1. Trang chủ
  2. » Luận Văn - Báo Cáo

Tài liệu luận văn Thực Trạng Và Giải Pháp Hoàn Thiện Trình Bày Và Công Bố Báo Cáo Bộ Phận Của Các Công Ty Niêm Yết

126 12 0

Đang tải... (xem toàn văn)

Tài liệu hạn chế xem trước, để xem đầy đủ mời bạn chọn Tải xuống

THÔNG TIN TÀI LIỆU

Thông tin cơ bản

Tiêu đề Thực Trạng Và Giải Pháp Hoàn Thiện Trình Bày Và Công Bố Báo Cáo Bộ Phận Của Các Công Ty Niêm Yết
Tác giả Trần Thị Thúy An
Người hướng dẫn TS. Nguyễn Thị Kim Cúc
Trường học Trường Đại Học Kinh Tế Tp.Hcm
Chuyên ngành Kế Toán
Thể loại luận văn thạc sỹ kinh tế
Năm xuất bản 2013
Thành phố Tp. Hồ Chí Minh
Định dạng
Số trang 126
Dung lượng 3,25 MB

Cấu trúc

  • BÌA

  • MỤC LỤC

  • DANH MỤC CÁC KÝ HIỆU, CHỮ VIẾT TẮT

  • DANH MỤC CÁC BẢNG BIỂU, HÌNH VẼ

  • PHẦN MỞ ĐẦU

    • 1. TÍNH CẤP THIẾT CỦA ĐỀ TÀI

    • 2. TỔNG QUAN CÁC CÔNG TRÌNH NGHIÊN CỨU TRƯỚC ĐÂY

    • 3. MỤC TIÊU NGHIÊN CỨU ĐỀ TÀI

    • 4. ĐỐI TƯỢNG VÀ PHẠM VI NGHIÊN CỨU

    • 5. PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU

    • 6. Ý NGHĨA KHOA HỌC VÀ THỰC TIỄN CỦA ĐỀ TÀI

    • 7. KẾT CẤU LUẬN VĂN

  • CHƯƠNG 1TỔNG QUAN BÁO CÁO BỘ PHẬN THEO QUY ĐỊNH CỦA CHUẨN MỰC KẾ TOÁN

    • 1.1. BÁO CÁO BỘ PHẬN THEO CHUẨN MỰC KẾ TOÁN QUỐC TẾ

      • 1.1.1. Khái niệm báo cáo bộ phận

      • 1.1.2. Lịch sử ra đời các chuẩn mực kế toán quốc tế về báo cáo bộ phận

      • 1.1.3. Lợi ích và chỉ trích xung quanh báo cáo bộ phận

    • 1.2. BÁO CÁO BỘ PHẬN THEO CHUẨN MỰC KẾ TOÁN VIỆT NAM

      • 1.2.1. Quá trình hình thành

      • 1.2.2. Chuẩn mực chung

      • 1.2.3. Nội dung chuẩn mực VAS 28

    • 1.3. SO SÁNH QUY ĐỊNH CỦA VAS 28 VỚI IFRS 8

      • 1.3.1. Mục tiêu, đối tượng và phương pháp thực hiện

      • 1.3.2. Kết quả đối chiếu

        • 1.3.2.1. Điểm giống nhau

        • 1.3.2.2. Điểm khác biệt

    • 1.4. NGUYÊN NHÂN CỦA SỰ KHÁC BIỆT VÀ HƯỚNG RÚT GỌN GIỮA VIỆT NAM VÀ QUỐC TẾ

    • KẾT LUẬN CHƯƠNG 1

  • CHƯƠNG 2.THỰC TRẠNG TRÌNH BÀY VÀ CÔNG BỐ BÁO CÁO BỘ PHẬN CỦA CÁC CÔNG TY NIÊM YẾT TRÊN SÀN GIAO DỊCH CHỨNG KHOÁN THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH

    • 2.1. GIỚI THIỆU CÁC CÔNG TY NIÊM YẾT TRÊN SÀN GIAO DỊCH CHỨNG KHOÁN THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH

      • 2.1.1. Lịch sử hình thành và phát triển của Sở giao dịch chứng khoán Thành phố Hồ Chí Minh

      • 2.1.2. Phân ngành các công ty niêm yết tại Sở giao dịch chứng khoán Thành phố Hồ Chí Minh

    • 2.2. KHẢO SÁT VIỆC TRÌNH BÀY VÀ CÔNG BỐ BÁO CÁO BỘ PHẬN Ở CÁC CÔNG TY NIÊM YẾT TRÊN SÀN GIAO DỊCH CHỨNG KHOÁN THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH

      • 2.2.1. Mục tiêu khảo sát

      • 2.2.2. Xây dựng giả thuyết nghiên cứu

        • 2.2.2.1 Chất lượng báo cáo bộ phận

        • 2.2.2.2 Số lượng các bộ phận báo cáo

      • 2.2.3. Phương pháp nghiên cứu và thu thập số liệu

        • 2.2.3.1 Mẫu

        • 2.2.3.2 Biến phụ thuộc

        • 2.2.3.3 Biến độc lập

      • 2.2.4. Kết quả nghiên cứu

        • 2.2.4.1 Thống kê mô tả

        • 2.2.4.2 Kiểm định sự tương quan

    • 2.3. ĐÁNH GIÁ THỰC TRẠNG TRÌNH BÀY VÀ CÔNG BỐ BÁO CÁO BỘ PHẬN CỦA CÁC CÔNG TY NIÊM YẾT TRÊN SÀN GIAO DỊCH CHỨNG KHOÁN THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH

      • 2.3.1. Ưu điểm

      • 2.3.2. Nhược điểm

      • 2.3.3. Nguyên nhân tồn tại hạn chế

        • 2.3.3.1 Nguyên nhân thuộc về cơ quan ban hành luật

        • 2.3.3.2 Nguyên nhân thuộc về cơ quan quản lý thị trường chứng khoán

        • 2.3.3.3 Nguyên nhân thuộc về những nhà quản lý tại công ty niêm yết

        • 2.3.3.4 Nguyên nhân thuộc về người hành nghề chuyên môn

        • 2.3.3.5 Nguyên nhân thuộc về các cổ đông

    • KẾT LUẬN CHƯƠNG 2

  • CHƯƠNG 3MỘT SỐ GIẢI PHÁP HOÀN THIỆN TRÌNH BÀY BÁO CÁO BỘ PHẬN CỦA CÁC CÔNG TY NIÊM YẾT TRÊN SÀN GIAO DỊCH CHỨNG KHOÁN THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH

    • 3.1. ĐỊNH HƯỚNG HOÀN THIỆN

    • 3.2. GIẢI PHÁP HOÀN THIỆN KHUÔN KHỔ PHÁP LÝ

      • 3.2.1. Về phía các cơ quan ban hành luật

      • 3.2.2. Về phía những nội dung được điều chỉnh trong chuẩn mực

    • 3.3. MỘT SỐ GIẢI PHÁP NÂNG CAO KHẢ NĂNG ỨNG DỤNG VAS 28

      • 3.3.1. Về phía cơ quan quản lý thị trường chứng khoán

      • 3.3.2. Về phía những nhà quản lý tại công ty niêm yết

      • 3.3.3. Về phía người hành nghề chuyên môn

      • 3.3.4. Về phía các cổ đông

    • KẾT LUẬN CHƯƠNG 3

  • KẾT LUẬN

  • TÀI LIỆU THAM KHẢO

  • PHỤ LỤC 1. MỐC THỜI GIAN RA ĐỜI CÁC CHUẨN MỰC KẾ TOÁN QUỐC TẾ

  • PHỤ LỤC 2. DANH SÁCH CÔNG TY TRONG MẪU

  • PHỤ LỤC 3. BẢNG MÔ TẢ LÝ DO CÔNG TY KHÔNG LẬP BÁO CÁO BỘ PHẬN

  • PHỤ LỤC 4. NHỮNG CÔNG TY CHỈ CÔNG BỐ MỘT CƠ SỞ CHÍNH YẾU

  • PHỤ LỤC 5. DỮ LIỆU THÔNG TIN CÔNG BỐ TRONG BÁO CÁO BỘ PHẬN

Nội dung

TÍNH CẤP THIẾT CỦA ĐỀ TÀI

Việt Nam đã gia nhập nền kinh tế toàn cầu, dẫn đến sự tiến bộ trong mọi lĩnh vực, bao gồm tài chính kế toán Tài chính kế toán cung cấp số liệu quan trọng về tình hình tài chính doanh nghiệp, hỗ trợ quyết định cho nhà đầu tư Phân tích báo cáo tài chính đã trở thành một vấn đề phổ biến, giúp người sử dụng lựa chọn phương pháp và kỹ thuật phù hợp để xác định hướng đầu tư hiệu quả nhất cho đồng vốn của mình.

Thị trường chứng khoán Việt Nam, được thành lập vào năm 2000, đã đóng vai trò quan trọng trong việc phát triển thị trường vốn Sở giao dịch chứng khoán TP.HCM, một trong hai trung tâm giao dịch lớn nhất cả nước, thực hiện niêm yết và quản lý hoạt động của thị trường Các công ty niêm yết tại đây phải tuân thủ các quy định, bao gồm việc công bố báo cáo tài chính đã được kiểm toán Bộ Tài chính đã ban hành 26 chuẩn mực kế toán nhằm quy định và hướng dẫn các nguyên tắc kế toán, đảm bảo thông tin tài chính được trình bày một cách thống nhất Do đó, các công ty đại chúng tại Sở GDCK TP.HCM phải tuân thủ các chuẩn mực kế toán này.

VAS số 28 “Báo cáo bộ phận”, được ban hành vào cuối năm 2005, nhằm hỗ trợ người sử dụng báo cáo đánh giá chính xác hơn về rủi ro và lợi ích kinh tế của các doanh nghiệp hoạt động đa lĩnh vực và địa lý Báo cáo bộ phận này được công bố trong “Thuyết minh báo cáo tài chính”, nhưng không phải tất cả doanh nghiệp niêm yết đều tuân thủ quy định về công bố thông tin này Nhiều nghiên cứu quốc tế đã chỉ ra rằng việc tiết lộ thông tin báo cáo bộ phận còn gặp nhiều vấn đề Tuy nhiên, thực trạng này tại Việt Nam vẫn là một câu hỏi lớn cần được làm rõ.

Tôi đã quyết định chọn đề tài “Thực trạng và giải pháp hoàn thiện trình bày và công bố báo cáo bộ phận của các công ty niêm yết trên sàn giao dịch chứng khoán Thành phố Hồ Chí Minh” để thực hiện nghiên cứu tại Sở GDCK TP.HCM, nhằm đảm bảo tính đồng nhất trong việc xem xét các yếu tố Tôi hy vọng rằng dưới sự hướng dẫn của Tiến sỹ Nguyễn Thị Kim Cúc và với nỗ lực của bản thân, đề tài này sẽ trở thành nguồn dữ liệu hữu ích cho những ai quan tâm, đồng thời là cơ sở cho các nghiên cứu chuyên sâu hơn trong tương lai.

TỔNG QUAN CÁC CÔNG TRÌNH NGHIÊN CỨU TRƯỚC ĐÂY

Trên thế giới, nghiên cứu về cách trình bày báo cáo bộ phận đã được tiến hành từ sớm, với những công trình tiêu biểu như của Herrmann và Thomas (1996), Harris (1998), Herrmann và Thomas (2000), cùng với Street và Nichols.

Tính đến thời điểm hiện tại, tại Việt Nam chỉ có một nghiên cứu đáng chú ý về kế toán tài chính liên quan đến việc trình bày thông tin báo cáo bộ phận theo chuẩn mực kế toán quốc tế, đó là luận văn thạc sĩ của Nguyễn Thị Phương Thúy (2010) Các nghiên cứu quốc tế như của Prather-Kinsey và Meek (2004) cùng Botosan và Stanford (2005) đã đặt nền tảng cho những nghiên cứu tiếp theo trong lĩnh vực này.

Nghiên cứu của Herrmann và Thomas (1996) chỉ ra rằng chất lượng báo cáo bộ phận của các công ty bị ảnh hưởng bởi quốc gia cư trú, quy mô doanh nghiệp và việc đa niêm yết trên nhiều thị trường chứng khoán Các công ty tại Pháp và Vương quốc Anh thường tiết lộ nhiều thông tin bộ phận hơn Quy mô doanh nghiệp là yếu tố quan trọng quyết định số lượng chỉ tiêu được công bố cho mỗi bộ phận, trong khi việc đa niêm yết chỉ có ý nghĩa đối với các công ty tiết lộ thông tin bộ phận theo khu vực địa lý Các tác giả kết luận rằng các công ty tìm kiếm nguồn vốn từ thị trường nước ngoài thông qua việc tăng cường công bố thông tin bộ phận nhằm đáp ứng nhu cầu của các nhà đầu tư quốc tế, và không có bằng chứng cho thấy ngành công nghiệp có ảnh hưởng đến vấn đề này.

Nghiên cứu của Herrmann và Thomas (2000) so sánh việc tiết lộ báo cáo bộ phận theo SFAS số 14 và SFAS số 131 nhằm xác định tác động của các quy tắc phân đoạn mới Trong số một trăm công ty được nghiên cứu, theo SFAS số 14, có mười ba công ty báo cáo theo lĩnh vực kinh doanh, hai mươi công ty theo khu vực địa lý, và năm mươi bảy công ty kết hợp cả hai Ngược lại, theo SFAS số 131, bảy mươi mốt công ty báo cáo chi tiết về sản phẩm và dịch vụ, mười hai công ty báo cáo theo khu vực địa lý, và mười bảy công ty kết hợp cả hai Kết quả cho thấy bình quân có 5,5 chỉ tiêu được công bố cho từng bộ phận theo lĩnh vực kinh doanh theo SFAS số 14, trong khi bình quân này tăng lên 6,2 chỉ tiêu theo SFAS số 131, cho thấy sự gia tăng thông tin tiết lộ Tuy nhiên, số chỉ tiêu tiết lộ theo cơ sở địa lý giảm từ 3,3 xuống còn 2,2, cho thấy sự mất mát thông tin theo địa lý khi áp dụng chuẩn mực mới.

Nghiên cứu của Street và Nichols (2002) về các chuẩn mực kế toán châu Âu liên quan đến báo cáo bộ phận cho thấy rằng 33% công ty trong cùng ngành hoặc quốc gia không báo cáo thông tin bộ phận chính yếu, 11% báo cáo theo khu vực địa lý và 56% theo lĩnh vực kinh doanh Nghiên cứu cũng chỉ ra rằng các quốc gia tiết lộ nhiều chỉ tiêu quan trọng trong báo cáo bộ phận như nợ, vốn bổ sung, khấu hao và phương pháp thu nhập theo vốn chủ sở hữu Đối với báo cáo bộ phận thứ yếu, 88 trong số 177 công ty báo cáo theo khu vực địa lý, trong khi 29 công ty báo cáo theo lĩnh vực kinh doanh.

Nghiên cứu của Prather-Kinsey và Meek (2004) đã chỉ ra rằng IAS 14 (đã sửa đổi) dẫn đến sự gia tăng đáng kể trong việc công bố các chỉ tiêu báo cáo bộ phận tại các công ty, cho thấy những kết quả mới so với IAS cũ Họ ghi nhận sự gia tăng số lượng bộ phận báo cáo theo lĩnh vực kinh doanh và khu vực địa lý, mặc dù vẫn tồn tại một số công ty có tiết lộ hạn chế theo yêu cầu của IAS (đã sửa đổi) Nghiên cứu cũng nhấn mạnh rằng yếu tố như lãnh thổ nơi cư trú, công ty kiểm toán Big-Five (nay là Big Four) và việc niêm yết trên đa thị trường chứng khoán có ảnh hưởng đến việc tuân thủ IAS 14R Cuối cùng, họ phát hiện rằng các công ty lớn và trong ngành công nghiệp thiết bị có tỷ lệ tuân thủ cao hơn về báo cáo bộ phận.

Nghiên cứu của Harris (1998) và Botosan cùng Stanford (2005) chỉ ra rằng các công ty trong những ngành công nghiệp ít cạnh tranh có xu hướng hạn chế việc cung cấp thông tin trong báo cáo bộ phận theo quy định của SFAS số 14.

Bà kết luận rằng các công ty muốn bảo vệ những lợi nhuận bất thường của mình và tránh chia sẻ thông tin thị trường trong ngành thường không tiết lộ nhiều dữ liệu bộ phận Báo cáo của Haris, Botosan và Stanford cũng chỉ ra rằng các nhà quản lý có xu hướng giữ lại thông tin.

SFAS số 14 giúp bảo vệ lợi nhuận trong ngành công nghiệp ít cạnh tranh, trong khi SFAS số 131 yêu cầu các công ty phải công khai thông tin về các bộ phận của mình Tuy nhiên, nhiều công ty vẫn tìm cách che giấu thông tin càng nhiều càng tốt (2005, [11]).

Các nghiên cứu của tác giả nước ngoài chủ yếu tập trung vào hai nội dung chính: thực trạng trình bày báo cáo bộ phận theo chuẩn mực kế toán cụ thể và so sánh ứng dụng chuẩn mực mới nhất với các chuẩn mực cũ Trong đề tài của mình, tác giả sẽ xem xét thực trạng trình bày và công bố báo cáo bộ phận theo VAS 28, một chuẩn mực kế toán của Việt Nam Do VAS này chưa được sửa đổi, tác giả sẽ không so sánh với các VAS cũ mà sẽ đối chiếu với IFRS 8 để xác định những điểm tương đồng và khác biệt, từ đó đề xuất các điều chỉnh cần thiết.

Nghiên cứu của Nguyễn Thị Phương Thúy (2010) đã phân tích việc công bố thông tin bộ phận của 118 công ty niêm yết trên sàn chứng khoán Việt Nam, cho thấy mối liên hệ giữa khả năng sinh lời và việc cung cấp báo cáo bộ phận Cụ thể, các công ty có khả năng sinh lời thấp thường cung cấp thông tin bộ phận nhiều hơn Tác giả sử dụng số lôgarit của các chỉ tiêu trong báo cáo bộ phận làm biến phụ thuộc để đo lường Kết quả nghiên cứu cho thấy việc lập báo cáo bộ phận tại các doanh nghiệp Việt Nam còn nhiều hạn chế, chủ yếu mang tính đối phó với chuẩn mực mà chưa thực sự hiệu quả Tác giả cũng đề xuất các giải pháp để nâng cao chất lượng thông tin bộ phận cho doanh nghiệp Việt Nam.

Tác giả Phương Thúy đã tiến hành đo lường chất lượng báo cáo thông qua việc phân tích logarit các chỉ tiêu trên báo cáo bộ phận của các công ty Đề tài này không chỉ xem xét chất lượng mà còn cả số lượng báo cáo, mở rộng các khía cạnh đánh giá để đảm bảo tính khách quan và đưa ra giải pháp đầy đủ hơn Bằng cách nghiên cứu số liệu năm 2012, tác giả cung cấp những nhận định cập nhật về sự thay đổi trong ứng dụng chuẩn mực báo cáo bộ phận sau sáu năm ban hành, từ đó phản ánh hiệu quả thực tiễn của các chuẩn mực này.

MỤC TIÊU NGHIÊN CỨU ĐỀ TÀI

Bài viết này nhằm tìm hiểu thực trạng trình bày báo cáo bộ phận của các công ty niêm yết tại Sở GDCK TP.HCM, dựa trên các giả thuyết đã được kiểm định từ nghiên cứu thực nghiệm Nghiên cứu xác định những yếu tố ảnh hưởng đến việc trình bày báo cáo bộ phận theo VAS 28, xem xét cả yếu tố chất lượng và số lượng Qua đó, bài viết đưa ra nhận xét về thực trạng báo cáo bộ phận của các công ty và đề xuất một số giải pháp nhằm nâng cao việc công bố thông tin trong báo cáo này.

PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU

Tác giả áp dụng phương pháp phân tích, đối chiếu và so sánh thông tin để khám phá các vấn đề lý luận và đề xuất giải pháp cho nghiên cứu Đồng thời, phương pháp thống kê mô tả kết hợp giữa định lượng và định tính, cùng với kiểm định giả thuyết và sự tương quan giữa các biến độc lập và phụ thuộc, được thực hiện thông qua phần mềm SPSS phiên bản 20.0, nhằm trình bày và công bố thông tin báo cáo bộ phận.

Ý NGHĨA KHOA HỌC VÀ THỰC TIỄN CỦA ĐỀ TÀI

Thông qua nghiên cứu, tác giả đã hệ thống hóa lịch sử hình thành báo cáo bộ phận cả ở cấp quốc tế và Việt Nam, đồng thời tìm hiểu bản chất của báo cáo này cùng với những quan điểm đồng thuận và chỉ trích hiện có Tác giả cũng đã so sánh sự tương đồng và khác biệt giữa hai chuẩn mực kế toán VAS 28 và IFRS 8 về báo cáo bộ phận, và tóm lược một số nghiên cứu thực nghiệm trong và ngoài nước, từ đó rút ra bài học kinh nghiệm quý báu cho Việt Nam.

Nghiên cứu đã hệ thống hóa và xác định các yếu tố ảnh hưởng đến việc công bố báo cáo bộ phận tại các công ty niêm yết trên Sở GDCK TP.HCM, phù hợp với chuẩn mực kế toán Việt Nam Tác giả cũng chỉ ra mối quan hệ giữa các yếu tố này và đề xuất giải pháp nhằm hoàn thiện trình bày báo cáo bộ phận cho các công ty niêm yết.

KẾT CẤU LUẬN VĂN

Ngoài phần mở đầu, kết luận và phụ lục tham khảo, luận văn được chia làm ba chương với nội dung như sau:

Chương 1: Tổng quan báo cáo bộ phận theo quy định của chuẩn mực kế toán

Chương 2: Thực trạng trình bày và công bố báo cáo bộ phận của các công ty niêm yết tại Sở giao dịch chứng khoán Thành phố Hồ Chí Minh

Chương 3 đề xuất một số giải pháp nhằm hoàn thiện trình bày báo cáo bộ phận của các công ty niêm yết tại Sở giao dịch chứng khoán Thành phố Hồ Chí Minh Những giải pháp này tập trung vào việc cải thiện tính minh bạch, nâng cao chất lượng thông tin và đáp ứng tốt hơn yêu cầu của nhà đầu tư Đồng thời, việc áp dụng công nghệ thông tin trong việc trình bày báo cáo cũng được nhấn mạnh nhằm tối ưu hóa quy trình và tăng cường khả năng tiếp cận thông tin cho các bên liên quan.

TỔNG QUAN BÁO CÁO BỘ PHẬN THEO QUY ĐỊNH CỦA CHUẨN MỰC KẾ TOÁN

BÁO CÁO BỘ PHẬN THEO CHUẨN MỰC KẾ TOÁN QUỐC TẾ

Báo cáo bộ phận, theo Ijiri (1995), là các số liệu tài chính riêng biệt của các đơn vị, công ty con hoặc các bộ phận khác nhau trong một công ty Các nhà phân tích và nghiên cứu sử dụng báo cáo này để có thêm thông tin về sự phân chia các bộ phận Tất cả các công ty niêm yết đều phải công bố lợi nhuận và chi phí bộ phận, bao gồm dữ liệu như doanh thu bên ngoài và nội bộ, các khoản mục không dùng tiền mặt, thu nhập và chi phí Ngoài ra, công ty còn phải cung cấp thông tin giúp người dùng hiểu rõ sự khác biệt giữa thông tin hợp nhất và thông tin trong báo cáo bộ phận.

Theo GAAP, báo cáo bộ phận là tài liệu trình bày thông tin về các bộ phận hoạt động của công ty kèm theo báo cáo tài chính Báo cáo này là cần thiết cho các công ty đại chúng, giúp nhà đầu tư và chủ nợ hiểu rõ hơn về kết quả tài chính của công ty Thông qua báo cáo bộ phận, họ có thể đưa ra quyết định liên quan đến công ty Mỗi bộ phận tham gia vào hoạt động kinh doanh, có khả năng tạo ra thu nhập và chịu chi phí, cần có thông tin tài chính riêng biệt và thường xuyên được giám đốc điều hành xem xét để đánh giá hoạt động và phân bổ nguồn lực Do đó, việc xác định thông tin cần báo cáo theo các quy tắc là rất quan trọng.

Báo cáo bộ phận được thiết kế để nâng cao tính hữu ích của thông tin, hỗ trợ quyết định của người sử dụng báo cáo tài chính bên cạnh các số liệu kinh tế tổng quát Các khái niệm liên quan đến báo cáo bộ phận thường tập trung vào mục đích cụ thể của nó Theo quan điểm của tác giả, báo cáo bộ phận cung cấp thông tin kinh tế tài chính chi tiết và quan trọng, ảnh hưởng đến quyết định của người sử dụng, dựa trên những số liệu tổng quát đã được công bố trước đó.

1.1.2 Lịch sử ra đời các chuẩn mực kế toán quốc tế về báo cáo bộ phận

Trong phần này, tác giả tổng hợp các sự kiện quan trọng theo trình tự thời gian liên quan đến sự phát triển của báo cáo bộ phận Những sự kiện này được theo dõi trên toàn lãnh thổ Mỹ (FASB) và các sự kiện do IASB thực thi Tác giả cũng tóm tắt các mốc thời gian chính yếu tại mỗi tổ chức (phụ lục 1) để làm rõ các sự kiện liên quan đến việc xác định thông tin bộ phận được hiển thị.

Theo Skousen (1970, [28]) lịch sử của báo cáo bộ phận quay ngược lại tháng

Vào năm 1964, Tiểu ban chống độc quyền và độc quyền của Ủy ban Thượng viện Hoa Kỳ đã khởi động buổi điều trần về tư pháp liên quan đến sự tập trung kinh tế trong ngành công nghiệp Mỹ Trong suốt năm này, SEC đã tổ chức nhiều cuộc họp với các đại diện từ các nhà phân tích tài chính và kế toán trong các ngành công nghiệp.

Mỹ Vào cuối năm 1966, một dự án mang tên FEI "Báo cáo tài chính của những công ty đa dạng" đã được thiết lập

Tháng 12 năm 1974 IASC ban hành E3, một bản dự thảo tiếp xúc của chuẩn mực về báo cáo tài chính hợp nhất, trong đó ngụ ý rằng các báo cáo tài chính của các công ty con khác nhau nên được trình bày kèm theo trong báo cáo tài chính hợp nhất Tuy nhiên, E3 dù được bắt buộc bởi IASC nhưng lại chứa đựng những yêu cầu phân chia bộ phận được diễn đạt khá lỏng lẻo

Năm 1976, SFAS 14 đã được ban hành, đánh dấu chuẩn mực kế toán đầu tiên liên quan đến báo cáo tài chính cho các bộ phận của doanh nghiệp kinh doanh Chuẩn mực này ra đời nhằm đáp ứng những yêu cầu từ các tổ chức đại diện cho người sử dụng báo cáo tài chính như Liên đoàn chuyên viên phân tích tài chính và Hội đồng chứng khoán New York SFAS 14 yêu cầu công bố thông tin theo cả hai bộ phận: lĩnh vực kinh doanh và phạm vi địa lý.

Tháng 03 năm 1980 IASC ban hành ED E15 "Báo cáo thông tin tài chính bởi bộ phận" ra đời, dự thảo này đã được dựa trên SFAS số 14 của Mỹ, theo phương pháp tiếp cận rủi ro và lợi ích có được, có nghĩa là việc đưa ra quyết định dựa trên cơ sở chính là sự phân chia, khi đó sự lựa chọn theo cách phân chia dựa trên các sản phẩm, dịch vụ liên quan hoặc khu vực địa lý sẽ xác định hầu hết các rủi ro và lợi ích của công ty

Tháng 8 năm 1981, một số thư từ góp ý nhận được về việc ban hành ED E15-được gọi là một điều khoản trong chuẩn mực cho phép các công ty không tuân theo chuẩn mực này, vì với việc phải tiết lộ những thông tin như vậy có thể gây thiệt hại với các công ty tiết lộ thông tin IASC đã bác bỏ những yêu cầu này và quyết định ban hành chuẩn mực mới IAS 14 mà không có thay đổi lớn từ E15

Năm 1992, AIMR đã công bố văn bản định vị, chỉ ra những thiếu sót trong các báo cáo tài chính hiện hành tại Mỹ Đến năm 1994, AICPA thành lập một ủy ban đặc biệt về báo cáo tài chính nhằm điều tra nhu cầu thông tin của nhà đầu tư và chủ nợ, phản hồi lại những vấn đề được nêu ra trong văn bản của AIMR.

Tháng 12 năm 1995 IASC đã công bố dự thảo tiếp xúc E51 “Báo cáo thông tin tài chính bởi bộ phận” mà qua đã cho thấy có sự thay đổi trong cách xác định bộ phận được công bố Dự thảo này cho thấy những thay đổi đáng kể về việc công bố thông tin tài chính của các sản phẩm và dịch vụ mà công ty cung cấp, cũng như thông tin về các hoạt động trên toàn thế giới của họ

Năm 1996, SFAS 14 được ban hành, đánh dấu sự hợp tác lần đầu giữa FASB và AcSB trong việc phát hành "Báo cáo thông tin phân tách của các doanh nghiệp".

Năm 1997, FASB đã thay thế SFAS 14 bằng SFAS 131, với tên gọi “Công bố về các bộ phận của một doanh nghiệp và thông tin liên quan”, sau khi phát hiện nhiều công ty không cung cấp thông tin bộ phận như mong đợi Các công ty này đã lạm dụng sự không rõ ràng trong định nghĩa của SFAS 14 để tự báo cáo là doanh nghiệp chỉ có một bộ phận duy nhất.

Tháng 8 năm 1997 IASC sửa đổi IAS 14 thành IAS 14R IAS 14 “Báo cáo bộ phận” thường bị các chỉ trích về ngôn ngữ mềm mại và yêu cầu quá chung chung Nó cho phép quá nhiều giải thích khác nhau cũng như không cung cấp đầy đủ hướng dẫn và định nghĩa chi tiết, đồng thời không yêu cầu tiết lộ dữ liệu mô tả về các bộ phận Do đó IASB đã quyết định sửa đổi chuẩn mực này đối với một số vấn đề gồm quy định ngưỡng định lượng rõ ràng để xác định các phần được báo cáo, thay đổi định nghĩa rộng thành các định nghĩa rõ ràng về tất cả các thuyết minh và cung cấp những hướng dẫn cụ thể hơn Ngày 01 tháng 07 năm 1998 là ngày hiệu lực của IAS 14R

Vào tháng 9 năm 2002, FASB và IASB đã đạt thỏa thuận nhằm giảm bớt sự khác biệt giữa US GAAP và IFRS Năm 2005, dự án hội tụ giữa IFRS và US GAAP được triển khai mạnh mẽ, đặc biệt sau khi Nghị viện châu Âu thông qua quy định yêu cầu tất cả các công ty niêm yết tại EU phải lập báo cáo hợp nhất theo chuẩn IAS từ năm 2005.

BÁO CÁO BỘ PHẬN THEO CHUẨN MỰC KẾ TOÁN VIỆT NAM

Từ năm 1957, Nhà nước Việt Nam đã thiết lập chế độ kế toán cho ngành công nghiệp và xây dựng cơ bản, và năm 1961, Chính phủ ban hành Điều lệ tổ chức kế toán Nhà nước Đến năm 1988, Pháp lệnh kế toán thống kê ra đời, đánh dấu văn bản pháp luật cao nhất trong lĩnh vực kế toán Từ năm 1996, Bộ Tài chính đã phát triển chế độ kế toán riêng cho doanh nghiệp nhỏ và vừa bên cạnh chế độ kế toán cho doanh nghiệp nói chung Đến năm 2000, Việt Nam đã soạn thảo các chuẩn mực kế toán đầu tiên, trong bối cảnh có nhiều biến động ảnh hưởng đến hoạt động kế toán toàn cầu Năm 2000 cũng là cột mốc quan trọng khi IASC nhận được sự hỗ trợ từ IOSCO và Cao Ủy Châu Âu về việc áp dụng chuẩn mực kế toán quốc tế Đồng thời, năm này cũng chứng kiến sự ra đời của thị trường chứng khoán Việt Nam với việc khai trương Trung tâm Giao dịch chứng khoán TP HCM vào ngày 20 tháng 7.

Sự xuất hiện của thị trường chứng khoán đã mở ra cơ hội cho doanh nghiệp Việt Nam thu hút vốn thông qua việc niêm yết tại các sở giao dịch chứng khoán Để thu hút vốn hiệu quả, các doanh nghiệp cần cung cấp báo cáo tài chính chính xác và hợp lý, phản ánh đúng tình hình tài chính và cho phép so sánh giữa các doanh nghiệp Điều này dẫn đến nhu cầu thiết lập các chuẩn mực kế toán tại Việt Nam nhằm thống nhất quy trình hạch toán của các doanh nghiệp.

Từ năm 2001 đến 2005, Bộ Tài chính Việt Nam đã ban hành 26 chuẩn mực kế toán (VAS) qua năm đợt, kèm theo các thông tư hướng dẫn Các chuẩn mực này được soạn thảo bởi Ban chỉ đạo nghiên cứu, bao gồm 13 thành viên từ Bộ Tài chính, các trường đại học và Hội kế toán Việt Nam Vụ chế độ kế toán là đơn vị thường trực, có nhiệm vụ tổ chức và hoàn thiện các chuẩn mực trước khi trình Bộ ký ban hành Để phục vụ nhu cầu của các nhà đầu tư nước ngoài, các VAS đã được dịch sang tiếng Anh Việc xây dựng các VAS dựa trên việc kế thừa và điều chỉnh các chuẩn mực quốc tế (IAS/IFRS), đảm bảo phù hợp với đặc điểm và thực tiễn của Việt Nam.

Ngày 15 tháng 2 năm 2005 Bộ Tài chính ban hành Quyết định số 12/2005/QĐ-BTC bao gồm sáu chuẩn mực kế toán Việt Nam (ban hành trong đợt bốn), theo đó chuẩn mực kế toán Việt Nam số 28 (VAS 28) “Báo cáo bộ phận” ra đời Sau đó, thông tư số 20 được Bộ Tài chính ban hành ngày 20/03/2006 nhằm hướng dẫn chi tiết việc thực hiện sáu chuẩn mực này

Trong chuẩn mực kế toán số 01 “Chuẩn mực chung”, các yêu cầu cơ bản nhằm đảm bảo thông tin kế toán hữu ích bao gồm tính trung thực, khách quan, đầy đủ, kịp thời, dễ hiểu và khả năng so sánh Tuy nhiên, khi xem xét bản chất báo cáo bộ phận, có thể nhận thấy rằng không có đặc điểm thích hợp nào được đề cập.

Các chuẩn mực kế toán toàn cầu thường được giải thích qua lý thuyết kế toán, trong khi Việt Nam chưa xây dựng khuôn mẫu lý thuyết này Thay vào đó, việc xem xét chuẩn mực chung được coi là thay thế, dẫn đến hoài nghi về VAS 01 và khả năng làm nền tảng cho các chuẩn mực khác Nhiều nghiên cứu đã chỉ ra nhu cầu cập nhật và bổ sung các chuẩn mực kế toán, bao gồm cả VAS 01, theo hướng phù hợp với thông lệ kế toán quốc tế.

Việc xem xét VAS 01 cho thấy yếu tố chất lượng thích hợp đã bị bỏ qua, điều này liên quan đến cơ sở hình thành các khuôn mẫu lý thuyết kế toán quốc tế IAS framework ra đời năm 1989 và SFAC năm 1987, cho thấy các chuẩn mực kế toán quốc tế được xây dựng qua quá trình tích lũy kinh nghiệm Trong khi đó, VAS 01 ra đời khi các chuẩn mực kế toán của Việt Nam vẫn đang trong quá trình hoàn thiện, dẫn đến những sai sót và bỏ qua đặc điểm chất lượng trong việc hình thành các chuẩn mực kế toán, như VAS 28 Do đó, việc lý giải cho VAS 28 vẫn chưa đầy đủ để làm rõ bản chất của báo cáo bộ phận Bổ sung tính thích hợp là yêu cầu cần thiết để hướng tới sự thống nhất với các chuẩn mực kế toán quốc tế.

1.2.3 Nội dung chuẩn mực VAS 28

Chuẩn mực tài chính giúp người sử dụng báo cáo hiểu rõ hoạt động của doanh nghiệp trong các năm trước, từ đó đánh giá chính xác rủi ro và lợi ích kinh tế Chuẩn mực này áp dụng cho việc lập và trình bày báo cáo tài chính năm, đảm bảo tuân thủ các Chuẩn mực kế toán Việt Nam.

 Bộ phận cần báo cáo

Một bộ phận theo lĩnh vực kinh doanh hoặc khu vực địa lý được coi là cần báo cáo, dựa vào đánh giá của Ban Giám đốc doanh nghiệp, nhằm đáp ứng mục tiêu lập báo cáo tài chính theo quy định Hai hoặc nhiều lĩnh vực kinh doanh hoặc khu vực địa lý tương đương có thể được gộp lại thành một Rủi ro và lợi ích kinh tế của doanh nghiệp bị ảnh hưởng bởi vị trí địa lý, bao gồm nơi tài sản được đặt, nơi hoạt động sản xuất hoặc cung cấp dịch vụ, cũng như vị trí của khách hàng nơi sản phẩm hoặc dịch vụ được tiêu thụ.

Một lĩnh vực kinh doanh được định nghĩa bởi các sản phẩm và dịch vụ có rủi ro và lợi ích kinh tế tương đồng, mặc dù có thể có một số điểm khác biệt Để được coi là thuộc cùng một lĩnh vực, các sản phẩm và dịch vụ cần phải chia sẻ hầu hết các yếu tố chung Tương tự, một khu vực địa lý cũng không bao gồm các hoạt động kinh tế có rủi ro và lợi ích khác biệt đáng kể, và có thể bao gồm một hoặc nhiều quốc gia, tỉnh, thành phố.

Một lĩnh vực kinh doanh hoặc khu vực địa lý cần được xác định là bộ phận phải báo cáo khi doanh thu từ bán hàng ra ngoài chiếm từ 10% tổng doanh thu của tất cả bộ phận, hoặc khi kết quả kinh doanh của bộ phận này (lãi hoặc lỗ) chiếm từ 10% tổng lãi hoặc tổng lỗ của tất cả các bộ phận Ngoài ra, tài sản của bộ phận cũng cần chiếm từ 10% tổng tài sản của tất cả các bộ phận Đối với các bộ phận có tỷ lệ dưới 10%, việc báo cáo có thể thực hiện mà không cần xem xét quy mô nếu thông tin của bộ phận đó là cần thiết cho người sử dụng báo cáo tài chính hoặc có thể kết hợp với các bộ phận tương đương khác.

 Báo cáo bộ phận chính yếu

Doanh nghiệp cần trình bày doanh thu bộ phận cho từng bộ phận báo cáo, bao gồm doanh thu từ bán hàng và cung cấp dịch vụ cho khách hàng bên ngoài, cũng như từ các giao dịch nội bộ Ngoài ra, cần báo cáo kết quả bộ phận, tổng giá trị tài sản còn lại, nợ phải trả, tổng chi phí mua tài sản cố định, chi phí khấu hao TSCĐ và chi phí trả trước dài hạn Các khoản chi phí lớn không bằng tiền, ngoại trừ chi phí khấu hao và chi phí phân bổ, cũng phải được thuyết minh riêng cho mỗi bộ phận.

Doanh nghiệp nên trình bày các chỉ tiêu đánh giá khả năng sinh lời của bộ phận bên cạnh kết quả tổng thể, miễn là không có sự phân bổ tuỳ tiện Cần có bảng đối chiếu giữa số liệu của các bộ phận và số liệu tổng cộng trong báo cáo tài chính, trong đó các số liệu không thuộc bộ phận báo cáo được gộp lại Doanh nghiệp cũng phải đối chiếu doanh thu bộ phận với tổng doanh thu bán hàng ra bên ngoài, chỉ rõ doanh thu chưa được báo cáo ở bất kỳ bộ phận nào Ngoài ra, cần đối chiếu kết quả kinh doanh của bộ phận với tổng kết quả kinh doanh và lợi nhuận thuần của doanh nghiệp, cũng như tài sản và nợ phải trả của bộ phận với tổng tài sản và tổng nợ phải trả của doanh nghiệp.

 Báo cáo bộ phận thứ yếu

Báo cáo bộ phận thứ yếu cần trình bày thông tin liên quan đến lĩnh vực kinh doanh hoặc khu vực địa lý có doanh thu từ bán hàng ra bên ngoài chiếm từ 10% trở lên trong tổng doanh thu của doanh nghiệp Ngoài ra, tài sản bộ phận cũng phải chiếm từ 10% trở lên trong tổng tài sản của các bộ phận Nội dung báo cáo bao gồm doanh thu bộ phận từ bán hàng ra bên ngoài, tổng giá trị còn lại của tài sản bộ phận, và tổng chi phí phát sinh trong niên độ để mua tài sản cố định, bao gồm tài sản dự kiến sử dụng lâu dài như TSCĐ hữu hình, TSCĐ vô hình và tài sản dài hạn khác.

SO SÁNH QUY ĐỊNH CỦA VAS 28 VỚI IFRS 8

1.3.1 Mục tiêu, đối tượng và phương pháp thực hiện

Bài viết này nhằm phân tích sự tương đồng và khác biệt giữa quy định về trình bày báo cáo bộ phận theo VAS 28 và IFRS 8 Qua đó, chúng tôi sẽ đề xuất các biện pháp để hoàn thiện khuôn khổ pháp lý về báo cáo bộ phận tại Việt Nam Việc so sánh này không chỉ giúp làm rõ các yêu cầu báo cáo mà còn góp phần nâng cao tính minh bạch và hiệu quả trong quản lý thông tin tài chính.

Chuẩn mực kế toán Việt Nam VAS 28, cùng với các thông tư hướng dẫn liên quan, quy định về việc trình bày thông tin tài chính Đồng thời, chuẩn mực kế toán quốc tế IFRS 8 cũng đưa ra các quy định tương tự, nhằm đảm bảo tính minh bạch và nhất quán trong báo cáo tài chính.

Phương pháp thực hiện bài viết này là đối chiếu và so sánh nội dung giữa hai chuẩn mực kế toán VAS 28 và IFRS 8 Qua đó, chúng tôi sẽ đưa ra những nhận xét về sự khác biệt giữa quy định kế toán tại Việt Nam và các quy định quốc tế.

Báo cáo tài chính hợp nhất của tập đoàn có chứng khoán được giao dịch công khai cần bao gồm báo cáo tài chính riêng của công ty mẹ và các công ty con Thông tin theo bộ phận phải được trình bày rõ ràng trong báo cáo tài chính hợp nhất.

 Tiêu chí tổng hợp các bộ phận

Hai hay nhiều bộ phận tương đương có thể được kết hợp thành một bộ phận cần báo cáo khi chúng có các đặc điểm kinh tế, tình hình tài chính tương tự hoặc chia sẻ nhiều yếu tố chung về hàng hóa, dịch vụ, quy trình sản xuất, nhóm khách hàng, phương pháp phân phối và điều kiện pháp lý như ngân hàng hoặc dịch vụ công cộng.

Một bộ phận được báo cáo khi doanh thu từ bán hàng ra ngoài chiếm từ 10% trở lên trong tổng doanh thu của tất cả bộ phận, hoặc kết quả kinh doanh của bộ phận này chiếm từ 10% trở lên trên tổng lãi hoặc tổng lỗ của tất cả các bộ phận, hoặc tài sản của bộ phận chiếm từ 10% trở lên trên tổng tài sản của tất cả các bộ phận Nếu bộ phận có mức dưới 10%, vẫn có thể báo cáo nếu thông tin của bộ phận đó cần thiết cho người sử dụng báo cáo tài chính.

Nếu tổng doanh thu bán hàng của doanh nghiệp phân bổ cho các bộ phận thấp hơn 75% tổng doanh thu, cần xác định thêm bộ phận báo cáo, ngay cả khi bộ phận đó không đạt tiêu chuẩn 10%, cho đến khi đạt ít nhất 75% tổng doanh thu của doanh nghiệp hoặc tập đoàn.

Bảng 1.1 - BÁO CÁO BỘ PHẬN THEO VAS 28 ĐỐI CHIẾU VỚI IFRS 8

Chuẩn mực kế toán Việt Nam

Chuẩn mực kế toán quốc tế

Nhận xét sự khác biệt về nội dung giữa các chuẩn mực

Hỗ trợ người dùng trong việc phân tích báo cáo tài chính giúp họ hiểu rõ hơn về hoạt động của doanh nghiệp qua các năm trước Điều này cho phép đánh giá chính xác các rủi ro và lợi ích kinh tế, từ đó đưa ra những nhận định hợp lý về tình hình doanh nghiệp.

Người sử dụng báo cáo tài chính có khả năng đánh giá bản chất và tác động tài chính của các hoạt động kinh doanh mà doanh nghiệp tham gia, cũng như môi trường hoạt động của doanh nghiệp.

Cả hai chuẩn mực đều nhằm mục đích giúp người dùng báo cáo đánh giá chính xác hơn về hoạt động của doanh nghiệp, tuy nhiên, VAS đặc biệt chú trọng vào việc cung cấp thông tin hỗ trợ cho việc phân tích số liệu trong quá khứ.

Doanh nghiệp có chứng khoán trao đổi công khai hoặc đang phát hành, khuyến khích cả doanh nghiệp không có chứng khoán trao đổi công khai áp dụng

Chuẩn mực áp cho doanh nghiệp có chứng khoán trao đổi công khai và doanh nghiệp đang phát hành chứng khoán trên thị trường chứng khoán

VAS có phạm vi rộng hơn và không mang tính bắt buộc, nhưng nó khuyến khích nhiều doanh nghiệp trình bày báo cáo bộ phận một cách rõ ràng và minh bạch.

Bộ phận này được xác định dựa trên lĩnh vực kinh doanh hoặc khu vực địa lý, tham gia vào quá trình sản xuất và cung cấp sản phẩm hoặc dịch vụ riêng lẻ Nó hoạt động trong một môi trường kinh tế cụ thể, nơi mà rủi ro và lợi ích kinh tế của bộ phận này khác biệt so với các bộ phận kinh doanh khác.

Một bộ phận hoạt động trong doanh nghiệp là phần tham gia vào các hoạt động kinh doanh, từ đó tạo ra doanh thu và chịu chi phí Bộ phận này có thể tham gia vào các hoạt động kinh doanh ngay cả khi chưa tạo ra doanh thu.

Các yêu cầu của IFRS dựa trên thông tin từ các thành phần mà doanh nghiệp quản lý sử dụng để ra quyết định điều hành IFRS yêu cầu xác định các bộ phận hoạt động dựa trên báo cáo nội bộ thường xuyên được Giám đốc xem xét, nhằm phân bổ nguồn lực và đánh giá hiệu quả hoạt động của từng bộ phận.

Một lĩnh vực kinh doanh hoặc khu vực địa lý cần được xác định là một bộ phận phải báo cáo khi phần lớn doanh thu đến từ việc bán hàng ra ngoài và đồng thời đáp ứng một trong các điều kiện quy định.

NGUYÊN NHÂN CỦA SỰ KHÁC BIỆT VÀ HƯỚNG RÚT GỌN GIỮA VIỆT NAM VÀ QUỐC TẾ

Báo cáo bộ phận đang được các quốc gia nghiên cứu và áp dụng nhằm hòa hợp chuẩn mực kế toán quốc gia với tiêu chuẩn quốc tế Chuẩn mực kế toán quốc tế đã trải qua nhiều thay đổi, và chuẩn mực kế toán Việt Nam cũng đã điều chỉnh để phù hợp, tuy nhiên VAS 28, dựa trên IAS 14, đã lỗi thời so với IFRS 8 Do đó, cần thiết phải nghiên cứu và điều chỉnh chuẩn mực quốc gia để phù hợp hơn với tiêu chuẩn quốc tế mới nhất trong việc trình bày và công bố thông tin bộ phận Việc so sánh và đánh giá khả năng ứng dụng của chuẩn mực kế toán liên quan trong báo cáo bộ phận cũng rất quan trọng để xác định mức độ tuân thủ của doanh nghiệp Một nghiên cứu trong nước chỉ ra rằng vấn đề báo cáo bộ phận vẫn còn nhiều hạn chế Việc áp dụng chuẩn mực báo cáo bộ phận tại một số quốc gia đã nâng cao chất lượng thông tin kế toán, vì vậy, cần chú trọng hoàn thiện khuôn khổ pháp lý và nâng cao khả năng ứng dụng báo cáo bộ phận tại các doanh nghiệp Việt Nam.

Báo cáo bộ phận cung cấp thông tin kinh tế chi tiết, rất quan trọng cho người sử dụng báo cáo tài chính Lịch sử hình thành các chuẩn mực báo cáo bộ phận trên toàn cầu cho thấy sự đồng thuận trong việc xây dựng khung pháp lý liên quan Việt Nam cũng đang theo kịp xu thế phát triển này.

Báo cáo bộ phận được thiết lập với mục đích cung cấp cho các nhà đầu tư cái nhìn sâu sắc về hoạt động của công ty và các vấn đề liên quan đến khu vực tiềm năng Việc công khai thông tin trong báo cáo bộ phận là rất quan trọng, đặc biệt đối với các công ty muốn thu hút đầu tư, vì họ không thể che giấu thông tin này Do đó, báo cáo bộ phận luôn thu hút sự quan tâm từ nhiều đối tượng khác nhau và góp phần nâng cao hình ảnh mà công ty muốn thể hiện.

Nhiều nghiên cứu trên thế giới đã chỉ ra mối liên hệ giữa các yếu tố ảnh hưởng đến việc công bố thông tin bộ phận theo chuẩn mực báo cáo cụ thể Các số liệu thống kê được đưa ra nhằm minh chứng cho những vấn đề nghiên cứu này Tại Việt Nam, việc tìm hiểu và ứng dụng chuẩn mực báo cáo bộ phận vẫn còn mới mẻ Do đó, các cơ sở lý luận và số liệu trong chương tiếp theo sẽ hỗ trợ đáng kể cho việc khảo sát thực trạng áp dụng chuẩn mực kế toán về báo cáo bộ phận tại các công ty Việt Nam, đồng thời mở ra hướng tiếp cận mới để hoàn thiện khuôn khổ pháp lý liên quan đến báo cáo bộ phận.

THỰC TRẠNG TRÌNH BÀY VÀ CÔNG BỐ BÁO CÁO BỘ PHẬN CỦA CÁC CÔNG TY NIÊM YẾT TRÊN SÀN GIAO DỊCH CHỨNG KHOÁN THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH

MỘT SỐ GIẢI PHÁP HOÀN THIỆN TRÌNH BÀY BÁO CÁO BỘ PHẬN CỦA CÁC CÔNG TY NIÊM YẾT TRÊN SÀN GIAO DỊCH CHỨNG KHOÁN THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH

Ngày đăng: 21/07/2021, 14:22

Nguồn tham khảo

Tài liệu tham khảo Loại Chi tiết
1. Bộ Tài Chính (2012), “Chuẩn mực kế toán Việt Nam”, Nxb. Thống Kê Sách, tạp chí
Tiêu đề: “Chuẩn mực kế toán Việt Nam”
Tác giả: Bộ Tài Chính
Nhà XB: Nxb. Thống Kê
Năm: 2012
2. Đào Thị Kim Yến (2004), “Một số vấn đề vận dụng và hoàn thiện chuẩn mực kế toán báo cáo tài chính ở Việt Nam”, trường Đại Học Kinh Tế TP.HCM Sách, tạp chí
Tiêu đề: “Một số vấn đề vận dụng và hoàn thiện chuẩn mực kế toán báo cáo tài chính ở Việt Nam”
Tác giả: Đào Thị Kim Yến
Năm: 2004
3. Nguyễn Đình Hựu (2008), “Luật kế toán 2003 - Sự tiếp nối và phát triển của Pháp lệnh kế toán và Thống kê 1998”, tạp chí kế toán số 171 Sách, tạp chí
Tiêu đề: “Luật kế toán 2003 - Sự tiếp nối và phát triển của Pháp lệnh kế toán và Thống kê 1998”
Tác giả: Nguyễn Đình Hựu
Năm: 2008
4. Ngô Thị Thanh Hòa (2012), “Các giải pháp nâng cao sự minh bạch thông tin tài chính của các công ty cổ phần niêm yết Việt Nam thông qua sự tự nguyện công bố thông tin trên bản thuyết minh báo cáo tài chính”, trường Đại Học Kinh Tế TP.HCM Sách, tạp chí
Tiêu đề: “Các giải pháp nâng cao sự minh bạch thông tin tài chính của các công ty cổ phần niêm yết Việt Nam thông qua sự tự nguyện công bố thông tin trên bản thuyết minh báo cáo tài chính”
Tác giả: Ngô Thị Thanh Hòa
Năm: 2012
5. Nguyễn Thị Hồng Oanh (2008), “Hoàn thiện việc trình bày và công bố thông tin báo cáo tài chính các công ty niêm yết tại Sở giao dịch chứng khoán Thành phố Hồ Chí Minh”, trường Đại Học Kinh Tế TP.HCM Sách, tạp chí
Tiêu đề: “Hoàn thiện việc trình bày và công bố thông tin báo cáo tài chính các công ty niêm yết tại Sở giao dịch chứng khoán Thành phố Hồ Chí Minh”
Tác giả: Nguyễn Thị Hồng Oanh
Năm: 2008
6. Nguyễn Thị Phương Thúy (2010), “Hoàn thiện báo cáo bộ phận trong kế toán Việt Nam theo hướng phù hợp với thông lệ kế toán quốc tế”, trường Đại Học Kinh Tế TP.HCM Sách, tạp chí
Tiêu đề: “Hoàn thiện báo cáo bộ phận trong kế toán Việt Nam theo hướng phù hợp với thông lệ kế toán quốc tế”
Tác giả: Nguyễn Thị Phương Thúy
Năm: 2010
8. Võ Thị Ánh Hồng (2008), “Các giải pháp nâng cao tính hữu dụng của thông tin kế toán đối với quá trình ra quyết định của nhà đầu tư trên thị trường chứng khoán Việt Nam”, trường Đại Học Kinh Tế TP.HCM Sách, tạp chí
Tiêu đề: “Các giải pháp nâng cao tính hữu dụng của thông tin kế toán đối với quá trình ra quyết định của nhà đầu tư trên thị trường chứng khoán Việt Nam”
Tác giả: Võ Thị Ánh Hồng
Năm: 2008
9. Vũ Hữu Đức (2010), “Những vấn đề cơ bản của lý thuyết kế toán”, Nxb Lao Động Sách, tạp chí
Tiêu đề: Những vấn đề cơ bản của lý thuyết kế toán”
Tác giả: Vũ Hữu Đức
Nhà XB: Nxb Lao Động
Năm: 2010
10. Archambault J.J., and M.E. Archambault (2003), “A Multinational Test of Determinants of Corporate Disclosure”, The International Journal of Accounting Sách, tạp chí
Tiêu đề: “A Multinational Test of Determinants of Corporate Disclosure”
Tác giả: Archambault J.J., and M.E. Archambault
Năm: 2003
11. Botosan, C.A., and M. Stanford (2005), ‟Motives to Withhold Segment Disclosures and the Effect of SFAS No. 131 on Analysts”, The Accounting Review Sách, tạp chí
Tiêu đề: ‟Motives to Withhold Segment Disclosures and the Effect of SFAS No. 131 on Analysts
Tác giả: Botosan, C.A., and M. Stanford
Năm: 2005
12. DeAngelo, L., (1981), “Auditor Size and Audit Quality”, Journal of Accounting and Economics Sách, tạp chí
Tiêu đề: “Auditor Size and Audit Quality”
Tác giả: DeAngelo, L
Năm: 1981
13. Dumontier, P., and B. Raffournier (1998), “Why Firms Comply Voluntarily with IAS: an Empirical Analysis with Swiss Data”, Journal of International Financial Management and Accounting Sách, tạp chí
Tiêu đề: “Why Firms Comply Voluntarily with IAS: an Empirical Analysis with Swiss Data
Tác giả: Dumontier, P., and B. Raffournier
Năm: 1998
14. Epstein M. J., and M. Pava (1993), “The Shareholder's Use of Corporate Annual reports, JAI Press, London” Sách, tạp chí
Tiêu đề: “The Shareholder's Use of Corporate Annual reports, JAI Press, London
Tác giả: Epstein M. J., and M. Pava
Năm: 1993
15. Foster, G., (1986), “Financial statement analysis”, Englewood Cliffs: N.J.: Prentice-Hall” Sách, tạp chí
Tiêu đề: “Financial statement analysis”, "Englewood Cliffs: N.J.: Prentice-Hall
Tác giả: Foster, G
Năm: 1986
16. Gary J. Kelly., (1994), “Unregulated segment reporting: Australian evidence”, British Accounting Review 26 Sách, tạp chí
Tiêu đề: “Unregulated segment reporting: Australian evidence”
Tác giả: Gary J. Kelly
Năm: 1994
17. Grégory Heem (2010), “An Analysis of Segment Disclosures under IAS 14 and IFRS 8”, The Accounting Review Sách, tạp chí
Tiêu đề: “An Analysis of Segment Disclosures under IAS 14 and IFRS 8”
Tác giả: Grégory Heem
Năm: 2010
18. Harris M.S., (1998), “The Association Between Competition and Managers Business Segment Reporting Decisions”, Journal of Accounting Research Sách, tạp chí
Tiêu đề: “The Association Between Competition and Managers Business Segment Reporting Decisions”
Tác giả: Harris M.S
Năm: 1998
19. Herrmann, D., and W. Thomas, (1996), “Segment Reporting in the European Union: Analyzing the Effects of Country, Size, Industry and Exchange Listing”, Journal of International Accounting & Taxation Sách, tạp chí
Tiêu đề: “Segment Reporting in the European Union: Analyzing the Effects of Country, Size, Industry and Exchange Listing”
Tác giả: Herrmann, D., and W. Thomas
Năm: 1996
20. Herrmann, D., and W. Thomas, (2000), “An Analysis of Segment Disclosures under SFAS No. 131 and SFAS No. 14”, Accounting Horizons Sách, tạp chí
Tiêu đề: “An Analysis of Segment Disclosures under SFAS No. 131 and SFAS No. 14”
Tác giả: Herrmann, D., and W. Thomas
Năm: 2000
21. Ijiri, Y (1995), “Segment Statements and Informativeness Measures: Managing Capital vs. Managing Resources”, Accounting Horizons Sách, tạp chí
Tiêu đề: “Segment Statements and Informativeness Measures: "Managing Capital vs. Managing Resources”
Tác giả: Ijiri, Y
Năm: 1995

TÀI LIỆU CÙNG NGƯỜI DÙNG

TÀI LIỆU LIÊN QUAN

w