TỔNG QUAN
Bệnh đái tháo đường
Theo Tổ chức Y tế Thế giới (WHO), đái tháo đường (Diabetes Mellitus) là một rối loạn chuyển hóa đa nguyên nhân, đặc trưng bởi tình trạng tăng đường huyết mãn tính Bệnh này liên quan đến sự rối loạn trong chuyển hóa carbohydrate, chất béo và protein, do các vấn đề trong sản xuất insulin, hoạt động của insulin hoặc cả hai.
1.1.2 Dịch tễ đái tháo đường type 2
Tỉ lệ mắc bệnh Đái tháo đường, chủ yếu là loại 2, trên thế giới ước tính khoảng 10% người trưởng thành từ 25 tuổi trở lên Khu vực Đông Địa Trung Hải và Châu Mỹ ghi nhận tỉ lệ cao nhất với 11%, trong khi khu vực Châu Âu và Tây Thái Bình Dương có tỉ lệ thấp hơn.
Tỷ lệ mắc bệnh đái tháo đường ở Việt Nam trong độ tuổi 30-69 đã tăng từ 2,7% năm 2002 lên 5,4% năm 2012, cho thấy sự gia tăng đáng báo động của căn bệnh này Bên cạnh đó, tỷ lệ rối loạn dung nạp glucose cũng tăng từ 7,7% lên 12,8% trong cùng khoảng thời gian Dự báo đến năm 2030, số người mắc đái tháo đường trong độ tuổi từ 20-79 sẽ tăng lên 3,42 triệu, tương ứng với 88.000 người mới mắc mỗi năm.
Theo hướng dẫn của Bộ Y tế về chẩn đoán và điều trị đái tháo đường type 2, việc chẩn đoán sớm bệnh này rất quan trọng Đối tượng cần được sàng lọc bao gồm những người từ 45 tuổi trở lên và có một trong các yếu tố nguy cơ liên quan.
Chỉ số BMI từ 23 trở lên được xem là tiêu chuẩn để chẩn đoán thừa cân và béo phì cho người trưởng thành tại khu vực Châu Á, theo hướng dẫn của Liên đoàn Đái tháo đường Quốc tế (IDF).
- Trong gia đình có người mắc bệnh đái tháo đường ở thế hệ cận kề (bố, mẹ, anh, chị em ruột, con ruột bị mắc bệnh đái tháo đường type 2)
- Tiền sử được chẩn đoán mắc hội chứng chuyển hóa, tiền đái tháo đường (suy giảm dung nạp đường huyết lúc đói, rối loạn dung nạp glucose)
- Phụ nữ có tiền sử thai sản đặc biệt (đái tháo đường thai kỳ, sinh con to - nặng trên 3600 gam, sảy thai tự nhiên nhiều lần, thai chết lưu)
- Người có rối loạn Lipid máu; đặc biệt khi HDL-c dưới 0,9 mmol/L và Triglycrid trên 2,2 mmol/l b Chẩn đoán tiền đái tháo đường (Prediabetes)
- Rối loạn dung nạp glucose (IGT), nếu mức glucose huyết tương ở thời điểm
2 giờ sau nghiệm pháp tăng glucose máu bằng đường uống từ 7,8 mmol/l (140 mg/dl) đến 11,0 mmol/l (200 mg/dl)
Suy giảm glucose máu lúc đói (IFG) được xác định khi lượng glucose huyết tương lúc đói từ 6,1 mmol/l (110 mg/dl) đến 6,9 mmol/l (125 mg/dl), và lượng glucose huyết tương sau 2 giờ của nghiệm pháp tăng glucose máu dưới 7,8 mmol/l (< 140 mg/dl) Để chẩn đoán xác định bệnh đái tháo đường, theo tiêu chuẩn của WHO năm 1999, cần dựa vào một trong ba tiêu chí chẩn đoán.
- Mức glucose huyết tương lúc đói ≥ 7,0 mmol/l (≥ 126 mg/dl)
- Mức glucose huyết tương ≥ 11,1 mmol/l (200 mg/dl) ở thời điểm 2 giờ sau nghiệm pháp dung nạp glucose bằng đường uống
- Có các triệu chứng của đái tháo đường (lâm sàng); mức glucose huyết tương ở thời điểm bất kỳ ≥ 11,1 mmol/l (200 mg/dl)
Theo hướng dẫn của Bộ Y tế, đái tháo đường được phân thành 4 loại cơ bản Đái tháo đường type 1 là kết quả của việc hủy hoại các tế bào beta của đảo tụy, dẫn đến việc cần sử dụng insulin ngoại lai để duy trì chuyển hóa và ngăn ngừa tình trạng nhiễm toan ceton có thể gây hôn mê và tử vong Ngoài ra, còn có đái tháo đường type 2 và các thể đặc biệt khác.
- Khiếm khuyết chức năng tế bào beta, giảm hoạt tính của insulin do gen
- Bệnh lý của tụy ngoại tiết
- Do các bệnh Nội tiết khác
- Nguyên nhân do thuốc hoặc hóa chất khác
- Nguyên nhân do nhiễm trùng
- Các thể ít gặp, các hội chứng về gen.
Điều trị và tuân thủ điều trị đái tháo đường type 2
1.2.1 Nguyên tắc chung [4] a Mục đích:
Duy trì mức glucose máu khi đói và sau ăn gần với mức sinh lý giúp đạt được HbA1c lý tưởng, từ đó giảm thiểu các biến chứng liên quan và tỷ lệ tử vong do đái tháo đường.
- Giảm cân nặng (với người thừa cân, béo phì) hoặc duy trì cân nặng hợp lý b Nguyên tắc:
- Thuốc phải kết hợp với chế độ ăn và luyện tập Đây là bộ ba phương pháp điều trị bệnh đái tháo đường
- Phải phối hợp điều trị hạ glucose máu, điều chỉnh các rối loạn lipid, duy trì số đo huyết áp hợp lý, phòng, chống các rối loạn đông máu
- Khi cần phải dùng insulin (như trong các đợt cấp của bệnh mạn tính, bệnh nhiễm trùng, nhồi máu cơ tim, ung thư, phẫu thuật)
Để duy trì sức khỏe, cần đưa chỉ số glucose máu lúc đói về mức chấp nhận từ 6,2 đến 7,0 mmol/L và đường máu sau ăn về mức 7,8 đến 10,0 mmol/L Đồng thời, các chỉ số HbA1c nên được giữ trong khoảng 6,5 đến 7,5%, và huyết áp cần đạt mức 130/80 đến 140/90.
1.2.3 Lựa chọn phối hợp thuốc
Những điều chú ý khi lựa chọn thuốc
+ Phải tuân thủ các nguyên tắc về điều trị bệnh đái tháo đường type 2
Phương pháp điều trị bệnh nhân được quyết định dựa trên kết quả thăm khám lâm sàng Đối với những trường hợp mới được chẩn đoán có mức glucose máu thấp và chưa có biến chứng, cần điều chỉnh chế độ ăn uống và luyện tập, đồng thời theo dõi sát trong 3-6 tháng Nếu không đạt được mục tiêu điều trị, cần xem xét việc sử dụng thuốc.
Thuốc điều trị đầu tay trong chế độ đơn trị liệu nên được xác định dựa trên chỉ số khối cơ thể (BMI) Cụ thể, nếu BMI dưới 23, thuốc nhóm Sulfonylurea là lựa chọn phù hợp, trong khi đó, nếu BMI từ 23 trở lên, nhóm Metformin nên được ưu tiên sử dụng.
1.2.4 Kiểm soát đa yếu tố ở bệnh nhân đái tháo đường type 2
Các biện pháp điều trị bệnh nhân đái tháo đường type 2 nhằm hạn chế và ngăn ngừa các biến chứng cấp và mạn tính Bệnh nhân thường có nhiều yếu tố nguy cơ phối hợp, ảnh hưởng đến tiến triển của bệnh Do đó, việc điều trị không chỉ tập trung vào việc điều chỉnh glucose huyết thanh mà còn cần kiểm soát đồng thời nhiều yếu tố khác.
Sự xuất hiện và tiến triển của các biến chứng do bệnh tiểu đường type 2 phụ thuộc vào thời gian phát hiện bệnh, số lượng yếu tố nguy cơ, mức độ kháng insulin và hiệu quả kiểm soát chỉ số Nhiều nghiên cứu đã chứng minh rằng tiên lượng bệnh tiểu đường, cả type 1 và type 2, được cải thiện nhờ các can thiệp đa yếu tố Hiện nay, các kết quả điều trị tốt được xem là biện pháp hiệu quả nhất để phòng ngừa biến chứng cho bệnh nhân Các Hiệp hội đã đề ra tiêu chí để đánh giá việc tuân thủ điều trị của bệnh nhân, trong đó kiểm soát đa yếu tố bao gồm việc khống chế đồng thời glucose máu, HbA1C và các yếu tố nguy cơ như huyết áp, lipid máu, cân nặng và lối sống.
Vào năm 2015, Liên đoàn đái tháo đường quốc tế (IDF) đã điều chỉnh các mục tiêu kiểm soát chỉ số tim mạch và chuyển hóa dựa trên khuyến cáo của WHO năm 2002, nhằm cung cấp hướng dẫn quốc tế cho các quốc gia áp dụng phù hợp với từng khu vực Khuyến cáo này đơn giản hóa các mục tiêu điều trị, nhấn mạnh rằng cần điều chỉnh chiến lược dựa trên các yếu tố nguy cơ riêng biệt của từng bệnh nhân Ngoài mức glucose huyết thanh lúc đói, khuyến cáo còn đề xuất theo dõi glucose sau 2 giờ và lipid máu, cùng với tỷ số albumin/creatinin niệu Nếu điều trị không đạt mục tiêu, mọi cải thiện về yếu tố nguy cơ vẫn có thể giúp giảm nguy cơ biến chứng Cụ thể, việc giảm HbA1c từ 10% xuống 9% có tác dụng giảm nguy cơ biến chứng hơn là giảm từ 7% xuống 6% Ngoài ra, nếu không thể theo dõi HbA1c, glucose huyết thanh lúc đói có thể được sử dụng như một chỉ số thay thế chấp nhận được.
Theo khuyến cáo của KDOQI năm 2012, bệnh nhân đái tháo đường có bệnh thận mạn nên duy trì mức HbA1c tối ưu khoảng 7,0% Không nên giảm HbA1c xuống dưới 7,0% cho những bệnh nhân có nguy cơ hạ đường huyết Đối với những bệnh nhân có bệnh kèm theo, có thể chấp nhận mức HbA1c cao hơn 7,0% do tiên lượng sống không kéo dài và nguy cơ hạ đường huyết cao.
Bảng 1.1 Mục tiêu kiểm soát các chỉ số ở bệnh nhân đái tháo đường theo IDF 2005
Chỉ số Mục tiêu kiểm soát
4,4 – 6,1 mmol/l (80 - 110 mg/dl) 4,4 – 8,0 mmol/l (80 – 145 mg/dl)
Cholesterol toàn phần ≤ 4,5 mmol/l (174 mg/dl)
Tỷ số albumin/creatinin niệu Nam: 2,5 mg/mmol (22mg/g)
Hội nội tiết - đái tháo đường châu Á - Thái Bình Dương đã đưa ra các khuyến cáo riêng về mức kiểm soát chỉ số, dựa trên các hướng dẫn của IDF và điều chỉnh cho phù hợp với đặc điểm dân số học của khu vực.
Hội Nội tiết đái tháo đường Việt nam dựa vào tình hình cụ thể, thực tế năm
2009 đã đồng thuận đưa ra những tiêu chí đánh giá mức độ kiểm soát các chỉ số theo
3 mức độ: Tốt, chấp nhận, kém
Kiểm soát đường huyết đối với bệnh nhân ĐTĐ nhắm đến các mục tiêu chuyên biệt có thể đo lường được, như là Hemoglobin A1C (còn được gọi là ‘A1C’ hay
HbA1C là chỉ số quan trọng để đánh giá kiểm soát đường huyết lâu dài và là mục tiêu chính trong điều trị đái tháo đường Xét nghiệm HbA1C nên được thực hiện từ hai đến bốn lần mỗi năm cho bệnh nhân đái tháo đường, tùy thuộc vào tình trạng và mức độ kiểm soát đường huyết Đối với bệnh nhân đái tháo đường type 1 điều trị bằng insulin, nên kiểm tra từ ba lần trở lên trong ngày, trong khi bệnh nhân đái tháo đường type 2 điều trị bằng thuốc hạ đường huyết uống có thể kiểm tra ít hơn, nhưng bệnh nhân điều trị bằng insulin có thể cần kiểm tra nhiều hơn.
Mục tiêu đường huyết cần được điều chỉnh dựa trên độ tuổi, giới tính và tình trạng sức khỏe của bệnh nhân, đặc biệt chú ý đến các nhóm đối tượng như trẻ em, phụ nữ mang thai và người lớn tuổi.
Dưới đây là bảng chỉ số mục tiêu được điều chỉnh để đáp ứng nhu cầu riêng biệt của từng cá nhân:
Bảng 1.2 Mục tiêu điều trị bệnh đái tháo đường qua Glucose, HbA1C
+ Glucose trong huyết tương mao mạch trước ăn 70-130 mg/dL (3.9-7.2 mmol/L)
Nồng độ đỉnh glucose trong huyết tương mao mạch sau ăn nên dưới 180 mg/dL (dưới 10.0 mmol/L) Mục tiêu này áp dụng cho những người không mang thai và liên quan đến mức glucose từ 4,0-6,0% trong nhóm không bị đái tháo đường.
Nồng độ glucose trong huyết tương sau khi ăn nên được kiểm tra 1-2 giờ sau bữa ăn, vì đây là thời điểm nồng độ cao nhất thường thấy ở bệnh nhân tiểu đường.
Tăng đường huyết sau ăn (PPG) là yếu tố ảnh hưởng đến việc kiểm soát đường huyết, thường xuất hiện sớm trong quá trình tiến triển của bệnh đái tháo đường và dự báo nguy cơ biến chứng Tình trạng này không chỉ liên quan đến sự phát triển của các bệnh mạch máu lớn và nhỏ, mà còn làm tăng nguy cơ tử vong do bệnh tim mạch, đồng thời được coi là dấu hiệu cảnh báo quan trọng cho cơn đau tim.
Các phương pháp giảm đường huyết sau ăn có thể giúp hạ nồng độ HbA1C và cải thiện kiểm soát đường huyết Một trong những cách hiệu quả là tiêu thụ carbohydrate tiêu hóa chậm, giúp phóng thích glucose từ từ, dẫn đến mức đường huyết sau ăn thấp hơn so với chế độ ăn chứa carbohydrate tiêu hóa nhanh.
Một số yếu tố ảnh hưởng tới việc điều trị đái tháo đường
Theo khuyến cáo của WHO và Hiệp hội Đái tháo đường Quốc tế, cũng như từ các nghiên cứu, việc không tuân thủ điều trị có thể dẫn đến nhiều hậu quả nghiêm trọng.
- Không kiểm soát được đường huyết
- Không ngăn ngừa được các biến chứng cấp tính:
+ Nhiễm toan ceton và hôn mê nhiễm toan ceton do ĐTĐ
+ Hôn mê tăng glucose máu không nhiễm toan ceton (hôn mê tăng áp lực thẩm thấu)
+ Hôn mê nhiễm toan lactic
+ Các bệnh nhiễm trùng cấp tính
- Không ngăn ngừa được các biến chứng mạn tính:
+ Biến chứng tim mạch: Bệnh mạch máu, bệnh tim, đột quỵ…
+ Biến chứng tại mắt: Xuất huyết, xuất tiết võng mạc, giảm thị lực, mù lòa… + Biến chứng tại thận: Tổn thương thận, suy thận…
+ Biến chứng bàn chân: Loét bàn chân, cắt cụt chi dưới, hoại thư…
+ Rối loạn chức năng cường dương ở nam
Suy giảm chức năng sinh dục ở nữ là một vấn đề nghiêm trọng liên quan đến bệnh tiểu đường (ĐTĐ), một bệnh lý mạn tính gây áp lực tâm lý cho bệnh nhân và gia đình Việc điều trị ĐTĐ yêu cầu bệnh nhân tuân thủ nghiêm ngặt chế độ thuốc, dinh dưỡng hợp lý, hoạt động thể lực, kiểm soát đường huyết và khám định kỳ Nhiều nghiên cứu đã chỉ ra rằng sự không tuân thủ trong điều trị thường dẫn đến thất bại, và có nhiều lý do khiến bệnh nhân không thể tuân thủ các yêu cầu này.
Bệnh nhân thường phải uống nhiều loại thuốc trong ngày, đặc biệt là những người điều trị bằng thuốc uống kết hợp với thuốc tiêm, với yêu cầu sử dụng ít nhất hai loại thuốc trở lên Sự kết hợp này, cùng với thời gian điều trị kéo dài suốt đời và nỗi sợ đau khi tiêm, tạo ra những rào cản lớn ảnh hưởng đến sự tuân thủ Thêm vào đó, chế độ ăn uống cũng bị ảnh hưởng bởi thời điểm sử dụng thuốc; một số thuốc cần uống sau bữa ăn, trong khi những thuốc khác phải uống xa bữa ăn hoặc tiêm đúng giờ quy định Ngoài ra, một số loại thuốc còn yêu cầu bệnh nhân ngừng uống rượu bia, gây khó khăn cho việc tuân thủ điều trị.
Chế độ ăn uống đóng vai trò quan trọng trong việc quản lý bệnh tiểu đường (ĐTĐ) Tuy nhiên, một số bệnh nhân không có điều kiện thực hiện chế độ ăn hợp lý, trong khi một số khác lại cho rằng việc này không cần thiết hoặc chưa hiểu rõ tầm quan trọng của nó Điều này ảnh hưởng lớn đến hiệu quả điều trị và kiểm soát bệnh ĐTĐ.
Sự hỗ trợ từ gia đình và bạn bè là yếu tố quan trọng giúp bệnh nhân tuân thủ điều trị bệnh tiểu đường Người thân có thể chia sẻ, động viên và nhắc nhở bệnh nhân về việc uống thuốc đúng liều và thời gian, cũng như đo đường huyết thường xuyên Nhiều bệnh nhân, đặc biệt là người cao tuổi, gặp khó khăn trong việc tự quản lý thuốc và chế độ dinh dưỡng Do đó, sự hỗ trợ của người thân là cần thiết để đảm bảo bệnh nhân thực hiện đúng các chỉ định của bác sĩ và duy trì sức khỏe tốt.
Bệnh tật kéo dài có thể gây ra gánh nặng tài chính lớn, đặc biệt là khi người bệnh không thể tạo ra thu nhập, như ở người cao tuổi Chi phí điều trị không chỉ ảnh hưởng đến bản thân người bệnh mà còn đè nặng lên cả gia đình, làm tăng áp lực tài chính cho những người chăm sóc.
Việc tuân thủ hoạt động thể lực và kiểm soát đường huyết tại nhà, cùng với thăm khám định kỳ, đóng vai trò quan trọng trong việc quản lý đường huyết và ngăn ngừa biến chứng của bệnh tiểu đường.
Nghiên cứu này chỉ ra rằng tình trạng lo âu của bệnh nhân có thể ảnh hưởng đến việc tuân thủ điều trị đường Tình trạng lo âu được đánh giá qua thang đo HADS (Hospital Anxiety and Depression Scale), bao gồm 14 câu hỏi, trong đó có 7 câu liên quan đến lo âu và 7 câu về trầm cảm Các câu hỏi này tập trung vào các triệu chứng chính của lo âu và trầm cảm, với điểm số được phân loại từ 0 đến 3.
Kết quả được phân tích theo điểm trung bình của tổng điểm mỗi câu hỏi và theo các mức độ:
- Từ 0 đến 7 điểm: bình thường
- Từ 8 đến 10 điểm: có triệu chứng của lo âu
- Từ 11 đến 21 điểm: lo âu
Nghiên cứu sử dụng chỉ số đánh giá lo âu để xác định mối quan hệ giữa mức độ lo âu của bệnh nhân và việc tuân thủ các chế độ điều trị.
Một số nghiên cứu liên quan
1.4.1 Trên thế giới nghiên cứu về kiến thức và tuân thủ điều trị người bệnh ĐTĐ không phải là vấn đề mới, cụ thể như sau:
Nghiên cứu về kiến thức tuân thủ điều trị:
Nghiên cứu của Girish M Chavan trên 307 bệnh nhân tại Ấn Độ cho thấy chỉ 23,8% người tham gia có kiến thức tốt về bệnh tiểu đường, trong khi 19,2% có kiến thức kém Kết quả cho thấy rằng bệnh nhân có kiến thức về bệnh đái tháo đường tuân thủ điều trị tốt hơn Tương tự, nghiên cứu của Ghada El-Khawaga tại Ai Cập cho thấy tỷ lệ hiểu biết chung về bệnh đái tháo đường đạt 52,3%.
Nghiên cứu về tuân thủ sử dụng thuốc:
Nghiên cứu của Joan N Kalyago và cộng sự (2008) tại Bệnh viện Uganda cho thấy 28,9% bệnh nhân ĐTĐ không tuân thủ điều trị bằng thuốc Các yếu tố ảnh hưởng đến sự tuân thủ này bao gồm giới tính nữ, thiếu hiểu biết về thuốc, không có thuốc theo quy định và không đi khám định kỳ thường xuyên.
Các nghiên cứu hiện tại chỉ tập trung vào việc tuân thủ điều trị thuốc thông qua phương pháp định lượng, mà chưa khám phá nguyên nhân tại sao người bệnh lại không tuân thủ các liệu pháp điều trị.
Nghiên cứu về tuân thủ hoạt động thể lực:
Nhiều nghiên cứu đã chỉ ra rằng tỷ lệ bệnh nhân đái tháo đường type 2 không tuân thủ hoạt động thể lực là khá cao Một nghiên cứu đáng chú ý của Juma Al-Kaabi và cộng sự (2009) đã phân tích các yếu tố rào cản đối với hoạt động thể lực của bệnh nhân tại Ả Rập.
Nghiên cứu về tuân thủ chế độ ăn:
Nghiên cứu của Chandalia và các cộng sự chỉ ra rằng chế độ ăn giàu chất xơ, bao gồm 50 gram chất xơ với 25 gram hòa tan và 25 gram không hòa tan, có khả năng cải thiện đường huyết, giảm đề kháng insulin và rối loạn mỡ máu ở bệnh nhân tiểu đường type 2.
Nghiên cứu về tuân thủ 5 yếu tố phối hợp khi điều trị ĐTĐ:
Nghiên cứu của Alan M và cộng sự (2006) cho thấy việc tuân thủ điều trị kết hợp giữa thuốc, chế độ dinh dưỡng, hoạt động thể lực và kiểm soát đường huyết có sự khác biệt rõ rệt Cụ thể, tỷ lệ tuân thủ thuốc điều trị cao hơn so với thay đổi lối sống, với 65% bệnh nhân tuân thủ chế độ dinh dưỡng, 19% tuân thủ hoạt động thể lực, 53% tuân thủ dùng thuốc và 67% thường xuyên đo đường huyết.
Tại Việt Nam, việc tuân thủ điều trị là yếu tố then chốt trong thành công điều trị bệnh ĐTĐ, góp phần quan trọng vào quản lý bệnh Để đạt được điều này, cần có các minh chứng cụ thể như tỷ lệ bệnh nhân tuân thủ thuốc, chế độ dinh dưỡng, hoạt động thể lực và kiểm soát đường huyết tại nhà Đồng thời, cần xác định các yếu tố ảnh hưởng đến sự tuân thủ của bệnh nhân, từ đó giúp các nhà quản lý bệnh viện đưa ra giải pháp hiệu quả trong công tác điều trị và quản lý bệnh ĐTĐ.
Nghiên cứu của Đoàn Thị Hồng Thúy năm 2019 tại Bệnh viện Nội tiết tỉnh Sơn La cho thấy điểm trung bình kiến thức tuân thủ điều trị chỉ đạt 20,58 ± 5,6 trên tổng số 36 điểm, với 64% người bệnh có kiến thức đạt yêu cầu và 36% không đạt Tương tự, nghiên cứu của Nguyễn Trọng Nhân và cộng sự cho biết khoảng 67,35% người bệnh Đái tháo đường type 2 có kiến thức về chế độ ăn uống, với điểm trung bình kiến thức về chế độ điều trị.
Nghiên cứu về tuân thủ chế độ dùng thuốc ở bệnh nhân Đái tháo đường cho thấy tỷ lệ bệnh nhân tuân thủ thời gian uống thuốc đúng giờ đạt 95,4%, trong khi 63,1% bệnh nhân chú ý đến việc uống thuốc liên quan đến bữa ăn và 89,2% uống đúng loại thuốc theo chỉ dẫn của bác sĩ Đối với thuốc tiêm, có 65,6% bệnh nhân tiêm đúng thời gian chỉ định, 68,7% tiêm insulin liên quan đến bữa ăn, và 59,4% chú ý đến vô trùng khi tiêm Tuy nhiên, chỉ 3,1% bệnh nhân chú ý luân chuyển vị trí tiêm hàng ngày, 87,5% biết cách lấy thuốc đúng và 53,1% tiêm đúng loại thuốc.
Theo báo cáo của Phạm Vân Thúy và Nguyễn Đô Huy, 89,6% bệnh nhân tuân thủ điều trị thực hiện chế độ ăn kiêng, cao hơn đáng kể so với chỉ 3,3% ở nhóm không tuân thủ Nghiên cứu của Nguyễn Trọng Nhân cũng chỉ ra rằng 67,35% người bệnh có kiến thức đúng về chế độ dinh dưỡng, trong khi tỉ lệ bệnh nhân tuân thủ điều trị đạt 41,84%.
Theo nghiên cứu của Phạm Thị Thủy tại Bệnh viện Đa khoa Quảng Ninh, tỉ lệ bệnh nhân tuân thủ tái khám định kỳ theo khuyến cáo "Tái khám hàng tháng" đạt 84.9%, trong khi 15.1% thực hiện tái khám không đúng lịch hẹn Về kiểm tra đường huyết tại nhà, có 68.3% bệnh nhân kiểm tra thường xuyên (≥2 lần/tuần), còn lại 31.7% không kiểm tra hoặc kiểm tra không đúng theo khuyến cáo (