Khóa luận tốt nghiệp ngành Dược học: Định lượng eurycomanone trong cây bá bệnh (Eurycoma longifoila) bằng sắc ký lỏng hiệu năng cao HPLC với mục tiêu nghiên cứu nhằm xây dựng phương pháp định lượng eurycomanone bằng HPLC và thẩm định phương pháp phân tích; Xác định hàm lượng eurycomanone trong rễ cây bá bệnh.
Thành phần hóa học trong rễ và lá cây bá bệnh
Bộ phận Dung môi chiết
Eurycolactones A-E,eurycomalides A-B, eurycomalactone, 6α - hydroxyeurycomalactone, 7α - Hydroxyeurycomalactone, eurycomanone, 13α(21)-epoxyeurycomanone,
12,15diacetyl-13α(21)-epoxyeurycomanone, 12-acetyl-13,21dihydroeurycomanone, 15-acetyl13α(21)-epoxyeurycomanone, 3,4εdihydroeurycomanone,
- Một số khác: Natri, Kali…
- Triterpenes: eurylene, hỗn hợp β-sitosterol và stigmasterol
Lá Ethanol Quassinoids: lonilactone, 6-dehydro lonilactone,11- dehydroklaineanone…
Một số tác dụng dƣợc lý của bá bệnh đã đƣợc nghiên cứu và chứng minh nhƣ sau:
Cao chiết từ bá bệnh có tác dụng kháng kí sinh trùng sốt rét trên thí nghiệm nuôi cấy in vitro [1,2,11,21,28,32]
Nghiên cứu trên in vitro và in vivo cho thấy dịch chiết rễ bá bệnh có khả năng chống ung thƣ dòng tế bào K-562 [16]
Cao chiết methanol từ rễ tơ và rễ tự nhiên của cây Bá bệnh có khả năng ức chế sản xuất cytokine gây viêm IL-6, được kích thích bởi LPS (1 µg/ml) trong dòng tế bào người THP-1.
Bá bệnh có tác dụng kích thích sinh dục nam và tăng cường nội tiết tố testosterone trong huyết tương Cả thân và rễ của bá bệnh đều có khả năng gia tăng lượng testosterone, trong đó rễ cho hiệu quả cao hơn so với thân cây.
Bá bệnh còn có tác dụng kháng khuẩn, kháng nấm, kháng virus [20,22,32]
Chế phẩm thuốc gồm ba dược liệu: bá bệnh, trâm bầu và xấu hổ, có độc tính cao nhưng độc tính trường diễn rất thấp Thuốc này có tác dụng lợi mật rõ rệt mà không làm thay đổi thành phần mật ở chuột lang, đồng thời tăng thải trừ BSP của gan thỏ so với nhóm đối chứng Ngoài ra, chế phẩm còn làm chậm quá trình hư biến của gan chuột cống trắng do carbon tetreclorid gây ra và tăng tái tạo tế bào gan chuột nhắt trắng trong mô hình gây thương tổn gan thực nghiệm.
Chế phẩm gồm bá bệnh, trâm bầu và xấu hổ đã được áp dụng cho bệnh nhân có chỉ định điều trị lợi mật, cho thấy hiệu quả giảm bilirubin máu một cách có ý nghĩa.
Một số quassinoid nhƣ eurycomanol, eurycomalactone có tác dụng làm giảm lipopolysaccharide gây ra sốt ở chuột sau 1 giờ và có khả năng
Copyright @ School of Medicine and Pharmacy, VNU
Nghiên cứu in vitro và in vivo đều chứng minh bá bệnh có tác dụng chống ung thư tiền liệt tuyến ở người [13]
Dịch chiết nước từ rễ cây mật nhân có khả năng kháng oxi hoá nhưng hoạt lực tương đối yếu [9,12,22]
Rễ bách bệnh đã được chứng minh là có tác dụng làm tăng hàm lượng testosterone trong huyết, kích thích tăng trọng lượng cơ quan sinh dục đực, đặc biệt rõ rệt ở liều cao trên động vật bình thường Nghiên cứu trên chuột cho thấy hàm lượng protein toàn phần trong huyết tương tăng, đồng thời có xu hướng tăng trọng lượng cơ nâng hậu môn mà không làm tăng thể trọng cơ thể Tác dụng tăng cường chức năng sinh dục nam giới là tác dụng nổi bật nhất của rễ bách bệnh, được nghiên cứu và ứng dụng rộng rãi trong suốt 20 năm qua, với hơn 200 công trình nghiên cứu được công bố từ 1994 đến 2014.
Ở Lào, bá bệnh đƣợc dùng để chữa bệnh cao huyết áp, dùng cho phụ nữ sau sinh [23]
Shuid và cộng sự (2011) nghiên cứu trên mô hình chuột 12 tháng tuổi đã gây loãng xương Thực hiện đồng thời 2 nhóm Một nhóm cho uống
Eurycoma longifolia và testosterone đều cho thấy hiệu quả trong việc ngăn chặn mất canxi ở chuột sau 6 tuần Điều này cho thấy bá bệnh có tiềm năng trong việc điều trị loãng xương ở những người thiếu hụt androgen.
Năm 2006, nghiên cứu tại Đại học Dược Hà Nội của Dương Thị Ly Hương, Trịnh Thị Kim Anh và Nguyễn Thị Hải Hà đã chỉ ra rằng dịch chiết nước từ rễ cây bá bệnh có tác dụng kích thích hoạt tính androgen trên chuột cống trắng Cụ thể, khi sử dụng liều 10 mg/kg thể trọng, trọng lượng các cơ quan sinh dục, bao gồm tinh hoàn và túi tinh, đều tăng lên rõ rệt.
1.1.6 Tính vị và công năng
Theo y học cổ truyền, bá bệnh có tính mát và vị đắng, giúp thanh nhiệt, tiêu viêm, lợi thấp, lợi tiểu, lương huyết và chỉ lỵ Thảo dược này thường được sử dụng để điều trị các triệu chứng như tiểu tiện ra máu, khó tiêu, đầy hơi và chướng bụng.
Rễ của cây bá bệnh được sử dụng để chữa ngộ độc, tẩy giun và hạ sốt, đồng thời hỗ trợ nhanh lành da ở những vùng bị nhiễm trùng Tại Campuchia, rễ cây này còn được dùng để điều trị vàng da Ở Malaysia và Indonesia, bá bệnh được coi là thần dược cho nam giới, giúp điều trị tăng huyết áp, đau mỏi cơ bắp và nâng cao sức khỏe Theo kinh nghiệm dân gian Indonesia, nước sắc từ lá hoặc vỏ thân bá bệnh là phương thuốc cổ truyền hiệu quả nhất trong việc chữa sốt rét, với tác dụng tương đương viên nén cloroquin.
1.1.7 Một số bài thuốc dân gian từ cây bá bệnh [1]
Bài 1 : Chữa phong tê, liệt nửa người
Bá bệnh 4 g, rễ xấu hổ 8 g, dây đau xương 8 g, đậu chiều 8 g, trâu cổ 8 g, rễ đinh lăng 8 g, hồ tiêu trắng 5 g, quế chi 5 g, gừng sống 3 g
Tất cả thái nhỏ, phơi khô, sắc với 400 ml nước còn 100 ml, uống 2 lần trong ngày
Bài 2 : Tư bổ âm huyết thang, chữa âm huyết suy kém, tê bại nửa người bên phái, nóng ran
Bách bệnh 6 g, đậu đen 12 g, hà thủ ô đỏ 12 g, dây gùi 8 g, huyết rồng 8 g, rau muống biển 8 g, rễ nhàu 8 g, rễ ô môi 8 g, rễ cỏ xước 8 g, tang chi 8 g, dây kí ninh 2 g Sắc nước uống
Bài 3 : Bá ứng tiêu hạ tán, chữa đau bụng, ăn không tiêu, đầy hơi chướng bụng
Bá bệnh 50 g, vỏ quýt 100 g, hoắc hương 100 g, củ bồ bồ 100 g, dây mơ 100 g, dây rơm 100 g, cam thảo nam 100 g, hậu phác 100 g, củ sả 50 g, củ gấu 50 g, tiêu lốt 50 g
Các vị tán nhỏ, ngày uống 12 gam (người lớn), trẻ em thùy theo tháng tuổi mà quy định liều
1.2 Tổng quan về nhóm quassinoid 1.2.1 Khái quát chung và quassinoid
Quassinoid là một triterpenoid thứ cấp, giàu oxy và có vị đắng, thuộc họ Thanh thất Simaroubaceae, được biết đến với tên gọi Quassin Nghiên cứu cho thấy quassinoid có tiềm năng lớn trong điều trị nhiều bệnh, bao gồm tác dụng kháng khối u, kháng virus, kháng viêm, kháng amip, sốt rét, kháng vi trùng lao và chán ăn.
Nghiên cứu cho thấy nhiều quassinoid có khả năng gây độc tế bào đối với ung thư phổi và ung thư cổ tử cung, đồng thời còn có tác dụng bảo vệ dạ dày.
Đến nay, khoảng 150 chất quassinoid đã được chiết xuất và mô tả cấu trúc, có thể phân loại thành 5 khung chính: C18, C19, C20, C22 và C25 Một số tác giả còn gọi các khung này là laurycolactan (C18), cedrolidan (C19) và quassolidan (C20).
The study conducted by the School of Medicine and Pharmacy at VNU highlights the prevalence of oxygen-containing functional groups, such as ketones, esters, lactones, hydroxyls, and methoxys Among these, the C20 group is the most abundant, accounting for 76% of the total, while the C19 group represents 19% The C18 group makes up 3%, and the C22 and C25 groups are present in minimal amounts, approximately 1%.
Hình 1.2 Cấu trúc chung nhóm quasinoid
1.3 Tổng quan về eurycomanone 1.3.1 Công thức hóa học
Hình 1.3 Cấu trúc hóa học của eurycomanone
Vị trí: eurycomanone thuộc C20-quassinoid
Tên khoa học: (1 β, 11 β, 12 α, 15 β) -1,11,12,14,15-pentahydroxy-11,20- epoxypicrasa-3,13 (21)-diene-2,16-dion
Eurycomanone là chất rắn, màu trắng, không mùi, điểm cháy -20 ◦ , điểm nóng chảy 251-253 o C [42] Tỉ trọng 1,6 g/cm 3
1.3.3 Tác dụng sinh học của Eurycomanone
Eurycomanone là thành phần có hoạt tính góp phần vào tác dụng sinh học của bá bệnh
Eurycomanone, một quassinoid chính từ rễ cây mật nhân, có khả năng tăng cường nội tiết tố testosterone và lượng tinh dịch ở chuột đực, đồng thời có tác dụng chống lại estrogen trong cơ thể chuột trưởng thành Nghiên cứu năm 2008 cho thấy eurycomanone cũng có khả năng gây độc tế bào đối với các tế bào ung thư, đặc biệt là dòng tế bào ung thư phổi 54 và dòng tế bào K, bên cạnh đó còn thể hiện hoạt tính chống sốt rét mạnh mẽ.
Một nghiên cứu kéo dài 4 tuần trên 126 người Nhật Bản trung niên cho thấy việc sử dụng dịch chiết thân rễ bá bệnh với liều 200 mg/ngày giúp tăng cường hệ miễn dịch cho cả nam và nữ Nghiên cứu này được chia thành hai nhóm, một nhóm sử dụng dịch chiết và nhóm còn lại dùng giả dược.
Tính thích hợp hệ thống
Kết quả khảo sát tính thích hợp của hệ thống HPLC cho thấy độ lệch chuẩn tương đối (RSD) của thời gian lưu và diện tích pic lần lượt là 0,172% và 2,628%, đều nhỏ hơn 5% Hệ số bất đối gần 1 (dao động từ 1,17 đến 1,2) cho thấy pic khá cân đối, trong khi số đĩa lý thuyết trung bình là 23612 thể hiện khả năng tách tốt của cột sắc ký Điều này chứng tỏ rằng hệ thống HPLC mà chúng tôi sử dụng là thích hợp để định tính và định lượng eurycomanone.
Độ tuyến tính và khoảng nồng độ
Chuẩn bị các dung dịch chuẩn với nồng độ 18,75 – 25 – 37,5 – 50 – 100 – 200 μg/ml và tiến hành sắc ký mỗi dung dịch ba lần Ghi lại sắc ký đồ và xác định diện tích pic tương ứng Sau đó, lập phương trình hồi quy tuyến tính để tính hệ số tương quan giữa nồng độ chất phân tích và diện tích pic bằng phương pháp bình phương tối thiểu, như thể hiện trong bảng 3.3 Phương trình hồi quy tuyến tính thu được được trình bày trong hình 3.4.
Kết quả khảo sát khoảng tuyến tính của eurycomanone
Thớ nghiệm Nồng độ (àg/ml) Diện tớch pic
Hình 3.4 Đồ thị biểu diễn mối quan hệ giữa diện tích pic và nồng độ eurycomanone
Biểu đồ biểu diễn mối quan hệ giữa nồng độ và diện tích pic của eurycomanone y = 4.8425x + 7.4895
Copyright @ School of Medicine and Pharmacy, VNU
Kết quả từ bảng 3.3 và đồ thị hình 3.4 cho thấy có sự tương quan tuyến tính chặt chẽ giữa diện tích pic và nồng độ eurycomanone trong khoảng 18,75 – 200 àg/ml, với hệ số tương quan R² = 0,9997 Đường chuẩn được xây dựng thể hiện độ tuyến tính cao, đảm bảo cho việc phân tích định lượng eurycomanone chính xác.
Giới hạn phát hiện (LOD) và giới hạn định lượng (LOQ)
Giới hạn phát hiện (LOD) của phương pháp được xác định bằng cách pha loãng mẫu eurycomanone cho đến khi tỷ lệ tín hiệu trên nhiễu (S/N) đạt khoảng 2-3 trên sắc ký đồ Nồng độ này tương ứng với giới hạn phát hiện cho từng chất phân tích.
Giới hạn định lượng (LOQ): giới hạn định lượng của phương pháp được xác định dựa trên giới hạn phát hiện: LOQ = 3,3 x LOD
Kết quả phân tích cho thấy phương pháp có giới hạn phát hiện với eurycomanone là 4,6875 àg/ml, tương ứng cú giới hạn định lượng là 15,46875 àg/ml
Tiến hành định lượng 6 mẫu dung dịch chuẩn eurycomanone với nồng độ 200 µg/ml và thực hiện sắc ký theo điều kiện đã nêu ở mục 3.1.2 Để xác định độ lặp lại, chúng tôi tính toán độ lệch chuẩn tương đối giữa các giá trị định lượng Kết quả về độ lặp lại được trình bày trong bảng dưới đây.
Kết quả độ lặp lại của phương pháp
Nồng độ eurycomanone chuẩn (àg/ml)
Nồng độ tính toán (àg/ml)
Kết quả cho thấy phương pháp có độ lặp lại chấp nhận được, với giá trị RSD (%) khi tiến hành phân tích 6 dung dịch chuẩn eurycomanone là 2,65% nhỏ hơn 5%
Xác định độ đúng bằng phương pháp thêm chuẩn
Dung dịch thử chuẩn được thực hiện bằng cách thêm 17,5 µg eurycomanone vào mẫu cao dược liệu Sau đó, mẫu được xử lý và sắc ký theo quy trình đã mô tả ở mục 3.1.2, với việc lặp lại thí nghiệm 6 lần khác nhau Dựa vào đường chuẩn đã xây dựng, lượng eurycomanone trong các mẫu được tính toán và kết quả được trình bày trong bảng 3.5, cho thấy độ chính xác của phương pháp.
Thí nghiệm Mẫu đã cú (àg)
Tổng lƣợng tỡm lại (àg)
Kết quả cho thấy phương pháp có độ đúng tốt:
- Độ đúng trung bình cao: 100,055%
- Độ lệch chuẩn tương đối là 3,26% (nhỏ hơn 5%)
- Tỷ lệ thu hồi mỗi lần đều nằm trong khoảng 96,00% đến 103,60%
Copyright @ School of Medicine and Pharmacy, VNU
3.1.3 Định lƣợng eurycomanone trong dƣợc liệu rễ cây bá bệnh
Để chuẩn bị mẫu phân tích eurycomanone, lượng cắn thu được sau khi chiết cần được hòa tan bằng methanol (MeOH) Sau đó, mẫu sẽ được siêu âm và lọc qua màng lọc có kích thước 0,2 micro trước khi tiêm vào hệ thống HPLC Điều kiện sắc ký sẽ được thực hiện theo mục 3.1.2.
- Xác định thời gian lưu, diện tích pic tương ứng với thời gian lưu của eurycomanone trên sắc ký đồ thu đƣợc
Áp dụng đường chuẩn hồi quy tuyến tính và phương pháp nội suy, chúng tôi đã phân tích hàm lượng eurycomanone trong mẫu dược liệu, cho kết quả được trình bày trong bảng 3.6 Bảng 3.6 hiển thị kết quả định lượng eurycomanone trong rễ bá bệnh.
TN Khối lƣợng dƣợc liệu (mg)
Diện tích pic eurycomanone (mAU.s)
Khối lƣợng eurycomanone trong cao (àg)
Hàm lƣợng eurycomanone trong cao (%)
Hàm lƣợng eurycoman one trong dƣợc liệu khô (%)
Kết quả: Hàm lƣợng eurycomanone trong cao rễ bá bệnh và trong rễ cây bá bệnh lần lƣợt là 0,597% và 0,0761%
3.2 Thảo luận 3.2.1 Đối tƣợng nghiên cứu
Hiện nay, nhu cầu sử dụng sản phẩm thảo dược cho chăm sóc sức khỏe ngày càng gia tăng, dẫn đến việc dược liệu bá bệnh được tiêu thụ với khối lượng lớn Tuy nhiên, phần lớn dược liệu chưa được kiểm soát, gây ra tình trạng dược liệu giả mạo hoặc không đạt chất lượng, ảnh hưởng đến sức khỏe người bệnh và gây thiệt hại kinh tế lớn Do đó, việc kiểm tra và đánh giá chất lượng dược liệu bá bệnh là vô cùng quan trọng.
3.2.2 Xây dựng phương pháp phân tích eurycomanone bằng HPLC
Dựa trên điều kiện phòng thí nghiệm và trang thiết bị hiện có tại Khoa Y Dược, chúng tôi đã tham khảo tài liệu công bố và phát triển phương pháp phân tích eurycomanone trong cây bá bệnh bằng kỹ thuật HPLC.
+ Pha tĩnh: cột Agilent Eclipse XDB – C18 (4,6 x 250 mm, 5àm) + Pha động: (acid formic 0,1%/nước) : B (ACN) với chương trình chạy nhƣ bảng 3.1 và 3.2
+ Detector D D: bước sóng 244 nm + Tốc độ dòng: 1,0 ml/phút
+ Thể tích tiêm mẫu: 10 μl + Nhiệt độ buồng cột: 20 ± 0,8 ◦ C + Dung môi pha mẫu: MeOH
- Đường chuẩn: y = 4,8428x + 7,4895, R 2 = 0,9997, khoảng nồng độ 18,75 –
- Giới hạn phỏt hiện: 4,6875 àg/ml
Phân tích eurycomanone bằng HPLC đạt độ tin cậy cao với giới hạn định lượng là 15,46875 àg/ml Phương pháp này có khả năng ứng dụng hiệu quả trong việc phân tích định tính và định lượng eurycomanone trong bá bệnh.
Copyright @ School of Medicine and Pharmacy, VNU
3.2.3 Định lƣợng eurycomanone trong dƣợc liệu bá bệnh
Bá bệnh (Eurycoma longifolia Jack.) là một dược liệu quý đang được nghiên cứu và phát triển Việc đánh giá chất lượng và phân tích thành phần hoạt chất trong bá bệnh rất quan trọng Đến nay, chưa có công bố nào tại Việt Nam phân tích cụ thể định lượng hàm lượng eurycomanone trong cây bá bệnh.
Chúng tôi đã tiến hành định lượng mẫu bá bệnh và thu được kết quả cho thấy hàm lượng Eurycomanone - marker chính của cây bá bệnh, trong cao là 0,597% (5,97 mg/g) và trong rễ là 0,0761% (761 µg/g) Kết quả này chứng tỏ rằng rễ bá bệnh chứa một lượng đáng kể Eurycomanone, mở ra cơ hội cho các nghiên cứu chiết xuất và phân lập hợp chất này nhằm phục vụ cho việc chăm sóc sức khỏe con người.
Theo tiêu chuẩn Malaysia, hàm lượng eurycomanone trong cao Eurycoma longifolia dao động từ 0,8% – 1,5% Kết quả khảo sát của chúng tôi cho thấy hàm lượng eurycomanone chỉ đạt 0,597%, thấp hơn tiêu chuẩn Điều này mở ra cơ hội để tối ưu hóa quy trình chiết xuất nhằm tăng cường lượng eurycomanone thu được Tài liệu cũng chỉ ra rằng, trong chiết xuất ethanol, hàm lượng eurycomanone vượt quá giới hạn cho phép nhưng ở dạng sáp dính Trong khi đó, chiết xuất bằng nước cho năng suất cao hơn và ở dạng bột, thuận tiện hơn cho sản xuất thương mại Do đó, nghiên cứu chiết xuất eurycomanone bằng nước có thể là hướng đi tiềm năng cho việc phát triển dược liệu này.
KẾT LUẬN VÀ KIẾN NGHỊ KẾT LUẬN
Sau một quá trình thực nghiệm, chúng tôi đã thu đƣợc một số kết quả đáp ứng mục tiêu của đề tài nghiên cứu đã đề ra nhƣ sau:
Phương pháp định lượng eurycomanone đã được xây dựng và thẩm định bằng phương pháp HPLC với các tiêu chí như độ chọn lọc, độ tuyến tính, độ chính xác và độ đặc hiệu Kết quả cho thấy phương pháp này đạt độ chính xác và độ đặc hiệu cao.
Trong khoảng nồng độ khảo sát eurycomanone có mối tương quan tuyến tính chặt chẽ giữa nồng độ và diện tích pic
- Phương pháp có tính chọn lọc với eurycomanone, pic của eurycomanone tách riêng ra khỏi các pic khác
- Có sự tương quan tuyến tính chặt chẽ giữa đáp ứng phân tích và nồng độ eurycomanone trong khoảng nồng độ khảo sát với R 2 = 0,9997
- Phương pháp có độ đúng cao
Đã tiến hành định lượng thành phần eurycomanone trong bá bệnh bằng phương pháp HPL-DAD, cho kết quả hàm lượng eurycomanone trong cao rễ bá bệnh là 0,597% (tương đương 5,97 mg/g) và trong rễ bá bệnh là 0,0761% (tương đương 761 µg/g).
Nghiên cứu ban đầu về eurycomanone trong bá bệnh đã được thực hiện với cả phương pháp định tính và định lượng Chúng tôi sẽ tiếp tục phát triển những kết quả này và tiến hành các nghiên cứu tiếp theo để mở rộng hiểu biết về hợp chất này.
1 Khảo sát các thành phần quassinoid trong bá bệnh đƣợc trồng ở những nơi khác nhau
2 Áp dụng phương pháp này để định lượng eurycomanone có trong một số chế phẩm chứa bá bệnh
Copyright @ School of Medicine and Pharmacy, VNU
TÀI LIỆU THAM KHẢO Tài liệu tiếng Việt
[1] Đỗ Huy ích, Đặng Quang hung, ùi Xuân hương, Nguyễn
Thƣợng Dong cùng cộng sự (2003), Cây thuốc và Động vật làm thuốc ở Việt Nam tập 1, Nhà xuất bản khoa học kỹ thuật, tr 116-118
[2] Đỗ Tất Lợi (2006), Những cây thuốc và vị thuốc Việt Nam, Nhà xuất bản Y Học, Hà Nội, tr.412-413
[3] Bộ Y tế, Viện Kiểm nghiệm thuốc Trung ƣơng (2007), Đảm bảo chất lượng thuốc và một số phương pháp kiểm nghiệm thuốc, tr 107-
[4] Bộ Y tế, Vụ khoa học và đào tạo (2007), Kiểm nghiệm dược phẩm,
Nhà xuất bản Y học, tr 79-82, 84-110
[5] Nguyễn Văn Đàn, Nguyễn Viết Tựu (1985), Phương pháp nghiên cứu hoá học cây thuốc, Nhà xuất bản Y học, tr 8-99, 162-196, 234 -
[6] Thái Phan Quỳnh Nhƣ (2001), Phương pháp phân tích bằng sắc ký lỏng hiệu năng cao (HPLC), Viện kiểm nghiệm Bộ y tế
[7] Trường Đại học Dược Hà Nội, Bộ môn hoá phân tích (2006), Hoá phân tích II, tr 17, 99-146, 173-222
Viện Kiểm nghiệm An toàn Vệ sinh Thực phẩm Quốc gia (2010) đã thực hiện thẩm định phương pháp trong phân tích hóa học và vi sinh vật, với thông tin chi tiết được công bố trong cuốn sách của Nhà xuất bản Khoa học và Kỹ thuật, trang 19-47.
Trần Ý Đoan Trang (2014) đã thực hiện nghiên cứu về thành phần hóa học và hoạt tính sinh học của các dịch chiết từ rễ cây mật nhân (E Longifolia), đồng thời khảo sát ứng dụng của chúng trong công nghệ thực phẩm Luận văn thạc sĩ này cung cấp những thông tin quan trọng về tiềm năng của cây mật nhân trong lĩnh vực thực phẩm.
[10] Nguyễn Thị Thu Hương, Trần Công Luận, Trần Mỹ Tiên, Nguyễn
Nghiên cứu của Thanh Hồng Vân (2012) trên chuột nhắt trắng (Mus musculus) đã khảo sát tác dụng hướng sinh dục nam từ dịch chiết cồn của rễ bách bệnh (Eurycoma Longifolia Jack) Kết quả nghiên cứu được công bố trên Tạp chí Y học TP Hồ Chí Minh, số 16(1), trang 186-191, cho thấy tiềm năng của Eurycoma Longifolia Jack trong việc cải thiện chức năng sinh dục nam.
[11] Chu Hoàng Hà, Hoàng Hà, Phạm Bích Ngọc, Lâm Đại Nhân,
Nguyễn Đình Trọng (2012), ―Nghiên cứu khả năng tạo rễ tơ của cây
Bá bệnh (Eurycoma longifolia Jack) thông qua vi khuẩn agrobacterium rhizogenes‖, Tạp chí Khoa học và Công nghệ 50, tr
[12] Chu Hoàng Hà, Hoàng Thị Thu Hằng, Chu Nhật Huy, Nguyễn Trung