1. Trang chủ
  2. » Luận Văn - Báo Cáo

Phong trào cách mạng quốc gia trong chính thể đệ nhất việt nam cộng hòa 1955 1963

94 15 0

Đang tải... (xem toàn văn)

Tài liệu hạn chế xem trước, để xem đầy đủ mời bạn chọn Tải xuống

THÔNG TIN TÀI LIỆU

Thông tin cơ bản

Tiêu đề Phong Trào Cách Mạng Quốc Gia Trong Chính Thể Đệ Nhất Việt Nam Cộng Hòa (1955-1963)
Tác giả Huỳnh Toàn
Người hướng dẫn NCS. Phạm Thúc Sơn
Trường học Trường Đại Học Thủ Dầu Một
Chuyên ngành Sư Phạm Lịch Sử
Thể loại khóa luận tốt nghiệp
Năm xuất bản 2017
Thành phố Bình Dương
Định dạng
Số trang 94
Dung lượng 8,01 MB

Cấu trúc

  • CHƯƠNG I: KHÁI QUÁT CHẾ ĐỘ ĐỆ NHẤT VIỆT CỘNG HÒA Ở MIỀN NAM VIỆT NAM (1955-1963) (12)
    • 1.1. QUÁ TRÌNH XÁC LẬP CHÍNH QUYỀN ĐỆ NHẤT VIỆT NAM CỘNG HÒA Ở MIỀN NAM VIỆT NAM (12)
      • 1.1.1. Hoa Kỳ loại bỏ Pháp và các phần tử thân Pháp khỏi miền Nam Việt Nam (12)
      • 1.1.2. Quá trình xác lập chính quyền Đệ Nhất Việt Nam Cộng hòa (16)
    • 1.2. KHÁI QUÁT HỆ THỐNG CÁC CHÍNH SÁCH CỦA CHÍNH QUYỀN ĐỆ NHẤT VIỆT NAM CỘNG HÒA (18)
      • 1.2.1. Chính sách Kinh tế - Chính trị (18)
      • 1.2.2. Chính sách Quân sự- Ngoại giao (21)
      • 1.2.3. Chính sách Văn hóa- Xã hội (23)
    • 1.3. QUÁ TRÌNH SỤP ĐỔ CỦA CHÍNH QUYỀN ĐỆ NHẤT VIỆT NAM CỘNG HÒA (25)
      • 1.3.1. Khủng hoảng của chính quyền Ngô Đình Diệm (25)
      • 1.3.2. Nhân dân miền Nam đấu tranh chống Mỹ- Diệm (27)
      • 1.1.3. Sự sụp đổ của chính quyền Đệ nhất Việt Nam Cộng hòa ở miền Nam năm (30)
  • CHƯƠNG II: PHONG TRÀO CÁCH MẠNG QUỐC GIA TRONG CHÍNH THỂ ĐỆ NHẤT VIỆT NAM CỘNG HÒA (1955-1963) (34)
    • 2.1. TỔ CHỨC PHONG TRÀO CÁCH MẠNG QUỐC GIA TRONG CHÍNH PHỦ NGÔ ĐÌNH DIỆM (34)
      • 2.1.1. Sự thành lập của Phong trào Cách mạng Quốc gia (34)
        • 2.1.1.1. Mục tiêu hoạt động của Phong trào Cách mạng Quốc gia (35)
        • 2.1.1.2. Cách thức gia nhập Phong trào Cách mạng Quốc gia (35)
      • 2.1.2. Cơ cấu tổ chức của Phong trào Cách mạng Quốc gia (37)
        • 2.1.2.1. Các cơ quan của Phong trào Cách mạng Quốc gia (40)
        • 2.1.2.2. Các đoàn thể phụ thuộc của Phong trào Cách mạng Quốc gia (41)
      • 2.1.3. Đường lối hoạt động của Phong trào Cách mạng Quốc gia (42)
    • 2.2. MỐI QUAN HỆ CỦA PHONG TRÀO CÁCH MẠNG QUỐC GIA VỚI CÁC ĐOÀN THỂ KHÁC (46)
      • 2.2.1. Đảng Cần Lao Nhân Vị (46)
      • 2.2.2. Liên đoàn Công chức Cách mạng Quốc gia và Thanh niên Cộng Hòa (48)
      • 2.2.3. Tổng Liên đoàn Lao công (51)
      • 2.2.4. Phong trào Cách mạng Quốc gia trong Quốc hội Việt Nam Cộng hòa (53)
  • CHƯƠNG III: VAI TRÒ CỦA PHONG TRÀO CÁCH MẠNG QUỐC GIA TRONG CHÍNH THỂ ĐỆ NHẤT VIỆT NAM CỘNG HÒA (1955-1963) (56)
    • 3.1. VAI TRÒ CỦA PHONG TRÀO CÁCH MẠNG QUỐC GIA TRONG LĨNH VỰC CHÍNH TRỊ- XÃ HỘI CỦA CHÍNH QUYỀN ĐỆ NHẤT VIỆT NAM CỘNG HÒA (56)
      • 3.1.1. Về Chính trị (56)
      • 3.1.2. Về Xã hội (58)
    • 3.2. TÁC ĐỘNG CỦA PHONG TRÀO CÁCH MẠNG QUỐC GIA ĐỐI VỚI CHÍNH QUYỀN NGÔ ĐÌNH DIỆM (60)
      • 3.2.1. Tác động tích cực (60)
      • 3.2.2. Tác động tiêu cực (62)
  • KẾT LUẬN (66)
  • TÀI LIỆU THAM KHẢO (68)

Nội dung

KHÁI QUÁT CHẾ ĐỘ ĐỆ NHẤT VIỆT CỘNG HÒA Ở MIỀN NAM VIỆT NAM (1955-1963)

QUÁ TRÌNH XÁC LẬP CHÍNH QUYỀN ĐỆ NHẤT VIỆT NAM CỘNG HÒA Ở MIỀN NAM VIỆT NAM

HÒA Ở MIỀN NAM VIỆT NAM

1.1.1 Hoa Kỳ loại bỏ Pháp và các phần tử thân Pháp khỏi miền Nam Việt Nam

Hoa Kỳ đã xem miền Nam Việt Nam là một khu vực chiến lược quan trọng trong nỗ lực ngăn chặn sự lan rộng của chủ nghĩa cộng sản tại Đông Nam Á, đồng thời cung cấp viện trợ cho Pháp trong cuộc chiến chống lại Việt Nam Dân chủ Cộng hòa Sau thất bại tại Điện Biên Phủ vào ngày 7 tháng 5 năm 1954, tại Hội nghị Genève, phái đoàn Hoa Kỳ tham gia với mục tiêu chính là giải quyết các vấn đề sau chiến tranh ở Triều Tiên Bộ trưởng ngoại giao Hoa Kỳ đã tuyên bố rằng tốt nhất là để người Pháp rút lui, sau đó Hoa Kỳ sẽ thiết lập một nền tảng mới và không sẵn sàng tham gia vào các tuyên bố và ràng buộc của Hội nghị Genève.

Nhân cơ hội Pháp thua trận và ký Hiệp định Genève, Hoa Kỳ đã tăng cường lực lượng thay thế Pháp ở Đông Dương, gây sức ép với Pháp và buộc Quốc trưởng Bảo Đại đưa Ngô Đình Diệm từ nước ngoài về Việt Nam Đồng thời, Diệm được bổ nhiệm làm Thủ tướng thay thế Bửu Lộc, đánh dấu bước đầu tiên trong quá trình can thiệp trực tiếp của Hoa Kỳ vào Việt Nam Ngày 16/06/1954, Quốc trưởng Bảo Đại ký sắc lệnh số 38-QT, trao toàn quyền cho Ngô Đình Diệm trong việc quyết định các công việc quan trọng mà không cần xin phép.

Vào ngày 25/06/1954, Ngô Đình Diệm trở về Việt Nam và đến ngày 6/7/1954, ông thành lập chính phủ mới, đánh dấu một thắng lợi chính trị lớn của Hoa Kỳ trước Pháp khi đưa Diệm lên ghế Thủ tướng tại Sài Gòn Bảo Đại vẫn giữ chức "Quốc trưởng" nhưng thực tế không có quyền lực, chỉ là người đại diện cho Pháp Tất cả quyền lực đều tập trung vào tay Thủ tướng Diệm, người đã trở thành công cụ đắc lực cho Hoa Kỳ trong việc dần dần loại bỏ Pháp và các tay chân của họ ở miền Nam Việt Nam.

Hoa Kỳ thực hiện nhiều biện pháp nhằm loại bỏ Pháp khỏi Đông Dương, trong đó quan trọng nhất là nắm quyền kiểm soát quân đội và chính quyền Sài Gòn, biến chúng thành công cụ xâm lược của mình Hoa Kỳ trực tiếp viện trợ cho chính quyền Sài Gòn, không thông qua Pháp, và chỉ huy, huấn luyện quân đội Sài Gòn Đồng thời, họ loại bỏ Bảo Đại và buộc quân Pháp rút khỏi miền Nam Việt Nam, với mục tiêu biến miền Nam thành thuộc địa kiểu mới của Hoa Kỳ.

Sau một thời gian ngắn, Hoa Kỳ đã thiết lập một chính phủ thân thiện tại Sài Gòn và vào ngày 8/9/1954, thành lập “Tổ chức Hiệp ước phòng thủ Đông Nam Á” (SEATO) nhằm ngăn chặn “làn sóng đỏ” lan xuống miền Nam, bảo vệ miền Nam Việt Nam, Lào và Campuchia dưới sự bảo trợ của Hoa Kỳ, biến nơi đây thành căn cứ quân sự mới Qua các sự kiện này, Mỹ đã hoàn toàn loại bỏ Pháp khỏi miền Nam Việt Nam, khởi đầu cho giai đoạn chủ nghĩa thực dân mới với sự xâm lược trực tiếp Để hợp pháp hóa sự hiện diện của mình, Ngô Đình Diệm đã yêu cầu Hoa Kỳ hỗ trợ trực tiếp mà không thông qua Pháp, cho phép Mỹ can thiệp vào miền Nam Việt Nam với lý do giúp đỡ đồng minh, che giấu âm mưu xâm lược và từng bước độc quyền chi phối khu vực này Hoa Kỳ nhanh chóng đầu tư vào việc xây dựng và củng cố chính quyền Ngô Đình Diệm, coi đây là chỗ dựa chủ yếu để áp đặt chủ nghĩa thực dân mới.

Mỹ đã tập trung vào việc bảo vệ và củng cố chính quyền Ngô Đình Diệm, đồng thời đầu tư vào việc xây dựng một quân đội Việt Nam được trang bị và huấn luyện tốt hơn.

Hoa Kỳ đã hỗ trợ chính quyền Diệm loại bỏ các phần tử thân Pháp, trong đó có Nguyễn Văn Hinh, Tổng tham mưu trưởng quân đội Quốc gia Việt Nam Ngô Đình Diệm đã cử Hinh đi công tác tại Pháp trong 6 tháng, nhưng Hinh từ chối với lý do Thủ tướng không có quyền điều động tham mưu trưởng Vào ngày 9/10/1954, Diệm đã cách chức Hinh, nhưng Hinh không tuân lệnh, cho rằng chỉ Quốc trưởng mới có quyền này Hinh và các tướng tá thân Pháp đã chuẩn bị kế hoạch lật đổ chính phủ Diệm, nhận được sự ủng hộ bí mật từ Pháp, trong khi Hoa Kỳ phản đối và tuyên bố rõ ràng với Thủ tướng Pháp P.M France rằng nếu Pháp không ủng hộ Diệm, hậu quả sẽ rất nghiêm trọng.

Hoa Kỳ sẽ cắt viện trợ cho Pháp”[39;27], Pháp buộc phải nhƣợng bộ Ngày

Vào ngày 20 tháng 11 năm 1954, Nguyễn Văn Hinh buộc phải sống lưu vong tại Pháp, trong khi đó, Ngô Đình Diệm đã bổ nhiệm Thiếu tướng Lê Văn Tỵ làm Tổng tham mưu trưởng quân đội Quốc gia Việt Nam.

Chính phủ mới của Ngô Đình Diệm đã đối mặt với sự phản đối mạnh mẽ từ các giáo phái "tam liên" (Cao Đài, Hòa Hảo, Bình Xuyên), những lực lượng này đã hợp tác thành lập "Mặt trận thống nhất toàn lực Quốc gia" để yêu cầu quyền tham chính Vào ngày 21/03/1955, họ đã gây áp lực buộc Thủ tướng Diệm phải cải tổ nội các trong vòng năm ngày, trước hạn chót 26/3 Tuy nhiên, nhờ có sự ủng hộ từ Hoa Kỳ, Diệm đã từ chối thực hiện việc cải tổ này.

Ngô Đình Diệm đã có những cuộc chiến ác liệt với lực lượng Hòa Hảo tại vùng Hậu Giang và với lực lượng Bình Xuyên ngay tại Sài Gòn, được hỗ trợ bởi Hoa Kỳ, dẫn đến chiến thắng thuộc về ông Lãnh tụ Bình Xuyên, Lê Văn Viễn, đã bị bí mật đưa sang Pháp Vào ngày 26/04/1954, Diệm ra lệnh cách chức Lại Văn Sang, Tổng giám đốc Cảnh sát-Công an, và bổ nhiệm Nguyễn Ngọc Lễ thay thế, nhưng Sang không đồng ý và yêu cầu có lệnh từ Quốc trưởng Bảo Đại Cuối cùng, các lực lượng quân đội Hòa Hảo và Bình Xuyên lần lượt tan rã.

Quốc trưởng Bảo Đại đã ra lệnh triệu tập Ngô Đình Diệm sang Pháp hội kiến, nhưng Diệm không chỉ từ chối mà còn triệu tập Hội đồng nội các để bác bỏ lệnh của Bảo Đại Tiếp theo, Diệm tổ chức “Đại hội các lực lượng quốc gia” nhằm đề xuất phế truất Bảo Đại và thành lập “Hội đồng nhân dân Cách mạng” để thúc đẩy việc này Lực lượng Cao Đài, do hai tướng Trình Minh Thế và Nguyễn Thành Phương chỉ huy, ban đầu giữ thái độ trung lập nhưng sau đó đã bị Diệm mua chuộc và quyết định quy thuận chính phủ Diệm để tránh xung đột với quân đội.

Ngô Đình Diệm đã sử dụng vũ lực để tiêu diệt các lực lượng Đại Việt tại Quảng Trị, Thừa Thiên Huế, Phú Yên, cùng với Quốc dân Đảng ở Quảng Nam, Quảng Ngãi, Bình Định và Kon Tum Chính phủ của Diệm gần như đã thanh toán hoàn toàn các thế lực thân Pháp chống đối ở miền Nam Việt Nam, nhằm thâu tóm quyền lực Quốc trưởng Bảo Đại, đại diện cho thế lực Pháp tại miền Nam, trở thành vật cản cuối cùng và đã được Hoa Kỳ đưa vào kế hoạch "phế truất" của Ngô Đình Diệm.

Hoa Kỳ đã lên kế hoạch từ năm 1954 để loại bỏ rào cản Bảo Đại thông qua việc tổ chức một cuộc "trưng cầu dân ý" gian lận, nhằm hợp thức hóa quyền lực của chính quyền Sài Gòn tại miền Nam Việt Nam.

Vào ngày 15/02/1955, Ngô Đình Diệm đã ban hành Dụ số 11 nhằm thiết lập Quốc hội lâm thời cho miền Nam Việt Nam, chính thức tạo ra một quốc gia riêng biệt, vi phạm nghiêm trọng Hiệp định Genève Chỉ vài tháng sau, ông Diệm tuyên bố giải tán chính phủ Bảo Đại và thành lập chính phủ mới, với các đại diện "dân cử" đồng loạt phế truất Bảo Đại.

Vào ngày 06/10/1955, Bộ trưởng Nội vụ của chính phủ Sài Gòn đã thông báo về quyết định tổ chức cuộc trưng cầu dân ý vào ngày 23/10/1955 Các phương tiện truyền thông dưới sự chỉ đạo của Thủ tướng cũng đã bắt đầu kêu gọi người dân chuẩn bị cho cuộc bầu cử.

KHÁI QUÁT HỆ THỐNG CÁC CHÍNH SÁCH CỦA CHÍNH QUYỀN ĐỆ NHẤT VIỆT NAM CỘNG HÒA

NHẤT VIỆT NAM CỘNG HÒA

Sau khi tiêu diệt lực lượng vũ trang của các chính đảng và giáo phái đối lập, Ngô Đình Diệm đã loại bỏ Bảo Đại và xóa bỏ ảnh hưởng của Pháp ở miền Nam Việt Nam Dưới sự hỗ trợ của Hoa Kỳ, ông đã trở thành Tổng thống miền Nam Việt Nam.

Chế độ Việt Nam Cộng hòa ở miền Nam Việt Nam, được thành lập với sự hỗ trợ của Hoa Kỳ, đã trải qua nhiều tranh cãi, đặc biệt là về "trưng cầu dân ý" và cuộc bầu cử "quốc hội" bù nhìn Ngô Đình Diệm đã nỗ lực xây dựng và ổn định các lĩnh vực kinh tế-chính trị, quân sự-ngoại giao, và văn hóa-xã hội Dưới đây là hệ thống các chính sách mà chính quyền Ngô Đình Diệm đã ban hành và thực hiện.

1.2.1 Chính sách Kinh tế - Chính trị

Khi chính quyền Việt Nam Cộng hòa ra đời với sự hỗ trợ từ Mỹ, nền kinh tế của quốc gia này đã có sự tăng trưởng nhanh chóng Chính sách kinh tế của Việt Nam Cộng hòa chủ yếu tập trung vào các lĩnh vực quan trọng.

1 Sản xuất hàng hóa phục vụ nhu cầu xuất cảng nhằm cố gắng cân bằng cán cân mậu dịch Tạo ra một nền kinh tế phát triển và độc lập Và hạn chế hoặc không sản xuất các hàng hóa nhằm thay thế các mặt hàng được nhập khẩu theo các chương trình viện trợ Mỹ, nhằm tránh giẫm đạp thị trường

2 Hỗ trợ và định hướng tư bản tham gia vào các lĩnh vực do chế độ đặt ra Dùng các biện pháp tài chính nhằm ổn định tiền tệ và giảm thâm hụt ngân sách

3 Đẩy mạnh xây dựng cơ sở hạ tầng vừa phục vụ cho nhu cầu quân sự, đồng thời tạo nên sự phồn vinh tại miền Nam Việt Nam [39;131]

Với đường lối kinh tế rõ ràng và tổ chức bộ máy kinh tế hiệu quả, Việt Nam Cộng hòa đã phát triển nhờ vào các cơ quan như Tổng nha thương phụ trách nội thương, ngoại thương và viện trợ thương mại, cũng như Tổng nha khoáng chất và công nghệ, đảm bảo sự phát triển của công nghiệp khoáng sản và tiểu công nghệ Sự hỗ trợ từ các cơ quan như Nha Ngành nghiệp và Viện Quốc gia Thống kê cũng góp phần quan trọng vào những thành tựu kinh tế nhất định của đất nước.

Chính quyền Ngô Đình Diệm đã thực hiện nhiều chính sách kinh tế quan trọng, bao gồm thu hồi ngành quan thuế từ tay người Pháp vào năm 1955, thành lập ngân hàng Đông Dương và ban hành dụ số 48 về độc lập tiền tệ Chính phủ khuyến khích phát triển tiểu thủ công nghiệp và công nghiệp, mở rộng sản xuất hàng hóa phục vụ nhu cầu trong nước và xuất khẩu Trong lĩnh vực nông nghiệp, chính quyền tiến hành cải cách điền địa, áp dụng khoa học kỹ thuật vào sản xuất và tổ chức nạo vét kênh mương nhằm tăng diện tích canh tác Năm 1956, Hội đồng Kinh tế Quốc gia được thành lập, kêu gọi đầu tư từ tư nhân trong và ngoài nước, đồng thời cung cấp ưu đãi thuế và hỗ trợ công nghệ cho các doanh nghiệp.

Chính quyền Ngô Đình Diệm đã đạt được những thành tựu nhất định trong việc triển khai các chính sách kinh tế, bao gồm việc hình thành các khu công nghiệp và xây dựng nhiều nhà máy như Vinatexco, Vimytex, nhà máy thủy tinh Khánh Hội, và nhà máy xi măng Hà Tiên, Thủ Đức Giai đoạn 1955-1960 được coi là thời kỳ kinh tế ổn định nhất của Việt Nam Cộng hòa, với sự phát triển cơ sở hạ tầng và cải thiện đời sống nhân dân nhờ vào sự gia tăng nhập khẩu các tiện nghi sinh hoạt như tivi, tủ lạnh, và xe gắn máy Sản xuất cũng có sự phát triển theo hướng hiện đại hóa.

Hoa Kỳ và chính quyền Ngô Đình Diệm đã triển khai các dự án phát triển chủ nghĩa tư bản tại miền Nam Việt Nam với mục tiêu xây dựng một quốc gia riêng biệt và chia cắt lâu dài đất nước Viện trợ kinh tế là yếu tố then chốt trong việc thực hiện các chính sách kinh tế của Hoa Kỳ, mở đường cho sự xâm nhập của tư bản Hoa Kỳ vào miền Nam.

16 xem là đòn bẩy để tạo nên điểm tựa vững chắc cho sự xâm nhập của Hoa Kỳ vào miền Nam Việt Nam

Viện trợ kinh tế đã trở thành công cụ quan trọng của Hoa Kỳ để chi phối chính trị và xã hội miền Nam, thông qua việc gia tăng sự hiện diện của mình Hoa Kỳ đã thực hiện hai hình thức chính trong hoạt động kinh tế: viện trợ thương mại hóa và tạo điều kiện thuận lợi cho đầu tư trực tiếp của tư bản Hoa Kỳ vào miền Nam.

Viện trợ thương mại hóa từ Hoa Kỳ đã giúp hàng hóa Mỹ tràn ngập thị trường miền Nam Việt Nam, tạo ra sự cạnh tranh bất bình đẳng với hàng nội địa và hàng hóa từ các quốc gia khác Chính quyền Hoa Kỳ đã ký kết nhiều văn kiện có lợi cho mình với chính quyền Ngô Đình Diệm liên quan đến thuế quan, ngân hàng và tiền tệ Mặc dù kinh tế Việt Nam Cộng hòa có dấu hiệu phát triển vào cuối thập niên 50, nhưng thực chất lại hoàn toàn phụ thuộc vào viện trợ của Hoa Kỳ; càng nhận nhiều viện trợ, chính quyền Diệm càng bị ràng buộc chặt chẽ với Hoa Kỳ.

Sau khi chính quyền Việt Nam Cộng hòa được thành lập tại miền Nam Việt Nam với sự hỗ trợ của Hoa Kỳ, chính quyền Diệm đã tích cực tuyên truyền cho bản thân như một biểu tượng của "chính nghĩa Quốc gia", "độc lập" và "dân chủ".

Chính quyền Diệm thực hiện chính sách cai trị hà khắc, liệt kê tất cả các phần tử đối lập và lực lượng cách mạng vào danh sách những người chống đối Họ sử dụng bạo lực để đàn áp và tiêu diệt lực lượng cách mạng, nhằm tách rời họ khỏi quần chúng nhân dân Để kiểm soát dân cư, Diệm lập các khu Trù mật và xây dựng Ấp chiến lược, biến miền Nam Việt Nam thành một trại giam khổng lồ Dưới danh nghĩa “cải cách điền địa”, chính quyền Việt Nam Cộng hòa tuyên truyền đây là quốc sách quan trọng cho kinh tế miền Nam, nhưng thực chất lại phục hồi quyền sở hữu ruộng đất cho địa chủ, tước đoạt ruộng đất của nông dân mà cách mạng đã mang lại cho họ.

17 cách điền địa” làm cho mâu thuẫn giữa các thế lực địa chủ phong kiến và nông dân miền Nam trở nên gay gắt

Chính quyền Ngô Đình Diệm thực hiện chính sách khu Dinh điền bằng cách di cư số lượng lớn dân công giáo từ miền Bắc và miền Trung đến các vùng “kinh tế mới” Hành động này đã dẫn đến việc chiếm đất đai của người dân địa phương và thiết lập các khu dân cư tập trung.

Mặc dù chính quyền Diệm tuyên bố xây dựng Dinh Điền nhằm "cải thiện dân sinh", thực tế lại giống như các trại tập trung, nơi người dân bị kìm kẹp và áp bức Việc mở các trung tâm Dinh Điền để định cư giáo dân Bắc Việt và dân di cư từ miền Trung đã chiếm đất của người Thượng, đẩy họ vào thế đối kháng với người Kinh Để tăng cường đàn áp, Diệm đã biến các Đoàn hội Thanh niên thành lực lượng bán vũ trang, cùng với nhiều tổ chức võ trang khác nhằm kiểm soát và khống chế quần chúng Chính quyền còn tổ chức "Ngũ gia Liên bảo" để giám sát lẫn nhau trong từng thôn ấp Luật 10-59 được ban hành nhằm thanh trừng những người cộng sản ở miền Nam, dẫn đến việc truy quét, bắt bớ và khủng bố người dân với các khẩu hiệu tàn bạo Cuộc sống của nhân dân miền Nam ngày càng khốn khổ, họ bị đẩy đến giới hạn chịu đựng cuối cùng.

1.2.2 Chính sách Quân sự- Ngoại giao

QUÁ TRÌNH SỤP ĐỔ CỦA CHÍNH QUYỀN ĐỆ NHẤT VIỆT NAM CỘNG HÒA

1.3.1 Khủng hoảng của chính quyền Ngô Đình Diệm

Chính quyền Việt Nam Cộng hòa dưới sự lãnh đạo của Diệm, với sự hỗ trợ từ Hoa Kỳ, đã được xây dựng một cách hoàn thiện Các "thành tích" từ chương trình Cải cách điền địa và các cuộc càn quét triệt phá lực lượng cách mạng đã khiến Hoa Kỳ và Diệm tin rằng miền Nam Việt Nam hoàn toàn nằm trong tầm kiểm soát Tuy nhiên, đằng sau những thành tích giả tạo và sự lạc quan về tình hình chính trị là những mâu thuẫn và khủng hoảng nghiêm trọng trong nội bộ chính quyền Ngô Đình Diệm, và những sự thật này nhanh chóng được phơi bày.

Sau nhiều năm thực hiện chính sách mị dân và sử dụng bạo lực để tiêu diệt cách mạng, tháng 4 năm 1959, với sự tàn ác và quyết tâm, họ đã nhổ cỏ tận gốc Cộng sản, kìm kẹp quần chúng và thanh trừng đối lập.

"Quốc hội" bù nhìn của Diệm thông qua luật số 91 Luật đƣợc ban hành ngày 6 tháng

Luật 10-59 được ban hành vào năm 1959 nhằm thành lập các "Tòa án Quân sự đặc biệt" để xét xử các tội ác chiến tranh chống lại Việt Nam Cộng Hòa và loại bỏ Cộng sản khỏi vòng pháp luật, với mục đích thanh trừng những người Cộng sản ở miền Nam Việt Nam Đạo luật này là sự tiếp nối của chính sách "tố Cộng, diệt Cộng" của Ngô Đình Diệm, nhưng đã dẫn đến sự căm phẫn và đấu tranh phản kháng từ quần chúng yêu nước, làm cho nội bộ Việt Nam Cộng hòa trở nên lục đục và mâu thuẫn.

Đến năm 1959, tình hình tài chính của miền Nam Việt Nam ngày càng thâm hụt, an ninh trở nên phức tạp và nguy hiểm Phong trào cách mạng miền Nam đã chuyển mình mạnh mẽ, từ đấu tranh chính trị kết hợp với vũ trang và tuyên truyền, phát triển thành khởi nghĩa giành chính quyền, đẩy chế độ Diệm đến bờ vực suy thoái.

Sự phục hồi và phát triển của lực lượng cách mạng đã làm gia tăng mâu thuẫn trong chế độ của Diệm Để củng cố quyền lực, Diệm tiến hành thanh trừng nội bộ, dẫn đến việc nhiều thành phần từng trung thành với ông bị tước đoạt quyền lợi Họ đã quay lưng với chế độ Ngô Đình Diệm, công khai chống đối và lên tiếng chỉ trích chính sách độc tài, gia đình trị của anh em Diệm trước dư luận trong và ngoài nước.

Từ khi lên nắm quyền, Diệm đã tiến hành thanh trừng nội bộ một cách quyết liệt, đặc biệt trong năm 1959 Trong kỳ bầu cử đầu tiên, ông đã gạt bỏ 73 trong số 123 dân biểu, bao gồm cả những người từng ủng hộ ông nhưng giờ đây công khai phản đối Trần Chánh Thành, một cựu đồng minh của Diệm, hiện đang chỉ trích những thủ đoạn chính trị của ông qua báo "Dân chúng".

Diệm tích cực thực hiện việc sàng lọc nội bộ, thay đổi các vị trí quan trọng trong quốc hội và đàn áp sự phản đối từ lực lượng di cư Những hành động này của Diệm đã làm gia tăng mâu thuẫn trong bối cảnh chính trị của Việt Nam Cộng hòa.

Khủng hoảng của chính quyền Diệm phản ánh sự bất mãn ngày càng tăng của dân chúng đối với chế độ độc tài gia đình trị dưới sự bảo hộ của Hoa Kỳ Nội bộ chính quyền và người dân đều bàn tán về sự làm giàu nhanh chóng của người thân và tay chân thân tín của Diệm, cũng như sự thối nát của bè lũ thống trị.

Mâu thuẫn giữa Hoa Kỳ và Ngô Đình Diệm gia tăng do việc phát giác các công ty gia đình của Diệm "ăn cắp" viện trợ Hoa Kỳ một cách lộ liễu, dẫn đến sự bất bình trong Quốc hội Hoa Kỳ về cách sử dụng viện trợ Để điều tra, Quốc hội cử phái đoàn đến miền Nam, trong khi Diệm lại không hài lòng với Hoa Kỳ vì không nhận được đủ vốn để xây dựng kinh tế theo yêu cầu Sự bất đồng này làm sâu sắc thêm mâu thuẫn giữa hai bên, tạo ra một làn sóng lớn ảnh hưởng đến chính quyền Diệm, khiến bộ máy cai trị của ông trở nên lung lay và phải lúng túng đối phó với những thách thức.

23 nứt này Đặc biệt, phong trào Đồng Khởi của nhân dân miền Nam vào tháng 1 năm

1960 đã làm cho chế độ Diệm bị lung lay nghiệm trọng

1.3.2 Nhân dân miền Nam đấu tranh chống Mỹ- Diệm

Hiệp định Genève được ký kết nhưng Mỹ và Diệm đã âm thầm thực hiện âm mưu chia cắt lâu dài đất nước Việt Nam, từ chối thực hiện hiệp thương tổng tuyển cử để thống nhất hai miền Nam Bắc Hành động này đi ngược lại quyền lợi của nhân dân trong nước Để phản ứng trước sự phá hoại Hiệp định Genève của Mỹ và Diệm, dưới sự lãnh đạo của Đảng, nhân dân miền Nam đã khởi đầu một giai đoạn đấu tranh mới với các cuộc biểu tình chính trị rầm rộ diễn ra khắp các tỉnh thành, thể hiện sức mạnh và nguyện vọng hòa bình, hoan nghênh Hiệp định Genève, đồng thời yêu cầu thực hiện nghiêm chỉnh các điều khoản của Hiệp định.

Ngay sau khi Hiệp định Genève được ký kết, một cuộc mít tinh hoành tráng với sự tham gia của 50.000 người đã diễn ra tại Sài Gòn - Chợ Lớn, thể hiện sự hoan nghênh thắng lợi của cuộc kháng chiến chống Pháp Người dân lao động, học sinh, sinh viên, trí thức, tiểu thương, công nhân và nông dân đã đồng loạt biểu tình, kêu gọi tự do dân chủ và yêu cầu hủy bỏ việc động viên quân đội Họ giương cao các khẩu hiệu đòi thi hành nghiêm chỉnh Hiệp định Genève, đánh dấu tiếng sấm đầu tiên tại trung tâm chính trị lớn nhất miền Nam, báo hiệu sự khởi đầu của một giai đoạn đấu tranh chính trị mới.

Vào tháng 7 và tháng 8 năm 1955, nhân dân các tỉnh miền Trung như Quảng Nam, Quảng Ngãi, Bình Định, Phú Yên, Khánh Hòa, Bình Thuận và Ninh Thuận đã tổ chức biểu tình và gửi kiến nghị lên Ủy ban Quốc tế, yêu cầu thực hiện Hiệp thương và Tổng tuyển cử Tuy nhiên, chính quyền Diệm kiên quyết từ chối các yêu cầu này, tập trung vào việc đàn áp các lực lượng cách mạng và quần chúng yêu nước Chính quyền đã thực hiện chiến dịch "tố Cộng" như một quốc sách, dẫn đến hàng vạn người bị giết hại, bắt bớ và cầm tù, nhưng không thể ngăn cản phong trào đấu tranh của nhân dân đang diễn ra mạnh mẽ trên khắp miền Trung.

Các phong trào đấu tranh chống lại đàn áp và khủng bố, cùng với yêu cầu về tự do dân chủ và hòa bình thống nhất đất nước, đã diễn ra mạnh mẽ và rộng rãi, từ nông thôn đến thành phố, thu hút sự tham gia của nhiều tầng lớp nhân dân, bao gồm nông dân, công nhân, tiểu tư sản, trí thức và các thành phần tôn giáo Đặc biệt, cuộc bãi công của 3.000 người là một sự kiện quan trọng trong phong trào này.

Vào tháng 10 năm 1955, 24 công nhân tại xưởng đóng tàu Ba Son đã tham gia vào phong trào đấu tranh, trong khi đến tháng 11 năm 1995, con số này đã tăng lên tới 40.000 công nhân từ các đồn điền cao su Phong trào đấu tranh của giai cấp công nhân ngày càng phát triển mạnh mẽ và lan rộng ra nhiều xí nghiệp, công xưởng khác.

Cuối năm 1956, phong trào đấu tranh cách mạng ở miền Nam Việt Nam đã có sự phát triển mới, không chỉ tập trung vào các cuộc đấu tranh chính trị mà còn xuất hiện hình thức vũ trang tuyên truyền và tự vệ Sự ra đời của các đơn vị vũ trang quy mô từ tiểu đội đến đại đội đã đánh dấu một bước tiến quan trọng trong cuộc kháng chiến.

PHONG TRÀO CÁCH MẠNG QUỐC GIA TRONG CHÍNH THỂ ĐỆ NHẤT VIỆT NAM CỘNG HÒA (1955-1963)

VAI TRÒ CỦA PHONG TRÀO CÁCH MẠNG QUỐC GIA TRONG CHÍNH THỂ ĐỆ NHẤT VIỆT NAM CỘNG HÒA (1955-1963)

Ngày đăng: 20/07/2021, 07:59

Nguồn tham khảo

Tài liệu tham khảo Loại Chi tiết
47. Đặng Phong (2007), Kinh tế miền Nam Việt Nam, Nxb. Khoa học Xã hội, Hà Nội Sách, tạp chí
Tiêu đề: Kinh tế miền Nam Việt Nam
Tác giả: Đặng Phong
Nhà XB: Nxb. Khoa học Xã hội
Năm: 2007
48. Lữ Phương (1985), Cuộc xâm lăng về văn hóa và tư tưởng của đế quốc Hoa Kỳ tại miền Nam Việt Nam, Nxb. Văn hóa Sách, tạp chí
Tiêu đề: Cuộc xâm lăng về văn hóa và tư tưởng của đế quốc Hoa Kỳ tại miền Nam Việt Nam
Tác giả: Lữ Phương
Nhà XB: Nxb. Văn hóa
Năm: 1985
49. Nông Huyền Sơn (2009), Cái chết của anh em nhà họ Ngô, Nxb. Công an nhân dân Sách, tạp chí
Tiêu đề: Cái chết của anh em nhà họ Ngô
Tác giả: Nông Huyền Sơn
Nhà XB: Nxb. Công an nhân dân
Năm: 2009
51. Đỗ Thọ (1970), Nhật ký Đỗ Thọ, Nxb Đồng Nai Sài Gòn Sách, tạp chí
Tiêu đề: Nhật ký Đỗ Thọ
Tác giả: Đỗ Thọ
Nhà XB: Nxb Đồng Nai Sài Gòn
Năm: 1970
52. Nguyễn Đình Tiên (1978), Chân dung tướng Ngụy Sài Gòn, Nxb. Quân đội nhân dân Sách, tạp chí
Tiêu đề: Chân dung tướng Ngụy Sài Gòn
Tác giả: Nguyễn Đình Tiên
Nhà XB: Nxb. Quân đội nhân dân
Năm: 1978
53. Trần Tam Tỉnh (1988), Thập giá và lưỡi gươm, Nxb. Trẻ Sách, tạp chí
Tiêu đề: Thập giá và lưỡi gươm
Tác giả: Trần Tam Tỉnh
Nhà XB: Nxb. Trẻ
Năm: 1988
54. Trần Trọng Trung (1987), Một cuộc chiến tranh sáu đời Tổng thống, Tập 2, NXB. Văn nghệ TP HCM Sách, tạp chí
Tiêu đề: Một cuộc chiến tranh sáu đời Tổng thống, Tập 2
Tác giả: Trần Trọng Trung
Nhà XB: NXB. Văn nghệ TP HCM
Năm: 1987
55. Nguyễn Huy Thục (2015), Sự cáo chung của chế độ Việt Nam Cộng hòa, Nxb Công an Nhân dân, TP.HCM Sách, tạp chí
Tiêu đề: Sự cáo chung của chế độ Việt Nam Cộng hòa
Tác giả: Nguyễn Huy Thục
Nhà XB: Nxb Công an Nhân dân
Năm: 2015
56. Nguyễn Khắc Viện (2008), Miền Nam Việt Nam từ sau Điện Biên Phủ (Diệu Bình dịch), Nxb. Trí Thức.Tài liệu Internet Sách, tạp chí
Tiêu đề: Miền Nam Việt Nam từ sau Điện Biên Phủ (Diệu Bình dịch)
Tác giả: Nguyễn Khắc Viện
Nhà XB: Nxb. Trí Thức. Tài liệu Internet
Năm: 2008
46. Nguyễn Khắc Ngữ (1979), Những ngày cuối cùng của Việt Nam Cộng hòa, Tủ sách nghiên cứu Sử- Địa Khác
50. Đoàn Thêm (1969), Những ngày chưa quên (1954 – 1963) Khác
57. Bách thƣ toàn khoa mở Wikipedia, Giáo dục Việt Nam Cộng hòa,vi.wikipedia.org, truy cập ngày 26/02/2017 Khác
59. Tìm hiểu Ngô Đình Nhu trong khía cạnh một nhà trí thức, nghiencuulichsu.com, truy cập ngày 27/02/2017 Khác
60. Đảng Cần lao Nhân vị- Chỗ dựa của chính quyền Ngô Đình Diệm, luutruvn.com, truy cập ngày 27/02/2017 Khác

TỪ KHÓA LIÊN QUAN

TÀI LIỆU CÙNG NGƯỜI DÙNG

TÀI LIỆU LIÊN QUAN

w