách đầy đủ và thường sử dụng các phương pháp phân tích đơn giản như SPSS, thay vì các phần mềm phức tạp hơn Điều này cho thấy rằng nghiên cứu hành vi có thể khám phá và đánh giá các yếu tố tác động đến ý định áp dụng IFRS, đặc biệt trong bối cảnh Việt Nam chưa chính thức áp dụng chuẩn mực này Vì vậy, tác giả quyết định nghiên cứu các nhân tố ảnh hưởng đến việc áp dụng IFRS tại các doanh nghiệp Việt Nam, nhằm làm rõ vấn đề quan trọng trong lĩnh vực kế toán hiện nay.

Mục tiêu nghiên cứu và câu hỏi nghiên cứu

Luận án này nghiên cứu các nhân tố ảnh hưởng đến việc áp dụng chuẩn mực IFRS tại các doanh nghiệp Việt Nam, với mục tiêu tổng quát là tìm hiểu và phân tích các yếu tố quyết định trong quá trình triển khai chuẩn mực này Từ mục tiêu tổng quát, luận án xác định các mục tiêu cụ thể nhằm làm rõ các khía cạnh liên quan đến việc áp dụng IFRS trong bối cảnh doanh nghiệp Việt Nam.

 Xác định các nhân tố ảnh hưởng đến việc áp dụng IFRS

 Đo lường mức độ ảnh hưởng của các nhân tố này đến việc áp dụng IFRS

 Xác định các thành phần tác động của các nhân tố ảnh hưởng đến việc áp dụng IFRS

 Đo lường mức độ tác động của các thành phần này đối với các nhân tố ảnh hưởng đến việc áp dụng IFRS

Từ các mục tiêu cụ thể trên, nghiên cứu sẽ đi tìm hướng giải quyết cho các câu hỏi tương ứng lần lượt như sau:

 Các nhân tố nào có ảnh hưởng đến việc áp dụng IFRS?

 Mức độ ảnh hưởng của từng nhân tố đến việc áp dụng IFRS tại các doanh nghiệp Việt Nam cụ thể ra sao?

 Các thành phần tác động đến các nhân tố ảnh hưởng này bao gồm những gì?

Mức độ tác động của các thành phần đến việc áp dụng IFRS tại các doanh nghiệp Việt Nam là rất quan trọng, vì chúng ảnh hưởng trực tiếp đến khả năng tiếp cận và thực hiện chuẩn mực kế toán quốc tế Các yếu tố như môi trường kinh doanh, năng lực nhân sự và sự hỗ trợ từ chính phủ đóng vai trò quyết định trong quá trình chuyển đổi này Việc hiểu rõ tác động của từng thành phần sẽ giúp doanh nghiệp tối ưu hóa quy trình áp dụng IFRS, nâng cao tính minh bạch và cải thiện hiệu quả tài chính.

Phương pháp nghiên cứu

Để đạt được mục tiêu xác định các nhân tố ảnh hưởng và mức độ ảnh hưởng của chúng, luận án được thực hiện theo phương pháp hỗn hợp qua hai giai đoạn: sơ bộ và chính thức Giai đoạn sơ bộ nhằm hiệu chỉnh thang đo thông qua việc phỏng vấn chuyên gia trong lĩnh vực kế toán, bao gồm quản lý, giảng viên, kiểm toán viên và chuyên gia IFRS tại Việt Nam Sau đó, nghiên cứu định lượng sơ bộ được tiến hành để kiểm định thang đo đã điều chỉnh Giai đoạn nghiên cứu chính thức sẽ thực hiện nghiên cứu định lượng với kỹ thuật PLS-SEM để phân tích dữ liệu và xác định các nhân tố tác động đến việc áp dụng IFRS tại Việt Nam, một phương pháp phổ biến trong nghiên cứu hành vi từ cuối thế kỷ trước.

PLS-SEM là một phương pháp phân tích kết hợp giữa phân tích nhân tố và hồi quy, cho phép xử lý hiệu quả các mối quan hệ phức tạp trong mô hình nghiên cứu Kỹ thuật này rất phù hợp cho các mô hình có nhiều mối quan hệ cần kiểm định, bao gồm cả quan hệ trực tiếp và gián tiếp Gần đây, PLS-SEM đã trở thành xu hướng phổ biến trong nhiều nghiên cứu, đặc biệt trong lĩnh vực kế toán tại Việt Nam và quốc tế (Hair và cộng sự, 2017).

Nghiên cứu này sẽ áp dụng phần mềm SmartPLS phiên bản 3.2.8 để kiểm định thang đo và các giả thuyết, nhằm làm rõ câu hỏi nghiên cứu Bên cạnh đó, luận án cũng sẽ sử dụng phần mềm G*power để xác định cỡ mẫu phù hợp.

Dữ liệu trong nghiên cứu sẽ được thu thập từ nguồn sơ cấp, bao gồm các cuộc phỏng vấn trực tiếp với chuyên gia trong phần nghiên cứu định tính và các bảng khảo sát gửi đến doanh nghiệp trong giai đoạn nghiên cứu sơ bộ và nghiên cứu định lượng chính thức.

Đóng góp mới của luận án

Luận án đã kiểm định tính thích hợp của hai lý thuyết nền trong việc áp dụng IFRS, trong đó có lý thuyết hành vi dự định TPB của Ajzen.

Nghiên cứu này áp dụng lý thuyết đẳng cấu thể chế của DiMaggio và Powell (1983) trong bối cảnh nền kinh tế mới nổi Việt Nam, kết hợp hai lý thuyết trước đây thường được nghiên cứu riêng lẻ trong việc áp dụng IFRS Nghiên cứu đã xác định các nhân tố quan trọng ảnh hưởng đến ý định áp dụng IFRS tại Việt Nam, bao gồm Thái độ, Nhận thức về áp lực xã hội và Nhận thức về sự kiểm soát Mô hình TPB mở rộng được xây dựng để xác định các thành phần tác động đến việc áp dụng IFRS, trong đó Nhận thức về tính hữu ích ảnh hưởng đến Thái độ, còn Áp lực cưỡng chế, Áp lực mô phỏng và Áp lực chuyên môn tác động đến Nhận thức về áp lực xã hội, và các nguồn lực cùng điều kiện cần thiết tác động đến Nhận thức về sự kiểm soát Phần mở rộng này là điểm mới của luận án so với các nghiên cứu trước Luận án cũng cung cấp bằng chứng thực nghiệm để chứng minh việc áp dụng các thang đo đã được kiểm định trong các nghiên cứu trước nhưng vẫn phù hợp với điều kiện nghiên cứu tại Việt Nam.

Nghiên cứu đã xác định các yếu tố hành vi ảnh hưởng đến việc áp dụng IFRS và mức độ tác động của chúng, từ đó đưa ra những gợi ý nhằm thúc đẩy việc áp dụng IFRS Điều này sẽ giúp các nhà hoạch định chính sách hỗ trợ doanh nghiệp Việt Nam tiếp cận IFRS một cách hiệu quả nhất.

Tác động của thái độ đối với việc áp dụng IFRS cho thấy rằng việc tạo ra cảm nhận tích cực về IFRS trong giai đoạn tự nguyện là rất quan trọng để khuyến khích doanh nghiệp áp dụng chuẩn mực này Kết quả nghiên cứu cũng giúp doanh nghiệp có cái nhìn tổng quan hơn về việc áp dụng IFRS, từ đó chuẩn bị đầy đủ nguồn lực và điều kiện cần thiết cho quá trình áp dụng sắp tới.

Kết cấu của luận án

Luận án bao gồm năm chương được trình bày theo thứ tự như sau:

Chương 1 cung cấp cái nhìn tổng quan về các nghiên cứu liên quan đến việc áp dụng IFRS trên toàn cầu và tại Việt Nam, đồng thời nêu rõ các hướng nghiên cứu về những nhân tố ảnh hưởng đến quá trình này Qua đó, chương cũng chỉ ra những khe hổng trong nghiên cứu hiện tại, tạo cơ sở cho các nghiên cứu tiếp theo.

Chương 2 tổng kết cơ sở lý thuyết liên quan đến hành vi áp dụng IFRS, trình bày các lý thuyết nền tảng cơ bản và đề xuất các giả thuyết cùng mô hình nghiên cứu Mô hình nghiên cứu này bao gồm 10 khái niệm, được phát triển từ mô hình TPB mở rộng, kết hợp với lý thuyết đẳng cấu thể chế.

Chương 3 của luận án sẽ trình bày phương pháp nghiên cứu bao gồm các bước như nghiên cứu định tính, nghiên cứu định lượng sơ bộ và nghiên cứu định lượng chính thức sử dụng kỹ thuật PLS-SEM để xử lý dữ liệu Bảng câu hỏi nháp đầu được kế thừa, bổ sung và phát triển từ các thang đo của các nghiên cứu quốc tế cũng sẽ được giới thiệu trong chương này Ngoài ra, chương 3 còn cung cấp thông tin chi tiết về đối tượng khảo sát của luận án.

Chương 4 trình bày kết quả nghiên cứu và thảo luận, bao gồm các kết quả từ nghiên cứu định tính, kết quả sơ bộ của nghiên cứu định lượng và mô hình điều chỉnh Cuối cùng, chương này sẽ phân tích kết quả từ nghiên cứu định lượng chính thức với 221 doanh nghiệp và thảo luận về những phát hiện quan trọng từ nghiên cứu.

Chương 5 tổng kết nghiên cứu, nêu rõ ý nghĩa lý luận và thực tiễn, đồng thời chỉ ra những hạn chế của luận án và đề xuất hướng nghiên cứu tiếp theo phù hợp.

TỔNG QUAN NGHIÊN CỨU

Những nghiên cứu ở nước ngoài

Nhiều nghiên cứu quốc tế đã được tiến hành để so sánh sự khác biệt giữa giai đoạn trước và sau khi áp dụng IFRS, nhằm đánh giá hiệu quả của chuẩn mực này Trong khi đó, một số nghiên cứu khác tập trung vào việc xác định các yếu tố ảnh hưởng đến quá trình áp dụng IFRS tại các quốc gia đang trong lộ trình thực hiện.

1.1.1 Nhóm nghiên cứu nhân tố về môi trường kinh doanh

Các nghiên cứu về nhân tố môi trường kinh doanh ảnh hưởng đến việc áp dụng IFRS được phân chia thành hai nhóm chính: nhóm nghiên cứu quốc tế, tập trung vào phân tích dữ liệu từ nhiều quốc gia hoặc doanh nghiệp của các quốc gia khác nhau, và nhóm nghiên cứu quốc gia, tập trung vào việc khảo sát nhiều doanh nghiệp trong cùng một quốc gia.

1.1.1.1 Các nhân tố ảnh hưởng ở phạm vi quốc tế

Việc áp dụng hệ thống chuẩn mực kế toán quốc tế IFRS là cần thiết nhưng gặp nhiều thách thức, đặc biệt trong bối cảnh hội nhập toàn cầu Các quốc gia, đặc biệt là những nước đang phát triển, thường đối mặt với những vấn đề vĩ mô như hệ thống pháp luật, thuế, tài chính và yếu tố văn hóa, ảnh hưởng đến quá trình thực hiện IFRS.

Nghiên cứu định lượng của Hope và cộng sự (2006) tại 38 quốc gia cho thấy, tính đến cuối năm 2005, có 65 quốc gia yêu cầu áp dụng IFRS, trong đó có 28 nước ở Châu Âu Kết quả cho thấy các quốc gia có cơ chế bảo hộ kém đối với nhà đầu tư hoặc có nhu cầu thu hút vốn nước ngoài thường có xu hướng áp dụng IFRS để cải thiện môi trường đầu tư.

Nghiên cứu của Zeghal và Mhadhbi (2006) xác định năm nhân tố quyết định đến việc áp dụng IFRS tại các nước đang phát triển, bao gồm phát triển kinh tế (tăng trưởng GDP), trình độ giáo dục (tỉ lệ biết chữ theo nghiên cứu của Larsson - 2003), khả năng thu hút FDI, mối liên hệ văn hóa với các quốc gia nói tiếng Anh, và sự hiện hữu của thị trường vốn Dữ liệu được thu thập chủ yếu từ World Bank và nghiên cứu trên 64 quốc gia, chia thành 32 nước áp dụng IFRS và 32 nước không áp dụng vào năm 2003 Kết quả cho thấy rằng thị trường vốn, trình độ dân trí và ảnh hưởng văn hóa Anh-Mỹ là những nhân tố quan trọng trong việc áp dụng IFRS.

Choi và Meek (2008) đã xây dựng một khuôn mẫu gồm 8 nhân tố tác động đến hệ thống kế toán, bao gồm nguồn tài chính, hệ thống pháp luật, thuế, quan hệ giữa kinh tế và chính trị, lạm phát, tăng trưởng kinh tế, trình độ học vấn và văn hóa Theo Shima và Yang (2012), khuôn mẫu này tổng hợp đầy đủ các nhân tố chính ảnh hưởng đến hệ thống kế toán và đã được kiểm định trong nhiều mô hình nghiên cứu.

Shima và Yang (2012) đã thực hiện nghiên cứu dựa trên dữ liệu từ 73 quốc gia trong giai đoạn 2000-2007, với tổng số 527 quan sát, bao gồm nhiều quốc gia trên các châu lục, ngoại trừ Liên minh Châu Âu (EU) Lý do không đưa EU vào nghiên cứu là do các quốc gia thành viên đã bắt buộc áp dụng IFRS, bất chấp điều kiện môi trường kinh doanh Nghiên cứu phân loại các quốc gia thành ba nhóm: không cho phép (22 quốc gia, bao gồm Việt Nam), cho phép hoặc bắt buộc (14 quốc gia), và bắt buộc.

Kết quả phân tích từ 37 quốc gia cho thấy rằng, ngoại trừ thuế và lạm phát, các yếu tố như mối quan hệ kinh tế - chính trị, nợ nước ngoài, hệ thống pháp lý, phát triển kinh tế, trình độ dân trí và độ e ngại rủi ro đều có ảnh hưởng tích cực đến việc áp dụng IFRS Đặc biệt, độ e ngại rủi ro, liên quan đến văn hóa, có thể thúc đẩy xu hướng áp dụng IFRS Các nước thuộc địa cũ của Vương quốc Anh thường tốn ít chi phí chuyển đổi và dễ thực thi hơn khi áp dụng IFRS Một nghiên cứu của Fox và cộng sự (2013) cho thấy sự khác biệt văn hóa đã tạo ra chi phí cao trong quá trình áp dụng IFRS tại Ý, nơi mà kế toán chịu sự tuân thủ cao từ luật pháp, trong khi Vương quốc Anh, với hệ thống thông luật, có quy trình thiết lập CMKT linh hoạt hơn Nghiên cứu này mang lại giá trị cho các công ty chưa áp dụng IFRS, nhấn mạnh tầm quan trọng của việc hiểu biết văn hóa trong quá trình chuyển đổi.

Schultz và Lopez (2001) chỉ ra rằng sự khác biệt văn hóa ảnh hưởng đến cách các kế toán viên ước tính giá trị chi phí bảo hành, với các kế toán viên ở Đức và Pháp có xu hướng ước tính cao hơn so với đồng nghiệp ở Anh, phản ánh chủ nghĩa bảo thủ trong văn hóa kế toán Châu Âu lục địa Zehri và Chouaibi (2013) mở rộng nghiên cứu về việc áp dụng IFRS tại các nước đang phát triển, nhấn mạnh rằng họ chỉ xem xét việc áp dụng tự nguyện và bổ sung hai yếu tố mới là hệ thống pháp lý và chính trị vào nghiên cứu của Zeghal và Mhadhbi (2006) Nghiên cứu dựa trên mẫu 74 quốc gia, cho thấy rằng việc áp dụng IFRS tự nguyện thường liên quan đến tỷ lệ tăng trưởng kinh tế, hệ thống pháp lý hoàn chỉnh và trình độ giáo dục, bên cạnh yếu tố cưỡng chế bắt buộc Alon (2010) áp dụng lý thuyết thể chế để nghiên cứu việc áp dụng IFRS, sử dụng dữ liệu từ 71 quốc gia, phân loại thành ba nhóm: không áp dụng, cho phép áp dụng tự nguyện và bắt buộc áp dụng.

Theo Alon, lý thuyết thể chế trong nghiên cứu quốc tế cho thấy các quốc gia tìm kiếm tính hợp pháp thông qua việc hợp thức hóa hệ thống của họ Các nước có cơ chế quản trị yếu và kinh tế chậm phát triển thường có xu hướng áp dụng BCTC để đạt được tính chính đáng Ngược lại, các quốc gia đã thiết lập cơ chế quản trị tốt thường ít có nhu cầu áp dụng IFRS Hơn nữa, những nước có chủ nghĩa dân tộc cao thường từ chối IFRS và ưu tiên chuẩn mực nội địa.

Nghiên cứu của Gassen và Sellhorn (2006) chỉ ra rằng quy mô, mức độ quốc tế hóa và sự phân tán trong thành phần chủ sở hữu là những yếu tố ảnh hưởng đến việc áp dụng IFRS tự nguyện ở các doanh nghiệp niêm yết tại Đức từ 1998-2004 Kết quả cho thấy chất lượng lợi nhuận của doanh nghiệp áp dụng IFRS cao hơn nhóm không áp dụng André và cộng sự (2012) đã nghiên cứu về việc áp dụng IFRS tự nguyện tại các công ty không niêm yết ở Vương quốc Anh vào năm 2009, với 267 công ty áp dụng IFRS, chiếm tỷ lệ 3% Nghiên cứu xác định bốn yếu tố quan trọng ảnh hưởng đến việc tự nguyện áp dụng IFRS bao gồm mức độ quốc tế hóa, đòn bẩy, quy mô và kiểm toán viên, trong khi các yếu tố như lợi nhuận, sự phân hóa vốn chủ sở hữu, và mức đầu tư vào tài sản cố định không có vai trò quyết định.

Nghiên cứu của Bessieux-Ollier và Walliser (2012) về việc tự nguyện áp dụng của

Vào năm 2010, có 85 công ty tại Pháp niêm yết trên thị trường Alternext, bao gồm 32 công ty áp dụng IFRS toàn phần và 53 công ty sử dụng chuẩn mực kế toán nội địa Nhóm tác giả đã thu thập dữ liệu thứ cấp từ báo cáo thường niên của các công ty này để kiểm định các nhân tố liên quan đến đòn bẩy tài chính.

Lý thuyết đại diện của Jensen và Meckling (1976) cùng với quy mô doanh nghiệp, mức độ quốc tế hóa, lợi nhuận, ngành nghề, danh tiếng công ty kiểm toán, số lượng chủ sở hữu và giá trị tài sản cố định đều ảnh hưởng đến việc áp dụng tự nguyện các chuẩn mực kế toán Kết quả cho thấy quy mô doanh nghiệp dựa trên tài sản và giá trị tài sản cố định cao sẽ thúc đẩy việc áp dụng tự nguyện Đặc biệt, nhóm tác giả nhấn mạnh rằng nếu không có sự “ép buộc” từ cơ quan lập quy, các công ty trên sàn Alternext vẫn sẽ tiếp tục áp dụng chuẩn mực nội địa.

Nghiên cứu của Şenyiğit (2014) tại Thổ Nhĩ Kỳ trong giai đoạn tự nguyện áp dụng IFRS từ năm 2003-2004 đã khảo sát 206 doanh nghiệp trên sàn Bora Istanbul, trong đó có 61 công ty áp dụng và 145 công ty chưa áp dụng, chiếm 72% tổng số công ty niêm yết Kết quả cho thấy quy mô, hoạt động xuất khẩu và công ty kiểm toán là những nhân tố chính ảnh hưởng đến tính tự nguyện trong việc áp dụng IFRS Tác giả cũng chỉ ra rằng các tổ chức tài chính có sự khác biệt cơ bản so với các nhóm còn lại và do đó không được đưa vào nghiên cứu.

Nghiên cứu về việc áp dụng IFRS tại các nước kém phát triển là rất cần thiết, như Lin (2012) đã chỉ ra, vì điều này giúp giảm thiểu sự bất cân xứng thông tin giữa doanh nghiệp và nhà đầu tư nước ngoài, từ đó thu hút FDI dễ dàng hơn Ví dụ, nghiên cứu của Bova và Pereira (2012) tại Kenya cho thấy, mặc dù là nước đang phát triển với môi trường thực thi yếu, Kenya đã yêu cầu tất cả công ty, kể cả vừa và nhỏ, áp dụng IFRS từ năm 1999 Dữ liệu từ BCTC giai đoạn 2005-2007 của 78 công ty cho thấy các công ty niêm yết tuân thủ IFRS tốt hơn so với công ty tư nhân, với sở hữu nước ngoài có mối tương quan tích cực với việc tuân thủ Điều này cho thấy nhà đầu tư nước ngoài yêu cầu BCTC chất lượng cao hơn, và công ty tuân thủ IFRS càng nhiều thì cổ phiếu càng có tính thanh khoản cao.

Bảng 1 1 Tổng hợp các nhân tố về môi trường kinh doanh tác động đến việc áp dụng IFRS

Nhân tố Các nghiên cứu liên quan

Quy mô doanh nghiệp Gassen và Sellhorn (2006), Şenyiğit (2014) Bessieux-Ollier và Walliser (2012) Danh tiếng của kiểm toán viên Şenyiğit (2014) Bessieux-Ollier và Walliser (2012)

Hệ thống pháp lý/thể chế Zehri và Chouaibi (2013)

Trình độ dân trí/giáo dục

Shima và Yang (2012) Zehri và Chouaibi (2013) Phát triển kinh tế Shima và Yang (2012)

Văn hóa Shimaa và Yang (2012)

Zeghal và Mhadhbi (2006) Fox và cộng sự (2013) Schultz và Lopez (2001)

Thị trường vốn Zeghal và Mhadhbi (2006)

Thu hút FDI Hope và cộng sự (2006)

(Nguồn: Tổng hợp của tác giả)

1.1.2 Nhóm nghiên cứu nhân tố hành vi

Những nghiên cứu tại Việt Nam

Tại Việt Nam, hai nhóm nghiên cứu chính liên quan đến IFRS là nghiên cứu sự hòa hợp giữa VAS và IFRS, và nghiên cứu các nhân tố ảnh hưởng đến việc áp dụng IFRS Vì Việt Nam chưa chính thức áp dụng IFRS, hầu hết doanh nghiệp lập báo cáo theo IFRS đều dựa trên cơ sở tự nguyện Do đó, các nghiên cứu về nhân tố ảnh hưởng đến việc áp dụng IFRS chủ yếu tập trung vào các đối tượng tự nguyện Hơn nữa, các nghiên cứu này thường mang tính khám phá, sử dụng dữ liệu sơ cấp để giải quyết vấn đề nghiên cứu Phần tổng quan sẽ chỉ đề cập đến những nghiên cứu tiêu biểu tại Việt Nam có mô hình nghiên cứu cụ thể và đã tiến hành kiểm định các giả thuyết nghiên cứu.

1.2.1 Nghiên cứu về sự hòa hợp giữa VAS với IFRS

Nghiên cứu của Trần Hồng Vân (2014) chỉ ra rằng sự hòa hợp giữa kế toán Việt Nam (VAS) và kế toán quốc tế (IFRS) trong việc lập và trình bày báo cáo tài chính hợp nhất còn chưa cao, đặc biệt là đối với các chuẩn mực ban hành trước năm 2004 Các nguyên nhân dẫn đến mức độ hòa hợp thấp bao gồm: một số nội dung kế toán chỉ quy định trong VAS, sự khác biệt trong lý thuyết hợp nhất giữa VAS và IAS, VAS chỉ áp dụng một số phương pháp IAS cho phép, phạm vi khai báo thông tin của VAS hẹp hơn IAS, và VAS thiếu chuẩn mực về công cụ tài chính Để nâng cao sự hòa hợp, cần có sự đồng bộ giữa CMKT Việt Nam và quốc tế, cùng với việc các doanh nghiệp tuân thủ nghiêm ngặt các quy định của CMKT Việt Nam.

Nghiên cứu của Trần Quốc Thịnh (2014) đã đánh giá sự hội tụ giữa VAS và IFRS, nhấn mạnh rằng việc này là cần thiết nhưng cần có định hướng rõ ràng cho việc triển khai tại Việt Nam Tác giả đề xuất rằng các doanh nghiệp lớn và tổ chức tín dụng nên áp dụng toàn bộ IFRS, trong khi các doanh nghiệp nhỏ và vừa cần chia thành hai giai đoạn: giai đoạn đầu là xây dựng hệ thống chuẩn mực kế toán Việt Nam gần với IFRS, và giai đoạn hai là ban hành chuẩn mực tương đương với IFRS Trong một nghiên cứu quốc tế của Pham Hoai Hương (2016), tác giả đã chỉ ra rằng tỉ lệ tương đồng giữa 25 VAS và IAS/IFRS là rất cao, đạt 84% vào năm 2003, nhưng đã giảm xuống còn 63% vào năm 2013 do nhiều thay đổi trong IFRS.

Một nghiên cứu gần đây của Trần Quốc Thịnh và Nguyễn Thị Cẩm Thúy (2018) chỉ ra rằng, tỷ lệ hội tụ giữa Chuẩn mực Kế toán Việt Nam (VAS) hiện hành và Chuẩn mực Báo cáo Tài chính Quốc tế (IFRS) chỉ đạt 55,8% Trong khi đó, dự thảo Thông tư ban hành 8 Chuẩn mực Kế toán vào năm 2013 cho thấy tỷ lệ hội tụ cao hơn nhiều, lên tới 87,8%.

1.2.2 Nghiên cứu về các nhân tố ảnh hưởng đến việc áp dụng IFRS Đối với nghiên cứu về các nhân tố ảnh hưởng đến việc áp dụng IFRS, do Việt Nam chưa áp dụng IFRS, số lượng các công bố liên quan chưa nhiều và đều là nghiên cứu định lượng, mang tính chất khám phá, dựa vào nguồn dữ liệu sơ cấp để giải quyết vấn đề nghiên cứu Do số lượng nghiên cứu có chất lượng về IFRS tại Việt Nam không nhiều, phần tổng quan này sẽ bao gồm cả một số nghiên cứu về các nhân tố ảnh hưởng đến việc áp dụng IFRS cho doanh nghiệp nhỏ và vừa cũng như việc áp dụng VAS để có cái nhìn tổng quát về vấn đề nghiên cứu.

Nghiên cứu các yếu tố ảnh hưởng đến doanh nghiệp nhỏ và vừa tại Việt Nam là rất quan trọng, vì đây là nhóm doanh nghiệp chiếm phần lớn trong tổng số doanh nghiệp cả nước Theo số liệu từ Tổng cục Thống kê, kết quả của Tổng điều tra kinh tế năm cho thấy sự phát triển và vai trò của các doanh nghiệp này trong nền kinh tế quốc dân.

2017, cả nước có gần 517.900 doanh nghiệp đang hoạt động, tăng 51,6% so với năm

2012, trong đó, doanh nghiệp nhỏ và vừa chiếm tới 98,1%.

Nghiên cứu của Trần Đình Khôi Nguyên (2011) chỉ ra rằng nhân tố duy nhất ảnh hưởng đến việc vận dụng CMKT trong các doanh nghiệp nhỏ và vừa là năng lực của kế toán viên Các yếu tố khác như tài liệu hướng dẫn thực hành, sự quan tâm của chủ doanh nghiệp, khả năng sinh lời và ảnh hưởng của công tác kiểm tra-kiểm toán không có ý nghĩa thống kê Hơn nữa, tỷ lệ vận dụng CMKT trong nhóm đối tượng này chỉ đạt dưới 50%.

Trần Thị Thanh Hải (2015) đã chỉ ra 5 nhân tố ảnh hưởng đến khung pháp lý kế toán cho doanh nghiệp nhỏ và vừa tại Việt Nam, xếp theo mức độ tác động từ cao đến thấp: Cơ sở hạ tầng kế toán, Tính bắt buộc tuân thủ, Người làm kế toán, Mối quan hệ lợi ích-chi phí, và Hệ thống văn bản pháp lý Nghiên cứu này có hạn chế khi chỉ tập trung vào doanh nghiệp vừa và nhỏ, mà chưa phân tích sâu về sự khác biệt giữa các nhóm theo ngành nghề.

Nghiên cứu của Nguyễn Thị Ánh Linh (2018) về tác động của các yếu tố bên ngoài đối với việc áp dụng IFRS của doanh nghiệp nhỏ và vừa tại Việt Nam đã chỉ ra bốn nhân tố chính Bằng mô hình hồi quy trên 176 mẫu khảo sát, nghiên cứu xác định rằng áp lực hội nhập quốc tế là yếu tố có mức độ tác động cao nhất, tiếp theo là hệ thống pháp luật, sự tác động của các tổ chức nghề nghiệp trong và ngoài nước, và cuối cùng là phát triển kinh tế, với mức độ ảnh hưởng giảm dần từ cao xuống thấp.

Theo nghiên cứu quốc tế của Dang Duc Son (2011), có năm nhân tố chính ảnh hưởng đến việc áp dụng công nghệ thông tin trong doanh nghiệp nhỏ và vừa tại Việt Nam Các yếu tố này được sắp xếp theo mức độ ảnh hưởng từ cao xuống thấp, bao gồm: tính bắt buộc tuân thủ, yêu cầu cải thiện chất lượng thông tin từ bên ngoài, mối quan hệ lợi ích chi phí, kỹ năng quản lý và kế toán, cùng với cơ sở hạ tầng.

Nghiên cứu các nhân tố ảnh hưởng ở phạm vi doanh nghiệp lớn/đại trà

Luận án của Phan (2014) tại đại học Swinburne, Úc, áp dụng lý thuyết đẳng cấu thể chế để nghiên cứu việc áp dụng IFRS tại Việt Nam Nghiên cứu này được công bố qua hai bài báo, trong đó bài đầu tiên của Phan và cộng sự đã khảo sát 30 người với bảng câu hỏi bằng cả tiếng Anh và tiếng Việt, nhằm đảm bảo chất lượng bản dịch Bảng câu hỏi cuối cùng sử dụng thang đo Likert để thu thập dữ liệu về những thuận lợi, khó khăn và thách thức trong quá trình áp dụng IFRS.

Nghiên cứu này được thực hiện với bảng câu hỏi 7 trang, bao gồm 152 câu hỏi, gửi đến 3.000 người từ tháng 4 đến tháng 6 năm 2012 qua ba hình thức: thư, email và đường link trực tuyến Kết quả thu về 893 phản hồi, nhưng chỉ 555 phản hồi đầy đủ được đưa vào phân tích, cho thấy sự hiểu biết về Chuẩn mực Kế toán Quốc tế (CMKT) của người tham gia Nghiên cứu chỉ ra rằng việc áp dụng IFRS mang lại lợi ích như tăng tính so sánh và minh bạch thông tin, giúp doanh nghiệp Việt Nam tham gia vào thị trường vốn quốc tế Tuy nhiên, vẫn tồn tại nhiều thách thức như sự phức tạp của IFRS, chi phí chuyển đổi và thiếu kiến thức về IFRS trong doanh nghiệp Mặc dù người trả lời thể hiện sự sẵn lòng áp dụng IFRS, nghiên cứu không khai thác sâu các yếu tố nội tại của doanh nghiệp ảnh hưởng đến việc áp dụng Nghiên cứu của Phan và cộng sự (2016) đã chỉ ra rằng các nhân tố thể chế tại Việt Nam tác động đến việc áp dụng IFRS, trong khi nghiên cứu của Đặng Ngọc Hùng (2017) xác định ba nhân tố ảnh hưởng đến mức độ áp dụng CMKT (VAS) là đặc điểm doanh nghiệp, hệ thống văn bản pháp luật và tổ chức nghề nghiệp.

Nghiên cứu của Nguyễn Thị Kim Cúc và Nguyễn Lê Vân Khanh (2018) thu thập

Nghiên cứu 198 mẫu qua email đã chỉ ra rằng các yếu tố như cơ cấu vốn đầu tư, ngành nghề và quy mô doanh nghiệp có ảnh hưởng đến việc áp dụng IFRS tự nguyện tại Việt Nam Đặc biệt, đối với các công ty có quy mô lớn, hình thức sở hữu cũng đóng vai trò quan trọng trong quá trình này.

Nghiên cứu của Lê Trần Hạnh Phương (2018) chỉ ra rằng có 4 nhân tố vĩ mô, gồm văn hóa, tăng trưởng kinh tế, giáo dục và chính trị, ảnh hưởng đến việc áp dụng IFRS tại Việt Nam, dựa trên mô hình PESTEL Ngoài ra, 3 nhân tố vi mô cũng được xác định, bao gồm vốn đầu tư nước ngoài, sự hiện diện của người nước ngoài trong ban quản lý, và kiểm toán bởi Big4 Tác giả đã kiểm định dữ liệu thứ cấp từ 145 quốc gia để phân tích các nhân tố vĩ mô và sau khi phỏng vấn chuyên gia, đã tiến hành khảo sát doanh nghiệp để xác định mức độ áp dụng IFRS, sử dụng dữ liệu từ báo cáo tài chính đã kiểm toán và báo cáo thường niên của 500 doanh nghiệp lớn tại Việt Nam vào năm 2016.

Hà Xuân Thạch và Nguyễn Ngọc Hiệp (2018) đã tiến hành nghiên cứu về các nhân tố ảnh hưởng đến việc chuyển đổi báo cáo tài chính từ VAS sang IFRS Họ đã gửi khảo sát thử đến 4 kế toán viên từ 4 doanh nghiệp có ý định chuyển đổi và 6 kiểm toán viên Big 4 Sau đó, một khảo sát sơ bộ được thực hiện với các công ty niêm yết, chủ yếu là những công ty đã thực hiện chuyển đổi, cùng với các giám đốc kiểm toán Trong bước chính thức, tác giả đã gửi 300 bảng câu hỏi đến hai nhóm chính: các doanh nghiệp đang và dự định chuyển đổi BCTC từ VAS sang IFRS, và các giám đốc cấp cao của công ty kiểm toán Big 4 Sau 3 tháng khảo sát, tác giả thu về 239 bảng trả lời, đạt tỷ lệ 79%, và sau khi làm sạch dữ liệu, còn lại 228 bảng phù hợp với 27 biến quan sát trong mô hình Kết quả phân tích bằng SPSS cho thấy hội nhập kinh tế (thu hút vốn nước ngoài) là nhân tố ảnh hưởng mạnh nhất, tiếp theo là trình độ của kế toán viên, trong khi ba nhân tố còn lại: hệ thống pháp lý, môi trường văn hóa (tâm lý ngại thay đổi), và sự hỗ trợ từ lãnh đạo doanh nghiệp có tác động không đáng kể.

Khe hổng nghiên cứu

Nghiên cứu về việc áp dụng IFRS tại Việt Nam gặp khó khăn do số lượng doanh nghiệp tự nguyện áp dụng tiêu chuẩn này còn hạn chế, dẫn đến việc sử dụng dữ liệu thứ cấp qua báo cáo tài chính (BCTC) không khả thi Do đó, việc tiếp cận dữ liệu sơ cấp là phù hợp hơn, đặc biệt liên quan đến các nghiên cứu hành vi Để xác định khe hổng nghiên cứu, cần tổng hợp các hạn chế của những nghiên cứu trước đây về các yếu tố ảnh hưởng đến việc áp dụng IFRS, đặc biệt là những hạn chế trong nghiên cứu ở nước ngoài.

• Các nghiên cứu nhân tố không nhiều và quy mô bằng nghiên cứu tác động của IFRS đối với báo cáo tài chính.

Số lượng nghiên cứu về các nhân tố hành vi ảnh hưởng đến việc áp dụng IFRS còn hạn chế so với các nghiên cứu tập trung vào môi trường kinh doanh, đặc biệt là việc khai thác dữ liệu từ báo cáo tài chính.

Về đối tượng và phạm vi nghiên cứu:

Nghiên cứu hành vi áp dụng IFRS thường hướng đến một đối tượng đa dạng, bao gồm kế toán viên, kiểm toán viên và nhà lập quy, thông qua việc sử dụng bảng khảo sát chung Tuy nhiên, hiện tại chưa có nghiên cứu riêng biệt nào tập trung vào doanh nghiệp, vốn là đối tượng chính trong việc áp dụng IFRS.

• Phạm vi nghiên cứu về không gian thường không đại diện cho quốc gia

Nhiều nghiên cứu hiện nay chỉ dựa vào kết quả của các nghiên cứu trước đó để kiểm định lại, mà không áp dụng đầy đủ các lý thuyết nền tảng trong lĩnh vực nghiên cứu hành vi Điều này dẫn đến việc thiếu sót trong việc hiểu rõ hơn về các yếu tố ảnh hưởng đến hành vi con người.

Chưa có nghiên cứu nào tích hợp lý thuyết hành vi dự định với lý thuyết đẳng cấu thể chế để giải quyết triệt để vấn đề nghiên cứu.

Có rất ít nghiên cứu về sự kết hợp giữa yếu tố môi trường kinh doanh và yếu tố hành vi, ngoại trừ nghiên cứu của Simegn (2015), tuy nhiên, nghiên cứu này được công bố trên một tạp chí không có xếp hạng cao.

Về Phương pháp nghiên cứu:

Hầu hết các nghiên cứu hiện nay chủ yếu áp dụng phương pháp định lượng, trong khi các nghiên cứu định tính thuần túy như của Aburous (2018) rất hiếm, và cũng ít có nghiên cứu kết hợp cả hai phương pháp này.

Về Kỹ thuật xử lý dữ liệu:

Các nghiên cứu về hành vi thường dựa vào giá trị trung bình để phân tích, hoặc sử dụng phần mềm cơ bản như SPSS Đáng chú ý, chỉ có nghiên cứu của Moqbel và cộng sự (2013) áp dụng mô hình SEM để xử lý dữ liệu, nhưng cỡ mẫu của nghiên cứu này khá nhỏ với chỉ 84 người tham gia khảo sát.

Hạn chế của nghiên cứu ở Việt Nam:

• Cũng như các nghiên cứu ở nước ngoài, chưa có nhiều nghiên cứu chuyên sâu về hành vi của việc áp dụng IFRS.

Về đối tượng và phạm vi nghiên cứu:

Hiện nay, chưa có nhiều nghiên cứu tập trung vào các doanh nghiệp lớn, mà phần lớn các nghiên cứu chỉ khảo sát doanh nghiệp nhỏ và vừa Các nghiên cứu đáng chú ý như của Phan (2014) và Nguyễn Ngọc Hiệp (2017) vẫn chưa phân nhóm rõ ràng theo đối tượng khảo sát, đặc biệt nghiên cứu của Phan (2014) sử dụng bảng câu hỏi chung cho nhiều đối tượng như doanh nghiệp, kiểm toán viên và nhà nghiên cứu, dẫn đến kết quả tổng hợp không phản ánh đúng đặc thù của từng nhóm.

• Rất ít nghiên cứu áp dụng triệt để lý thuyết nền (ngoại trừ nghiên cứu của Phan,

Năm 2014, lý thuyết đẳng cấu thể chế đã được áp dụng, đặc biệt là việc sử dụng các lý thuyết nền về hành vi, bao gồm lý thuyết hành vi dự định kết hợp với lý thuyết đẳng cấu thể chế.

• Hầu như chưa có nghiên cứu về áp dụng IFRS với lý thuyết hành vi dự định.

• Ít có nghiên cứu về nhân tố có sự kết hợp giữa nhân tố môi trường kinh doanh và nhân tố hành vi.

Chưa có nghiên cứu nào kết hợp lý thuyết hành vi dự định với thuyết đẳng cấu thể chế, mặc dù đây là hai lý thuyết quan trọng trong việc nghiên cứu hành vi áp dụng IFRS trên toàn cầu.

Về phương pháp nghiên cứu:

Hầu hết các nghiên cứu hiện nay chủ yếu tập trung vào phương pháp định lượng, tương tự như các nghiên cứu quốc tế, nhưng lại ít kết hợp với nghiên cứu định tính để điều chỉnh các biến cho phù hợp.

Do Việt Nam chưa áp dụng chuẩn mực báo cáo tài chính quốc tế (IFRS) và số lượng doanh nghiệp tự nguyện áp dụng còn hạn chế, nên việc sử dụng dữ liệu từ báo cáo tài chính doanh nghiệp có thể không phù hợp với các nghiên cứu quốc tế về việc áp dụng IFRS.

Việc thu thập dữ liệu sơ cấp cần được kiểm định lại do có sự khác biệt trong kết quả đối với cùng đối tượng nghiên cứu, hoặc do thời gian nghiên cứu đã kéo dài Chẳng hạn, nghiên cứu của Phan và cộng sự (2014) sử dụng dữ liệu năm 2012, thời điểm mà mức độ hội tụ với IFRS còn rất thấp, như đã được xác nhận trong nghiên cứu của Pham Hoai Huong (2016) Gần đây, IFRS đã bắt đầu lan tỏa mạnh mẽ khi Bộ Tài chính liên tục có các động thái chuẩn bị cho việc áp dụng IFRS.

Năm 2019, Việt Nam đã phát động nhiều đợt Dự thảo nhằm áp dụng chuẩn mực báo cáo tài chính quốc tế Đến năm 2020, đề án chính thức đã được ban hành, đánh dấu bước tiến quan trọng trong việc cải cách hệ thống báo cáo tài chính tại nước ta.

CƠ SỞ LÝ THUYẾT

PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU

KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU VÀ BÀN LUẬN

Ngày đăng: 21/07/2021, 14:33

TÀI LIỆU CÙNG NGƯỜI DÙNG

TÀI LIỆU LIÊN QUAN

w