Tổng quan về hội chứng ruột kích thích
Theo y học hiện đại
Hội chứng ruột kích thích (IBS) là một bệnh lý đặc trưng bởi đau bụng và rối loạn tiêu hóa, thường không có tổn thương thực thể ở đại tràng Các triệu chứng đi kèm bao gồm đi ngoài nhiều lần trong ngày, trướng bụng và đầy hơi Nguyên nhân của hội chứng này thường liên quan đến rối loạn vận động đại tràng, có thể là tăng hoặc giảm, dẫn đến tình trạng tiêu chảy hoặc táo bón, cùng với sự quá mẫn cảm của đại tràng Bệnh cũng có mối liên hệ chặt chẽ với trạng thái tinh thần, cho thấy yếu tố tâm lý đóng vai trò quan trọng trong sự phát triển của hội chứng.
Các vận động ở đại tràng bao gồm co bóp phân đoạn và các sóng nhu động [7]:
Co bóp phân đoạn trong đại tràng giúp nhào trộn thức ăn và tăng cường tiếp xúc với niêm mạc, từ đó nâng cao khả năng hấp thu Quá trình co bóp này diễn ra chậm và không đều, giúp thức ăn lưu lại lâu hơn trong đại tràng để tiêu hóa và hấp thu nước hiệu quả.
Các sóng nhu động trong hệ tiêu hóa đóng vai trò quan trọng trong việc đẩy thức ăn về phía trực tràng Quá trình này diễn ra tuần tự từ trên xuống dưới, phụ thuộc vào chất lượng thức ăn, yếu tố thần kinh và thể dịch Đại tràng phải có nhu động yếu, trong khi nhu động càng mạnh ở bên trái để tống phân xuống trực tràng Thỉnh thoảng cũng xảy ra những sóng phản nhu động, nhưng chúng thường yếu.
Đại tràng có một cơ chế co bóp đặc biệt gọi là co bóp khối, diễn ra khi đoạn đại tràng ngang bị căng Trong quá trình này, co bóp vòng xuất hiện, ép chất phân ở đoạn ruột phía dưới thành khối Co bóp này tăng cường trong khoảng 30 giây, sau đó ruột giãn ra trong 2-3 phút, và lại xuất hiện co bóp khối ở đoạn ruột xa hơn Chuỗi vận động này chỉ diễn ra trong nửa giờ và có thể lặp lại sau nửa ngày hoặc một ngày Khi co bóp khối đẩy khối phân đến trực tràng, nó gây cảm giác muốn đại tiện do sự co phản xạ của trực tràng và giãn cơ thắt hậu môn.
Tiêu chuẩn Rome IV phân loại hội chứng ruột kích thích như sau [37]:
- IBS-D (tiêu chảy chiếm ưu thế): Phân lỏng chiếm hơn 25% thời gian và phân cứng dưới 25% thời gian
- IBS-C (táo bón chiếm ưu thế): Phân cứng chiếm hơn 25% thời gian và phân lỏng ít hơn 25% thời gian
- IBS-M (phân hỗn hợp): Cả phân cứng và lỏng chiếm hơn 25% thời gian
IBS-U là tình trạng bệnh nhân đáp ứng đủ tiêu chí chẩn đoán hội chứng ruột kích thích, nhưng các triệu chứng cơ năng của ruột không thể được phân loại rõ ràng vào bất kỳ nhóm nào đã nêu.
Hình 1.1 Thang điểm Bristol đánh giá tính chất phân [39]
Tăng nhận cảm nội tạng
Cảm giác đau tạng tăng lên do kích thích các receptor cơ học, với sự cảm thụ nội tạng diễn ra qua việc kích hoạt đường thần kinh hướng tâm Điều này xảy ra khi có các kích thích tác động vào thụ cảm thể hoá học trên niêm mạc, thụ cảm thể cơ học của cơ trơn, và thụ cảm thể cảm giác của mạc treo ruột.
Rối loạn vận động bất thường của ruột
Rối loạn bất thường của ruột có thể xuất hiện ở các đoạn khác nhau trong ruột, cả khi đói và sau khi ăn Đối với bệnh nhân mắc hội chứng ruột kích thích, đại tràng thường có phản ứng thái quá và kéo dài với thức ăn, tùy thuộc vào thể bệnh cụ thể.
Vận chuyển nhanh trong ruột non có thể dẫn đến giảm hấp thu tại niêm mạc, gây ra tình trạng đại tiện lỏng Ngược lại, vận chuyển chậm làm tăng khả năng hấp thu nước, gây táo bón, từ đó tạo điều kiện cho vi khuẩn phát triển và có thể gây ra tiêu chảy.
Tốc độ nhu động đẩy trong ruột không tỉ lệ thuận với co cơ tại chỗ Ở bệnh nhân táo bón, co thắt đoạn quá mức làm giảm khả năng đẩy phân ra ngoài, trong khi đó, đại tiện lỏng lại có sự giảm co thắt đoạn và tăng nhu động đẩy.
Thay đổi sự chịu đựng của ruột, một số đoạn ruột giảm khả năng chịu áp lực của khối thức ăn
Sự gia tăng phản ứng của ống tiêu hóa trước các yếu tố stress tâm lý như lo âu, buồn bực, trầm cảm và căng thẳng, cùng với việc không dung nạp một số loại thực phẩm và tiền sử viêm nhiễm tiêu hóa, đều có vai trò quan trọng trong cơ chế bệnh sinh của hội chứng ruột kích thích.
Theo y học cổ truyền
Thuộc phạm vi chứng Tiết tả [6], táo kết của Y học cổ truyền [13]
Tiết tả là tình trạng bệnh lý gây ra việc đi đại tiện nhiều lần với phân loãng, thậm chí nặng có thể dẫn đến đi tả nước Theo quan niệm xưa, phân lỏng nhưng không gấp được gọi là tiết, trong khi phân loãng như nước dốc xuống được gọi là tả Nội kinh đã phân loại tiết tả thành 5 chứng: Cam tiết (đi sột sệt), đường tiết (đại tiện lỏng), hư tiết (đại tiện như cứt cò), nhu tiết và sáp tiết (đại tiện ra thức ăn chưa tiêu, có liên quan đến thấp và phong).
- Táo kết do nhiều nguyên nhân gây ra: Âm hư, huyết nhiệt, huyết hư, khí hư và khí trệ [23]
Bệnh chủ yếu liên quan đến sự rối loạn và suy giảm công năng của ba tạng Can, Tỳ, Thận [11],[12]
Tỳ và Vị có mối quan hệ chặt chẽ trong việc tiêu hóa và phân phối dinh dưỡng Vị chịu trách nhiệm thu nạp thức ăn và đồ uống, trong khi Tỳ điều hành quá trình tiêu hóa, đảm bảo tinh khí được phân bố cho các tạng Quá trình này cần tuân theo nguyên tắc Tỳ chủ thăng, Vị chủ giáng để đảm bảo sức khỏe.
- Tỳ và Can (tương khắc): Vì một lý do nào đó Can vượng lên hoặc Tỳ suy yếu thì sẽ sinh ra Can Tỳ bất hòa mà sinh bệnh [22]
- Tỳ và Thận (tương khắc): Tỳ hư thủy thấp sẽ đình đọng gây tiêu chảy, phù nề, bụng trướng [22]
- Thấp tà hại Tỳ khiến công năng vận hóa bị trở ngại, thủy thấp tràn xuống dưới, thanh trọc bất phân, thăng phát thất thường sinh tiết tả [23].
Tổng quan về thuốc điều trị hội chứng ruột kích thích
Thuốc y học hiện đại
1.2.1.1 Thu ố c ch ố ng co th ắ t
Kháng cholinergic là loại thuốc có khả năng đối kháng với acetylcholine Mặc dù atropin không ảnh hưởng nhiều đến nhu động ruột bình thường, nhưng nó có tác dụng làm giảm nhu động khi ruột co thắt và tăng nhu động trong các trường hợp khác.
Mebeverine (Duspatalin) là một dẫn xuất của papaverine, có tác dụng chống co thắt cơ trơn mà không làm giảm trương lực cơ Thuốc giúp bình thường hóa các vận động của ruột, từ tình trạng táo bón đến tiêu chảy, đồng thời giảm độ nhạy cảm quá mức của ruột.
1.2.1.2 Thu ốc điề u hoà ch ức năng vận động đườ ng tiêu hoá
- Trimebutin (Debridat): Đây là thuốc tác dụng trên hệ enkephalinergic bằng cách kích thích các thể cảm thụ thể enkephalinergic ở ruột khi có rối loạn nhu động ruột [3]
1.2.1.3 Thu ố c ch ố ng tr ầ m c ảm (amitriptyline, imipramine, desipramin…)
Các loại thuốc này được chỉ định cho bệnh nhân mắc hội chứng ruột kích thích, đặc biệt là những người có triệu chứng nặng hoặc kéo dài, thường đi kèm với lo âu và trầm cảm.
1.2.1.4 Thu ố c kháng th ụ th ể 5-HT3
- Có tác dụng làm giảm trương lực cơ ruột sau khi ăn nên có tác dụng giảm triệu chứng đau bụng và khó chịu ở bụng
- Kháng 5-HT3 được dùng điều trị hội chứng ruột kích thích có đau và tiêu chảy chiếm ưu thế ở nữ giới [3]
1.2.1.5 Thu ố c ch ố ng tiêu ch ả y
Smecta, một loại chất hấp phụ với cấu trúc từng lớp và độ nhầy cao, có khả năng bao phủ niêm mạc ruột hiệu quả Thuốc tương tác với glycoprotein trong chất nhầy, giúp tăng cường sức chịu đựng của lớp gel dính trên niêm mạc khi bị tấn công Nhờ vào tác động này, Smecta bảo vệ niêm mạc tiêu hóa một cách hiệu quả.
- Các chất làm giảm tiết dịch, giảm nhu động ruột (Loperamide) [3]
1.2.1.6 Thu ố c ch ố ng táo bón
- Dùng chất xơ, thuốc nhuận tràng, thuốc điều chỉnh vận động ống tiêu hoá
Để cải thiện tình trạng táo bón, việc bổ sung ít nhất 12g chất xơ mỗi ngày là rất cần thiết Chất xơ không chỉ giúp giữ nước mà còn làm tăng khối lượng phân và thúc đẩy quá trình lên men, từ đó mang lại hiệu quả chống táo bón tốt.
Thuốc nhuận tràng như Lactulose, Macrogol và Anthraquinon, chủ yếu tăng nhu động ở đại tràng và thường cần sử dụng trong nhiều ngày Những loại thuốc này có thể kích thích trực tiếp niêm mạc ruột hoặc tác động gián tiếp bằng cách tăng khối lượng phân và giữ nước, giúp làm mềm phân hiệu quả.
- Thuốc đồng vận 5-HT4: Tegaserod (thuốc đồng vận 5-HT4 mới) có hiệu quả trong điều trị hội chứng ruột kích thích với triệu chứng táo bón chiếm ưu thế [3].
Thuốc y học cổ truyền
Năm 2010, Nguyễn Minh Hà và cộng sự đã nghiên cứu tác dụng điều trị hội chứng ruột kích thích của viên nang Thống tả yếu phương trên thực nghiệm Kết quả cho thấy tỷ lệ phân táo và lỏng của hai lô uống Thống tả yếu phương giảm có ý nghĩa so với trước điều trị, đồng thời hàm lượng serotonin trong huyết tương của hai lô chuột tương đương và có dấu hiệu stress giảm dần, trở về trạng thái bình thường.
Năm 2015, nghiên cứu của Nguyễn Thị Lan về bài thuốc “Kiện Tỳ hành khí chỉ tả thang” đã chỉ ra rằng bài thuốc này có hiệu quả trong việc điều trị hội chứng ruột kích thích qua các thí nghiệm thực nghiệm.
Năm 2007, Nguyễn Thị Tuyết Nga và cộng sự đánh giá tác dụng của bài thuốc “Tứ thần hoàn” trong điều trị hội chứng ruột kích thích thể lỏng trên
Trong một nghiên cứu với 162 bệnh nhân, 80% đã hết triệu chứng đại tiện lỏng, 82,4% số bệnh nhân có tần suất đại tiện trở về bình thường, và 93,6% đã không còn hiện tượng phân nhày Đặc biệt, 76,5% bệnh nhân đã hết đau bụng, cho thấy hiệu quả điều trị đạt 61,2%.
Năm 2007, nghiên cứu của Chu Quốc Trường và cộng sự cho thấy hế mọ có tác dụng tích cực trong điều trị hội chứng ruột kích thích, với 79,5% bệnh nhân hết đau bụng, 82,1% hết triệu chứng căng chướng và 79,5% hết rối loạn phân.
Năm 2014, nghiên cứu của Nguyễn Tiến Dũng trên 60 bệnh nhân hội chứng ruột kích thích thể Tỳ dương hư cho thấy bài thuốc “Bồi thổ cố trung phương” kết hợp với Duspatalin mang lại hiệu quả điều trị tốt (60%) sau 30 ngày.
Tổng quan về bài thuốc “Đại tràng - HV” sử dụng trong nghiên cứu 10 1 Thành phần bài thuốc
Phân tích cơ chế tác dụng của bài thuốc “Đại tràng - HV”
1.3.2.1 Theo dượ c lý h ọ c hi ện đạ i
Tinh dầu của Trần bì có tác dụng kích thích nhẹ hệ tiêu hóa, giúp ruột bài tiết khí tích trệ dễ dàng và tăng tiết dịch vị, từ đó cải thiện quá trình tiêu hóa Ngoài ra, Trần bì còn chứa humulene và anpha humulenol acetat, có tác dụng tương tự như vitamin P Nghiên cứu cho thấy khi tiêm humulene vào ổ bụng chuột nhắt với liều 25-175mg/kg, nó có tác dụng kháng histamin và tăng tính thấm thành mạch.
Bán hạ chứa nhiều thành phần quan trọng như alkaloid, cholesterol thực vật, amino acid, saponin và protein, giúp cầm nôn, giảm cảm giác đầy bụng, sôi bụng và hỗ trợ điều trị tiêu chảy.
Phục linh có tác dụng tăng cường hệ miễn dịch và chống viêm, trong khi cam thảo giúp làm lành vết loét nhanh chóng, tăng sức đề kháng của cơ thể khi đối mặt với stress, đồng thời giảm co thắt cơ trơn và đau quặn bụng, góp phần cải thiện tình trạng hội chứng ruột kích thích.
Bạch truật có tác dụng điều tiết hai chiều đối với hội chứng ruột kích thích, ức chế khi ruột hưng phấn và hưng phấn khi ruột ức chế, nhờ vào sự liên kết với hệ thống thần kinh thực vật, giúp chữa trị cả táo bón và tiêu chảy Ngoài ra, bạch truật còn có tác dụng chống viêm nhẹ Đảng sâm có khả năng tăng cường miễn dịch, giảm stress, kháng viêm, và điều chỉnh tần số cũng như biên độ nhu động ruột, góp phần vào việc giảm nguy cơ hội chứng ruột kích thích.
Hương phụ: có tác dụng kháng viêm, giảm đau, an thần nhẹ, do đó làm giảm các phản ứng của hội chứng ruột kích thích [10],[2],[20]
Sa nhân có nồng độ cao có tác dụng ức chế nhu động ruột ở chuột lang được cô lập, từ đó giúp giảm triệu chứng đau bụng.
Bạch thược có tác dụng tăng cường hệ miễn dịch, an thần, và giảm đau thông qua việc ức chế trung khu thần kinh Ngoài ra, nó còn có khả năng chống viêm và giãn nhẹ cơ trơn đường tiêu hóa, giúp giảm đau hiệu quả.
Thần khúc: kích thích tiết dịch tiêu hóa, có tác dụng hỗ trợ tiêu hóa
1.3.2.2 Theo ph ối ngũ lập phương y họ c c ổ truy ề n
“Hương sa lục quân” được tạo thành từ “Lục quân tử” với sự bổ sung của hương phụ và sa nhân; “Lục quân tử” lại được hình thành từ “Tứ quân tử” cộng thêm Trần bì và bán hạ Theo “Phương tễ học”, bài thuốc này có tác dụng kiện tỳ, ích khí, điều hòa khí cơ, giúp trị tỳ vị khí hư, hàn thấp ứ ở trung tiêu, giảm triệu chứng như đầy trướng, đau bụng, chán ăn, ợ hơi, nôn mửa, và tiêu chảy Riêng “Tứ quân tử” giúp kiện tỳ vị, ích khí, hòa trung, chủ trị tỳ vị suy yếu, khí hư, mệt mỏi, mặt vàng, người gầy, ăn uống giảm sút “Lục quân tử” không chỉ kiện tỳ, bổ khí mà còn hóa đờm, trị tỳ vị hư yếu, rối loạn tiêu hóa, và viêm khí quản mạn tính, nhờ vào tác dụng của bán hạ và trần bì trong việc táo thấp hóa đàm.
Nhóm nghiên cứu đã cải tiến công thức “Hương sa lục quân” bằng cách bổ sung vị thuốc bạch thược, giúp kiện tỳ hóa đàm, hòa can dưỡng huyết, hoãn cấp và chỉ thống Đồng thời, thần khúc cũng được thêm vào với tác dụng tiêu thực hòa vị, hỗ trợ giảm triệu chứng của hội chứng ruột kích thích, đặc biệt là chứng “Tiết tả/Táo kết”.
Tổng quan về các mô hình gây hội chứng ruột kích thích trên thực nghiệm được sử dụng phổ biến hiện nay
Mô hình gây hội chứng ruột kích thích bằng stress
Nguyễn Minh Hà và cộng sự (2010) đã nghiên cứu mô hình hội chứng ruột kích thích do stress bằng cách ngâm chuột trong nước kéo dài, gây ra rối loạn hoạt động thần kinh và ảnh hưởng đến hệ thống thần kinh giao cảm và phó giao cảm Biểu hiện của stress kéo dài bao gồm rối loạn nhu động ruột, dẫn đến phân táo, lỏng hoặc hỗn hợp, cùng với sự giảm hoạt động bình thường, thể hiện qua cảm giác sợ hãi và ít tiếp xúc của chuột nghiên cứu.
Nghiên cứu đã gây ra hội chứng ruột kích thích ở chuột bằng cách cho chúng vào ống nhựa hình trụ có đường kính 2,5cm, được gắn vào hệ thống giá đỡ Chuột được ngâm trong nước ở nhiệt độ 22,1 độ C, với độ sâu ngập 8cm, trong thời gian 1 giờ mỗi ngày liên tục trong 10 ngày.
Mô hình gây hội chứng ruột kích thích bằng TNBS
Năm 2012, Zhonghan Yang và cộng sự thực hiện nghiên cứu đánh giá tác dụng của IBS-20, một bài thuốc tổng hợp chiết xuất từ các vị thuốc y học cổ truyền, dựa trên hai bài thuốc cổ phương là Thống tả yếu phương và Trung mãn phân tiêu hoàn, trên mô hình in vivo.
- Chuột C57BL 6 tuần tuổi được uống TNBS (một chất gây viêm ruột) liều 2mg/gam/chuột trong 40 ml ethanol để gây tăng nhu động ruột và viêm đại tràng
- Dịch chiết IBS-20 hàm lượng 1ml tương ứng 50mg chiết xuất IBS-20
- Chuột ở các lô trị được uống IBS-20 với liều 1ml/ngày (tương đương liều dùng trên người) cùng thời điểm với TNBS
- Chuột ở lô chứng được uống nước muối sinh lý
- Thời gian điều trị và theo dõi là 7 ngày liên tục
Nghiên cứu cho thấy IBS-20 có tác dụng chống viêm mạnh mẽ, ức chế sản xuất cytokine tiền viêm từ tế bào miễn dịch và ngăn chặn sự phá vỡ hàng rào tế bào biểu mô do chất trung gian gây viêm Ngoài ra, IBS-20 còn có khả năng ức chế sự điều hòa tăng của cytokine gây viêm trong đại tràng bị viêm in vivo.
Mô hình gây hội chứng ruột kích thích bằng acid acetic
Năm 2017, Qian Li và cộng sự đã tiến hành nghiên cứu mô hình hội chứng ruột kích thích bằng cách tăng cường mẫn cảm của đại tràng ở chuột Sprague-Dawley 10 ngày tuổi thông qua việc truyền vào trực tràng acid acetic 0,5% (200µl), trong khi nhóm chứng được truyền nước muối sinh lý Sau 8 tuần nuôi dưỡng, sự mẫn cảm của đại tràng được đánh giá bằng cách sử dụng điện cực cấy dưới da bụng để theo dõi phản xạ cơ thành bụng và nhu động ruột.
Mô hình gây hội chứng ruột kích thích kèm viêm ruột bằng ấu trùng Trichinella spiralis
Năm 2018, Li Zeng và các đồng nghiệp đã thực hiện nghiên cứu để đánh giá hiệu quả điều trị của ALW-II-41-27, một chất ức chế EphA2, trong điều trị hội chứng ruột kích thích kèm theo nhiễm trùng đường ruột Nghiên cứu này được tiến hành trên động vật thực nghiệm.
Chuột đực C57BL, 6 tuần tuổi và nặng từ 18-20 gam, được nuôi trong môi trường phòng thí nghiệm động vật vô trùng Điều kiện sống của chúng được duy trì với nhiệt độ 23 ± 2 độ C, độ ẩm 65 ± 5%, và chu kỳ sáng/tối là 12 giờ/12 giờ.
- Động vật được cung cấp thức ăn và nước uống đầy đủ
- Sau 7 ngày thích nghi với môi trường, 60 con chuột được chia ngẫu nhiên thành sáu nhóm (mỗi nhóm 10 con)
Gây mô hình hội chứng ruột kích thích có kèm nhiễm trùng đường ruột
Mô hình hội chứng ruột kích thích có kèm theo nhiễm trùng đường ruột được tạo ra bằng cách cho chuột nhiễm Trichinella spiralis ấu trùng với liều lượng 300 ấu trùng mỗi chuột qua đường miệng, sử dụng 0,2 ml dung dịch muối.
Bốn lô nhiễm Trichinella spiralis ấu trùng đã được điều trị bằng ALW-II-41-27, với liều lượng 12,5 àg/kg, 25 àg/kg, 50 àg/kg hoặc 100 àg/kg, được tiêm vào màng bụng mỗi ngày một lần trong 7 ngày liên tiếp.
- Lô chứng không nhiễm Trichinella spiralis ấu trùng và nhóm nhiễm Trichinella spiralis ấu trùng được tiêm màng bụng bằng nước muối sinh lý
- Trước 1 ngày và sau 1 ngày dùng thuốc, đo trọng lượng cơ thể và lượng nước trong phân của tất cả chuột Đánh giá nhu động ruột
Đánh giá nhu động ruột được thực hiện bằng cách cho chuột ăn bột than, sau đó xác định quãng đường mà than di chuyển trong ruột trong một khoảng thời gian nhất định.
Trước khi tiến hành đo nhu động đường tiêu hóa, chuột sẽ được nhịn ăn qua đêm Sau đó, chúng sẽ được cho uống 0,2 ml dung dịch gồm 10% than củi pha trong dung dịch keo 5% qua một ống nhỏ vào dạ dày.
Sau 30 phút tiêu hóa dung dịch uống, tiến hành đo tổng chiều dài từ môn vị đến manh tràng Nhu động đường tiêu hóa được xác định qua tỷ lệ phần trăm chiều dài ruột mà than củi đi qua Độ nhạy cảm của ruột được đánh giá bằng điểm AWR.
Vào ngày thứ 14 sau khi nhiễm Trichinella spiralis, chuột được gây mê bằng ether để thực hiện quy trình đặt một quả bóng nhỏ bơm hơi vào đại tràng, nhằm đánh giá độ nhạy cảm của ruột.
Sau khi tỉnh dậy và thích nghi với môi trường trong 1 giờ, bóng hơi được bơm vào đại tràng chuột trong khoảng 20 giây, sau đó nghỉ ngơi trong 30 giây tiếp theo Phản ứng của chuột đối với các kích thích này được đánh giá theo nhiều mức độ khác nhau.
1 = chuyển động đầu đơn giản, sau đó bất động
4 = uốn cong cơ thể và nâng hông
Với mức AWR bằng 3 – nâng bụng, chuột được xác định có hội chứng ruột kích thích.
Mô hình gây hội chứng ruột kích thích bằng dầu mù tạt sử dụng
Dầu mù tạt là một chất kích hoạt tế bào thần kinh mạnh, được sử dụng để gây viêm đại tràng cấp tính trong nghiên cứu của Kimball E.S và cộng sự (2005) Nghiên cứu trên chuột cho thấy, sau khi tiêm 0,5% dầu mù tạt, viêm đại tràng đạt đỉnh vào ngày thứ 3, giảm vào ngày thứ 7 và hết hẳn vào ngày thứ 14 Liều lượng 1% có thể gây viêm đại tràng nhẹ trong vòng 24 giờ Ở giai đoạn cao điểm, chuột bị giảm khối lượng đại tràng, co rút, và sau đó là dày lên của thành đại tràng, tăng khối lượng, co thắt và tiêu chảy Kiểm tra mô học cho thấy tổn thương viêm không liên tục kèm theo loét, mất biểu mô, thâm nhiễm viêm, phá hủy cấu trúc niêm mạc, phù nề và mất cấu trúc cơ trơn.
Dầu mù tạt có thể gây viêm đại tràng cấp tính và nhanh chóng, đồng thời dẫn đến những thay đổi chức năng trong nhu động ruột ngay cả khi không có viêm tổng thể Khi tình trạng viêm đã giảm, nhu động ruột có thể tương tự như hội chứng ruột kích thích, cho thấy đây là mô hình lý tưởng để nghiên cứu các rối loạn liên quan đến hội chứng này ở con người.
Mô hình gây viêm đại tràng được sử dụng để tái hiện các triệu chứng của hội chứng ruột kích thích sau viêm, và đã được đề cập trong nhiều nghiên cứu gần đây.
Vào năm 2015, Nguyễn Thị Lan cùng các cộng sự đã thực hiện nghiên cứu để đánh giá hiệu quả của bài thuốc Kiện tỳ hành khí chỉ tả thang trên động vật thực nghiệm Họ đã áp dụng phương pháp đưa dầu mự tạt với liều 100 àl vào trực tràng của chuột nhắt trắng nhằm mô phỏng các triệu chứng của hội chứng ruột kích thích.
Aihong Song và cộng sự (2015) đã phát triển mô hình hội chứng ruột kích thích bằng cách tiêm dầu mù tạt 1% hòa tan trong 70% ethanol vào ruột chuột gây mê qua ống thông nhỏ Sau khi tiêm, chuột được đặt trong các lồng riêng biệt trong môi trường yên tĩnh Năm phút sau, các phản ứng đau tự phát của chuột như liếm bụng, căng bụng, đè bụng dưới xuống sàn và co rút bụng đã được quan sát và đánh giá trong vòng 20 phút.
Trần Phi Hùng và cộng sự (2016) đã nghiên cứu việc sử dụng dầu mù tạt tiêm vào đại tràng để gây ra hội chứng ruột kích thích thứ phát trên chuột Sau khi gây mê bằng thropental, họ đã tiêm 100µl dung dịch dầu mù tạt nồng độ 5% pha trong ethanol 30% vào sâu 4cm trong đại tràng Các chuột đối chứng nhận 100µl nước muối sinh lý hoặc ethanol 30% Kết quả cho thấy mô hình hội chứng ruột kích thích trên chuột nhắt trắng thành công, với các dấu hiệu viêm, tổn thương biểu mô và tổn thương cơ trơn trở về bình thường, nhưng nhu động ruột tăng và chuột xuất hiện triệu chứng tiêu chảy vào ngày thứ 7 sau khi thực hiện thí nghiệm.
Nguyen T.T và cộng sự (2017) đã nghiên cứu tác dụng của Tràng Phục linh Plus trong việc hỗ trợ điều trị hội chứng ruột kích thích trên chuột Họ sử dụng một liều duy nhất 5% dầu mù tạt tiêm vào đại tràng, dẫn đến viêm đại tràng cấp tính do mù tạt, gây ra sự phát triển nhanh chóng của quá trình chuyển hóa đường tiêu hóa, từ đó tạo ra các biểu hiện tương tự như hội chứng ruột kích thích ở chuột.
Nghiên cứu của Yinshu Wang và cộng sự (2017) đã thực hiện mô hình hội chứng ruột kích thích trên chuột bằng cách tiêm 50μl dầu mù tạt (1% trong 70% ethanol), dẫn đến tăng nhu động và tiêu chảy, mô phỏng các triệu chứng tương tự như hội chứng ruột kích thích trên lâm sàng.
Chất liệu nghiên cứu
Chất liệu nghiên cứu là bài thuốc “Đại tràng - HV” thành phần gồm các vị thuốc:
Bảng 2.1 Thành phần bài thuốc “Đại tràng - HV”
Tên thuốc Tên khoa học [10],[1] Hàm lượng
Trần bì Pericarpium Citri reticulatae perenne 6g
Dược điển Việt Nam lần xuất bản thứ năm [2]
Mộc hương Radix Saussureae lappae 6g
Bạch truật Rhizoma Atractylodis macrocephalae 9g
Cam thảo Herba et Radix Scopariae 6g Đảng sâm Radix Codonopsis javanicae 9g
Bạch thược Radix Paeoniae lactiflorae 20g
Thần khúc Massa medicata fermentata 12g
Thuốc đạt tiêu chuẩn dược điển V [2] và tiêu chuẩn cơ sở (khoa Dược - Bệnh viện Tuệ Tĩnh)
Các vị thuốc được sử dụng dưới dạng dược liệu khô, được bào chế thành cao lỏng bằng máy sắc tự động với tỷ lệ 1:1 (1ml dung dịch chứa 1g dược liệu) Mỗi thang thuốc gồm 92g dược liệu được sắc để lấy 300ml, sau đó cô đặc đến nồng độ thích hợp cho nghiên cứu.
“Đại tràng – HV” là chế phẩm nghiên cứu đạt tiêu chuẩn cơ sở, được pha loãng với nước cất để tạo ra các dung dịch thuốc thử với nồng độ khác nhau.
Liều dùng thuốc được tính theo gram dược liệu khô, với một thang thuốc 92g dự kiến sử dụng cho một người trong một ngày Khi quy đổi ra liều tương đương trên chuột nhắt trắng với hệ số 12, liều này tương đương 22,08g/kg/ngày, được làm tròn thành 22g/kg/ngày.
Thời gian và địa điểm nghiên cứu
Nghiên cứu dự kiến được tiến hành trong thời gian từ tháng 11 năm
2019 đến tháng 3/2020 tại Bộ môn Dược lý Học viện Quân y.
Động vật thí nghiệm
- Chuột nhắt trắng chủng Swiss cả hai giống khỏe mạnh, trọng lượng 18 – 22g do Ban chăn nuôi Học viện Quân Y cung cấp
- Thỏ chủng Newzealand White, cả 2 giống, khỏe mạnh, trọng lượng 2,2 – 2,5 kg do Ban chăn nuôi Học viện Quân Y cung cấp
Ếch có trọng lượng từ 200 – 220 g, thuộc cả hai giống và đều khỏe mạnh Để thích nghi với môi trường thí nghiệm, động vật được nuôi trong 5 – 7 ngày trước khi tiến hành nghiên cứu Trong suốt quá trình nghiên cứu, chúng được cung cấp thức ăn và nước uống tự do.
Phương tiện và hóa chất sử dụng trong nghiên cứu
Phương tiện nghiên cứu
- Bể nuôi cơ quan cô lập có ổn nhiệt (Two chambers Isolated organ bath
4050) của hãng UIgo Basile (Italia)
- Máy ghi tần số và biên độ (The 2-Channei Recorder GEMINI Cat.7070) của hãng Ulgo Basile (Italia)
- Cốc đựng dung dịch có chia vạch loại 500ml, 100ml, bơm tiêm loại 20ml, 10ml, 5ml, 1ml
- Cân điện tử của hãng YMC.Co.Ltd, Nhật bản
- Bình treo đựng dung dịch Tyrod
- Dụng cụ phẫu thuật thỏ: bàn mổ, kéo, panh, kẹp, kim khâu, chỉ khâu.
Hóa chất sử dụng trong nghiên cứu
Thành phần và cách pha:
+ Tyrod A: NaCl:18g; KCl: 8,4g; CaCl 2 : 2,4g; MgCl 2 : 0,1g; Nước cất vừa đủ 1000ml + Tyrod B: NaHCO 3 : 50g; Nước cất vừa đủ 1000ml
Dung dịch Tyrod = Dung dịch A 50 ml + Dung dịch B 10ml + 0,5g glucose +
940 ml nước cất vừa đủ.
Thuốc đối chứng sử dụng trong nghiên cứu
Mỗi viên nén bao film chứa 135mg mebeverin hydrochlorid
Mebeverin là một loại thuốc chống co thắt cơ, có tác dụng trực tiếp lên cơ trơn của đường tiêu hóa mà không làm ảnh hưởng đến nhu động ruột bình thường Thuốc hoạt động bằng cách giảm độ thẩm thấu của kênh ion, phong tỏa tái hấp thu noradrenaline, gây tê cục bộ và thay đổi quá trình hấp thu nước.
Mebeverin được hấp thu nhanh chóng và hoàn toàn sau khi uống Thuốc này chủ yếu được chuyển hóa bởi các esterase thành acid veratric và mebeverin alcohol Chất chuyển hóa chính trong huyết tương là DMAC, với thời gian bán thải ổn định là 2,45 giờ Acid veratric và mebeverine alcohol được bài tiết vào nước tiểu, trong đó một phần dưới dạng axit cacboxylic tương ứng (MAC) và phần còn lại dưới dạng DMAC.
Phương pháp nghiên cứu
Đánh giá tác dụng giảm nhu động ruột
Để đánh giá tác dụng giảm nhu động ruột của thuốc “Đại tràng - HV”, chúng tôi thực hiện ghi nhận nhu động ruột của thỏ cô lập và nghiên cứu độ di động của chất chỉ thị màu trong ruột chuột nhắt trắng Để kiểm tra tác dụng tái hấp thu nước và các ion của bài thuốc này, chúng tôi tiến hành thí nghiệm trên ếch theo phương pháp của Norio Ogata và Tatsuya Baba.
2.5.1.1 Thí nghi ệm đượ c làm trên th ỏ cô l ập ex vivo và ghi nhu độ ng ru ộ t theo phương pháp Magnus
Ghi chú động ruột theo nguyên tắc đòn bẩy được thực hiện bằng bút ghi của máy photography 2 pha với tốc độ 20cm/phút, tại thời điểm trước và sau khi sử dụng thuốc thử.
- Dung dịch nuôi ruột non luôn được thay mới sau mỗi lần tiêm thuốc thử
Nghiên cứu sự co bóp của ruột thỏ được thực hiện trên giấy ghi chuyên dụng, trong đó tần số co bóp được đo bằng số lần nhu động của ruột trong 1 phút cho mỗi 20cm chiều dài Biên độ co bóp của ruột được xác định thông qua biên độ ghi lại từ bản ghi nhu động ruột.
1) Gây chết thỏ: Thỏ được gây chết đột ngột bằng phương pháp bơm khí vào tĩnh mạch tai thỏ, ngay sau đó lấy đoạn ruột làm thí nghiệm
Để tiến hành thí nghiệm, đoạn ruột thỏ được lấy ra qua đường bụng, cụ thể là đoạn ruột nằm dưới môn vị 5cm với chiều dài 2cm, đã được cắt bỏ mạc treo Ruột thỏ được nuôi trong bể cơ quan cô lập chứa dung dịch Tyrode, được thông khí và duy trì ở nhiệt độ 37 độ C nhờ bộ ổn nhiệt Một đầu đoạn ruột được cố định bằng chỉ ở đáy bể, trong khi đầu còn lại được kết nối với máy ghi Thời gian ghi nhận nhu động của từng đoạn ruột có chu kỳ từ 3 đến 5 phút.
- Bật máy ghi hoạt động của ruột ở điều kiện bình thường (30 giây)
Nhỏ thuốc "Đại tràng - HV" với ba nồng độ 1%, 2% và 3%, sau đó ghi lại hoạt động co bóp của đoạn ruột trong 30 giây, bao gồm biên độ và tần số, tại các thời điểm trước và sau khi cho thuốc.
- Đánh giá biên độ và tần số nhu động ruột ở mỗi liều, so sánh với trước khi cho thuốc
Sơ đồ 2.1 Sơ đồ ghi nhu động ruột thỏ
Lấy đoạn ruột nghiên cứu
Ghi nhu động ruột trước và sau khi có
“Đại tràng - HV” ở các nồng độ 1%, 2%, 3%
So sánh biên độ và tần số nhu động ruột sau khi có thuốc với trước khi có thuốc
2.5.1.2 Nghiên c ứu độ di độ ng c ủ a ch ấ t ch ỉ th ị màu trong lòng ru ộ t: theo phương pháp củ a Dobrescu trên chu ộ t nh ắ t tr ắ ng
- Đo độ di động của chất chỉ thị màu tại các thời điểm 20 phút, 40 phút sau khi cho chuột uống than hoạt
- Đánh giá nhu động ruột qua tỷ lệ % chiều dài đoạn ruột có than hoạt và toàn bộ chiều dài đoạn ruột So sánh giữa các lô với nhau [45]
- Chuột nhắt trắng được chia ngẫu nhiên thành 4 lô (mỗi lô 30 con) Chuột được nhịn đói 20 giờ trước khi làm thí nghiệm, cho uống nước bình thường
Chuột được chia thành bốn lô để thử nghiệm thuốc Lô 1 được cho uống nước muối sinh lý 0,9%, lô 2 uống Duspatalin (mebeverin) với liều 80 mg/kg, lô 3 uống “Đại tràng - HV” với liều 22 g/kg/ngày, và lô 4 uống “Đại tràng - HV” với liều 44 g/kg/ngày.
Trong nghiên cứu, chuột được chia thành các lô và được cho uống thuốc trong 5 ngày Vào ngày cuối cùng, sau khi uống thuốc, chuột được cho uống 0,2 ml dung dịch than hoạt 10%, được pha chế từ 10g than hoạt trong 100ml CMC 3%, sau 1 giờ.
Mỗi lô chuột, chúng tôi lấy ngẫu nhiên 10 con chuột tại hai thời điểm khác nhau là 20 phút và 40 phút sau khi cho chúng uống than hoạt Sau đó, chuột được giết mổ và khoảng cách di chuyển của than hoạt được đo bằng cách xác định độ dài đoạn ruột có vệt màu đen từ môn vị.
Nhu động ruột của chuột được xác định bằng tỷ lệ phần trăm chiều dài đoạn ruột có than hoạt so với tổng chiều dài ruột từ môn vị đến manh tràng.
80 chuột nhắt trắng chia ngẫu nhiên 4 lô, mỗi lô 20 con
Uống nước muối sinh lý 0,9% x 5 ngày
Lô 2 Uống Duspatalin (mebeverin) 80 mg/kg x 5 ngày
Lô 3 Uống “Đại tràng - HV” 22g/kg/ngày x 5 ngày
Lô 4 Uống “Đại tràng - HV” 44g/kg/ngày x 5 ngày
Uống than hoạt sau 1 giờ (tính từ thời điểm uống “Đại tràng - HV”)
Giết ngẫu nhiên 10 chuột trong mỗi lô tại thời điểm đánh giá, nhằm xác định tỷ lệ phần trăm chiều dài đoạn ruột có chứa than hoạt so với tổng chiều dài ruột từ môn vị đến manh tràng.
Đánh giá sự hấp thu nước và điện giải
Chúng tôi đã tiến hành thí nghiệm trên ếch theo phương pháp của Norio Ogata và Tatsuya Baba để đánh giá tác dụng hấp thu nước và điện giải của thuốc “Đại tràng - HV”.
- Ếch được chia làm 4 lô, mỗi lô 10 con
Phá tủy ếch và mổ bụng để lấy ruột non ra ngoài, trong khi giữ nguyên các mạch máu mạc treo và ruột Tại đoạn ruột cách môn vị khoảng 3 cm, thắt chỉ ở hai đầu để tạo ra đoạn ruột kín dài 2 cm Tiêm 1ml dung dịch thuốc hoặc nước cất vào đoạn ruột thắt bằng kim tiêm 27-G, chia thành các lô: Lô 1 tiêm nước cất, Lô 2 tiêm Duspatalin (mebeverin) 0,08%, Lô 3 tiêm “Đại tràng - HV” 1%, và Lô 4 tiêm “Đại tràng - HV” 2%.
- Sau khi tiêm, đưa đoạn ruột trở lại vào ổ bụng, đóng or bụng ếch lại, giữ ếch ở nhiệt độ phòng
- 60 phút sau, dịch trong đoạn ruột thắt được hút ra bằng kim tiêm
Các chỉ số đánh giá dịch ruột bao gồm việc đo thể tích dịch trong đoạn ruột và xác định nồng độ các ion natri, clo, kali trong dịch hút ra bằng máy đo hấp phụ nguyên tử.
Đánh giá tác dụng phục hồi tổn thương hội chứng ruột kích thích gây ra do mù tạt (isothiocianat) trên chuột nhắt trắng
Để đánh giá hiệu quả phục hồi tổn thương do hội chứng ruột kích thích gây ra bởi mù tạt của thuốc Đại tràng - HV, chúng tôi đã tiến hành nghiên cứu trên chuột nhắt trắng bằng các phương pháp đã được mô tả.
Chuột được chia thành 5 lô (mỗi lô 8 con)
- Lô 1 (chứng): đưa nước cất vào trực tràng + uống nước cất
- Lô 2 (mô hình): đưa dầu mù tạt vào trực tràng + uống nước cất
- Lô 3 (tham chiếu): đưa dầu mù tạt vào trực tràng + uống Duspatalin 80 mg/kg/ngày
40 ếch chia ngẫu nhiên 4 lô, mỗi lô 10 con
Thắt đoạn ruột 2 cm trong khoảng 3 cm từ môn vị
Tiêm 1ml thuốc, nước cất vào lòng đoạn ruột thắt
Lô 4 Tiêm “Đại tràng - HV” 2%
Sau 60 phút, hút dịch trong đoạn ruột thắt đo thể tích dịch, nồng độ các ion Na + , K + , Cl -
- Lô 4 (trị 1): đưa dầu mù tạt vào trực tràng + uống Đại tràng - HV 22 g/kg/ngày
- Lô 5 (trị 2): đưa dầu mù tạt vào trực tràng + uống Đại tràng - HV 44 g/kg/ngày
Chuột được gây viêm trực tràng cấp tính bằng cách đưa 100µl dầu mù tạt 5% (pha loãng trong ethanol 30%) vào trực tràng sâu 4cm qua catheter Đối với lô chứng không gây viêm, sử dụng nước cất thay cho dung dịch dầu mù tạt 5% để bơm vào trực tràng chuột Sau khi gây viêm trực tràng cấp tính, các chuột được cho uống thuốc hoặc nước cất theo phân lô trong vòng 10 ngày.
Các chỉ số đánh giá:
- Sự phát triển cân nặng của chuột
Sau 10 ngày từ khi gây mô hình bằng cách đưa dầu mù tạt vào trực tràng, chúng tôi tiến hành đánh giá nhu động ruột thông qua việc đo độ di động của than hoạt trong lòng ruột theo phương pháp của Dobrescu Đồng thời, phẫu tích đại tràng được thực hiện để đánh giá tổn thương đại thể và vi thể, với việc cho điểm theo thang điểm quy định trong bảng 2.2 và bảng 2.3.
Bảng 2.2 Đánh giá đại thể đại tràng
Chỉ số Mức độ chỉ số đại thể
Không định hình/dính Ỉa chảy
Viêm nhẹ, phù tại chỗ
Viêm trung bình hoặc lan rộng
Viêm nặng hoặc viêm lan tỏa
Loét thủng, tổn thương chảy máu
Bảng 2.3 Đánh giá mô học (vi thể đại tràng)
Chỉ số Mức độ chỉ số vi thể
Bình thường < 33% chiều dài mô 33 – 66% > 66%
Thâm nhiễm tế bào Không
1-2 khu vực trung tâm (focal area) hoặc mức độ thâm nhiễm tế bào viêm
> 2 khu vực trung tâm (focal area) hoặc mức độ thâm nhiễm tế bào viêm 33% - 66% chiều dài mô
Mức độ thâm nhiễm tế bào viêm
Bình thường ≤ 33% chiều dài mô > 33 – 66% > 66%
Sơ đồ 2.4 Sơ đồ đánh giá tác dụng phục hồi tổn thương hội chứng ruột
Phương pháp xử lý số liệu
Các số liệu nghiên cứu đã được phân tích thông qua thuật toán thống kê y sinh học, sử dụng phần mềm Microsoft Excel 2007 và SPSS 16.0 Sự khác biệt được coi là có ý nghĩa thống kê khi p 0,05).
Nghiên cứu cho thấy, khi sử dụng thuốc “Đại tràng - HV” với nồng độ 2% trong dung dịch Tyrode, tần số co bóp của ruột thỏ cô lập giảm đáng kể so với trước khi dùng thuốc, với mức ý nghĩa thống kê p < 0,05.
Nồng độ 3% của thuốc “Đại tràng - HV” trong dung dịch Tyrode đã làm giảm tần số co bóp của ruột thỏ cô lập, với kết quả đạt ý nghĩa thống kê (p > 0,01).
Bảng 3.2 Ảnh hưởng của các nồng độ thuốc “Đại tràng - HV” tới biên độ co bóp của ruột thỏ cô lập (Mean ± SD, n = 8)
Biên độ co bóp (mm) Trước khi có thuốc p
Sau khi có thuốc (𝐗̅ ± SD)
Nghiên cứu cho thấy, khi sử dụng thuốc “Đại tràng - HV” với nồng độ 1% và 2% trong dung dịch Tyrode, tần số co bóp của ruột thỏ cô lập giảm đáng kể so với trước khi dùng thuốc, với mức ý nghĩa thống kê p < 0,05.
Sử dụng thuốc “Đại tràng - HV” với nồng độ 3% trong dung dịch Tyrode đã làm giảm tần số co bóp của ruột thỏ cô lập, và sự thay đổi này có ý nghĩa thống kê với p > 0,01.
Tác dụng của “Đại tràng - HV” lên nhu động ruột thông qua độ di động của chất chỉ thị màu trong lòng ruột nhắt trắng
Kết quả được trình bày ở bảng 3.3 và 3.4
Bảng 3.3 Ảnh hưởng của “Đại tràng - HV” lên % chiều dài đoạn ruột có than hoạt tại thời điểm sau 20 phút (Mean ± SD, n = 10)
% chiều dài đoạn ruột có than hoạt so với chiều dài đoạn ruột từ môn vị đến manh tràng
“Đại tràng - HV” 22g/kg/ngày 62,05 ± 10,56
Lô 4 (4) “Đại tràng - HV” 44g/kg/ngày 59,64 ± 11,25
So với lô chứng sinh học, lô sử dụng thuốc Duspatalin và hai lô dùng “Đại tràng - HV” cho thấy sự giảm đáng kể về tỷ lệ chiều dài đoạn ruột có than hoạt so với chiều dài đoạn ruột từ môn vị đến manh tràng, với giá trị p có ý nghĩa thống kê.
So với lô dùng thuốc Duspatalin, chiều dài đoạn ruột có than hoạt từ môn vị đến manh tràng ở hai lô dùng “Đại tràng - HV” là tương đương, với giá trị p > 0,05.
Khi so sánh hai lô sử dụng "Đại tràng - HV", tỷ lệ chiều dài đoạn ruột có than hoạt so với chiều dài đoạn ruột từ môn vị đến manh tràng cho thấy sự tương đồng, với giá trị p > 0,05.
Bảng 3.4 Ảnh hưởng của “Đại tràng - HV” lên % chiều dài đoạn ruột có than hoạt tại thời điểm sau 40 phút (Mean ± SD, n = 10)
% chiều dài đoạn ruột có than hoạt so với chiều dài đoạn ruột từ môn vị đến manh tràng
“Đại tràng - HV” 22g/kg/ngày 77,95 ± 10,14
“Đại tràng - HV” 44g/kg/ngày 79,63 ± 11,29
Sau 40 phút, tỷ lệ chiều dài đoạn ruột có chứa than hoạt so với chiều dài đoạn ruột từ môn vị đến manh tràng ở các lô chuột nghiên cứu là tương đương, với giá trị p > 0,05.
Đánh giá tác dụng của “Đại tràng - HV” lên thể tích dịch và nồng độ các ion trong đoạn ruột ếch bị thắt
độ các ion trong đoạn ruột ếch bị thắt
Kết quả được trình bày ở bảng 3.5 và 3.6
Bảng 3.5 Ảnh hưởng của “Đại tràng - HV” lên thể tích dịch trong đoạn ruột ếch bị thắt (Mean ± SD, n = 10)
Thể tích dịch đưa vào (ml) (a)
Thể tích dịch rút ra (ml) (b) p b- a
Tiêm “Đại tràng - HV”2% 1,00 ± 0,00 0,41 ± 0,08 < 0,01 pgiữa các lô - p2-1 > 0,05; p3,4-1 < 0,05; p3,4-2 < 0,05; p3-4 > 0,05 -
- Thể tích dịch rút ra ở các lô đều nhỏ hơn so với thể tích dịch đưa vào (1ml), sự khác biệt có ý nghĩa thống kê với p < 0,01
- So với lô tiêm nước cất, lô tiêm Duspatalin 0,08% có thể tích dịch rút ra là tương đương (p > 0,05)
- Các lô tiêm “Đại tràng - HV” 1% và 2% có thể tích dịch rút ra nhỏ hơn có ý nghĩa thống kê so với lô tiêm Duspatalin 0,08% và lô tiêm nước cất (p < 0,05)
So sánh giữa hai lô tiêm "Đại tràng - HV", lô tiêm với nồng độ cao (2%) cho thấy thể tích dịch rút ra nhỏ hơn, tuy nhiên sự khác biệt này không có ý nghĩa thống kê so với lô tiêm nồng độ thấp (1%).
Bảng 3.6 Ảnh hưởng của “Đại tràng - HV” lên nồng độ Na + , Cl - và K + dịch ruột trong đoạn ruột ếch bị thắt (Mean ± SD, n = 10)
Lô nghiên cứu Nồng độ Na +
Tiêm “Đại tràng - HV”2% 39,96 ± 18,24 9,39 ± 2,10 29,68 ± 10,05 pgiữa các lô > 0,05 > 0,05 > 0,05
Nồng độ các ion Na+, Cl- và K+ trong dịch ruột của đoạn ruột ếch bị thắt giảm ở các lô tiêm thuốc Duspatalin và thuốc thử “Đại tràng - HV”, tuy nhiên sự giảm này không có ý nghĩa thống kê so với lô tiêm nước cất (p > 0,05).
Đánh giá tác dụng phục hồi tổn thương hội chứng ruột kích thích trên động vật thực nghiệm
Ảnh hưởng của “Đại tràng - HV” lên sự phát triển cân nặng của chuột gây hội chứng ruột kích thích
Kết quả được trình bày ở bảng 3.7
Bảng 3.7 Ảnh hưởng của “Đại tràng - HV” lên sự phát triển cân nặng chuột (Mean ± SD, n = 08)
Lô nghiên cứu Gây bệnh + uống thuốc
(1) Đưa nước cất vào trực tràng + uống nước cất 56,62 ± 8,34 p2-1 < 0,05 p3,4,5-2 < 0,05 p3,4,5-1 > 0,05 p4,5-3 > 0,05 p4-5 > 0,05
(2) Đưa dầu mù tạt vào trực tràng
(3) Đưa dầu mù tạt vào trực tràng + uống Duspatalin 80 mg/kg/ngày 49,93 ± 6,82
(4) Đưa dầu mù tạt vào trực tràng + uống Đại tràng - HV 22 g/kg/ngày 48,39 ± 6,46
(5) Đưa dầu mù tạt vào trực tràng + uống Đại tràng - HV 44 g/kg/ngày 50,12 ± 6,93 Nhận xét:
So với nhóm chứng không gây hội chứng ruột kích thích, nhóm mô hình gây hội chứng ruột kích thích bằng cách đưa dầu mù tạt vào trực tràng cho thấy sự giảm đáng kể về tỷ lệ tăng cân nặng của chuột, với p < 0,05.
Các lô sử dụng thuốc Duspatalin cho thấy tỷ lệ tăng cân nặng lớn hơn so với lô mô hình (p < 0,05), trong khi phần trăm tăng cân của các lô này tương đương với lô chứng (p > 0,05).
- So sánh giữa các lô dùng thuốc, % tăng cân nặng giữa các lô này là tương đương (p > 0,05).
Ảnh hưởng của “Đại tràng - HV” trên nhu động ruột thông qua độ
di động của chất chỉ thị màu trong lòng ruột
Kết quả được trình bày ở bảng 3.8
Bảng 3.8 Ảnh hưởng của thuốc lên % chiều dài đoạn ruột có than hoạt tại thời điểm 20 phút sau khi chuột uống than hoạt (Mean ± SD, n = 08)
Lô nghiên cứu Gây bệnh + uống thuốc
% chiều dài đoạn ruột có than hoạt so với chiều dài ruột từ môn vị đến manh tràng
(1) Đưa nước cất vào trực tràng + uống nước cất 72,05 ± 9,95
(2) Đưa dầu mù tạt vào trực tràng
(3) Đưa dầu mù tạt vào trực tràng + uống Duspatalin 80 mg/kg/ngày 58,12 ± 9,46
(4) Đưa dầu mù tạt vào trực tràng + uống Đại tràng - HV 22 g/kg/ngày 59,49 ± 10,09
(5) Đưa dầu mù tạt vào trực tràng + uống Đại tràng - HV 44 g/kg/ngày 56,83 ± 9,81 Giá trị p p2-1 < 0,05; p3,4,5-2 < 0,01; p3,4,5-1 < 0,05; p4,5-3 > 0,05; p4-5 > 0,05 Nhận xét:
So với lô chứng, tỷ lệ chiều dài đoạn ruột có than hoạt so với tổng chiều dài ruột từ môn vị đến manh tràng ở lô mô hình tăng có ý nghĩa thống kê với p < 0,05.
Các lô sử dụng thuốc Duspatalin cho thấy tỷ lệ chiều dài đoạn ruột có than hoạt từ môn vị đến manh tràng thấp hơn đáng kể so với lô mô hình (p < 0,01) và lô chứng (p < 0,05).
Kết quả so sánh giữa các lô dùng thuốc cho thấy tỷ lệ chiều dài đoạn ruột có than hoạt và chiều dài ruột từ môn vị đến manh tràng giữa các lô này là tương đương, với giá trị p > 0,05.
Ảnh hưởng của “Đại tràng - HV” lên chỉ số đại thể đại tràng chuột
Kết quả được trình bày ở bảng 3.9 và bảng 3.10
Bảng 3.9 Ảnh hưởng của “Đại tràng - HV” lên các chỉ số đánh giá đại thể đại tràng chuột (Mean ± SD, n = 08)
Chỉ số đánh giá đại thể đại tràng chuột Cân nặng đại tràng (mg)
Chiều dài đại tràng (mm) Điểm số đánh giá phân Điểm số đánh giá viêm
- Cân nặng đại tràng và chiều dài đại tràng giữa các lô thay đổi không có ý nghĩa thống kê
Điểm số đánh giá phân ở lô mô hình tăng cao đáng kể so với lô chứng (p < 0,01) Trong khi đó, các lô sử dụng thuốc cho thấy điểm số đánh giá phân giảm rõ rệt so với lô mô hình (p < 0,01).
Điểm số đánh giá viêm của lô chứng là 0, trong khi các lô gây hội chứng ruột kích thích bằng cách đưa dầu mù tạt vào trực tràng (bao gồm lô mô hình và lô dùng thuốc) có điểm số đánh giá viêm từ 0,24 đến 0,32 Tuy nhiên, không có sự khác biệt có ý nghĩa thống kê giữa các lô này (p > 0,05).
Bảng 3.10 Ảnh hưởng của “Đại tràng - HV” lên điểm số đánh giá đại thể đại tràng chuột (Mean ± SD, n = 08)
Lô nghiên cứu Gây bệnh + uống thuốc Điểm số đại thể đại tràng chuột Giá trị p
(1) đưa nước cất vào trực tràng + uống nước cất 0,14 ± 0,16 p2-1 < 0,001 p3,4,5-2 < 0,01 p3,4,5-1 < 0,05 p4,5-3 > 0,05 p4-5 > 0,05
(2) đưa dầu mù tạt vào trực tràng
(3) đưa dầu mù tạt vào trực tràng + uống Duspatalin 80 mg/kg/ngày 0,63 ± 0,76
(4) đưa dầu mù tạt vào trực tràng + uống Đại tràng - HV 22 g/kg/ngày 0,59 ± 0,84
(5) đưa dầu mù tạt vào trực tràng + uống Đại tràng - HV 44 g/kg/ngày 0,55 ± 0,72 Nhận xét:
So với lô chứng không gây hội chứng ruột kích thích, lô mô hình gây hội chứng này bằng cách đưa dầu mù tạt vào trực tràng cho thấy điểm số đại thể đại tràng chuột tăng cao, với ý nghĩa thống kê p < 0,001.
Các lô sử dụng thuốc Duspatalin cho thấy điểm số đại thể của đại tràng chuột giảm đáng kể so với lô mô hình (p < 0,01), tuy nhiên vẫn chưa đạt được sự tương đương so với lô chứng (p < 0,05).
- So sánh giữa các lô dùng thuốc, điểm số đại thể đại tràng chuột giữa các lô này là tương đương (p > 0,05).
Ảnh hưởng của “Đại tràng - HV” lên chỉ số vi thể đại tràng chuột
Kết quả được trình bày ở bảng 3.11 và bảng 3.12
Bảng 3.11 Ảnh hưởng của “Đại tràng - HV” lên các chỉ số đánh giá vi thể đại tràng chuột (Mean ± SD, n = 08)
Chỉ số đánh giá vi thể đại tràng chuột bao gồm các điểm số đánh giá tổn thương biểu mô, thâm nhiễm tế bào và tổn thương cơ trơn Những chỉ số này giúp xác định mức độ tổn thương và tình trạng sức khỏe của đại tràng chuột một cách chính xác.
Lô trị 2 (5) 0,32 ± 0,35 0,91 ± 0,60 0,12 ± 0,17 Giá trị p p3,4,5-2 < 0,05 p3,4,5-2 < 0,05 p3,4,5-2 < 0,05 Nhận xét:
Trong lô chứng, không phát hiện tổn thương mô học đại tràng chuột qua hình ảnh vi thể nhuộm HE Điểm số đánh giá cho các chỉ số vi thể đại tràng chuột, bao gồm tổn thương biểu mô, thâm nhiễm tế bào và tổn thương cơ trơn, đều ghi nhận bằng 0.
So với lô mô hình, lô sử dụng Duspatalin và hai lô sử dụng Đại tràng – HV cho thấy sự khác biệt có ý nghĩa thống kê trong việc đánh giá tổn thương biểu mô, thâm nhiễm tế bào và tổn thương cơ trơn, với p < 0,05.
So sánh giữa ba lô thuốc, bao gồm lô dùng Duspatalin và hai lô dùng Đại tràng - HV, cho thấy điểm số đánh giá tổn thương biểu mô, thâm nhiễm tế bào và tổn thương cơ trơn ở các lô này là tương đương, với giá trị p > 0,05.
Bảng 3.12 Ảnh hưởng của “Đại tràng - HV” lên điểm số đánh giá vi thể đại tràng chuột (Mean ± SD, n = 08)
Lô nghiên cứu Gây bệnh + uống thuốc Điể m số vi thể đại tràng chuột Giá trị p
(1) đưa nước cất vào trực tràng + uống nước cất 0,00 ± 0,00 p3,4,5-2 < 0,05 p4,5-3 > 0,05 p4-5 > 0,05
(2) đưa dầu mù tạt vào trực tràng + uống nước cất 2,60 ± 0,94
Lô tham chiếu (3) đưa dầu mù tạt vào trực tràng + uống Duspatalin 80 mg/kg/ngày 1,46 ± 0,82
(4) đưa dầu mù tạt vào trực tràng + uống Đại tràng - HV 22 g/kg/ngày 1,57 ± 0,79
(5) đưa dầu mù tạt vào trực tràng + uống Đại tràng - HV 44 g/kg/ngày 1,35 ± 0,75 Nhận xét:
- Ở lô chứng không quan sát thấy hình ảnh tổn thương, điểm số vi thể đại tràng chuột bằng 0
So với lô mô hình, việc sử dụng Duspatalin và hai lô dùng Đại tràng – HV đã cho thấy sự giảm đáng kể về điểm số vi thể đại tràng chuột, với mức ý nghĩa thống kê p < 0,05.
- So sánh giữa 3 lô dùng thuốc (lô dùng Duspatalin và hai lô dùng Đại tràng - HV), điểm số vi thể đại tràng chuột ở các lô này là tương đương (p > 0,05)
3.2.5 Hình ảnh vi thể đại tràng các lô chuột nghiên cứu tại thời điểm kết thúc nghiên cứu
Hình 3.1 Hình thái vi thể đại tràng chuột (HE x 200) ở các lô nghiên cứu (a) lô chứng; (b) lô mô hình; (c) lô tham chiếu; (d) lô trị 1; (e) lô trị 2
- Hình ảnh vi thể đại tràng chuột nhuộm HE ở lô chứng và lô mô hình đều cho thấy cấu trúc các lớp của đại tràng rõ ràng
Hình ảnh vi thể ở lô chứng cho thấy biểu mô đại tràng bình thường và cấu trúc lớp cơ ổn định, không có sự hiện diện của tế bào thâm nhiễm.
- Ở lô mô hình (hình b) có hình ảnh biểu mô tổn thương, vùng cơ có mạch máu xung huyết nhẹ, xâm nhiễm nhiều tế bào
Trong các lô sử dụng Duspatalin và Đại tràng, biểu hiện tổn thương ở biểu mô, cơ và thâm nhiễm tế bào giảm rõ rệt so với lô mô hình.
Các thuốc YHCT, xuất phát từ thực vật và động vật, đã được sử dụng từ lâu để duy trì sức khỏe và điều trị bệnh Tại nhiều quốc gia đang phát triển, thuốc YHCT không chỉ là một phần của văn hóa mà còn là phương pháp trị liệu phổ biến.
Thuốc tân dược tổng hợp thường gây ra nhiều tác dụng không mong muốn và gia tăng tình trạng kháng thuốc, khiến các thuốc YHCT ngày càng phổ biến ở các nước phát triển Mặc dù trước đây, dược liệu được cho là an toàn, nhưng các khảo sát gần đây đã chỉ ra nhiều tác dụng bất lợi, làm dấy lên mối lo ngại về độc tính tiềm ẩn khi sử dụng dược liệu Do đó, việc đánh giá hiệu quả và tác dụng không mong muốn của dược liệu trước khi áp dụng lâm sàng là rất quan trọng Nghiên cứu về độc tính của bài thuốc Đại tràng – HV cho thấy chưa tìm thấy LD50 khi thử nghiệm trên chuột nhắt trắng, với liều cao nhất 270g/kg thể trọng không gây chết chuột hay biểu hiện độc tính cấp Nghiên cứu này tập trung vào hiệu quả điều trị hội chứng ruột kích thích của Đại tràng – HV trên động vật thực nghiệm, bao gồm chuột nhắt trắng, thỏ và ếch, nhằm đánh giá tác dụng giảm nhu động ruột và tái hấp thu nước, ion.
Bài thuốc “Đại tràng - HV” bao gồm 10 vị thuốc: Trần bì, Bán hạ, Sa nhân, Mộc hương, Bạch truật, Cam thảo, Đảng sâm, Phục linh, Bạch thược, Thần khúc, với nhiều dược liệu đã được chứng minh hiệu quả trong việc nhuận tràng Chúng tôi đã sử dụng Duspatalin (mebeverin) làm thuốc đối chứng và sẽ thảo luận về các kết quả thu được từ nghiên cứu này.
Về tác dụng giảm nhu động ruột, tái hấp thu nước và các ion của bài thuốc “Đại tràng - HV” trên động vật thực nghiệm
Tác dụng giảm nhu động ruột trên thỏ cô lập ex vivo và ghi nhu động ruột theo phương pháp Magnus của bài thuốc “Đại tràng – HV” trên động vật thực nghiệm
Trong nghiên cứu này, chúng tôi áp dụng mô hình thực nghiệm của Magnus để đánh giá tác dụng trên nhu động đường tiêu hóa Đoạn ruột thỏ được cô lập và nuôi dưỡng trong môi trường ổn định, với các yếu tố như nhiệt độ, oxy, áp lực thẩm thấu và pH tương tự như in vivo, giúp ruột duy trì khả năng co bóp Tần số và biên độ co bóp của ruột không bị ảnh hưởng bởi thần kinh trung ương mà phụ thuộc vào môi trường xung quanh và đám rối thần kinh tại ruột, chủ yếu liên quan đến hệ thần kinh thực vật, đặc biệt là hệ phó giao cảm Bằng cách pha thuốc thử vào dung dịch Tyrod và quan sát sự thay đổi tần số và biên độ co bóp trước và sau khi thêm thuốc thử ở các nồng độ khác nhau, chúng tôi có thể đánh giá tác dụng của thuốc thử.
Trong nghiên cứu nhu động ruột thực nghiệm, thỏ, ếch và chuột nhắt thường được sử dụng do tính đồng nhất cao giữa các cá thể và khả năng sử dụng với số lượng lớn mà ít có sự khác biệt Ruột thỏ đặc biệt có nhiều mạch máu và thần kinh, nhạy cảm với sự thay đổi chế độ ăn, dẫn đến các vấn đề tiêu hóa như ỉa chảy hoặc táo bón Điều này mang lại giá trị lớn trong việc nghiên cứu sự thay đổi nhu động ruột của thỏ trong các thí nghiệm.
Hầu hết các thuốc đường uống có sinh khả dụng nhỏ hơn 1, nghĩa là chỉ một phần thuốc được hấp thu vào vòng tuần hoàn và còn hoạt tính Do đó, chúng tôi đã thử nghiệm tác dụng của thuốc với các liều khác nhau (đã quy đổi trên thỏ) để đánh giá tác dụng và mối liên quan giữa liều lượng và hiệu quả Hơn nữa, quá trình dược động học của thuốc (hấp thu, phân phối, chuyển hóa và thải trừ) khác nhau giữa các loài, do đó Tổ chức Y tế Thế giới khuyến nghị cần ngoại suy trên các loài khác nhau trong nghiên cứu thực nghiệm.
-Tác d ụ ng làm gi ả m t ầ n s ố co bóp
Kết quả nghiên cứu cho thấy, ở nồng độ 1% của thuốc “Đại tràng - HV” trong dung dịch Tyrode, tần số co bóp của ruột thỏ cô lập giảm nhưng chưa đạt ý nghĩa thống kê (p > 0,05) Tuy nhiên, ở nồng độ 2% và 3%, tần số co bóp giảm rõ rệt với ý nghĩa thống kê (p < 0,05 và p < 0,01 tương ứng) Điều này cho thấy tác dụng làm giảm tần số co bóp của thuốc “Đại tràng - HV” tăng dần từ 1% đến 3%.
Các cơn co thắt tự phát của cơ trơn hồi tràng xảy ra do sự xâm nhập của ion canxi và hoạt hóa protein co bóp Sự co bóp của hệ tiêu hóa được điều chỉnh bởi các cơ chế sinh lý, trong đó có vai trò của các chất dẫn truyền thần kinh trong hệ thần kinh ruột Hệ thống thần kinh ruột là cần thiết cho nhu động bình thường của ruột non Ngoài ra, các chất chiết xuất có hoạt tính sinh lý thần kinh cũng ảnh hưởng đến sự co bóp của ruột, và thuốc đối kháng cholinergic được sử dụng để giảm nhu động ruột.
- Tác d ụ ng làm gi ảm biên độ co bóp
Nghiên cứu cho thấy thuốc “Đại tràng – HV” có tác dụng giảm biên độ co bóp của cơ trơn thành ruột thỏ cô lập, từ 33mm xuống còn 20mm Tại nồng độ 1% và 2%, tần số co bóp giảm có ý nghĩa thống kê với p < 0,05, trong khi nồng độ 3% cũng cho kết quả giảm với p > 0,01 Điều này chứng minh rằng “Đại tràng – HV” hiệu quả trong việc giảm co thắt cơ trơn ruột ở cả ba nồng độ, từ đó giải thích tác dụng tích cực của thuốc trong các trường hợp kích thích tiêu hóa do tăng nhu động ruột, thường gặp trong cảm lạnh, viêm ruột và viêm đại tràng co thắt.
Tác dụng của thuốc trên nhu động ruột khác nhau tùy thuộc vào nồng độ, với nồng độ 3% cho hiệu quả tốt nhất trong việc giảm cả tần số và biên độ Tuy nhiên, nồng độ cao quá mức có thể gây ra liệt ruột, khiến việc đánh giá tần số và biên độ trở nên không khả thi trên máy ghi.
Cơ chế tác dụng của thuốc Kiện tỳ hành khí chỉ tả thang trên nhu động ruột thỏ:
Hệ thần kinh chi phối cơ trơn ruột chủ yếu là hệ phó giao cảm, và các thuốc kích thích hệ này có tác dụng tăng nhu động và trương lực ruột, dẫn đến tình trạng ỉa chảy Các thuốc cường hệ phó giao cảm hoạt động thông qua nhiều cơ chế khác nhau.
- Tác dụng giống như acetylcholin (chất chủ vận của hệ phó giao cảm) thông qua receptor M (muscarinergic) [5],[4]
- Thuốc tác dụng trực tiếp vào receptor của acetylcholin đó là receptor M, cụ thể là dưới nhóm M 3
Có nhiều cơ chế làm tăng co thắt và nhu động ruột, nhưng cũng tồn tại các cơ chế đối lập giúp giảm co thắt và nhu động ruột Các cơ chế này đóng vai trò quan trọng trong việc điều chỉnh chức năng tiêu hóa.
Cơ chế hủy phó giao cảm ngoại biên tác động lên acetylcholin hoặc receptor M3 của hệ phó giao cảm Các thuốc thường được sử dụng trong lâm sàng như atropin và hyosin N-butylbromid, trong đó atropin giúp giảm co thắt cơ trơn ruột nhưng gây nhiều tác dụng phụ như khô miệng, tăng nhãn áp, phì đại tuyến tiền liệt và đặc biệt là giảm trí nhớ khi sử dụng lâu dài Do hội chứng ruột kích thích là bệnh mạn tính, việc sử dụng thuốc hủy giao cảm như atropin không thể kéo dài Do đó, cần tìm kiếm các thuốc hủy giao cảm tác động chủ yếu lên thần kinh thực vật của ruột, nhằm hạn chế tác dụng không mong muốn cho bệnh nhân.
Một số loại thuốc không trực tiếp giảm co thắt cơ trơn ruột nhưng vẫn có tác dụng chống tiêu chảy và giảm co thắt thông qua cơ chế hấp phụ và bảo vệ niêm mạc ruột, đặc biệt khi niêm mạc này bị tổn thương.
Với trọng lượng phân tử cao và cấu trúc phiến mỏng, Atapulgit có tính chất dẻo dai, cho phép nó gắn kết với protein của niêm mạc đường tiêu hóa, tạo thành lớp bảo vệ niêm mạc hiệu quả Loại thuốc này không chỉ bảo vệ niêm mạc ruột mà còn hấp thụ độc tố từ vi khuẩn và khí trong ruột, đồng thời có tác dụng cầm máu tại chỗ, thường được sử dụng trong lâm sàng.
Loperamid là một loại opioid tổng hợp, có tác dụng giảm nhu động ruột và giảm tiết dịch ruột mà không ảnh hưởng nhiều đến hệ thần kinh trung ương Thuốc này giúp kéo dài thời gian vận chuyển qua ruột, tăng cường việc hấp thu nước và chất điện giải vào máu, đồng thời tăng trương lực cơ thắt hậu môn.
Một số loại thuốc có tác dụng phức tạp, có thể tăng nhu động ruột khi ruột giảm trương lực hoặc giảm nhu động khi ruột bị co thắt Những thuốc này thuộc nhóm điều hòa vận động và bài tiết của đường tiêu hóa.
Để hiểu rõ hơn về cơ chế giảm nhu động ruột và co thắt cơ trơn ở đại tràng, cần tiến hành nghiên cứu sâu hơn về sự tiết dịch tiêu hóa, quá trình vận chuyển dịch trong đường tiêu hóa, cũng như đánh giá sự tháo rỗng của dạ dày.
Tác dụng của “Đại tràng - HV” lên nhu động ruột thông qua độ di động của chất chỉ thị màu trong lòng ruột nhắt trắng
Chúng tôi tiến hành đánh giá mức độ tháo rỗng dạ dày thông qua nghiên cứu di động của chất chỉ thị màu trong lòng ruột sau 20 phút và 40 phút, liên quan đến cơ chế giảm nhu động ruột và giảm co thắt cơ trơn ruột.
Sau khi uống thuốc nghiên cứu trong 1 giờ, chuột được cho uống than hoạt với liều 80mg/kg trọng lượng cơ thể Mục đích là để theo dõi độ di động của chất chỉ thị màu, đồng thời cũng là chỉ điểm cho sự di động của khối thức ăn trong ruột.
Kết quả nghiên cứu cho thấy, sau 20 phút, thể tích dịch rút ra ở tất cả các lô đều nhỏ hơn so với thể tích dịch đưa vào (1ml) với sự khác biệt có ý nghĩa thống kê (p < 0,01) Lô tiêm Duspatalin 0,08% có thể tích dịch rút ra tương đương với lô tiêm nước cất (p > 0,05) Trong khi đó, các lô tiêm “Đại tràng - HV” 1% và 2% cho thấy thể tích dịch rút ra nhỏ hơn có ý nghĩa thống kê so với lô tiêm Duspatalin 0,08% và lô tiêm nước cất (p < 0,05) Đặc biệt, giữa hai lô tiêm “Đại tràng - HV”, lô tiêm nồng độ cao (2%) có thể tích dịch rút ra nhỏ hơn nhưng không đạt ý nghĩa thống kê so với lô tiêm nồng độ thấp (1%).
Sau 40 phút, tỷ lệ chiều dài đoạn ruột có than hoạt so với tổng chiều dài đoạn ruột từ môn vị đến manh tràng ở các lô chuột nghiên cứu là tương đương.
Duspatalin (mebeverin) là thuốc điều trị hiệu quả hội chứng kích thích ruột (IBS) và đau bụng liên quan, giúp giảm co thắt cơ trơn ruột và các cơ khác thông qua tác động lên hệ phó giao cảm mà ít ảnh hưởng đến hệ cholinergic Thuốc này được chỉ định để giảm đau và co thắt theo các hướng dẫn điều trị tại Việt Nam và nhiều quốc gia khác Trong các nghiên cứu thực nghiệm trên động vật về hội chứng ruột kích thích, mebeverin thường được sử dụng làm thuốc chứng dương, cho thấy tiềm năng của nó trong nghiên cứu in vivo.
Mebeverin cũng được chọn để đối chứng với thuốc thử
Nghiên cứu cho thấy Đại tràng - HV có khả năng giảm mức độ tháo rỗng dạ dày và giảm co bóp ở đoạn ruột trên chuột trong điều kiện invivo Tác dụng của thuốc thử này tương đương với Duspatalin.
Đánh giá tác dụng của “Đại tràng - HV” lên thể tích dịch và nồng độ các ion trong đoạn ruột ếch bị thắt
Trong nghiên cứu về độ các ion trong đoạn ruột ếch bị thắt, bệnh nhân IBS thường gặp triệu chứng tiêu chảy, đi kèm với các hội chứng yếu tỳ vị như tỳ vị hư nhược và tỳ khí hư nhược Tiêu chảy không chỉ gây rối loạn điện giải tại ruột mà còn ảnh hưởng toàn thân, làm tình trạng tiêu chảy trở nên nghiêm trọng hơn Các loại thuốc tác động lên nhu động và bài tiết đường tiêu hóa có thể ảnh hưởng đến điện giải và sự tái hấp thu nước trong lòng ruột Để đánh giá tác dụng của bài thuốc “Đại tràng – HV” trong việc tái hấp thu nước và điện giải, chúng tôi đã tiến hành thí nghiệm nghiên cứu sự thay đổi thể tích ruột ếch và định lượng các ion Na+, Cl−, K+ trong ruột ếch sau khi sử dụng bài thuốc này.
Kết quả thực nghiệm cho thấy thể tích dịch rút ra ở các lô đều nhỏ hơn so với thể tích dịch đưa vào (1ml), với sự khác biệt có ý nghĩa thống kê (p < 0,01) Đặc biệt, lô tiêm Duspatalin 0,08% có thể tích dịch rút ra tương đương với lô tiêm nước cất (p > 0,05), trong khi các lô tiêm “Đại tràng - HV” 1% và 2% có thể tích dịch rút ra nhỏ hơn một cách có ý nghĩa so với lô tiêm Duspatalin.
Kết quả nghiên cứu cho thấy lô tiêm nước cất có nồng độ 0,08% (p < 0,05) và khi so sánh giữa hai lô tiêm “Đại tràng - HV”, lô tiêm với nồng độ cao (2%) cho thấy thể tích dịch rút ra nhỏ hơn, tuy nhiên không có ý nghĩa thống kê so với lô tiêm nồng độ thấp (1%).
Kết quả nghiên cứu cho thấy nồng độ các ion Na+, Cl- và K+ trong dịch ruột của đoạn ruột ếch bị thắt ở các lô tiêm thuốc Duspatalin và thuốc thử “Đại tràng - HV” đều giảm, tuy nhiên sự giảm này không có ý nghĩa thống kê so với lô tiêm nước cất (p > 0,05).
Bài thuốc “Đại tràng – HV” cho thấy tác dụng tái hấp thu nước và điện giải tương tự như Duspatalin Tuy nhiên, với liều 0,2ml/10g x 2 lần/ngày, “Đại tràng – HV” có hiệu quả tái hấp thu nước và điện giải rõ rệt hơn so với Duspatalin.
Nghiên cứu của Thong T Nguyen và cộng sự (2017) đã đánh giá tác dụng của thực phẩm chức năng Tràng Phục Linh Plus (TPLP) đối với hội chứng ruột kích thích do dầu mù tạt gây ra Kết quả cho thấy, 20 phút sau khi uống 10% than hoạt tính pha loãng trong 3% Carboxymethyl cellulose, TPLP với liều 654 mg/kg/ngày và 1962 mg/kg/ngày đã làm giảm rối loạn chức năng đường ruột đáng kể so với nhóm đối chứng Tuy nhiên, không có sự khác biệt rõ rệt giữa hai liều TPLP và Duspatalin Sau 40 phút điều trị, cả Duspatalin và TPLP ở hai liều đều giảm rối loạn chức năng đường ruột, nhưng sự khác biệt không đạt ý nghĩa thống kê (p> 0,05).