1. Trang chủ
  2. » Luận Văn - Báo Cáo

Khóa luận phân tích liên quan giữa gamma glutamyl transferase với một số chỉ số sinh hóa và lâm sàng ở bệnh nhân gút khám và điều trị tại bệnh viện e

56 7 0

Đang tải... (xem toàn văn)

Tài liệu hạn chế xem trước, để xem đầy đủ mời bạn chọn Tải xuống

THÔNG TIN TÀI LIỆU

Thông tin cơ bản

Tiêu đề Phân Tích Liên Quan Giữa Gamma Glutamyl Transferase Với Một Số Chỉ Số Sinh Hóa Và Lâm Sàng Ở Bệnh Nhân Gút Khám Và Điều Trị Tại Bệnh Viện E
Tác giả Nguyễn Thế Thanh
Người hướng dẫn TS. Mai Thị Minh Tâm
Trường học Đại học Quốc gia Hà Nội
Chuyên ngành Y Đa Khoa
Thể loại Khóa luận tốt nghiệp
Năm xuất bản 2018
Thành phố Hà Nội
Định dạng
Số trang 56
Dung lượng 1,88 MB

Cấu trúc

  • 1.1. Bệnh gút và tăng acid uric máu (11)
    • 1.1.1. Bệnh gút (11)
    • 1.1.2. Tăng acid uric máu (14)
  • 1.2. Gamma-GT (16)
    • 1.2.1. Khái niệm (16)
    • 1.2.2. Nguyên nhân tăng gamma-GT (16)
  • 1.4. Tình hình nghiên cứu ở Việt Nam và trên thế giới (0)
    • 1.4.1. Trên thế giới (0)
    • 1.4.2. Tại Việt Nam (0)
  • CHƯƠNG 2. ĐỐI TƯỢNG VÀ PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU (19)
    • 2.1. Đối tượng nghiên cứu (19)
      • 2.1.1. Tiêu chuẩn lựa chọn (19)
      • 2.1.2. Tiêu chuẩn loại trừ (19)
      • 2.1.3. Thời gian nghiên cứu (19)
    • 2.2. Phương pháp nghiên cứu (19)
      • 2.2.1. Thiết kế nghiên cứu (19)
      • 2.2.2. Kỹ thuật chọn mẫu (19)
      • 2.2.3. Nội dung nghiên cứu (21)
      • 2.2.4. Phương pháp thu thập số liệu (23)
      • 2.2.5. Xử lý và phân tích số liệu (23)
      • 2.2.6. Đạo đức trong nghiên cứu (23)
  • CHƯƠNG 3: KẾT QUẢ (24)
    • 3.1. Đặc điểm lâm sàng của 2 nhóm bệnh nhân gút (24)
    • 3.2. Đặc điểm cận lâm sàng (29)
  • CHƯƠNG 4. BÀN LUẬN (39)
    • 4.1. Đặc điểm chung (39)
    • 4.2 Đặc điểm bệnh nhân gút tăng GGT (40)
    • 4.3. Mối liên quan giữa GGT và một số chỉ số sinh hóa máu và lâm sàng (45)
  • KẾT LUẬN (20)

Nội dung

Bệnh gút và tăng acid uric máu

Bệnh gút

Bệnh gút là một loại viêm khớp do sự lắng đọng của các tinh thể urat (Monodium urat - MSU) trong dịch khớp hoặc mô Thời gian từ đợt gút cấp đầu tiên đến khi bệnh phát triển thành gút mạn tính có thể kéo dài từ 3 đến 42 năm, với thời gian trung bình là 11,6 năm.

Bệnh gút là một căn bệnh phổ biến ở các nước phát triển, ảnh hưởng đến khoảng 0,02-0,2% dân số Theo Khảo sát Sức khoẻ và Dinh dưỡng Quốc gia lần thứ ba (NHANES-III), tỷ lệ mắc bệnh gút ở nam giới trên 30 tuổi và phụ nữ trên 50 tuổi vượt quá 2%.

Bệnh gút, nguyên nhân phổ biến gây viêm khớp ở nam giới trên 40 tuổi, có tỷ lệ mắc bệnh là 9% ở nam và 6% ở nữ khi đến tuổi 80 Trong hai thập niên qua, tỷ lệ mắc bệnh gút đã gia tăng do chế độ ăn uống không lành mạnh, béo phì, hội chứng chuyển hóa và việc sử dụng thuốc như aspirin liều thấp và thuốc lợi tiểu Tỷ lệ mắc bệnh giữa nam và nữ dao động từ 2:1 đến 7:1.

Tỷ lệ mắc bệnh gút trên toàn cầu đang gia tăng, với tỷ lệ trung bình ở Mỹ là 3.9%, Pháp 0.9%, Anh 1.4 - 2.5%, Đức 1.4%, và Liên minh châu Âu 3.2% Đặc biệt, ở New Zealand, tỷ lệ này lên tới 26.1% trong cộng đồng Maori Tại Việt Nam, bệnh gút chiếm 1.5% trong số các bệnh khớp điều trị nội trú tại Bệnh viện Bạch Mai, đứng thứ tư trong các bệnh khớp thường gặp Tại Bệnh viện Chợ Rẫy, tỷ lệ bệnh gút chiếm khoảng 10 - 15% trong tổng số bệnh khớp đến điều trị.

Bệnh gút xảy ra do nồng độ acid uric trong máu tăng cao Các yếu tố kích thích như chấn thương, phẫu thuật, bất động, chế độ ăn uống giàu purin, và một số loại thuốc có thể làm tăng nồng độ urat cũng là nguy cơ dẫn đến viêm khớp cấp do gút.

Tiền sử gia đình chiếm 25% trong việc xác định nguy cơ mắc bệnh gút, cùng với các yếu tố như tuổi tác, giới tính và tình trạng mãn kinh sớm ở phụ nữ Ngoài ra, chỉ số khối cơ thể và lượng tiêu thụ thực phẩm cũng ảnh hưởng đến nguy cơ này.

Copyright @ School of Medicine and Pharmacy, VNU thụ ancol là những yếu tố nguy cơ gây tăng uric máu và bệnh gút ở đa số các bệnh nhân [38]

1.1.1.4 Cơ chế bệnh sinh Ở nồng độ AU dưới 420àmol/l ( ở nam giới ) và pH 7,4, AU gần như hòa tan hoàn toàn dưới dạng ion (+) urat Khi nồng độ AU trong máu lớn hơn 420àmol/l, vượt quỏ nồng độ hũa tan tối đa, urat kết tủa thành cỏc tinh thể MSU Khả năng gây viêm của tinh thể liên quan đến khả năng gắn vào các immunoglobulin và protein, đặc biệt là bổ thể và lipoprotein Phức hợp này gắn vào cơ quan thụ cảm ở bề mặt đại thực bào và tương bào, dẫn đến giải phóng và hoạt hóa các cytokine, yếu tố hóa học và các chất trung gian khác

Các đại thực bào sẽ thực bào tinh thể urat và phá hủy lysosome giải phóng arachidonat, collagenase, các gốc oxy hóa gây nên tình trạng viêm khớp [7]

Việc lắng đọng vi tinh thể urat tại mô mềm và bao gân tạo ra hạt tophi, cùng với viêm thận kẽ, là những biến chứng của bệnh gút do tinh thể urat tích tụ trong tổ chức kẽ của thận Tăng AU niệu và sự toan hóa nước tiểu góp phần hình thành sỏi tiết niệu ở bệnh nhân gút.

Hình 1.1 Tinh thể urat dưới kính hiển vi quang học

Hình 1.2 Tinh thể urat dưới kính hiển vi phân cực

1.1.1.5 Triệu chứng lâm sàng và cận lâm sàng a) Triệu chứng lâm sàng

 Thể gút cấp tính: Được biểu hiện bằng những đợt viêm cấp tính của ngón chân cái (khớp bàn ngón)

Hoàn cảnh xuất hiện sau những bữa ăn nhiều thịt rượu, sau chấn thương, sau phẫu thuật…

Khoảng 60-70% cơn gút cấp biểu hiện ở khớp bàn ngón chân cái Ngón chân sưng to, phù nề, căng bóng, nóng đỏ xung huyết, trong khi các khớp khác bình thường

Toàn thân có thể sốt nhẹ [2]

Gút mạn tính là một bệnh lý tiến triển chậm, kéo dài từ 10 đến 20 năm, thường khởi phát với các tổn thương ở bàn ngón chân, gối khuỷu và bàn ngón tay Trong quá trình diễn tiến, bệnh có thể xuất hiện những đợt viêm cấp tính, làm tình trạng bệnh trở nên nghiêm trọng hơn.

Gút mạn tính có các biểu hiện : hạt tophi, bệnh khớp mạn tính do muối urat và biểu hiện tại thận

Hạt tophi hình thành do sự tích lũy muối urat sodium trong mô liên kết, thường xuất hiện ở các khớp như khớp gối, khớp khuỷu, và xung quanh bàn tay, bàn chân Tỷ lệ hình thành hạt tophi phụ thuộc vào mức độ và thời gian tăng nồng độ urat trong máu Những hạt này có đặc điểm là không đau, rắn, hình tròn, với số lượng và kích thước khác nhau, da phủ bên ngoài thường bình thường, mỏng, cho phép nhìn thấy màu trắng nhạt của các tinh thể urat bên trong.

Bệnh khớp mạn tính xảy ra do sự tích tụ muối urat trong mô xung quanh khớp, sụn và xương, dẫn đến thoái hóa sụn khớp, hủy hoại đầu xương và tăng sinh màng hoạt dịch.

Sỏi urat, chiếm 10-20% trường hợp gút, thường gây ra tổn thương tại thận Sỏi acid uric ít cản quang, nên khó phát hiện qua chụp X quang mà thường được phát hiện qua siêu âm hoặc chụp thận sau tiêm thuốc cản quang (UIV) Sự lắng đọng urat ở thận kẽ có thể gây ra protein niệu không thường xuyên, cùng với sự xuất hiện của hồng cầu và bạch cầu trong nước tiểu, và nếu không được điều trị kịp thời, có thể dẫn đến suy thận.

Nồng độ acid uric trong máu cao hơn 420 µmol/l đối với nam giới, tuy nhiên khoảng 40% bệnh nhân bị cơn gút cấp vẫn có mức acid uric bình thường Nghiên cứu của Mai Thị Minh Tâm (2009) đã chỉ ra rằng nồng độ acid uric máu có thể không phản ánh chính xác tình trạng cơn gút cấp.

Copyright @ School of Medicine and Pharmacy, VNU

A.U máu trung bình trong cơn gút cấp là 441,6mmol/l ± 83,2, tỷ lệ AU máu bình thường trong cơn gút cấp chiếm 31,3 % [15] Định lượng AU niệu 24h nhằm xác định tăng bài tiết urat (>600mg/24h) Khi AU niệu tăng cao dễ gây sỏi urat và không được dùng nhóm thuốc hạ AU theo cơ chế tăng đào thải

Tăng acid uric máu

1.1.2.1 Định nghĩa tăng acid uric máu [12]

Tăng acid uric máu khi nồng độ AU vượt quá giới hạn tối đa của độ hòa tan của urat trong huyết thanh Cụ thể:

Tăng acid uric máu thường gặp với tỷ lệ dao động từ 2,6% đến 47,2% trong các chủng tộc người khác nhau [12]

Trên thế giới tỷ lệ tăng acid uric chiếm khá cao dân số Uaratanawong

S và cộng sự (2011) nghiên cứu tỷ lệ tăng acid uric máu của 1.945 đối tượng đến khám Bangkok - Thái Lan: tỷ lệ tăng acid uric máu trong dân số nghiên cứu là 24,4%, phổ biến nhất ở nam giới so với phụ nữ (59% so với 11%, p

Ngày đăng: 17/07/2021, 23:39

Nguồn tham khảo

Tài liệu tham khảo Loại Chi tiết
[1]. Nguyễn Đạt Anh (2013), Các xét nghiệm thường quy trong thực hành lâm sàng, Nhà xuất bản y học, tr 1- 7 Sách, tạp chí
Tiêu đề: Các xét nghiệm thường quy trong thực hành lâm sàng
Tác giả: Nguyễn Đạt Anh
Nhà XB: Nhà xuất bản y học
Năm: 2013
[3]. Bộ Y tế (2016). Bệnh gút, Hướng dẫn chẩn đoán và điều trị các bệnh cơ xương khớp, Nhà xuất bản y học. tr 89-94 Sách, tạp chí
Tiêu đề: Hướng dẫn chẩn đoán và điều trị các bệnh cơ xương khớp
Tác giả: Bộ Y tế
Nhà XB: Nhà xuất bản y học. tr 89-94
Năm: 2016
[5]. Phan Hữu Chính (2004), “Bước đầu nhận xét bệnh thống phong tại bệnh viện tỉnh Khánh Hòa”, Hội nghị khoa học chuyên đề Bệnh thoái hóa khớp và cột sống, tr 140-144 Sách, tạp chí
Tiêu đề: Bước đầu nhận xét bệnh thống phong tại bệnh viện tỉnh Khánh Hòa”, "Hội nghị khoa học chuyên đề Bệnh thoái hóa khớp và cột sống
Tác giả: Phan Hữu Chính
Năm: 2004
[6]. Phạm Thị Dung và cộng sự (2014), “Tình trạng tăng acid uric huyết thanh, yếu tố liên quan và hiệu quả can thiệp chế độ ăn ở người 30 tuổi trở lên tại cộng đồng nông thôn Thái Bình”, Luận án tiến sĩ, Viện vệ sinh dịch tễ Trung ương Sách, tạp chí
Tiêu đề: Tình trạng tăng acid uric huyết thanh, yếu tố liên quan và hiệu quả can thiệp chế độ ăn ở người 30 tuổi trở lên tại cộng đồng nông thôn Thái Bình”
Tác giả: Phạm Thị Dung và cộng sự
Năm: 2014
[7]. Hoàng Văn Dũng (2009), Chẩn đoán và điều trị bệnh gút. Chẩn đoán và điều trị những bệnh cơ xương khớp thường gặp, Nhà xuất bản y học, tr 110 – 121 Sách, tạp chí
Tiêu đề: Chẩn đoán và điều trị những bệnh cơ xương khớp thường gặp
Tác giả: Hoàng Văn Dũng
Nhà XB: Nhà xuất bản y học
Năm: 2009
[8]. Trần Thu Giang (2013), “Nhận xét thực trạng chẩn đoán và điều trị nhiễm khuẩn hạt tophi ở bệnh nhân gút tại khoa cơ xương khớp bệnh viên Bạch Mai”, Luận văn tốt nghiệp bác sĩ đa khoa Sách, tạp chí
Tiêu đề: Nhận xét thực trạng chẩn đoán và điều trị nhiễm khuẩn hạt tophi ở bệnh nhân gút tại khoa cơ xương khớp bệnh viên Bạch Mai”
Tác giả: Trần Thu Giang
Năm: 2013
[9]. Lê Viết Hoàng (2014), “Đánh giá mối liên quan giữa thói quen sinh hoạt và tăng acid uric máu ở một số cán bộ đơn vị "X" “, Tạp chí y dược lâm sàng 108, tập 9 số 1/2014, tr 134-139 Sách, tạp chí
Tiêu đề: Đánh giá mối liên quan giữa thói quen sinh hoạt và tăng acid uric máu ở một số cán bộ đơn vị "X
Tác giả: Lê Viết Hoàng
Năm: 2014
[10]. La Quang Hổ, Nguyễn Ngọc Châu, Mai Thị Minh Tâm (2014), “Nghiên cứu mối liên quan giữa nồng độ acid uric với các chỉ số lipid máu”, Tạp chí nội khoa, số 13-11/2014, tr 27-32 Sách, tạp chí
Tiêu đề: Nghiên cứu mối liên quan giữa nồng độ acid uric với các chỉ số lipid máu”, "Tạp chí nội khoa
Tác giả: La Quang Hổ, Nguyễn Ngọc Châu, Mai Thị Minh Tâm
Năm: 2014
[11] Trương Văn Lâm, Mai Thanh Bình, Võ Xuân Lan (2016), “Nghiên cứu giá trị của gamma-glutamyl transferase trong dự đoán hội chứng chuyển hóa tại bệnh viện đa khoa trung tâm An Giang”, Tạp chí y dược học Cần Thơ, số 5, tr 43-49 Sách, tạp chí
Tiêu đề: Nghiên cứu giá trị của gamma-glutamyl transferase trong dự đoán hội chứng chuyển hóa tại bệnh viện đa khoa trung tâm An Giang”, "Tạp chí y dược học Cần Thơ
Tác giả: Trương Văn Lâm, Mai Thanh Bình, Võ Xuân Lan
Năm: 2016
[12] Nguyễn Vĩnh Ngọc (2012), Bệnh gút. Bệnh học nội khoa, tập II, Nhà xuất bản y học, tr 171 - 187 Sách, tạp chí
Tiêu đề: Bệnh học nội khoa, tập II
Tác giả: Nguyễn Vĩnh Ngọc
Nhà XB: Nhà xuất bản y học
Năm: 2012
[13]. Nguyen QM, Srinivasan SR, Xu JH, và cộng sự “Elevated liver function enzymes are related to the development of prediabetes and type 2 diabetes in younger adults: the Bogalusa Heart Study”. Diabetes Care. 2011;34:2603–7 Sách, tạp chí
Tiêu đề: Elevated liver function enzymes are related to the development of prediabetes and type 2 diabetes in younger adults: the Bogalusa Heart Study”. "Diabetes Care
[15]. Mai Thị Minh Tâm, Nguyễn Thị Lực (2009), “Nghiên cứu nồng độ acid uric máu trong cơn gút cấp” , Tạp chí nội khoa, Số 4/2009, tr 87-89 Sách, tạp chí
Tiêu đề: Nghiên cứu nồng độ acid uric máu trong cơn gút cấp” , "Tạp chí nội khoa
Tác giả: Mai Thị Minh Tâm, Nguyễn Thị Lực
Năm: 2009
[16]. Bùi Đức Thắng (2006), Nghiên cứu nồng độ acid uric máu ở người cao tuổi, Luận văn chuyên khoa cấp II, Học viện Quân y Sách, tạp chí
Tiêu đề: Nghiên cứu nồng độ acid uric máu ở người cao tuổi
Tác giả: Bùi Đức Thắng
Năm: 2006
[17]. Nguyễn Thị Ái Thủy (2011), “ Nghiên cứu đặc điểm dịch tễ học, lâm sàng, cận lâm sàng bệnh gút tại một số bệnh viện Thành phố Huế, Y học thực hành (807), số 2/2012, tr 92-95 Sách, tạp chí
Tiêu đề: Nghiên cứu đặc điểm dịch tễ học, lâm sàng, cận lâm sàng bệnh gút tại một số bệnh viện Thành phố Huế, "Y học thực hành
Tác giả: Nguyễn Thị Ái Thủy
Năm: 2011
[18]. Lê Anh Thư (2006), Viêm khớp gút, Bệnh học một số bệnh lý cơ xương khớp thường gặp, Nhà xuất bản Y học, Hà Nội, tr 143-157 Sách, tạp chí
Tiêu đề: Bệnh học một số bệnh lý cơ xương khớp thường gặp
Tác giả: Lê Anh Thư
Nhà XB: Nhà xuất bản Y học
Năm: 2006
[19]. Quyền Đăng Tuyên (2001), Nghiên cứu nồng độ acid uric và một số yếu tố liên quan đến hội chứng tăng acid uric máu trong cán bộ quân đội, Luận văn thạc sĩ y học, Học viện Quân y Sách, tạp chí
Tiêu đề: Nghiên cứu nồng độ acid uric và một số yếu tố liên quan đến hội chứng tăng acid uric máu trong cán bộ quân đội
Tác giả: Quyền Đăng Tuyên
Năm: 2001
[20]. Lê Thị Viên (2006), “Nghiên cứu đặc điểm lâm sàng và cận lâm sàng của bệnh nhân gút mạn tính có hạt tophi”. Luận văn tốt nghiệp bác sỹ chuyên khoa II. Đại học Y Hà Nội Sách, tạp chí
Tiêu đề: Nghiên cứu đặc điểm lâm sàng và cận lâm sàng của bệnh nhân gút mạn tính có hạt tophi”
Tác giả: Lê Thị Viên
Năm: 2006
[21]. Nguyễn Trường Vũ (2013), “GGT (gamma-glutamyl transferase) có ý nghĩa quan trọng trong chẩn đoán và tiên lượng hội chứng chuyển hóa”, Tạp chí y học thực hành, số 881, tr 25-29 Sách, tạp chí
Tiêu đề: GGT (gamma-glutamyl transferase) có ý nghĩa quan trọng trong chẩn đoán và tiên lượng hội chứng chuyển hóa”, "Tạp chí y học thực hành
Tác giả: Nguyễn Trường Vũ
Năm: 2013

TÀI LIỆU CÙNG NGƯỜI DÙNG

TÀI LIỆU LIÊN QUAN