Mục tiêu đề tài
Đề tài hướng đến các mục tiêu:
Chính quyền Đệ nhất Việt Nam Cộng hòa được xây dựng trên những trụ cột chính trị - xã hội quan trọng, bao gồm phong trào cách mạng quốc gia, Đảng Cần Lao Nhân vị Cách mạng, và phong trào giáo dân Công giáo di cư Những trụ cột này không chỉ thể hiện sự đoàn kết trong xã hội mà còn góp phần định hình chính sách và chiến lược phát triển của chính quyền Tác động của các phong trào này đã tạo nên một nền tảng vững chắc cho sự phát triển và tồn tại của Đệ nhất Việt Nam Cộng hòa, đồng thời phản ánh những mối quan hệ phức tạp giữa các tầng lớp xã hội và chính trị trong thời kỳ đó.
- Nguồn tài liệu học tập và nghiên cứu dành cho các độc giả quan tâm đến chính quyền Đệ nhất Việt Nam cộng hòa.
3 Tính mới và sáng tạo:
Nghiên cứu một cách có hệ thống các trụ cột chính trị - xã hội của chính quyền Đệ nhất Việt Nam Cộng hòa nhằm làm rõ những yếu tố cấu thành và nền tảng cho sự tồn tại và phát triển của thể chế này Bài viết phục dựng bức tranh lịch sử toàn diện về các trụ cột chính trị và xã hội của Việt Nam Cộng hòa từ năm 1955 đến 1963.
Nghiên cứu về các trụ cột chính trị - xã hội của chính quyền đệ nhất Việt Nam Cộng hòa không chỉ hỗ trợ cho công tác nghiên cứu lịch sử miền Nam Việt Nam, mà còn làm phong phú thêm bức tranh kinh tế - xã hội trong thời kỳ Mỹ và tay sai thống trị Công trình này giúp lý giải một số vấn đề lịch sử dân tộc trong giai đoạn này, đồng thời cung cấp nguồn tài liệu quý giá cho nghiên cứu, giảng dạy và những ai quan tâm đến đề tài.
Bài viết này phân tích những ưu điểm và hạn chế trong việc xây dựng lực lượng chính trị và xã hội của chính quyền Đệ nhất Việt Nam Cộng hòa Qua việc nghiên cứu các trụ cột chính trị và xã hội, chúng ta có thể rút ra những bài học kinh nghiệm quý báu nhằm hoàn thiện quá trình xây dựng và phát triển lực lượng chính trị, xã hội cũng như các nền tảng chính trị cho tương lai.
- xã hội của nước ta trong giai đoạn hiện nay.
Thông qua việc nghiên cứu, đề tài làm rõ các vấn đề:
Chính quyền Đệ nhất Việt Nam Cộng hòa được thành lập trong bối cảnh lịch sử phức tạp, với sự hình thành từ những nỗ lực chính trị và xã hội của người dân miền Nam Phong trào đấu tranh chống Mỹ - Diệm ngày càng mạnh mẽ, phản ánh sự bất mãn của quần chúng trước chính sách đàn áp và tham nhũng của chính quyền Sự kết hợp giữa áp lực nội bộ và can thiệp từ bên ngoài đã dẫn đến sự sụp đổ của chính quyền này vào năm 1963, đánh dấu một bước ngoặt quan trọng trong lịch sử Việt Nam.
- Làm rõ những trụ cột chính trị- xã hội của chính quyền Ngô Đình Diệm
- Trình bày những tác động của các trụ cột chính trị- xã hội đối với chính quyền Đệ nhất Việt Nam cộng hòa.
- Nguồn tài liệu học tập và nghiên cứu dành cho các độc giả quan tâm đến chính quyền Đệ nhất Việt Nam Cộng hòa.
5 Đóng góp về mặt kinh tế - xã hội, giáo dục và đào tạo, an ninh, quốc phòng và khả năng áp dụng của đề tài:
Trong bối cảnh đổi mới đất nước dưới sự lãnh đạo của Đảng, việc xây dựng Đảng vững mạnh và đoàn kết dân tộc trở nên cấp thiết Các thế lực phản động ngày càng tinh vi trong việc lợi dụng tôn giáo để chống phá cách mạng Từ đề tài “Những trụ cột chính trị - xã hội của chính quyền Đệ nhất Việt Nam cộng hòa”, chúng ta rút ra bài học quan trọng về xây dựng Đảng và khối đại đoàn kết toàn dân Cần có những chính sách phù hợp với các dân tộc và tôn giáo, đặc biệt là đối với đồng bào có tôn giáo và tín ngưỡng, nhằm giữ vững ổn định đất nước, góp phần xây dựng một Việt Nam giàu mạnh và bảo vệ thành quả cách mạng.
Công bố khoa học của sinh viên từ kết quả nghiên cứu đề tài cần ghi rõ họ tên tác giả, nhan đề và các yếu tố xuất bản nếu có Ngoài ra, nếu có, cũng nên đưa ra nhận xét và đánh giá từ cơ sở đã áp dụng các kết quả nghiên cứu.
Sinh viên chịu trách nhiệm chính thực hiện đề tài
TRƯỜNG: ĐẠI HỌC THỦ DẦU MỘT Đơn vị: KHOA SỬ
THÔNG TIN VỀ SINH VIÊN CHỊU TRÁCH NHIỆM CHÍNH THỰC HIỆN ĐỀ TÀI
I SƠ LƯỢC VỀ SINH VIÊN:
Họ và tên: Chế Thị Kim Hằng
Khoa: Lịch Sử Địa chỉ liên hệ: Điện thoại: 0973054440 Email: chekimhang@gmail.com
II QUÁ TRÌNH HỌC TẬP (kê khai thành tích của sinh viên từ năm thứ 1 đến năm đang học):
Ngành học: Sư phạm Lịch Sử Khoa:Lịch Sử
Kết quả xếp loại học tập: Trung bình - Khá
Ngành học: Sư phạm Lịch sử Khoa: Lịch Sử
Kết quả xếp loại học tập: Khá
Ngành học: Sư phạm Lịch sử Khoa: Lịch Sử
Kết quả xếp loại học tập HK1: Khá
Xác nhận của lãnh đạo khoa
Sinh viên chịu trách nhiệm chính thực hiện đề tài
(ký, họ và tên) Ảnh 4x6
1 Lý do chọn đề tài 6
3 Đối tượng, phạm vi nghiên cứu 7
5 Lịch sử nghiên cứu vấn đề 8
KHÁI QUÁT CHẾ ĐỘ ĐỆ NHẤT VIỆT NAM CỘNG HÒA 10
1.1 Quá trình xác lập của Đệ Nhất Việt Nam Cộng hòa 10
1.1.1 Hoa Kỳ thế chân Pháp ở miền Nam Việt Nam 10
1.1.2 Ngô Đình Diệm phế truất Bảo Đại 12
1.2 Khủng hoảng chính trị và sự sụp đổ của chính quyền Đệ Nhất Việt Nam Cộng hòa 1955-1963 13
1.2.1 Nhân dân miền Nam đấu tranh chống Mỹ - Diệm 13
1.2.2 Chính quyền Việt Nam Cộng hòa đối phó với mâu thuẫn nội bộ 17
1.2.3 Chính quyền Việt Nam Cộng hòa sụp đổ năm 1963 18
NHỮNG TRỤ CỘT CHÍNH TRỊ - XÃ HỘI CỦA CHÍNH QUYỀN ĐỆ NHẤT VIỆT
2.1 Cần Lao Nhân Vị Cách Mạng Đảng 22
2.1.1 Quá trình thành lập Đảng Cần Lao Nhân Vị 22
2.1.2 Cương lĩnh của Đảng Cần Lao Nhân Vị 24
2.1.3 Cơ cấu tổ chức của Đảng Cần Lao Nhân Vị 25
2.1.4 Quá trình hoạt động của Đảng Cần Lao Nhân Vị 26
2.2 Phong trào Cách mạng quốc gia 28
2.2.1 Sự thành lập của Phong trào Cách mạng Quốc gia 28
2.2.2 Cơ cấu tổ chức Phong trào Cách mạng Quốc gia 29
2.2.3 Hoạt động của Phong trào Cách mạng Quốc gia 31
2.3 Lực lượng giáo dân công giáo di cư 32
2.3.1 Nguyên nhân giáo dân công giáo di cư 32
2.3.2 Tổ chức định cư lực lượng giáo dân công giáo di cư 36
2.3.3 Vài con số về cuộc di cư 38
2.3.4 Lực lượng giáo dân trong hệ thống chính quyền 39
CHƯƠNG 3 41 ĐÁNH GIÁ VỀ NHỮNG TRỤ CỘT CHÍNH TRỊ - XÃ HỘI CỦA CHÍNH QUYỀN ĐỆ NHẤT VIỆT NAM CỘNG HÒA 41
3.1 Tác động của Cần lao Nhân vị Đảng đối với chính quyền đệ nhất Việt Nam Cộng hòa 41
3.2 Tác động của phong trào Cách mạng Quốc gia đối với chính quyền đệ nhất
3.3 Ảnh hưởng của giáo dân Công giáo di cư đối với chính quyền đệ nhất Việt
Đề tài nghiên cứu về giai đoạn 21 năm dưới chế độ thực dân mới của đế quốc Mỹ là rất quan trọng, bởi đây là thời kỳ lịch sử đầy biến động chính trị và thay đổi lớn trong xã hội Việt Nam Giai đoạn này đã tạo ra nhiều vấn đề nghiên cứu cho các nhà khoa học, đặc biệt là trong lĩnh vực lịch sử Mặc dù đã có nhiều nỗ lực từ các nhà sử học trong và ngoài nước để làm sáng tỏ các khía cạnh phức tạp của thời kỳ này, vẫn còn tồn tại những khoảng trống và vấn đề cần được nghiên cứu và đánh giá lại.
Chế độ Việt Nam Cộng hòa, cùng với các chính sách của Mỹ và chính quyền tay sai, đã gây ra nhiều tác động đến kinh tế - xã hội ở miền Nam Việt Nam Mặc dù chính quyền Việt Nam Cộng hòa tuyên bố rằng các chính sách của họ nhằm phục vụ lợi ích của người dân miền Nam, thực tế lại cho thấy những chính sách này xuất phát từ mưu đồ chính trị và là một phần của chính sách thực dân mới của Mỹ, với chế độ Việt Nam Cộng hòa đóng vai trò là công cụ thống trị dân tộc.
Trong suốt thời gian tồn tại mà không có sự hỗ trợ từ Hoa Kỳ, chính quyền Đệ nhất Việt Nam Cộng hòa đã thiết lập những trụ cột vững chắc để duy trì quyền lực tại miền Nam Việt Nam Quá trình hoạt động của chính thể này phản ánh sự phát huy vai trò của các trụ cột chính trị, quân sự và xã hội Vậy những trụ cột này là gì, và chúng được tổ chức cũng như vận hành dựa trên những nguyên tắc nào? Hơn nữa, chúng chịu ảnh hưởng từ những yếu tố nào và kết quả phát triển ra sao? Những câu hỏi này cần được nghiên cứu sâu sắc để hiểu rõ hơn về chính quyền Đệ nhất Việt Nam Cộng hòa.
Nghiên cứu về các trụ cột chính trị - xã hội của Đệ nhất Việt Nam Cộng hòa tập trung vào các thành tố cấu thành và hỗ trợ sự tồn tại của chế độ Trong suốt thời gian hoạt động, Giáo dân Công giáo di cư đã đóng vai trò quan trọng, trở thành lực lượng chính trị hỗ trợ cho chế độ, đồng thời được sử dụng trong bộ máy chính quyền để củng cố và bảo vệ chế độ Để thống nhất các lực lượng và kiểm soát các lĩnh vực, chính quyền Đệ nhất Việt Nam Cộng hòa đã thành lập Phong trào Cách mạng Quốc gia Bên cạnh đó, Ngô Đình Nhu cũng thành lập Cần lao Nhận vị Cách mạng Đảng nhằm thống nhất lãnh đạo và đối trọng với các giáo phái chính trị cũng như tổ chức xã hội khác Ba tổ chức này đã hoạt động với các mức độ ảnh hưởng khác nhau, trở thành chỗ dựa chính cho chế độ Đệ Nhất Việt Nam Cộng hòa.
Nghiên cứu về các trụ cột chính trị - xã hội của chính quyền Đệ nhất Việt Nam Cộng hòa không chỉ đóng góp vào việc hiểu biết lịch sử miền Nam Việt Nam mà còn làm phong phú thêm bức tranh kinh tế - xã hội trong thời kỳ đế quốc Mỹ và tay sai thống trị Công trình này giúp lý giải một số vấn đề lịch sử dân tộc, cung cấp tài liệu quý giá cho nghiên cứu và giảng dạy, đồng thời rút ra những ưu điểm và hạn chế trong việc xây dựng lực lượng chính trị và xã hội của chính quyền này Qua đó, bài viết cũng đề xuất những bài học kinh nghiệm cho việc hoàn thiện lực lượng chính trị - xã hội và nền tảng chính trị - xã hội của Việt Nam trong giai đoạn hiện nay.
Bài viết này nhằm phục dựng một cách hệ thống bức tranh lịch sử về các trụ cột chính trị và xã hội của chính quyền Việt Nam Cộng hòa trong giai đoạn 1955-1963 Tác giả sẽ phân tích và rút ra những bài học kinh nghiệm quý báu cho công tác xây dựng lực lượng chính trị và xã hội trong bối cảnh hiện nay.
Tác giả phân tích các trụ cột chính trị và xã hội của Việt Nam Cộng hòa trong giai đoạn 1955-1963, nhằm xác định vai trò và vị trí của hệ thống này đối với chính quyền Việt Nam Cộng hòa.
Phương pháp nghiên cứu
Phương pháp nghiên cứu tổng thể dựa trên nền tảng của Chủ nghĩa Mác-Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh, kết hợp với các quan điểm của Đảng Cộng sản Việt Nam, nhằm tạo ra một hệ thống lý luận toàn diện và sâu sắc.
Nam, Nhà nước Việt Nam về vấn đề chiến tranh và cách mạng, về vấn đề dân tộc và giai cấp.
Phương pháp nghiên cứu trong sử học mácxit kết hợp hai phương pháp cơ bản: phương pháp lịch sử và phương pháp logic Sự kết hợp này không chỉ hỗ trợ tái hiện và phân tích các vấn đề lịch sử mà còn giúp đánh giá mối quan hệ bản chất giữa chúng.
Đề tài áp dụng các phương pháp khoa học xã hội nhân văn như thống kê, so sánh và đối chiếu nhằm xác định các cứ liệu lịch sử, cũng như các vấn đề liên quan đến kinh tế, quân sự, chính trị, xã hội, giáo dục và pháp lý Bên cạnh đó, nó còn sử dụng các phương pháp liên ngành từ chính trị học và xã hội học để cung cấp cái nhìn toàn diện về các vấn đề này.
Lịch sử nghiên cứu vấn đề
Quá trình hình thành, tồn tại và sụp đổ của Chính quyền Đệ nhất Việt Nam Cộng hòa đã thu hút sự quan tâm lớn từ các học giả Sau khi nhà họ Ngô bị lật đổ, Đoàn Thêm đã có cơ hội chứng kiến nhiều sự kiện lịch sử quan trọng của chế độ này Những sự kiện này được ghi lại theo lối biên niên sử, mang lại nhiều dữ liệu gốc quý giá trong tác phẩm "Những ngày chưa quên" (1954 – 1963), xuất bản năm 1969.
Nông Huyền Sơn, trong tác phẩm "Cái chết của anh em nhà họ Ngô" (Nxb CAND, 2009), đã khéo léo phân tích cái chết của Ngô Đình Diệm và các nhân vật trong gia đình họ Ngô, đồng thời đặt họ vào bối cảnh chính sách của Mỹ Tác giả chỉ ra bản chất tay sai của chế độ Đệ nhất Cộng hòa, phục vụ cho chủ nghĩa thực dân mới của Hoa Kỳ.
Nguyễn Khắc Viện (2008) trong tác phẩm "Miền Nam Việt Nam từ sau Điện Biên Phủ" đã dành 452 trang để khám phá miền Nam Việt Nam từ năm 1954 đến 1963, từ góc nhìn của một nhà báo Tác phẩm mô tả chế độ Đệ nhất Cộng hòa thông qua các hoạt động kinh tế, văn hóa và xã hội, đồng thời phác họa sự đàn áp phong trào đấu tranh của nhân dân miền Nam Mục tiêu của tác giả là cung cấp cho độc giả “ý niệm một lối thoát khả dĩ cho một tình hình nguy hiểm ở miền Nam Việt Nam” Nhiều vấn đề trong tác phẩm mang tính thời sự, được nghiên cứu từ các nguồn tư liệu chủ yếu là báo chí và tạp chí xuất bản tại Pháp và một số quốc gia khác.
Trong giai đoạn 1954 – 1975, nhiều công trình nghiên cứu đã được thực hiện về cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nước của nhân dân miền Nam, đặc biệt là các vấn đề liên quan đến chế độ Việt Nam Cộng hòa Một số tác phẩm tiêu biểu bao gồm "Cách mạng ruộng đất ở miền Nam Việt Nam" của Lâm Quang Huyên, xuất bản năm 1985 bởi Nxb Khoa học Xã hội, và "Cuộc xâm lăng về văn hóa và tư tưởng của đế quốc Hoa Kỳ tại miền Nam Việt Nam" Những nghiên cứu này góp phần làm rõ hơn những diễn biến lịch sử và tác động của chế độ đối với đời sống xã hội miền Nam.
Văn hóa năm 1985 của Lữ Phương, cùng với "Một cuộc chiến tranh sáu đời tổng thống" của Trần Trọng Trung (Nxb Văn nghệ TP HCM, 1986) và "Lịch sử Việt Nam 1954-1965" do Viện sử học biên soạn (Nxb Khoa học Xã hội, Hà Nội 1995), đã cung cấp cái nhìn sâu sắc về cuộc kháng chiến chống Mỹ và những biến động lịch sử quan trọng của Việt Nam trong giai đoạn này.
Mỹ cứu nước: thắng lợi và bài học của Ban chỉ đạo Tổng kết chiến tranh, Nxb
CTQG, 1995; Phong trào Phật giáo miền Nam Việt Nam năm 1963 của Lê Cung,Nxb ĐHQG, Hà Nội, 1999; Phong trào đô thị Huế trong kháng chiến chống Hoa
Kỳ (1954 – 1975) của Lê Cung (2001), Kinh tế miền Nam Việt Nam thời kỳ 1955 – 1975 của Đặng Phong (2004), và Cuộc Đồng Khởi kỳ diệu ở miền Nam Việt Nam của Lê Hồng Lĩnh (2005) là những tác phẩm quan trọng, cung cấp cái nhìn sâu sắc về lịch sử và kinh tế miền Nam Việt Nam trong giai đoạn này Bên cạnh đó, cuốn Giải mã những bí ẩn của CIA, do tập thể nhiều tác giả biên soạn, giúp độc giả hiểu rõ hơn về các hoạt động của cơ quan tình báo Mỹ trong khu vực.
Ngoài các tác phẩm đã đề cập, còn tồn tại những ấn phẩm được phát hành trong thời kỳ Việt Nam Cộng hòa, bao gồm hai bộ sách Thành tích hoạt động của chính phủ VNCH và Kỷ niệm các năm chu niên của Tổng thống Ngô Đình Diệm, được xuất bản từ năm 1954 đến 1967 Bên cạnh đó, Tổ chức hành chính và các cơ quan chính quyền cũng được Tổng nha Ngân sách và Ngoại viện Phủ Tổng thống VNCH phát hành.
1962; Vấn đề địa phương phân quyền trong tổ chức hành chánh các đô thị tại Việt
Quách Tòng Đức (1960) và các tác phẩm về Đảng Cần lao Nhân vị như "Nhân vị chủ nghĩa" của Phạm Xuân Cầu (1958) và "Xây dựng nhân vị" của Bùi Tuân (1956) đóng góp quan trọng vào tư tưởng nhân vị tại Việt Nam Ngoài ra, "Lịch sử Việt Nam hiện kim (1945 – 1956)" của Phạm Xuân Hòa, xuất bản tại Sài Gòn năm 1957, cũng là một tài liệu đáng chú ý về giai đoạn lịch sử này.
Một số tác phẩm hồi ký của cựu nhân viên và tướng tá chế độ Sài Gòn trước và sau năm 1975, như "Đỗ Thọ" (1970) và "Hồi ký Hoàng Linh Đỗ Mậu" (2001), mang lại giá trị nhất định Mặc dù các tác phẩm này được viết từ lập trường chống Cộng, nhưng Đỗ Mậu, với vai trò Giám đốc An ninh Quân đội của chế độ Diệm, có khả năng hiểu sâu sắc về chế độ, từ đó cung cấp cái nhìn thực tiễn và lý giải nguyên nhân thất bại của chế độ Diệm.
Các nghiên cứu về đệ nhất Việt Nam Cộng hòa rất phong phú và đa dạng, nhưng chưa có công trình nào đề cập trực tiếp đến các trụ cột chính trị và xã hội của chính quyền này Những công trình của các học giả trước đó là nguồn tư liệu quý giá, từ đó nhóm tác giả kế thừa và phát triển đề tài của mình.
Nguồn tài liệu
- Tài liệu đã xuất bản: bao gồm các công trình nghiên cứu đã được xuất bản trong nước và địa phương.
- Tài liệu lưu trữ: hồ sơ lưu trữ tại Trung tâm lưu trữ Quốc gia II.
Bố cục đề tài
Ngoài phần mở đầu, kết luận, tài liệu tham khảo, phụ lục, đề tài được chia thành 3 chương:
- Chương 1: Khái quát về chế độ Đệ nhất Việt Nam Cộng hòa
- Chương 2: Những trụ cột về chính trị - xã hội của chính quyền Đệ nhất Việt Nam Cộng hòa
- Chương 3: Đánh giá về những trụ cột chính trị - xã hội của chính quyền Đệ nhất Việt Nam Cộng hòa
Quá trình xác lập của Đệ Nhất Việt Nam Cộng hòa
1.1.1 Hoa Kỳ thế chân Pháp ở miền Nam Việt Nam
Ngày 8-5-1954, một ngày sau khi quân Pháp thất bại ở Điện Biên Phủ, Hội nghị Giơnevơ về chấm dứt chiến tranh Đông Dương khai mạc Phái đoàn Hoa Kỳ có mặt tại Giơnevơ, nhưng chỉ tập trung giải quyết vấn đề Triều Tiên Đối với vấn đề Đông Dương, Bộ trưởng Ngoại giao Hoa Kỳ Dulles tuyên bố: “Tốt nhất là để người Pháp rút ra, sau đó chúng ta sẽ lập một nền tảng mới”[3; 103].
Vào tháng 6 năm 1954, Hoa Kỳ đã sử dụng viện trợ để gây áp lực lên Pháp và Bảo Đại, nhằm đưa Ngô Đình Diệm, người đang sống lưu vong, trở về nước và đảm nhận vị trí Thủ tướng Quốc gia Việt Nam.
Ngô Đình Diệm, sinh năm 1901 tại Quảng Bình trong một gia đình theo Công giáo, là con trai của Ngô Đình Khả và là anh của Ngô Đình Khôi, cả hai đều là quan chức dưới triều đình Huế trong thời kỳ thực dân Pháp Trước khi trở thành chính trị gia, ông từng làm quan và tham gia đàn áp các phong trào yêu nước Năm 1933, ở tuổi 32, Ngô Đình Diệm được bổ nhiệm làm Thượng thư Bộ lại.
Cơ mật Viện đại thần đã chứng kiến sự mâu thuẫn giữa Ngô Đình Diệm và Phạm Quỳnh, trong khi Toàn quyền Pháp Pierre Pasquier ủng hộ Phạm Quỳnh, khiến Ngô Đình Diệm cảm thấy bất mãn và từ chức Khi quân Nhật xâm lược Việt Nam vào năm 1940, Ngô Đình Diệm đã chuyển sang ủng hộ Nhật Bản và tôn Cường Để, đang sống lưu vong tại Nhật Bản, làm minh chủ Mặc dù Pháp định bắt Ngô Đình Diệm, nhưng Nhật Bản đã bảo vệ ông, đưa ông về Sài Gòn trước khi lánh nạn tại Singapore và Bangkok.
Sau chiến tranh thế giới thứ II, Hoa Kỳ tập trung vào việc đối phó với chủ nghĩa Cộng sản và phong trào giải phóng dân tộc toàn cầu Để hỗ trợ Pháp tái chiếm Đông Dương, Hoa Kỳ đã ủng hộ Bảo Đại nhưng cũng tìm kiếm một nhân vật tiềm năng cho tương lai, đó là Ngô Đình Diệm Qua Hồng y Francis Joseph Spellman, CIA đã chọn Ngô Đình Diệm và vào năm 1950, ông sang Mỹ với lý do tham dự Năm Thánh Trên đường đi, ông đã gặp tiến sĩ Wesley R Fishel, một nhân viên CIA, tại Tokyo Tại Mỹ, Spellman đã giúp đỡ Ngô Đình Diệm về nơi ở, trong khi Fishel đã đào tạo ông thành một chính khách tương lai.
Tháng 6-1954, trước viễn cảnh Việt Nam sẽ tạm thời chia thành hai vùng tập kết quân, Hoa Kỳ lợi dụng lúc Pháp đang rơi vào tình trạng khủng hoảng nội các (chính phủ của thủ tướng Laniel bị đổ ngày 12-6, trong lúc Pierre Mèndes France mãi tới 19-6 mới lập xong chính phủ mới), gây sức ép với Pháp, buộc Bảo Đại phải bổ nhiệm Ngô Đình Diệm làm Thủ tướng thay Bửu Lộc Ngày 16-6, Bảo Đại lấy tư cách là Quốc trưởng Quốc gia Việt Nam, ký sắc lệnh số 38-QT bổ nhiệm Ngô Đình Diệm làm Thủ tướng [14] Ba ngày sau, Bảo Đại ký tiếp Dụ số 15 trao cho Ngô Đình Diệm toàn quyền cả về dân sự lẫn quân sự [14]
Ngô Đình Diệm trở về Sài Gòn vào ngày 25-6 và thành lập chính phủ vào ngày 6-7, đánh dấu một thắng lợi quan trọng của Hoa Kỳ trong việc loại bỏ Pháp và các đồng minh của họ ở miền Nam Tuy nhiên, thắng lợi này chưa hoàn toàn, vì quân đội và cảnh sát miền Nam vẫn nằm dưới sự kiểm soát của các thế lực thân Pháp.
Pháp thực hiện "Kế hoạch Navarre" nhằm thu hút thêm viện trợ từ Hoa Kỳ nhưng vẫn tham gia Hội nghị Giơnevơ từ ngày 8 tháng 5 năm 1954 để thảo luận về việc kết thúc chiến tranh Mặc dù Hoa Kỳ có thái độ tiêu cực, vào ngày 21 tháng 7 năm 1954, Hiệp định Giơnevơ về đình chỉ chiến sự ở Việt Nam đã được ký kết sau 8 phiên họp toàn thể và 23 phiên họp kín Tuyên bố cuối cùng của Hội nghị Giơnevơ khẳng định rằng mục tiêu chính của Hiệp định là giải quyết các vấn đề quân sự để ngừng chiến sự, xác định một đường giới tuyến quân sự tạm thời, không thể coi là ranh giới chính trị hay lãnh thổ, đồng thời cam kết tôn trọng chủ quyền và toàn vẹn lãnh thổ của các nước tham gia.
Hiệp định Giơnevơ đã quy định rằng một cuộc tổng tuyển cử sẽ diễn ra sau hai năm nhằm thống nhất Việt Nam, và cuộc bầu cử này được dự đoán sẽ mang lại thắng lợi cho chính phủ Việt Nam Dân chủ Cộng hòa.
Hiệp định quy định hai bên tham chiến thực hiện ngừng bắn, lấy vĩ tuyến 17 làm ranh giới quân sự tạm thời Lực lượng cách mạng sẽ chuyển quân ra miền Bắc, trong khi miền Nam Việt Nam sẽ được giao cho chính quyền do Pháp dựng lên Cùng ngày, trưởng đoàn đại biểu các nước tham dự Hội nghị Giơnevơ đã thông qua tuyên bố cuối cùng Tuy nhiên, W.B Smith, theo chỉ thị của chính phủ Mỹ, đã tuyên bố rằng “chính phủ (Mỹ) không sẵn sàng tham gia vào bản Tuyên bố của hội nghị” và đưa ra một bản tuyên bố đơn phương.
Mỹ cho rằng Hiệp định Giơnevơ không chỉ không thực hiện được “chính sách ngăn chặn cộng sản” mà còn giao miền Bắc cho chính phủ Việt Nam Dân Chủ Cộng hòa và sẽ giao miền Nam sau hai năm Do đó, Hoa Kỳ quyết định loại bỏ Pháp khỏi miền Nam và can thiệp trực tiếp để ngăn chặn việc thi hành Hiệp định, đặc biệt là không cho tổng tuyển cử diễn ra, nhằm thiết lập một chế độ thân Mỹ tại miền Nam Việt Nam Để hợp pháp hóa sự hiện diện của mình, Ngô Đình Diệm yêu cầu Hoa Kỳ hỗ trợ trực tiếp, không thông qua Pháp, qua đó Hoa Kỳ đã “nhảy” vào miền Nam với danh nghĩa giúp đỡ đồng minh, che đậy âm mưu xâm lược khu vực này.
Hoa Kỳ đã gấp rút đầu tư cho Ngô Đình Diệm nhằm xây dựng một chính quyền có khả năng thực hiện hiệu quả các mục tiêu của Mỹ tại miền Nam Việt Nam Để đạt được điều này, Mỹ đã hỗ trợ Diệm loại bỏ các nhân vật và lực lượng thân Pháp, bao gồm việc cách chức Nguyễn Văn Hinh, Tổng Tham mưu quân đội Quốc gia Việt Nam, và Lại Văn Sang, Tổng giám đốc Công an – Cảnh sát Đồng thời, Mỹ đã giúp Diệm đánh bật Bình Xuyên khỏi Sài Gòn – Chợ Lớn, cũng như giải quyết mối đối đầu với các giáo phái vũ trang thân Pháp như Cao Đài Tây Ninh và Hòa Hảo, vốn liên kết với nhóm Bình Xuyên và các đảng phái như Đảng Đại Việt, Việt Nam Quốc Dân Đảng, và Đảng tự do dân chủ, dưới danh nghĩa Mặt trận thống nhất toàn lực quốc gia.
1.1.2 Ngô Đình Diệm phế truất Bảo Đại
Sau khi thanh toán thế lực Pháp tại miền Nam Việt Nam, Quốc trưởng Bảo Đại trở thành vật cản cuối cùng đại diện cho quyền lực này Được Hoa Kỳ đặt ra trong kế hoạch của Ngô Đình Diệm, vào năm 1955, Diệm đã giải quyết các phe phái đối lập và bắt tay vào việc phế truất Bảo Đại Hành động này được Hoa Kỳ tính toán từ năm 1954 thông qua một cuộc “trưng cầu dân ý” gian lận.
Ngày 15-2-1955, Ngô Đình Diệm ban hành Dụ số 11 “Thiết lập Quốc hội lâm thời cho nước Việt Nam”, chính thức xác lập ở miền Nam Việt Nam “một quốc gia riêng biệt” – hành động vi phạm trắng trợn và ngang nhiên Hiệp định Giơnevơ. Ngay sau khi thành lập, Quốc hội lâm thời thống nhất phế truất Bảo Đại và suy tôn
Vào ngày 29-4-1955, Bảo Đại từ Pháp đã gửi điện văn triệu tập Ngô Đình Diệm nhằm mục đích truất ngôi ông Tuy nhiên, Ngô Đình Diệm đã phản ứng bằng cách triệu tập Hội đồng nội các để bác bỏ điện văn này Tiếp theo, ông tổ chức một phiên họp bất thường dưới danh nghĩa “Đại hội các lực lượng quốc gia” để đề xuất phế truất Bảo Đại và thành lập “Hội đồng Nhân dân Cách mạng” nhằm khởi xướng phong trào nhân dân lật đổ Bảo Đại.
Khủng hoảng chính trị và sự sụp đổ của chính quyền Đệ Nhất Việt Nam Cộng hòa 1955-1963
1.2.1 Nhân dân miền Nam đấu tranh chống Mỹ - Diệm
Trước hành động phá hoại Hiệp định Giơnevơ của Mỹ - Diệm, nhân dân miền Nam kiên quyết bảo vệ thành quả cách mạng, đồng loạt đứng lên đấu tranh vì hòa bình và yêu cầu chính quyền Ngô Đình Diệm thực hiện nghiêm túc Hiệp định Giơnevơ, tiến hành tổng tuyển cử thống nhất đất nước Ngay tại Sài Gòn - Chợ Lớn, chỉ 10 ngày sau khi Hiệp định Giơnevơ được ký kết, 50.000 người đã xuống đường biểu tình, đánh dấu sự khởi đầu của phong trào đấu tranh chính trị rộng khắp ở miền Nam.
Khoảng 25.000 người dân Đà Nẵng và 15.000 người dân Huế đã tham gia biểu tình yêu cầu Ngô Đình Diệm thi hành Hiệp định Giơnevơ, phản đối việc bắt lính và đòi thả tù chính trị Phong trào đấu tranh này đã lan rộng ra khắp các làng mạc nông thôn, với các khẩu hiệu kêu gọi hòa bình và thực thi các điều khoản của Hiệp định Giơnevơ Tại các đồn điền, công nhân cũng tổ chức bãi công và đình công để phản đối chính quyền Ngô Đình Diệm vì đã phá hoại Hiệp định Giơnevơ.
Từ tháng 7 năm 1955, phong trào đấu tranh chính trị ở miền Nam Việt Nam bùng nổ mạnh mẽ, đặc biệt khi chính phủ Việt Nam Dân chủ Cộng hòa liên tục gửi công hàm yêu cầu chính quyền miền Nam thực hiện nghiêm túc Hiệp định Giơnevơ và sẵn sàng hiệp thương thống nhất đất nước Tại miền Trung, người dân các tỉnh như Quảng Nam, Quảng Ngãi, Bình Định, Phú Yên, và Khánh Hòa đã tổ chức nhiều cuộc biểu tình và gửi kiến nghị lên Ủy ban quốc tế kiểm soát đình chiến, yêu cầu chính quyền Ngô Đình Diệm thi hành Hiệp định Giơnevơ.
Giữa năm 1955, chính quyền Ngô Đình Diệm, được sự hỗ trợ của Mỹ, tiếp tục đàn áp các lực lượng cách mạng và quần chúng yêu nước, thực hiện chiến dịch “Tố Cộng” như một quốc sách Hàng vạn người đã bị giết hại, bắt bớ và cầm tù, nhưng phong trào đấu tranh vẫn không ngừng lan rộng Chiến dịch này gặp phải sự phản đối mạnh mẽ từ nhiều tầng lớp nhân dân, bao gồm cả công chức, những người đã chất vấn chính quyền trong các cuộc họp Tình hình này khiến chính quyền Ngô Đình Diệm rơi vào thế lúng túng, dẫn đến câu nói nổi tiếng: “Giới công chức ăn cơm quốc gia nhưng thờ ma Cộng sản.”
Mặc dù Phạm Công Tắc phải chạy sang Campuchia và nhiều chức sắc Cao Đài cùng Hòa Hảo bị bắt, nhưng chính quyền Ngô Đình Diệm vẫn không thể dập tắt sự chống đối của giáo phái này.
Trong cộng đồng Công giáo, sự phản đối chính quyền đã trở nên mạnh mẽ, với linh mục Hồ Văn Vui từ Sài Gòn vào ngày 10-2-1957 lên tiếng rằng người Công giáo Việt Nam đang bị đàn áp tương tự như thời kỳ đầu của Thiên Chúa giáo, bất kể có tội hay không Các trường Tư thục Công giáo bị kiểm soát chặt chẽ, và nhiều cuộc biểu tình của người di cư, cũng như nông dân nghèo tại các Dinh điền, đã diễn ra với quy mô ngày càng lớn Họ lên án chính quyền vì đã bỏ rơi họ trong cảnh khốn khó, cho rằng những lời hứa về cuộc sống tốt đẹp chỉ là hứa hão.
Chính quyền Ngô Đình Diệm đã đối mặt với sự phản đối mạnh mẽ từ cộng đồng Hoa kiều khi ban hành Sắc lệnh yêu cầu họ từ bỏ quốc tịch để nhập quốc tịch Việt Nam Cộng hòa và cấm họ tham gia vào nhiều lĩnh vực kinh tế Trước sự bất công này, Hoa kiều không thể đấu tranh trực tiếp mà đã nhờ chính quyền Đài Loan can thiệp, cảnh báo về những hậu quả nghiêm trọng có thể xảy ra Họ cũng đã rút tiền khỏi các ngân hàng và tẩy chay hàng hóa của Việt Nam Cộng hòa tại Hương Cảng và Singapore.
Cuối năm 1956, phong trào cách mạng ở miền Nam Việt Nam bước sang giai đoạn mới với sự phát triển mạnh mẽ Đấu tranh không chỉ giới hạn trong lĩnh vực chính trị mà còn mở rộng sang hình thức vũ trang, bao gồm cả tuyên truyền và tự vệ, dẫn đến sự hình thành các đơn vị vũ trang từ tiểu đội đến đại đội.
Các phong trào đấu tranh chống lại sự đàn áp và khủng bố, cũng như yêu cầu tự do dân chủ và hòa bình thống nhất đất nước, đã diễn ra mạnh mẽ và lan rộng từ nông thôn đến thành phố Sự tham gia đông đảo của các tầng lớp nhân dân, bao gồm công nhân, nông dân, tiểu tư sản, trí thức và các thành phần tôn giáo, thể hiện sự đoàn kết và quyết tâm của toàn xã hội trong cuộc chiến vì quyền lợi và tự do.
Từ cuối năm 1957, sự câm phẫn của nhân dân miền Nam đã chuyển từ đấu tranh chính trị sang hình thành các căn cứ, làng chiến đấu và đơn vị vũ trang, với hơn 30 đại đội vũ trang được xây dựng Các chiến khu như D, U Minh, Đồng Tháp Mười và Tây Nguyên trở lại hoạt động, thúc đẩy các hoạt động vũ trang và tuyên truyền chống lại chính quyền Ngô Đình Diệm Giai đoạn 1956-1958, mặc dù được coi là ổn định nhất của chế độ Diệm, nhưng lại chứng kiến sự gia tăng mạnh mẽ của phong trào cách mạng Đặc biệt, từ năm 1959, phong trào nổi dậy công khai chống chính quyền Diệm đã diễn ra ở một số tỉnh miền Trung, với các cuộc nổi dậy của dân chúng tại huyện Vĩnh Hạnh và Bắc Ái Để đối phó với sự phát triển này, Ngô Đình Diệm đã ban hành Luật 10/59, áp dụng chính sách khắc nghiệt nhằm tiêu diệt phong trào cách mạng miền Nam.
Vào ngày 3-1-1959, dưới sự chủ trì của Hồ Chí Minh, Ban Chấp hành Trung ương Đảng Lao động Việt Nam đã tổ chức Hội nghị lần thứ 15, đưa ra nghị quyết về cách mạng miền Nam Nghị quyết xác định nhiệm vụ chính là giải phóng miền Nam khỏi ách thống trị của đế quốc và phong kiến, thực hiện độc lập dân tộc và quyền lợi của người nông dân, hoàn thành cách mạng dân tộc dân chủ, và xây dựng một Việt Nam hòa bình, thống nhất, độc lập, dân chủ và giàu mạnh Đồng thời, con đường phát triển cơ bản của cách mạng miền Nam được xác định là khởi nghĩa giành chính quyền về tay nhân dân, dựa vào lực lượng chính trị quần chúng kết hợp với lực lượng vũ trang để lật đổ chính quyền đế quốc và phong kiến, thiết lập chính quyền cách mạng của nhân dân.
Nghị quyết 15 ra đời nhằm đáp ứng nhu cầu cấp bách của cách mạng và nguyện vọng của cán bộ, đồng bào miền Nam Với đường lối và mục tiêu đúng đắn, nghị quyết đã tạo ra bước chuyển mạnh mẽ cho phong trào cách mạng miền Nam, chuyển từ thế giữ gìn lực lượng sang thế tiến công, phát triển phong trào đấu tranh của nhân dân miền Nam thành những cuộc khởi nghĩa từng phần để giành chính quyền.
Cuộc khởi nghĩa Đồng Khởi bắt đầu từ các cuộc tấn công vào chính quyền Sài Gòn tại Trà Bồng (Quảng Ngãi) vào ngày 28-8-1959, cùng với sự nổi dậy của các huyện Ba Tơ và Sơn Hà Khi chính quyền Ngô Đình Diệm đang đối phó với tình hình miền Trung, phong trào Đồng Khởi bùng nổ tại Bến Tre vào tháng 1-1960 và nhanh chóng lan rộng ra toàn Đông Nam bộ, tạo thành một phong trào mạnh mẽ ở miền Nam Qua phong trào này, lực lượng cách mạng ngày càng lớn mạnh, dẫn đến sự ra đời của Mặt trận Dân tộc giải phóng miền Nam Việt Nam vào ngày 20-12-1960, nhằm lãnh đạo nhân dân miền Nam chống lại Mỹ - Diệm Ngày 15-2-1961, Quân giải phóng miền Nam Việt Nam được tái thành lập, làm đảo lộn chiến lược của chính quyền Việt Nam Cộng hòa trong bối cảnh ổn định nhất sau 5 năm Cuộc Đồng Khởi đã đặt ra nguy cơ thất bại cho chính sách thực dân mới của Mỹ, trong khi quân dân miền Nam thực hiện các cuộc tấn công trên cả ba mặt trận theo chủ trương của Trung ương Cục miền Nam.
Vào tháng 2 năm 1962, trước những diễn biến phức tạp tại miền Nam Việt Nam, Tổng thống Kennedy đã cử em trai Robert Kennedy, Bộ trưởng Bộ Tư pháp Hoa Kỳ, đến Sài Gòn để khảo sát tình hình Sau chuyến thăm này, chính quyền Hoa Kỳ đã thể hiện quyết tâm mạnh mẽ trong việc can thiệp vào tình hình tại miền Nam.
Năm 1962 được coi là năm bản lề của kế hoạch Stayley – Taylor, với việc tăng cường hoạt động quân sự nhằm giành lại quyền chủ động chiến lược trên chiến trường Sự gia tăng hoạt động của Hoa Kỳ và chính quyền Ngô Đình Diệm trong nửa đầu năm 1962 đã gây ra nhiều khó khăn cho phong trào cách mạng.