Tổng quan về hội chứng ruột kích thích
Theo y học hiện đại
Hội chứng ruột kích thích là một bệnh lý đặc trưng bởi đau bụng và rối loạn phân, thường không có tổn thương thực thể tại đại tràng Các triệu chứng đi kèm bao gồm đi ngoài nhiều lần trong ngày, trướng bụng và đầy hơi Nguyên nhân chủ yếu do rối loạn vận động đại tràng, dẫn đến tình trạng tiêu chảy hoặc táo bón, hoặc do đại tràng quá nhạy cảm Bệnh này có mối liên hệ chặt chẽ với trạng thái tinh thần của người bệnh.
Các vận động ở đại tràng bao gồm co bóp phân đoạn và các sóng nhu động [7]:
Co bóp phân đoạn là quá trình giúp thức ăn được trộn lẫn và tiếp xúc với niêm mạc đại tràng, từ đó tăng cường khả năng hấp thu Quá trình này diễn ra chậm và không đều, cho phép thức ăn lưu lại trong đại tràng lâu hơn để tiêu hóa và hấp thu nước hiệu quả.
Các sóng nhu động trong ruột già đóng vai trò quan trọng trong việc đẩy thức ăn về phía trực tràng, hoạt động theo thứ tự từ trên xuống dưới và chịu ảnh hưởng bởi chất lượng thức ăn, yếu tố thần kinh và thể dịch Đại tràng phải có nhu động yếu, trong khi nhu động mạnh hơn ở đại tràng trái giúp tống phân xuống trực tràng Thỉnh thoảng cũng xuất hiện những sóng phản nhu động, nhưng chúng thường yếu.
Đại tràng có một cơ chế co bóp đặc biệt gọi là co bóp khối, diễn ra khi đoạn đại tràng ngang bị căng ra Khi đó, co bóp vòng xuất hiện, ép chất phân ở đoạn ruột phía dưới thành khối Quá trình này kéo dài khoảng 30 giây, sau đó ruột giãn ra trong 2-3 phút trước khi co bóp khối khác xảy ra ở đoạn ruột xa hơn Chuỗi vận động này diễn ra trong nửa giờ và có thể tái diễn sau nửa ngày hoặc một ngày Khi co bóp khối đẩy khối phân tới trực tràng, nó kích thích cảm giác muốn đại tiện thông qua co phản xạ của trực tràng và giãn cơ thắt hậu môn.
Tiêu chuẩn Rome IV phân loại hội chứng ruột kích thích như sau [37]:
- IBS-D (tiêu chảy chiếm ưu thế): Phân lỏng chiếm hơn 25% thời gian và phân cứng dưới 25% thời gian.
- IBS-C (táo bón chiếm ưu thế): Phân cứng chiếm hơn 25% thời gian và phân lỏng ít hơn 25% thời gian.
- IBS-M (phân hỗn hợp): Cả phân cứng và lỏng chiếm hơn 25% thời gian.
IBS-U là tình trạng mà bệnh nhân đáp ứng đủ tiêu chí chẩn đoán hội chứng ruột kích thích, nhưng các triệu chứng cơ năng của ruột không thể được phân loại chính xác vào bất kỳ phân nhóm nào đã được xác định trước đó.
Hình 1.1 Thang điểm Bristol đánh giá tính chất phân [39]
Tăng nhận cảm nội tạng
Cảm giác đau tạng được tăng cường do kích thích các receptor cơ học, thông qua việc kích hoạt đường thần kinh hướng tâm Sự cảm thụ nội tạng này diễn ra khi các kích thích tác động lên thụ cảm thể hóa học trên niêm mạc, thụ cảm thể cơ học của cơ trơn và thụ cảm thể cảm giác của mạc treo ruột.
Rối loạn vận động bất thường của ruột
Các rối loạn bất thường của ruột có thể xảy ra ở các đoạn khác nhau trong tình trạng đói hoặc sau khi ăn Đối với bệnh nhân mắc hội chứng ruột kích thích, đại tràng thường có sự đáp ứng thái quá và kéo dài với thức ăn, tùy thuộc vào thể bệnh.
Vận chuyển nhanh trong ruột non có thể làm giảm khả năng hấp thu của niêm mạc, dẫn đến tình trạng đại tiện lỏng Ngược lại, khi vận chuyển chậm xảy ra, nước sẽ được hấp thu nhiều hơn, gây ra táo bón Tình trạng này không chỉ tạo điều kiện cho vi khuẩn phát triển mà còn có thể dẫn đến tiêu chảy.
Tốc độ nhu động đẩy trong ruột không tương xứng với sự co thắt tại chỗ Ở bệnh nhân táo bón, co thắt quá mức làm giảm khả năng đẩy phân xuống dưới và ra ngoài Ngược lại, trong trường hợp đại tiện lỏng, co thắt giảm và nhu động đẩy tăng lên.
Thay đổi sự chịu đựng của ruột, một số đoạn ruột giảm khả năng chịu áp lực của khối thức ăn
Sự gia tăng phản ứng của ống tiêu hóa trước các stress tâm lý như lo âu, buồn bực, trầm cảm và căng thẳng, cùng với việc không dung nạp một số loại thực phẩm và tiền sử viêm nhiễm tiêu hóa, đều góp phần vào cơ chế bệnh sinh của hội chứng ruột kích thích.
Theo y học cổ truyền
Thuộc phạm vi chứng Tiết tả [6], táo kết của Y học cổ truyền [13].
Tiết tả là tình trạng bệnh lý khi người bệnh đi đại tiện nhiều lần với phân loãng, có thể nặng đến mức đi tả nước Theo quan niệm cổ, phân lỏng không gấp được gọi là tiết, trong khi phân loãng chảy như nước được gọi là tả Nội kinh đã phân loại chứng tiết thành năm loại: Cam tiết (đi sột sệt), đường tiết (đại tiện lỏng), hư tiết (đại tiện như cứt cò), nhu tiết và sáp tiết (đại tiện ra thức ăn chưa tiêu, thường có kèm theo thấp và phong).
- Táo kết do nhiều nguyên nhân gây ra: Âm hư, huyết nhiệt, huyết hư, khí hư và khí trệ [23].
Bệnh chủ yếu liên quan đến sự rối loạn và suy giảm công năng của ba tạng Can, Tỳ, Thận [11],[12].
Tỳ và Vị đóng vai trò quan trọng trong quá trình tiêu hóa, với Vị chịu trách nhiệm thu nạp đồ ăn thức uống và Tỳ điều hành việc tiêu hóa Tỳ phân phối tinh khí cho các tạng, trong khi sự vận hóa tinh khí từ thủy cốc phải tuân theo quy luật Tỳ chủ thăng và Vị chủ giáng.
- Tỳ và Can (tương khắc): Vì một lý do nào đó Can vượng lên hoặc Tỳ suy yếu thì sẽ sinh ra Can Tỳ bất hòa mà sinh bệnh [22].
- Tỳ và Thận (tương khắc): Tỳ hư thủy thấp sẽ đình đọng gây tiêu chảy, phù nề, bụng trướng [22].
- Thấp tà hại Tỳ khiến công năng vận hóa bị trở ngại, thủy thấp tràn xuống dưới, thanh trọc bất phân, thăng phát thất thường sinh tiết tả [23].
Tổng quan về thuốc điều trị hội chứng ruột kích thích
Thuốc y học hiện đại
Kháng cholinergic là loại thuốc có tác dụng đối kháng với acetylcholine, trong đó atropin có tác dụng hạn chế nhu động ruột bình thường, đồng thời làm giảm nhu động khi ruột co thắt và tăng nhu động.
Mebeverine (Duspatalin) là một dẫn xuất từ papaverine, có khả năng chống co thắt cơ trơn mà không làm giảm trương lực cơ Thuốc này giúp bình thường hóa các vận động của ruột, bao gồm cả tình trạng táo bón và tiêu chảy, đồng thời làm giảm sự nhạy cảm quá mức của ruột.
1.2.1.2 Thuốc điều hoà chức năng vận động đường tiêu hoá
- Trimebutin (Debridat): Đây là thuốc tác dụng trên hệ enkephalinergic bằng cách kích thích các thể cảm thụ thể enkephalinergic ở ruột khi có rối loạn nhu động ruột [3].
1.2.1.3 Thuốc chống trầm cảm (amitriptyline, imipramine, desipramin…)
Các loại thuốc này được chỉ định cho bệnh nhân mắc hội chứng ruột kích thích, đặc biệt là những người có triệu chứng nặng hoặc kéo dài, thường đi kèm với lo âu và trầm cảm.
1.2.1.4 Thuốc kháng thụ thể 5-HT3
- Có tác dụng làm giảm trương lực cơ ruột sau khi ăn nên có tác dụng giảm triệu chứng đau bụng và khó chịu ở bụng.
- Kháng 5-HT3 được dùng điều trị hội chứng ruột kích thích có đau và tiêu chảy chiếm ưu thế ở nữ giới [3].
Smecta, một chất hấp phụ có cấu trúc từng lớp và độ nhầy cao, có khả năng bao phủ niêm mạc ruột hiệu quả Thuốc tương tác với glycoprotein trong chất nhầy, giúp tăng cường sức chịu đựng của lớp gel dính trên niêm mạc khi gặp tấn công Nhờ vào tác động này, Smecta bảo vệ niêm mạc tiêu hóa một cách hiệu quả.
- Các chất làm giảm tiết dịch, giảm nhu động ruột (Loperamide) [3].
- Dùng chất xơ, thuốc nhuận tràng, thuốc điều chỉnh vận động ống tiêu hoá.
Bổ sung chất xơ là cần thiết, với liều lượng tối thiểu 12g/ngày, giúp giữ nước, tăng khối lượng phân và thúc đẩy quá trình lên men, từ đó hiệu quả trong việc chống táo bón.
Thuốc nhuận tràng như Lactulose, Macrogol và Anthraquinon hoạt động chủ yếu để tăng cường nhu động ruột, đặc biệt là ở đại tràng, và thường cần sử dụng trong nhiều ngày Những loại thuốc này có thể gây kích ứng trực tiếp lên niêm mạc ruột, hoặc tác động gián tiếp bằng cách tăng khối lượng phân và giữ nước, từ đó giúp làm mềm phân.
- Thuốc đồng vận 5-HT4: Tegaserod (thuốc đồng vận 5-HT4 mới) có hiệu quả trong điều trị hội chứng ruột kích thích với triệu chứng táo bón chiếm ưu thế [3].
Thuốc y học cổ truyền
Năm 2010, Nguyễn Minh Hà và cộng sự đã nghiên cứu tác dụng điều trị hội chứng ruột kích thích của viên nang Thống tả yếu phương Kết quả cho thấy tỷ lệ phân táo và lỏng của hai lô uống Thống tả yếu phương giảm đáng kể so với trước điều trị, đồng thời hàm lượng serotonin trong huyết tương của hai lô chuột tương đương và có dấu hiệu stress giảm dần, trở về trạng thái bình thường.
Năm 2015, Nguyễn Thị Lan đã nghiên cứu tác dụng dược lý của bài thuốc “Kiện Tỳ hành khí chỉ tả thang” và kết quả cho thấy bài thuốc này có hiệu quả trong việc điều trị hội chứng ruột kích thích qua các thí nghiệm thực nghiệm.
Năm 2007, Nguyễn Thị Tuyết Nga và cộng sự đánh giá tác dụng của bài thuốc “Tứ thần hoàn” trong điều trị hội chứng ruột kích thích thể lỏng trên
Trong một nghiên cứu với 162 bệnh nhân, kết quả cho thấy 80% bệnh nhân đã hết tình trạng đại tiện lỏng, 82,4% bệnh nhân có số lần đại tiện trở về mức bình thường, và 93,6% bệnh nhân không còn đại tiện phân nhày Ngoài ra, 76,5% bệnh nhân đã hết đau bụng, với hiệu quả điều trị tốt đạt 61,2%.
Năm 2007, nghiên cứu của Chu Quốc Trường và cộng sự cho thấy hế mọ có hiệu quả trong điều trị hội chứng ruột kích thích, với 79,5% bệnh nhân hết đau bụng, 82,1% giảm triệu chứng căng chướng và 79,5% cải thiện tình trạng rối loạn phân.
Năm 2014, Nguyễn Tiến Dũng đã tiến hành nghiên cứu trên 60 bệnh nhân mắc hội chứng ruột kích thích thể Tỳ dương hư, so sánh với Duspatalin trong liệu trình điều trị kéo dài 30 ngày Kết quả cho thấy bài thuốc “Bồi thổ cố trung phương” kết hợp với Duspatalin mang lại hiệu quả tốt trong điều trị hội chứng này, đạt tỷ lệ thành công 60%.
Tổng quan về bài thuốc “Đại tràng - HV” sử dụng trong nghiên cứu 10 1 Thành phần bài thuốc
Phân tích cơ chế tác dụng của bài thuốc “Đại tràng - HV”
1.3.2.1 Theo dược lý học hiện đại
Tinh dầu của Trần bì có tác dụng kích thích nhẹ đường tiêu hóa, giúp ruột bài khí tích trệ và tăng tiết dịch vị, từ đó hỗ trợ tiêu hóa hiệu quả Ngoài ra, Trần bì còn có khả năng làm giãn cơ trơn dạ dày và ruột nhờ vào các thành phần như humulene và anpha humulenol acetat, có tác dụng tương tự vitamin P Nghiên cứu cho thấy tiêm humulene vào ổ bụng chuột nhắt với liều 25-175mg/kg có tác dụng kháng histamin và tăng tính thấm thành mạch.
Bán hạ chứa nhiều thành phần quan trọng như alkaloid, cholesterol thực vật, amino acid, saponin và protein, mang lại tác dụng hiệu quả trong việc cầm nôn, giảm cảm giác đầy bụng, sôi bụng và tiêu chảy.
Phục linh có khả năng tăng cường miễn dịch và chống viêm, trong khi cam thảo giúp làm lành vết loét nhanh chóng, tăng cường sức đề kháng của cơ thể trước stress—một yếu tố làm trầm trọng thêm hội chứng ruột kích thích Ngoài ra, cam thảo còn giảm co thắt cơ trơn, từ đó giảm đau quặn bụng hiệu quả.
Bạch truật có tác dụng đối lập trong điều trị hội chứng ruột kích thích, ức chế khi ruột hưng phấn và hưng phấn khi ruột ức chế, nhờ vào hệ thống thần kinh thực vật, giúp chữa táo bón và tiêu chảy Ngoài ra, bạch truật còn có tác dụng chống viêm nhẹ Đảng sâm có khả năng tăng cường miễn dịch, giảm stress, kháng viêm và giảm tần số cũng như biên độ nhu động ruột, góp phần làm giảm nguy cơ gây hội chứng ruột kích thích.
Hương phụ: có tác dụng kháng viêm, giảm đau, an thần nhẹ, do đó làm giảm các phản ứng của hội chứng ruột kích thích [10],[2],[20].
Sa nhân có tác dụng ức chế nồng độ cao trên ruột chuột lang được cô lập, giúp giảm triệu chứng đau bụng bằng cách làm giảm nhu động ruột.
Bạch thược có nhiều tác dụng hữu ích, bao gồm tăng cường hệ miễn dịch, an thần và giảm đau nhờ vào khả năng ức chế trung khu thần kinh Ngoài ra, nó còn có tác dụng chống viêm và giúp giãn nhẹ cơ trơn đường tiêu hóa, góp phần giảm đau hiệu quả.
Thần khúc: kích thích tiết dịch tiêu hóa, có tác dụng hỗ trợ tiêu hóa
1.3.2.2 Theo phối ngũ lập phương y học cổ truyền
“Hương sa lục quân” là sự kết hợp của “Lục quân tử” với hương phụ và sa nhân; trong đó “Lục quân tử” được hình thành từ “Tứ quân tử” cùng với Trần bì và bán hạ Theo “Phương tễ học”, bài thuốc này có tác dụng kiện tỳ, ích khí, điều lý khí cơ, giúp trị các triệu chứng như tỳ vị khí hư, hàn thấp ứ ở trung tiêu, đầy trướng, đau bụng, ăn uống kém, ợ hơi, nôn mửa, và tiêu chảy với lưỡi có rêu trắng nhờn Riêng “Tứ quân tử” chủ trị tỳ vị suy yếu, khí hư, mệt mỏi, da vàng, người gầy, ăn uống giảm sút, đại tiện phân sệt, mạch nhu nhược và lưỡi mỏng trắng “Lục quân tử” không chỉ kiện tỳ, bổ khí, hòa trung mà còn hóa đờm, rất hiệu quả trong việc trị tỳ vị hư yếu, nhiều đờm, và rối loạn tiêu hóa, với nền tảng là “Tứ quân tử” giúp ích khí, kiện tỳ và dưỡng vị, trong khi bán hạ và trần bì có tác dụng táo thấp, hóa đàm.
Dựa trên nền tảng “Hương sa lục quân”, nhóm nghiên cứu đã bổ sung vị thuốc bạch thược để kiện tỳ hóa đàm, hòa can dưỡng huyết, và giảm triệu chứng cấp tính, đồng thời sử dụng thần khúc với tác dụng tiêu thực hòa vị, hỗ trợ hiệu quả cho việc giảm triệu chứng của hội chứng ruột kích thích như “Tiết tả/Táo kết”.
1.4 Tổng quan về các mô hình gây hội chứng ruột kích thích trên thực nghiệm được sử dụng phổ biến hiện nay
1.4.1 Mô hình gây hội chứng ruột kích thích bằng stress
Nguyễn Minh Hà và cộng sự (2010) đã tạo ra mô hình hội chứng ruột kích thích qua việc gây stress cho chuột bằng cách ngâm nước kéo dài, dẫn đến rối loạn hoạt động của hệ thần kinh, đặc biệt là hệ thống thần kinh giao cảm và phó giao cảm Hệ quả của stress kéo dài này là rối loạn nhu động ruột, thể hiện qua phân táo, lỏng hoặc hỗn hợp, cùng với sự giảm hoạt động bình thường và biểu hiện sợ hãi, ít tiếp xúc ở chuột nghiên cứu.
Hội chứng ruột kích thích được gây ra ở chuột bằng cách đặt chúng vào ống nhựa hình trụ có đường kính 2,5cm, gắn vào hệ thống giá đỡ và ngâm trong nước ở nhiệt độ 22,1 độ C, với độ sâu 8cm, thực hiện liên tục 1 giờ mỗi ngày trong 10 ngày.
1.4.2 Mô hình gây hội chứng ruột kích thích bằng TNBS (một chất gây viêm ruột)
Năm 2012, Zhonghan Yang và cộng sự đã tiến hành nghiên cứu để đánh giá hiệu quả của IBS-20, một loại thuốc tổng hợp chiết xuất từ các vị thuốc y học cổ truyền, dựa trên hai bài thuốc cổ phương là Thống tả yếu phương và Trung mãn phân tiêu hoàn, thông qua mô hình in vivo.
- Chuột C57BL 6 tuần tuổi được uống TNBS (một chất gây viêm ruột) liều 2mg/gam/chuột trong 40 ml ethanol để gây tăng nhu động ruột và viêm đại tràng.
- Dịch chiết IBS-20 hàm lượng 1ml tương ứng 50mg chiết xuất IBS-20.
- Chuột ở các lô trị được uống IBS-20 với liều 1ml/ngày (tương đương liều dùng trên người) cùng thời điểm với TNBS.
- Chuột ở lô chứng được uống nước muối sinh lý.
- Thời gian điều trị và theo dõi là 7 ngày liên tục.
Nghiên cứu cho thấy IBS-20 có tác dụng chống viêm mạnh mẽ, ức chế sản xuất cytokine tiền viêm từ tế bào miễn dịch và ngăn chặn sự phá vỡ hàng rào tế bào biểu mô do chất trung gian gây viêm Hơn nữa, IBS-20 còn có khả năng ức chế sự điều hòa tăng của cytokine gây viêm trong đại tràng bị viêm in vivo.
1.4.3 Mô hình gây hội chứng ruột kích thích bằng acid acetic
Năm 2017, Qian Li và cộng sự đã nghiên cứu mô hình hội chứng ruột kích thích bằng cách tăng cường độ mẫn cảm của đại tràng thông qua việc truyền acid acetic 0,5% vào trực tràng chuột Sprague-Dawley 10 ngày tuổi, trong khi nhóm chứng nhận nước muối sinh lý Sau 8 tuần nuôi dưỡng, sự mẫn cảm của đại tràng được đánh giá bằng cách sử dụng điện cực cấy dưới da bụng để theo dõi phản xạ cơ thành bụng và nhu động ruột.
1.4.4 Mô hình gây hội chứng ruột kích thích kèm viêm ruột bằng ấu trùng Trichinella spiralis
Năm 2018, Li Zeng và các đồng nghiệp đã thực hiện một nghiên cứu để đánh giá hiệu quả điều trị của ALW-II-41-27, một chất ức chế EphA2, trong điều trị hội chứng ruột kích thích kết hợp với nhiễm trùng đường ruột Nghiên cứu này được thực hiện trên động vật thực nghiệm.
Chuột đực C57BL, 6 tuần tuổi và nặng từ 18-20 gam, được nuôi trong môi trường phòng thí nghiệm động vật vô trùng Điều kiện nuôi dưỡng bao gồm nhiệt độ ổn định ở mức 23 ± 2 độ C, độ ẩm 65 ± 5%, và chu kỳ sáng/tối là 12 giờ/12 giờ.
- Động vật được cung cấp thức ăn và nước uống đầy đủ.
- Sau 7 ngày thích nghi với môi trường, 60 con chuột được chia ngẫu nhiên thành sáu nhóm (mỗi nhóm 10 con).
Gây mô hình hội chứng ruột kích thích có kèm nhiễm trùng đường ruột