TỔNG QUAN VẤN ĐỀ NGHIÊN CỨU
Phân loại bò sát và lưỡng cư ở Việt Nam
Các nghiên cứu về phân loại bò sát, lưỡng cư ở Việt Nam phát triển mạnh sau năm 1975 Dưới đây là một số nghiên cứu tiêu biểu về phân loại:
Từ năm 1978-1982, Đào Văn Tiến đã phát triển khóa định loại các loài bò sát và lưỡng cư ở Việt Nam dựa trên nguyên tắc “phân chia đối lập” Khóa này được xây dựng dựa trên mẫu vật thu thập từ khắp các vùng miền và chia thành các nhóm riêng biệt như rùa, cá sấu, thằn lằn và rắn Kết quả, ông đã tổng hợp được 223 loài bò sát tại Việt Nam (Đào Văn Tiến, 1978, 1979, 1983).
Nguyễn Văn Sáng, Hồ Thu Cúc và Nguyễn Quảng Trường đã đóng góp quan trọng vào việc xây dựng Danh lục bò sát và lưỡng cư Việt Nam Dựa trên kết quả nghiên cứu từ nhiều nhà khoa học trong và ngoài nước, các tác giả đã hoàn thiện Danh lục này vào các năm 1996, 2005 và 2009, bao gồm dữ liệu từ tất cả các vùng miền trên lãnh thổ Việt Nam.
Vào năm 1996, Nguyễn Văn Sáng và Hồ Thu Cúc đã tạo ra Danh lục bò sát và lưỡng cư Việt Nam, bao gồm 258 loài bò sát thuộc 23 họ và 3 bộ, cùng với 82 loài lưỡng cư thuộc 9 họ và 3 bộ.
Năm 2005, Nguyễn Văn Sáng, Hồ Thu Cúc và Nguyễn Quảng Trường đã cập nhật Danh lục bò sát và lưỡng cư Việt Nam, bao gồm 296 loài bò sát thuộc 23 họ và 162 loài lưỡng cư thuộc 9 họ Bản danh lục này được xây dựng dựa trên nhiều phát hiện mới từ năm 1996 đến 2005, thể hiện sự tiến bộ trong nghiên cứu động vật học tại Việt Nam.
Năm 1996, bản Danh lục đã cập nhật thêm 38 loài bò sát và 80 loài lưỡng cư, tuy nhiên số bộ và số họ của chúng không thay đổi Bản Danh lục không đề cập đến tình trạng của loài ngoài tự nhiên hay nơi lưu trữ mẫu vật, nhưng giá trị của từng loài được trình bày một cách chi tiết.
Năm 2009, các nhà khoa học Nguyễn Văn Sáng, Hồ Thu Cúc và Nguyễn Quang Trường đã tổng hợp kết quả nghiên cứu từ nhiều vùng miền trên cả nước để xây dựng Danh lục các loài bò sát và lưỡng cư tại Việt Nam.
Bài viết đề cập đến cuốn sách "Herpetofauna of Viet Nam," trong đó tổng số loài được ghi nhận là 545, bao gồm 177 loài lưỡng cư thuộc 10 họ và 3 bộ, cùng với 368 loài bò sát thuộc 24 họ và 3 bộ (Nguyen et al.).
2009) So với Danh lục được xây dựng năm 2005, bản Danh lục này đã bổ sung thêm 721 loài bò sát và 15 loài lưỡng cư
Từ năm 2009 đến nay, nhiều loài mới đã được ghi nhận tại Việt Nam, bao gồm Tắc kè trường (Gekko truongi) do Phung và Ziegler (2011) phát hiện ở phía Nam, Cóc mày bi đúp (Leptolalax bidoupensis), Ếch cây sần trá hình (Theloderma palliatum), và Ếch giun (Ichthyophis nguyenorum) Ngoài ra, Nhông xám nam bộ (Calotes bachae) được ghi nhận bởi Hartmann et al (2013), trong khi Thằn lằn nửa lá bà nà (Hemiphyllodactylus banaensis) được phát hiện bởi Van Tri et al (2014) Cuối cùng, Tắc kè ngón chân cong pù hu (Cyrtodactylus puhuensis) cũng được ghi nhận bởi Sang et al (2014).
Mặc dù có nhiều phát hiện mới từ năm 2009 đến nay, vẫn chưa có tài liệu cập nhật nào về Danh lục các loài lưỡng cư và bò sát ở Việt Nam Do đó, nghiên cứu này sử dụng hệ thống phân loại, tên phổ thông và tên khoa học của các loài lưỡng cư, bò sát từ cuốn “Herpetofauna of Vietnam” của tác giả Nguyen et al (2009), vì đây là tài liệu chi tiết và cập nhật nhất hiện có.
Giá trị bảo tồn các loài bò sát, lưỡng cư ở Việt Nam
Trước sự suy giảm nhanh tróng của nguồn tài nguyên rừng, Chính phủ
Việt Nam đã phát hành các tài liệu cảnh báo về nguy cơ tuyệt chủng của nhiều loài động thực vật, cùng với các văn bản pháp luật nhằm ngăn chặn tình trạng khai thác, buôn bán và sử dụng trái phép tài nguyên thiên nhiên Các tài liệu này đánh giá giá trị bảo tồn và mức độ quý hiếm của các loài rừng, bao gồm cả bò sát và lưỡng cư.
The World Red List assesses the conservation value and rarity of various forest species, including reptiles and amphibians, as part of the International Union for Conservation of Nature's efforts to protect biodiversity.
Natural Resources) Các cional Union for Conservation thế giới (IUCN) được mô tả như hình 1.1
Trên toàn thế giới, hiện có hơn 79.800 loài động thực vật và côn trùng đang đối mặt với nguy cơ tuyệt chủng ở nhiều cấp độ khác nhau Việc xác định tình trạng của các loài này được thực hiện theo tên khoa học và áp dụng trên phạm vi toàn cầu.
Sách đỏ Việt Nam là tài liệu quan trọng với bìa đỏ, phản ánh tình trạng báo động về sự tuyệt chủng của các loài động thực vật trong lãnh thổ Việt Nam Các cấp đánh giá trong Sách đỏ Việt Nam tương tự như các tiêu chí trong Sách đỏ toàn cầu.
Sách đỏ Việt Nam được cập nhật lần gần nhất vào năm 2007, ghi nhận 418 loài động vật đang đối mặt với nguy cơ tuyệt chủng ở nhiều cấp độ khác nhau, bao gồm 94 loài thú, 76 loài chim, 40 loài bò sát, 14 loài lưỡng cư, cùng với các loài cá và côn trùng (Bộ Khoa học và Công nghệ, 2007).
1.2.3 Nghị định 06/2019/NĐ – CP về Quản lý thực vật rừng, động vật rừng nguy cấp, quý, hiếm và thực thi Công ước về buôn bán quốc tế các loài động vật rừng, thực vật rừng hoang dã nguy cấp
Nghị định 06/2019/NĐ-CP, ban hành ngày 22 tháng 01 năm 2019, quy định về quản lý thực vật rừng, động vật rừng nguy cấp, quý, hiếm và thực thi Công ước về buôn bán quốc tế các loài động vật, thực vật rừng hoang dã nguy cấp Nghị định này được ban hành nhằm thay thế Nghị định 32/2006/NĐ-CP trước đó về quản lý thực vật rừng và động vật rừng hoang dã nguy cấp.
Theo Nghị định 06, Việt Nam hiện có 92 loài động vật thuộc nhóm IB và 90 loài thuộc nhóm IIB Trong số đó, nhóm bò sát có 13 loài thuộc nhóm IB, trong khi nhóm IIB bao gồm 28 loài bò sát và 5 loài lưỡng cư.
1.2.4 Nghị định 160/2013/NĐ-CP về về Tiêu chí xác định loài và Chế độ quản lý loài thuộc danh mục loài nguy cấp, quý hiếm được ưu tiên bảo vệ
Nghị định được ban hành vào ngày 12 tháng 11 năm 2013, bao gồm bảng danh mục các loài động vật nguy cấp và quý hiếm cần được ưu tiên bảo vệ tại Việt Nam Danh sách này ghi nhận 83 loài động vật thuộc nhiều lớp khác nhau, trong đó có 11 loài bò sát, bao gồm Rắn hổ chúa và một số loài Rùa.
1.2.5 Một số nghiên cứu tương tự đã đề cập đến tình trạng bảo tồn các loài bò sát, lưỡng cư
Năm 2011, Đặng Thị Lý đã thực hiện nghiên cứu trong bản Khóa luận tốt nghiệp với tiêu đề “Đánh giá thực trạng và phân bố bò sát tại Khu bảo tồn thiên nhiên Tây Yên Tử, tỉnh Bắc Giang” Nghiên cứu đã xác định được 17 loài bò sát có mặt tại khu vực này.
KBTTN Tây Yên Tử có giá trị bảo tồn trong tổng số 49 loài được ghi nhận
Năm 2017, Nguyễn Đức Quỳnh đã thực hiện nghiên cứu về đa dạng sinh học và đề xuất giải pháp bảo tồn khu hệ bò sát, lưỡng cư tại hồ Đồng Mô, Hà Nội Kết quả cho thấy có 35 loài lưỡng cư và bò sát, trong đó 9 loài đang bị đe dọa tuyệt chủng ở cả cấp quốc gia và toàn cầu.
Nghiên cứu này đánh giá giá trị bảo tồn của các loài bò sát và lưỡng cư dựa trên các tài liệu như Sách đỏ Việt Nam (2007), Nghị định 160 (2013), Sách đỏ thế giới (2019) và Nghị định 06 (2019) Các tài liệu này được sử dụng để cập nhật và làm cơ sở cho việc đánh giá trong bối cảnh các nghiên cứu trước đây theo Sách đỏ Việt Nam và quốc tế, cũng như các văn bản pháp luật của nhà nước.
Mối đe dọa đến các loài bò sát và lưỡng cư
Suy thoái đa dạng sinh học hiện nay chủ yếu do hai nguyên nhân: hiểm họa tự nhiên và hoạt động của con người Các hiểm họa tự nhiên đã gây tổn thất lớn cho đa dạng sinh học trong quá khứ, nhưng từ giữa thế kỷ 19, con người đã có những tác động tiêu cực nghiêm trọng Những hoạt động này dẫn đến việc thay đổi, suy thoái và hủy hoại môi trường sống, đẩy nhiều loài vào nguy cơ tuyệt chủng Các nguyên nhân chính bao gồm phá hủy và chia cắt sinh cảnh, ô nhiễm, khai thác quá mức, du nhập loài và sự gia tăng bệnh dịch Tất cả những mối đe dọa này đều có liên quan chặt chẽ đến sự gia tăng dân số toàn cầu.
Các loài bò sát và lưỡng cư đang đối mặt với nguy cơ tuyệt chủng cao do sự suy thoái đa dạng sinh học Tình trạng khai thác trái phép tài nguyên rừng tại Việt Nam đang gia tăng, từ Nam ra Bắc, dẫn đến suy giảm diện tích và chất lượng rừng, làm mất môi trường sống của nhiều loài Săn bắt và buôn bán trái phép đang trở thành mối đe dọa nghiêm trọng đối với sự sống còn của các loài động vật này Nhiều nghiên cứu về bò sát và lưỡng cư đã chỉ ra những hiểm họa này.
Năm 2011, trong bản Khóa luận tốt nghiệp của Kiều Xuân Thế về khu hệ bò sát và ếch nhái tại KBTTN Thần Sa – Phượng Hoàng, tỉnh Thái Nguyên, đã chỉ ra hai nguyên nhân chính gây mối đe dọa đến các loài này: một là săn bắt do người dân hoặc gia cầm thực hiện, và hai là sự phá hủy sinh cảnh do các hoạt động như khai thác gỗ, đào đãi vàng, đốt nương làm rẫy, và xây dựng đường mòn.
Bài khóa luận tốt nghiệp năm 2011 đã thực hiện việc đánh giá hiện trạng, phân bố và giá trị của hệ bò sát, ếch nhái tại Khu Bảo tồn Thiên nhiên Tân Phượng, huyện Lục Yên, tỉnh Yên Bái Nghiên cứu này cung cấp cái nhìn sâu sắc về sự đa dạng sinh học và tầm quan trọng của các loài động vật này trong hệ sinh thái địa phương.
Mối đe dọa đối với khu hệ bò sát và ếch nhái chủ yếu xuất phát từ hoạt động của con người, bao gồm săn bắt động vật, khai thác gỗ củi, đốt nương làm rẫy, chăn thả gia súc và khai thác lâm sản ngoài gỗ Theo nghiên cứu của Nguyễn Văn Tùng (2011), ba mối đe dọa chính bao gồm săn bắt, gây nhiễu loạn và suy thoái sinh cảnh, mà nguyên nhân là do khai thác gỗ, xâm lấn đất, cháy rừng, canh tác nông nghiệp, chăn thả gia súc, và xây dựng cơ sở hạ tầng.
Năm 2015, Lê Trung Dũng trong Luận án tiến sĩ Sinh học đã nghiên cứu về lưỡng cư và bò sát tại KBTTN Mường Nhé, tỉnh Điện Biên Nghiên cứu chỉ ra rằng các loài lưỡng cư và bò sát ở đây đang đối mặt với nhiều mối đe dọa, chủ yếu là do mất và suy thoái sinh cảnh sống do các hoạt động như phá rừng làm nương rẫy, cháy rừng, khai thác gỗ, và khai thác củi Bên cạnh đó, việc săn bắt cũng tác động trực tiếp đến quần thể của các loài này.
Năm 2016, trong bản Khóa luận tốt nghiệp của mình, Nguyễn Văn Tưởng đã nghiên cứu tính đa dạng của loài bò sát và ếch nhái tại KBT các loại hạt trần quý hiếm Nam Động, tỉnh Thanh Hóa Nghiên cứu chỉ ra rằng các mối đe dọa chính đối với các loài này bao gồm săn bắt, phá hủy sinh cảnh sống do lấn chiếm đất rừng để làm nông nghiệp, khai thác gỗ, và sử dụng thuốc bảo vệ thực vật.
Năm 2017, trong bản Khóa luận tốt nghiệp của mình, Nguyễn Đình Gươm đã nghiên cứu khu hệ loài bò sát và lưỡng cư tại VQG Ba Vì, xác định bốn mối đe dọa chính đối với hệ sinh thái này, bao gồm săn bắt, canh tác nông nghiệp, ảnh hưởng từ hoạt động du lịch và xây dựng công trình.
Các loài bò sát và lưỡng cư hiện nay đang đối mặt với nhiều mối đe dọa chủ yếu từ hoạt động của con người, bao gồm săn bắt, khai thác gỗ, và canh tác nông nghiệp Những yếu tố này ảnh hưởng nghiêm trọng đến sự sống còn của chúng Việc đánh giá các mối đe dọa này là cần thiết để lựa chọn tiêu chí đánh giá phù hợp Đồng thời, cần xem xét các điều kiện thực tiễn của khu vực để xác định thêm các hiểm họa đối với các loài bò sát và lưỡng cư.
1.4 Một số nghiên cứu về bò sát, lƣỡng cƣ tại khu vực tỉnh Điện Biên
Cho đến nay, xã Mường Lói vẫn chưa có nghiên cứu nào được thực hiện Bên cạnh đó, các nghiên cứu về bò sát và lưỡng cư tại tỉnh Điện Biên cũng đang rất hạn chế.
Vào năm 1991, Nguyễn Văn Sáng đã thực hiện khảo sát về hệ thống bò sát và lưỡng cư tại Khu bảo tồn thiên nhiên Mường Nhé, tỉnh Lai Châu Địa điểm khảo sát của ông nằm trong vùng đệm của khu bảo tồn này.
Tà Tổng (Lai Châu) Trong 23 ngày điều tra khảo sát, tác giả đã ghi nhận được
Trong khu vực nghiên cứu, đã ghi nhận 36 loài bò sát thuộc 11 họ và 02 bộ, cùng với 9 loài lưỡng cư thuộc 03 họ và 01 bộ Trong số này, có 17 loài đã thu được mẫu, trong đó có 11 loài bò sát và 01 loài lưỡng cư được liệt kê trong Sách đỏ Việt Nam.
Từ năm 2007 đến 2009, Đỗ Thành Trung và Lê Nguyên Ngật đã tiến hành nghiên cứu về thành phần loài lưỡng cư và bò sát tại huyện Tủa Chùa, tỉnh Điện Biên Kết quả nghiên cứu ghi nhận 16 loài lưỡng cư và 23 loài bò sát, và được công bố trong Báo cáo khoa học tại Hội thảo quốc gia về lưỡng cư và bò sát.
Năm 2009, Nguyễn Văn Sáng, Hồ Thu Cúc và Nguyễn Quảng Trường đã công bố 5 loài lưỡng cư và 14 loài bò sát tại tỉnh Điện Biên trong Báo cáo khoa học của Hội thảo quốc gia về bò sát, lưỡng cư Những loài này có vùng phân bố rộng, được ghi nhận ở hầu hết các khu vực trên toàn quốc.
Năm 2010, Nguyen et al., đã công bố loài thằn lằn Scincella darevskii thuộc họ Thằn lằn bóng (Scincidae) dựa trên mẫu vật thu được tại huyện Tuần Giáo
Năm 2015, Lê Trung Dũng tiến hành điều tra về bò sát, lưỡng cư tại
Khu bảo tồn thiên nhiên Mường Nhé đã ghi nhận 02 bộ, 7 họ, 23 giống và 48 loài lưỡng cư, cùng với 02 bộ, 17 họ, 37 giống và 49 loài bò sát Trong số các loài lưỡng cư, bộ Không đuôi (Anura) chiếm ưu thế với 6 họ, 22 giống và 47 loài, trong khi bộ Có đuôi (Caudata) chỉ có 01 họ và 01 giống So với nghiên cứu của Nguyễn Văn Sáng (1991), các số liệu này cho thấy sự đa dạng sinh học đáng kể trong khu vực.
ĐIỀU KIỆN TỰ NHIÊN, KINH TẾ XÃ HỘI KHU VỰC NGHIÊN CỨU
Điều kiện tự nhiên
2.1.1 Vị trí địa lý và ranh giới
Mường Lói là một xã biên giới hẻo lánh thuộc huyện Điện Biên, cách trung tâm huyện khoảng 80 km về phía Nam.
Phía Bắc giáp xã Phu Luông
Phía Đông giáp với huyện Điện Biên Đông và tỉnh Sơn La
Phía Tây giáp với tỉnh Sơn La và nước CHDCND Lào
Phía Nam giáp với nước CHDCND Lào
2.1.2 Địa hình và địa mạo
Mường Lói là xã vùng núi thuộc huyện Điện Biên, với địa hình chủ yếu là núi cao, gây khó khăn cho sản xuất và sinh hoạt của người dân Xã có độ cao trung bình so với mặt nước biển là 1.054,9 m, với địa hình thoải dần từ Tây Bắc xuống Đông Nam Khoảng 72% diện tích tự nhiên của xã là núi cao và trung bình, trong khi núi thấp chiếm 18% và thung lũng chiếm 10%, phân bố rải rác theo các con suối.
Xã có tổng diện tích tự nhiên là 15,952,32ha; trong đó:
Diện tích đất nông nghiệp 15328,83 ha Đất lâm ngiệp 3639,23 ha Đất rừng phòng hộ là 3080,16 ha Đất rừng sản xuất là 559,07 ha
Xã Mường Lói nằm trong vùng khí hậu nhiệt đới gió mùa của miền núi cao, với hai mùa rõ rệt Mùa mưa bắt đầu từ tháng 4, tạo điều kiện cho sự phát triển của hệ sinh thái địa phương.
Tháng 9 có lượng mưa nhiều, tập trung chủ yếu vào các tháng 6, 7, và 8, với độ ẩm không khí cao và bốc hơi lớn Ngược lại, mùa khô kéo dài từ tháng 10 đến tháng 3 năm sau, đặc trưng bởi nhiệt độ thấp, ít mưa, và độ ẩm không khí thường thấp do ảnh hưởng của gió Lào và lượng bốc hơi nước nhỏ.
Khí hậu huyện Điện Biên, đặc biệt là xã Mường Lói, rất thuận lợi cho sự phát triển nông, lâm nghiệp với sự đa dạng về cây trồng Tuy nhiên, thời tiết cũng có những biến đổi đột ngột và thất thường, ảnh hưởng đáng kể đến hoạt động sản xuất nông, lâm nghiệp trong khu vực.
Mường Lói có địa hình núi cao và bị chia cắt mạnh, dẫn đến hệ thống khe, suối dày đặc với tốc độ dòng chảy lớn Lưu lượng nước thay đổi theo mùa, mùa khô nước cạn trong khi mùa mưa dễ gây xói mòn ở vùng ven suối, ảnh hưởng tiêu cực đến sản xuất và giao thông của người dân.
Xã có nhiều sông, suối cung cấp nước cho sinh hoạt và sản xuất, tạo điều kiện thuận lợi cho nông nghiệp, đặc biệt là trồng lúa nước.
Diện tích rừng tại xã Mường Lói hiện đạt 11.670,51 ha, chiếm 73,1% tổng diện tích tự nhiên, trong đó đất rừng sản xuất là 3.213,45 ha và đất rừng phòng hộ là 8.457,06 ha Nhờ vào các chương trình phát triển nông thôn miền núi và chính sách giao đất, giao rừng hiệu quả, 100% diện tích rừng đã được giao và quản lý Trong những năm qua, diện tích rừng sản xuất và rừng phòng hộ có xu hướng tăng, với tỷ lệ che phủ rừng đạt 45%.
Mặc dù xã có tiềm năng tài nguyên rừng lớn, nhưng ý thức bảo vệ và phát triển rừng của người dân còn hạn chế Hiện tại, UBND xã và huyện đã đề ra các định hướng phát triển và khai thác tài nguyên rừng, tuy nhiên, vốn đầu tư cho cơ sở hạ tầng còn thấp Số lượng cơ sở chế biến lâm sản chưa nhiều, và việc áp dụng công nghệ cùng tiến bộ khoa học kỹ thuật vào ngành lâm nghiệp vẫn chưa được triển khai hiệu quả.
12 còn quá ít dẫn đến việc khai thác tài nguyên rừng còn nhiều bất cập, hiệu quả kinh tế thấp
Hình 2.1: Bản đồ vị trí địa lý xã Mường Lói, huyện Điện Biên
Điều kiện kinh tế và xã hội
2.2.1 Dân số, dân tộc, lao động, việc làm và thu nhập
Toàn xã Mường Lói có 403 hộ, 2154 nhân khẩu tập chung tại 9 thôn bản gồm 5 dân tộc sinh sống bao gồm: dân tộc Thái, dân tộc Lào, H Mông, dân tộc
Dân tộc Khơ Mú hiện đang đối mặt với nhiều thách thức, với tỷ lệ hộ nghèo đạt 38,9% và tỷ lệ phát triển dân số là 1,1% Bình quân lương thực đầu người chỉ đạt 680 kg/người/năm, trong khi thu nhập bình quân mỗi người là 7,8 triệu đồng/năm.
Nông – Lâm Nghiệp chiếm ưu thế với 97,3% trong các hình thức sản xuất, trong khi Công Nghiệp – Tiểu Công Nghiệp không có tỷ lệ và Thương Mại, Dịch Vụ chỉ chiếm 2,7% Xã có tốc độ tăng trưởng kinh tế bình quân đạt 5%.
2.2.2 Tình hình phát triển kinh tế
Về nông nghiệp: tổng diện tích gieo trồng nông ghiệp đạt 674,8 ha (đạt
Kế hoạch huyện và nghị quyết Hội đồng nhân dân xã đã đạt 99,6%, với diện tích cây lương thực có hạt là 541,4 ha, hoàn thành 100% mục tiêu đề ra.
Tổng sản lượng lương thực đạt 1.611,4 tấn (đạt 96,8% kế hoạch huyện giao và HĐND xã)
Trong năm 2017, tình hình chăn nuôi tại địa phương đã ổn định và có xu hướng phát triển tích cực nhờ vào việc sử dụng giống vật nuôi có năng suất và chất lượng cao Công tác vệ sinh thú y được chú trọng, bao gồm khử trùng tiêu độc và tiêm phòng dịch bệnh hiệu quả, giúp tổng đàn duy trì và phát triển UBND xã đã chỉ đạo cán bộ thú y phối hợp với các thôn bản để thường xuyên theo dõi, kiểm tra và tiêm vắc xin cho gia súc, với tổng số 5.600 liều được tiêm ở 9/9 thôn bản.
Xã Mường Lói đang tích cực phối hợp với các cơ quan chuyên môn để tuyên truyền và phổ biến quy phạm pháp luật liên quan đến quản lý và bảo vệ rừng, cũng như phòng cháy chữa cháy rừng Đồng thời, xã cũng xử lý kịp thời các vi phạm quy chế quản lý bảo vệ rừng và thực hiện các biện pháp ngăn chặn hành vi vi phạm, qua đó duy trì tỷ lệ che phủ rừng đạt 41,3%.
MỤC TIÊU, ĐỐI TƢỢNG, PHẠM VI, NỘI DUNG VÀ PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU
Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
PHẦN III MỤC TIÊU, ĐỐI TƢỢNG, PHẠM VI NỘI DUNG VÀ PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU
3.1.1 Mục tiêu chung Đề tài được thực hiện nhằm xây dựng cơ sở dữ liệu về thành phần các loài bò sát, lưỡng cư tại tỉnh Điện Biên phục vụ công tác bảo tồn
- Lập được danh sách các loài bò sát, lưỡng cư tại xã Mường Lói, huyện Điện Biên, tỉnh Điện Biên;
- Xây dựng các thông tin cơ bản về các chỉ tiêu đo đếm, địa điểm, sinh cảnh ghi nhận các loài bò sát, lưỡng cư trong đợt điều tra;
- Đề xuất các giải pháp nhằm quản lý, bảo tồn các loài bò sát, lưỡng cư tại xã Mường Lói
3.2 Đối tƣợng và phạm vi nghiên cứu
Các loài động vật thuộc lớp Bò sát (Reptilia) và lớp Lưỡng cư (Amphibia) tại xã Mường Lói
Địa điểm nghiên cứu: Nghiên cứu được thực hiện tại xã Mường Lói, huyện Điện Biên, tỉnh Điện Biên
Nghiên cứu này tập trung vào thành phần loài bò sát và lưỡng cư tại xã Mường Lói, huyện Điện Biên Các loài này được ghi nhận và mô tả chi tiết theo các chỉ tiêu đo đếm Dựa trên kết quả điều tra, nghiên cứu cũng đề xuất các giải pháp quản lý và bảo tồn nhằm bảo vệ các loài bò sát và lưỡng cư trong khu vực nghiên cứu.
Thời gian nghiên cứu: Nghiên cứu được thực hiện trong thời gian 3 tháng (từ tháng 02/2019 đến tháng 5/2019), cụ thể như sau:
Thời gian Nội dung công việc Địa điểm thực hiện
02/2019 - 03/2019 Xây dựng đề cương nghiên cứu Đại học Lâm nghiệp 03/2019 – 01/4/2019 Thu thập số liệu điều tra thực địa Xã Mường Lói
01/4/2019-11/4/2019 Xử lý số liệu Đại học Lâm nghiệp 11/4/2019-25/5/019 Chỉnh sửa và Hoàn thiện Khóa luận Đại học Lâm nghiệp
Nội dung nghiên cứu
(1) Điều tra thành phần các loài bò sát và lưỡng cư tại xã Mường Lói
(2) Mô tả một số loài bò sát và lưỡng cư được ghi nhận trong đợt điều tra
(3) Xác định giá trị bảo tồn của các loài bò sát, lưỡng cư tại xã Mường Lói
(4) Xác định các mối đe dọa tới các loài bò sát, lưỡng cư tại khu vực nghiên cứu
(5) Đề xuất các giải pháp quản lý và bảo tồn các loài bò sát, lưỡng cư tại khu vực nghiên cứu.
Phương pháp nghiên cứu
3.4.1 Phương pháp thừa kế tài liệu
Phương pháp kế thừa tài liệu bao gồm việc thu thập thông tin liên quan đến nghiên cứu về thành phần các loài bò sát và lưỡng cư, điều kiện tự nhiên, kinh tế xã hội, các mối đe dọa và công tác bảo tồn tại khu vực nghiên cứu từ các tài liệu trước đó Đồng thời, việc phân tích các nghiên cứu trước đó cũng giúp xác định những hạn chế và điểm cần bổ sung cho nghiên cứu hiện tại.
Để tiến hành nghiên cứu về bò sát và lưỡng cư tại Việt Nam, đặc biệt là ở tỉnh Điện Biên và huyện Điện Biên, cần thu thập các tài liệu liên quan đến điều tra, phân tích và mô tả các loài bò sát, lưỡng cư trong khu vực xã Mường Lói Bên cạnh đó, cần có tài liệu về điều kiện tự nhiên và kinh tế xã hội của khu vực nghiên cứu để đảm bảo tính toàn diện và chính xác của nghiên cứu.
Trên cơ sở tài liệu hiện có, tiến hành đọc, phân tích, chọn lọc và kế thừa tài liệu liên quan đến nội dung nghiên cứu của đề tài
Phỏng vấn được thực hiện trước và trong quá trình điều tra thực địa để xác định sự hiện diện của các loài bò sát và lưỡng cư, cũng như các địa điểm liên quan.
Để thiết lập các tuyến điều tra, có 16 điểm dễ dàng nhận thấy Bên cạnh đó, các tác động tiêu cực đối với cộng đồng địa phương và giá trị sử dụng của các loài bò sát, lưỡng cư đã được ghi nhận thông qua các cuộc phỏng vấn.
Nghiên cứu này đã tiến hành phỏng vấn 30 người từ 18 đến 60 tuổi, tất cả đều có hiểu biết về tài nguyên khu vực và sinh sống gần rừng Ưu tiên phỏng vấn được dành cho những người thường xuyên vào rừng hoặc là thợ săn Danh sách những người tham gia phỏng vấn được trình bày trong phụ lục 01.
Các câu hỏi phỏng vấn nên tập trung vào thành phần của loài bò sát và lưỡng cư, những loài thường bị săn bắt để làm thực phẩm và dược liệu Ngoài ra, cần tìm hiểu về các địa điểm dễ gặp bò sát và lưỡng cư, tình trạng khai thác gỗ, củi, lâm sản phụ, cũng như hoạt động săn bắt động vật rừng của cộng đồng địa phương.
Bài viết trình bày về việc sử dụng các câu hỏi phỏng vấn đơn giản, dễ hiểu để người dân địa phương chia sẻ thông tin về các loài bò sát và lưỡng cư mà họ đã gặp Câu hỏi được thiết kế từ khái quát đến chi tiết, bắt đầu với nhóm loài và sau đó đi vào từng loài cụ thể, khuyến khích người phỏng vấn cung cấp tên địa phương, mô tả đặc điểm như hình dạng, kích thước, màu sắc, và các đặc điểm nhận diện, bao gồm thông tin về độ độc và giá trị sử dụng Bộ câu hỏi phỏng vấn được trình bày trong phụ lục 02, và bước cuối cùng là sử dụng bộ ảnh màu của Nguyen et al (2009) để giúp người dân nhận diện chính xác loài Ngoài ra, trong quá trình phỏng vấn, người dân được khuyến khích chia sẻ các mẫu vật mà họ lưu giữ như mai, yếm hoặc bình rượu ngâm, đây là thông tin quan trọng để ghi nhận sự hiện diện của loài trong khu vực nghiên cứu Tất cả thông tin thu thập được sẽ được ghi chép vào sổ điều tra ngoại nghiệp và tổng hợp trong bảng 3.1.
Bảng 3.1: Phiếu điều tra phỏng vấn bò sát, lƣỡng cƣ
Ngày phỏng vấn:… Người phỏng vấn Tên người được phỏng vấn: Tuổi: Dân tộc:
TT Tên loài Địa điểm gặp
3.4.3 Phương pháp điều tra theo tuyến Điều tra theo tuyến nhằm ghi nhận các loài bò sát, lưỡng cư có trong khu vực điều tra thông qua việc quan sát, thu mẫu và các dấu hiệu khác Ngoài ra, sinh cảnh và các mối đe dọa đến bò sát, lưỡng cư cũng được ghi nhận trong quá trình điều tra tuyến
Dựa trên kết quả phỏng vấn và khảo sát sơ bộ, nghiên cứu này thiết lập 4 tuyến điều tra tại xã Mường Lói, với chiều dài mỗi tuyến từ 4 – 7 km Các tuyến điều tra được chọn đi qua các sinh cảnh điển hình trong khu vực, ưu tiên các đường mòn ít người qua lại Thông tin chi tiết về các tuyến điều tra được trình bày trong bảng 3.2 và hình 3.1.
Bảng 3.2: Thông tin về các tuyến điều tra bò sát, lưỡng cư tại xã Mường Lói
Tuyến số Tọa độ điểm đầu
6.5 km Rừng tự nhiên ven đường mòn.
Hình 3.1: Sơ đồ các tuyến điều tra bò sát, lưỡng cư tại xã Mường Lói
Mỗi tuyến điều tra được thực hiện hai lần theo nguyên tắc lặp lại, vào ban ngày từ 8-16h và ban đêm từ 18-21h Mục tiêu là ghi nhận hoạt động của các nhóm bò sát và lưỡng cư tại các thời điểm khác nhau trong ngày Để điều tra bò sát và lưỡng cư vào ban đêm, nhóm điều tra sử dụng đèn soi và thường đi theo nhóm từ 2-3 người.
Bắt đầu từ điểm xuất phát được xác định qua tọa độ GPS, di chuyển với tốc độ 1km/h Trong quá trình di chuyển, hãy chú ý quan sát hai bên tuyến trong phạm vi 5m Cần cẩn thận lắng nghe âm thanh xung quanh để phát hiện những tín hiệu quan trọng.
Khi phát hiện con vật, cần chụp ảnh từ xa đến gần và nếu con vật di chuyển nhanh, hãy sử dụng vợt hoặc tay để bắt ngay Sau đó, buộc chân con vật bằng chỉ có gắn miếng kim loại đã đục lỗ để đánh dấu, và cho vào túi đựng Đối với mẫu định loại ngay, chỉ cần lấy 02 mẫu (01 đực và 01 cái), còn mẫu chưa định loại sẽ được thu về và định loại theo các chỉ tiêu đo đếm theo Khóa định loại Đào Văn Tiến (1978-1982) và hình ảnh tra loài theo Nguyen et al (2009) Tất cả thông tin về tọa độ, thời gian, số lượng và sinh cảnh của các loài sẽ được ghi chép vào bảng 3.3.
Bảng 3.3: Phiếu điều tra bò sát, lƣỡng cƣ theo tuyến
Người điều tra ……… Ngày điều tra ……….……… Tuyến điều tra số ……… Lần điều tra ……… ………… … Điểm xuất phát ……….Điểm kết thúc ……… Độ dài tuyến điều tra ………Thời gian …… Thời tiết ….……….……
TT Thời gian Tên loài Số lượng Sinh cảnh Ghi chú
Trong quá trình điều tra trên tuyến, khi phát hiện các mối đe dọa, cần ghi chép thông tin về tọa độ, thời gian xuất hiện, cường độ tác động và nguyên nhân gây ra các tác động Tất cả thông tin này sẽ được tổng hợp vào bảng 3.4 và sổ tay ngoại nghiệp.
Bảng 3.4: Các mối đe dọa đến các loài bò sát, lƣỡng cƣ
TT Tuyến số Tọa độ Mối đe dọa
3.4.4 Phương pháp xử lý và bảo quản mẫu
Sau khi thu thập mẫu bò sát và lưỡng cư, chúng cần được đặt vào túi hoặc hộp an toàn, có lỗ thông khí Trước khi tiến hành xử lý, cần chụp ảnh và ghi chú các đặc điểm hình thái, vì màu sắc của mẫu vật có thể thay đổi trong quá trình ngâm Quy trình xử lý mẫu vật được thực hiện theo hướng dẫn trong bảng 3.5.
Bảng 3.5: Xử lý mẫu bò sát, lƣỡng cƣ để bảo quản
TT Các bước thực hiện
- Hóa chất: Fooc môn đậm đặc được để vào lọ riêng, foocmon 5% được pha sẵn (có thể dùng cồn 90 0 và cồn 70 0 ) và để trong các lọ nhựa bảo quản.
- Mẫu vật: các loài bò sát, lưỡng cư còn sống (tốt nhất có cả đực và cái) được rửa sạch trước khi thực hiện xử lý mẫu.
Để tiến hành quy trình, cần chuẩn bị các dụng cụ như dao mổ, kéo, kim chỉ, thẩu thủy tinh, panh, xi lanh, đĩa đựng mẫu, miếng xốp, ghim mẫu, etiket cho mẫu ngâm và bên ngoài, cùng với băng dính lớn.
- Các trang bị cá nhân: găng tay, khẩu trang.
Gây tê mẫu và chụp ảnh
- Mẫu vật được rửa sạch bằng nước lã Trong quá trình rửa, thao tác nhẹ nhàng để tránh làm đứt đuôi hoặc làm trầy xước mẫu vật;
KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU VÀ THẢO LUẬN
Thành phần các loài bò sát và lưỡng cư tại xã Mường Lói
Kết quả điều tra ghi nhận 22 loài bò sát và lưỡng cư thuộc 13 họ và 3 bộ, trong đó lớp Bò sát có 7 loài, 7 họ và 2 bộ; lớp Lưỡng cư có 13 loài thuộc 6 họ và 1 bộ Bảng tổng hợp số liệu về bộ, họ, loài bò sát và lưỡng cư được trình bày trong bảng 4.1, cùng với thông tin chi tiết về các loài được ghi nhận tại xã Mường Lói trong bảng 4.2.
Bảng 4.1: Tổng hợp thành phần số lượng bò sát, lưỡng cư tại xã Mường Lói
Lớp Tên bộ TT Tên họ Số giống Số loài
Lớp bò sát Bộ có vẩy 1 Họ Tắc kè 1 1
Bộ Rùa 5 Họ Rùa đầm 1 1
Lớp lƣỡng cƣ Bộ Không đuôi
4 Họ Ếch nhái chính thức 4 4
Bảng 4.2: Danh sách các loài Lưỡng cư và Bò sát được ghi nhận tại xã Mường Lói
TT Tên Lớp - Bộ - Họ - Loài Nguồn thông tin
Tên phổ thông Tên khoa học Tên địa phương QS MV PV Số lượng mẫu
1 Cóc nhà Duttaphrynus melanostictus Tô khăn khạc x x 2
2 Cóc mày Leptolalux ventripuncata Tô ót oi x 12
3 Nhái bầu hoa cương Mycrobyla marmorata Tô kén ự x x 10
4 Họ Ếch nhái chính thức Dicroglossidae
4 Ếch trơn Limnonectes kuhlii Tô phát pá x x 1
5 Ếch đồng Hoplobatrachus rugulosus Tô cộp
6 Ếch gai sần Quasipaa verrucospinosa Tô khiết pá x x 1
7 Nghóe Fejervarya limnocharis Tô khiết x x 5
8 Chàng đá Sylvirana cubitalis Tô pát x x 1
9 Ếch suối Sylvirana nigrovittata Tô cộp huôi x x 1
10 Ếch xanh Odorrana chloronota Tô sa lông x 1
12 Ếch cây mép trắng Polypedates leucomystax Tô pát huôi x x 3
TT Tên Lớp - Bộ - Họ - Loài Nguồn thông tin
Tên phổ thông Tên khoa học Tên địa phương QS MV PV Số lượng mẫu
13 Ếch cây kio Rhacophorus kio Tô phát khiếu x x 1
14 Nhái cây sần nhỏ Kurixalus verrucosus Tô hăn x x 1
1 Thạch sùng đuôi dẹp Hemidactylus garnotii Tô meng nha hươn x 1
2 Họ Thằn lằn bóng Scincidea
2 Thằn lằn bóng hoa Eutropis multifasciata Tô chiêm cá x 2
3 Rắn sãi kha si Amphiesma cf khasiense Tô ngu khi x 1
4 Họ Rắn hổ mây Pareidae
4 Rắn hổ mây ham-ton Pareas hamptoni Tô ngu lướng x 2
5 Rắn hổ mây sp Pareas sp x 1
6 Rùa đất sê pôn Cyclemys oldhami Tô táu lăm x x
7 Rùa núi viền Manouria impressa Táu khăm x x
8 Ba ba gai Palea steindachneri Tô pa phá x x
Tổng: 14 loài, 6 họ, 1 bộ lƣỡng cƣ; 8 loài, 7 họ, 2 bộ bò sát 19 3 12 47
Hệ thống phân loại, tên khoa học và tên phổ thông được tham khảo từ nghiên cứu của Nguyen et al (2009) Dữ liệu được thu thập thông qua các phương pháp quan sát (QS), mẫu vật ghi nhận trong nhân dân (MV), và phỏng vấn (PV) Số lượng mẫu được xác định từ các mẫu thu được ngoài thực địa.
Đánh giá về nguồn thông tin ghi nhận loài:
Trong đợt điều tra, toàn bộ số loài bò sát và lưỡng cư được ghi nhận từ các nguồn thông tin đáng tin cậy, bao gồm quan sát trực tiếp và mẫu vật thu thập từ nhà dân Kết quả này xác nhận sự hiện diện của các loài tại xã Mường Lói.
Trong nghiên cứu tại xã Mường Lói, đã có 19 loài bò sát và lưỡng cư được quan sát trực tiếp, chiếm 86,4% tổng số loài ghi nhận, với 47 mẫu thu thập (bao gồm 7 mẫu bò sát và 40 mẫu lưỡng cư) Tuy nhiên, số lượng loài thực tế có thể còn lớn hơn nhiều do một số loài như chẫu, thằn lằn bóng đuôi dài, rắn sãi thường, rắn nước, rắn ráo, rắn bồng chì và rắn lục chỉ được quan sát mà không thu thập mẫu, dẫn đến sự nghi ngờ về sự đa dạng sinh học tại khu vực này.
Các loài được ghi nhận từ phỏng vấn đều là những loài phổ biến, dễ gặp và có giá trị, giúp người dân địa phương dễ dàng nhận diện và mô tả Trong số 12 loài được ghi nhận, có 9 loài đã được quan sát ngoài thực địa và thu mẫu, trong khi 3 loài còn lại đang được nuôi tại các hộ gia đình với nguồn gốc thu bắt từ rừng thuộc xã Mường Lói.
Mặc dù số lượng bò sát và lưỡng cư được ghi nhận trong cuộc điều tra không lớn, nhưng thông tin thu thập được rất đáng tin cậy, tạo cơ sở cho các nghiên cứu và điều tra tiếp theo.
Đánh giá mức độ phong phú về thành phần loài bò sát và lƣỡng cƣ:
Kết quả nghiên cứu cho thấy, trong tổng hợp thành phần các loài bò sát và lưỡng cư, số loài lưỡng cư chiếm 63,6%, cao hơn so với bò sát 36,4% Số lượng bộ và họ bò sát cũng lớn hơn lưỡng cư (1 họ và 1 bộ) Tuy nhiên, kết quả này chưa phản ánh đầy đủ mức độ đa dạng của các loài bò sát và lưỡng cư trong khu vực do thời gian nghiên cứu ngắn và nhiệt độ môi trường thấp (dưới 20°C vào tháng 1 và tháng 2) Thực tiễn cho thấy, bò sát ở Việt Nam có sự đa dạng cao hơn lưỡng cư và môi trường sống của chúng cũng phong phú hơn (Nguyen et al., 2009).
Nhiệt độ môi trường thấp ảnh hưởng lớn đến hoạt động của các loài bò sát, khiến chúng thường tìm nơi ẩn náu trong hang hốc hoặc lùm cây để tránh rét Ngoài ra, sự di chuyển nhanh của các loài bò sát cũng dẫn đến việc một số loài không được ghi nhận trong đợt điều tra, do đó không được bổ sung vào danh sách hiện có.
Mức độ đang dạng giữa các họ trong lớp bò sát và giữa các họ trong lớp lưỡng cư được biểu thị trong hình 4.1 và hình 4.2
Hình 4.1: Biểu đồ so sánh mức độ đa dạng giữa các họ bò sát
Hình 4.2: Biểu đồ so sánh mức độ đa dạng giữa các họ lƣỡng cƣ
Trong số các họ bò sát, chỉ có họ Rắn hổ mây (Pareidae) là có sự khác biệt rõ rệt với 2 loài, trong khi các họ khác chỉ bao gồm 1 giống.
1 loài Nhìn chung, các họ bò sát có mức đa dạng thấp
Trong 6 họ lưỡng cư được ghi nhận tại xã Mường Lói, họ Ếch nhái chính thức (Dicroglossidae) có sự đa dạng nhất với 4 giống và 4 loài, tiếp đến là họ Ếch cây (Rhacophoridae) có 3 giống và 3 loài, họ Ếch nhái (Ranidae) có 2 giống và 4 loài Các họ khác kém đa dạng với chỉ 1 giống và 1 loài Mức độ đa dạng của họ Ếch nhái chính thức, họ Ếch nhái và họ Ếch cây hơn các họ khác phù hợp với sự đa dạng và phong phú của các họ lưỡng cư này ở Việt Nam
Ý nghĩa của kết quả nghiên cứu về thành phần loài:
Trước đây, xã Mường Lói chưa được nghiên cứu về thành phần loài bò sát và lưỡng cư, vì vậy, danh sách 22 loài bò sát và lưỡng cư được xác định tại đây sẽ là tài liệu tham khảo quan trọng cho các nghiên cứu tiếp theo Tài liệu này không chỉ giúp xác định thành phần loài tại xã Mường Lói mà còn hướng đến việc xây dựng danh sách loài bò sát và lưỡng cư cho huyện Điện Biên, tỉnh Điện Biên.
Nghiên cứu này được thực hiện trong thời gian ngắn và vào thời điểm không thích hợp (nhiệt độ môi trường thấp), do đó cần có thêm nhiều nghiên cứu khác trên toàn bộ diện tích xã Mường Lói Các nghiên cứu này nên được tiến hành vào thời điểm nóng ẩm để bổ sung thêm thành phần loài và đánh giá đầy đủ mức độ đa dạng về bò sát và lưỡng cư tại khu vực này.
4.2 Mô tả một số loài bò sát, lƣỡng cƣ đƣợc ghi nhận trong đợt điều tra Đợt điều tra đã ghi nhận 22 loài bò sát và lưỡng cư tại xã Mường Lói, trong đó có 18 loài thu được mẫu, 3 loài ghi nhận thông qua các mẫu vật trong nhân dân và một loài quan sát ngoài thực địa Do giới hạn của bản khóa luận nên dưới đây là thông tin mô tả về một số loài phổ biến tại xã Mường Lói được ghi nhận trong đợt điều tra
Tên khoa học: Duttaphrynus melanostictus (Schneider, 1799)
Mẫu vật có màu nâu đặc trưng, không sở hữu răng lá mía Gờ mõm rõ ràng, trong khi vùng má có hình dáng xiên Gian ổ mắt lõm và các gờ sau ổ mắt cùng gờ giữa mắt đều nổi bật Màng nhĩ cũng được quan sát rõ ràng.
Tuyến mang tai phát triển
Trên thân và chi có nhiều mụn to nhỏ không đều, đầu mụn có màu đen
Mẫu được thu tại đồng ruộng của bản Lói 2 - Mường Lói - Điện Biên
Phân bố: Khắp cả nước (Nguyen et al., 2009)
Bảng 4.3: Kích thước của hai cá thể Cóc nhà trưởng thành
Chỉ tiêu đo đếm Các thông số (mm)
Ký hiệu Giải thích LVH28 - Male LVH29 - Male
SVL Chiều dài mõm huyệt 60.63 66.06
TEY Khoảng cách từ màng nhĩ đến mắt 1.7 1.7
IN Khoảng cách giữa 2 lỗ mũi 4.4 3.8
NS Khoảng cách từ lỗ mũi đến mút mõm 3.10 2.72
EN Khoảng cách từ trước mắt đến lỗ mũi 4.31 3.45
EYE Đường kính ngang của mắt 5.87 5.53
IOD Chiều rộng gian mi mắt 5.03 5.59
TMP Đường kính ngang màng nhĩ 3.85 3.65
TIB Chiều dài ống chân khi (gập lại) 25.56 26.97 TAS Cẳng chân (sau ống chân trước đến cùi ban chân trong)
ML Dài bàn tay (từ của bàn trong đến mút ngón thứ III);
PL Chiều dài bàn chân (đo từ củ bàn chân trong đến mút ngón thứ IV)
IPL Chiều dài củ bàn tay trong 2.86 2.17
Hình 4.3: Cóc nhà- Duttaphrynus melanostictus
Tên khoa học: Leptolalux ventripuncata
Lớp: Lưỡng cư (Amphibia) Đặc điểm hình thái:
Lưng màu nâu Da nhẵn, không có nốt sần
Các chi, ngón chân có các vằn nâu đen vắt ngang
Bụng màu nâu hồng Phần da ở khớp các ống tay, ống chân có màu nâu đồng
Ngón tay không có màng bơi và riềm da, trong khi ngón chân có màng bơi gần gốc bàn chân mà không có riềm da Đặc điểm cơ thể bao gồm đùi ngắn và đầu dài hơn rộng, với mõm hơi tròn khi nhìn từ phía lưng Mũi nằm gần mõm hơn mắt, và mắt lớn có nếp da kéo dài từ đuôi mắt qua màng nhĩ, dưới mắt có vệt đen lớn Màng nhĩ rõ ràng Mẫu vật được thu thập vào khoảng thời gian từ 19h30 đến 22h45 trong tháng 2 tại sinh cảnh ven suối nhỏ, bao quanh là rừng cây tự nhiên.
Phân bố: Trung Quốc, Lào, Việt Nam (Nguyen et al.,2009)
Bảng 4.4: Kích thước của hai cá thể Cóc mày trưởng thành
Chỉ tiêu đo đếm Các thông số (mm)
Ký hiệu Giải thích LVH010 - Female LVH014 -Male
SVL Chiều dài mõm huyệt 33.6 28.33
TEY Khoảng cách từ màng nhĩ đến mắt 2.12 1.62
Hình 4.4: Cóc mày - Leptolalux ventripuncata
Chỉ tiêu đo đếm Các thông số (mm)
Ký hiệu Giải thích LVH010 - Female LVH014 -Male
IN Khoảng cách giữa 2 lỗ mũi 3.18 2.65
NS Khoảng cách từ lỗ mũi đến mút mõm 1.82 2.09
EN Khoảng cách từ trước mắt đến lỗ mũi 2.68 2.42
EYE Đường kính ngang của mắt 2.86 3.24
IOD Chiều rộng gian mi mắt 3.67 3.2
TMP Đường kính ngang màng nhĩ 2.25 2.15
TIB Chiều dài ống chân khi (gập lại) 15.87 13.29
TAS Cẳng chân (sau ống chân trước đến cùi ban chân trong) 9.54 7.43
ML Dài bàn tay (từ của bàn trong đến mút ngón thứ III); 6.27 5.1
PL Chiều dài bàn chân (đo từ củ bàn chân trong đến mút ngón thứ IV) 12.98 10.7
IPL Chiều dài củ bàn tay trong 2.01 1.8
Tên khoa học: Microhyla cf marmorata
Giá trị bảo tồn các loài bò sát, lưỡng cư tại xã Mường Lói
Kết quả tra cứu tình trạng các loài bò sát và lưỡng cư tại xã Mường Lói được thể hiện trong bảng 4.16, trong khi danh sách các loài bò sát và lưỡng cư nguy cấp, quý hiếm tại đây được tổng hợp trong bảng 4.17.
Bảng 4.16: Tra cứu tình trạng bảo tồn các loài BS, LC tại xã Mường Lói
TT Tên phổ thông Tên khoa học
3 Nhái bầu hoa cương Mycrobyla marmorata
6 Ếch gai sần Quasipaa verrucospinosa
12 Ếch cây mép trắng Polypedates leucomystax
13 Ếch cây kio Rhacophorus kio EN
14 Nhái cây sần nhỏ Kurixalus verrucosus
15 Thạch sùng đuôi dẹp Hemidactylus garnotii
16 Thằn lằn bóng hoa Eutropis multifasciata
17 Rắn sãi kha si Amphiesma cf khasiense
18 Rắn hổ mây ham-ton Pareas hamptoni
19 Rắn hổ mây sp Pareas sp
20 Rùa đất sê pôn Cyclemys oldhami IIB
21 Rùa núi viền Manouria impressa VU VU IIB PLII
22 Ba ba gai Palea steindachneri VU EN IIB PLII
Ghi chú: SĐVN (2007) - Sách đỏ Việt Nam năm 2007; IUCN (2019) - Sách đỏ thế giới năm 2019; NĐ06 (2019) - Nghị định 06/2019/NĐ-CP; ND160 (2013) – Nghị định 160/2013/NĐ- CP; TT04 (2017) – Thông tư 04/2017/TT-BNNPTNT
+ EN: Loài ở cấp nguy cấp
+ VU: Loài ở cấp sẽ nguy cấp
+ IIB: Động vật rừng hạn chế khai thác, sử dụng vì mục đích thương mại
+ PLII: Phụ lục II của Thông tư 04/2017/TT-BNNPTNT
Bảng 4.17: Danh sách các loài BS, LC nguy cấp, quý hiếm tại xã Mường Lói
TT Tên phổ thông Tên khoa học
1 Ếch cây kio Rhacophorus kio EN
2 Rùa đất sê pôn Cyclemys oldhami IIB
3 Rùa núi viền Manouria impressa VU VU IIB PLII
4 Ba ba gai Palea steindachneri VU EN IIB PLII
Ghi chú: SĐVN (2007) - Sách đỏ Việt Nam năm 2007; IUCN (2019) - Sách đỏ thế giới năm 2019; NĐ06 (2019) - Nghị định 06/2019/NĐ-CP; ND160 (2013) – Nghị định 160/2013/NĐ- CP; TT04 (2017) – Thông tư 04/2017/TT-BNNPTNT
+ EN: Loài ở cấp nguy cấp
+ VU: Loài ở cấp sẽ nguy cấp
+ IIB: Động vật rừng hạn chế khai thác, sử dụng vì mục đích thương mại
+ PLII: Phụ lục II của Thông tư 04/2017/TT-BNNPTNT
Tại xã Mường Lói, có 22 loài bò sát và lưỡng cư được ghi nhận, trong đó có 4 loài nguy cấp, quý hiếm và có giá trị bảo tồn, bao gồm Ếch cây kio (Rhacophorus kio), Rùa đất sê pôn (Cyclemys oldhami), Rùa núi viền (Manouria impressa) và Ba ba gai (Palea steindachneri).
Trong số bốn loài động vật quý hiếm, có ba loài được ghi trong Sách đỏ Việt Nam Cụ thể, ếch cây kio thuộc cấp Nguy cấp (EN), trong khi rùa núi viền và ba ba gai thuộc cấp Sẽ nguy cấp (VU).
Hai loài đang gặp nguy cơ suy giảm số lượng không chỉ ở Việt Nam mà còn trên toàn thế giới là Ba ba gai, được xếp hạng EN và Rùa núi viền, được xếp hạng VU theo IUCN năm 2019.
Cả hai loài bò sát quý hiếm này đều thuộc Phụ lục II trong Thông tư 04 (2017)
Mặc dù không có loài bò sát, lưỡng cư nào có tên trong Nghị định 160
(2013) nhưng có 3 loài thuộc nhóm IIB trong Nghị định 06 (2019)
Tại xã Mường Lói, số lượng loài bò sát và lưỡng cư được ghi nhận chủ yếu là các loài phổ biến, với nhiều cá thể tồn tại trong tự nhiên Tuy nhiên, một số loài quý hiếm và có phân bố rộng như rắn hổ và kỳ đà vẫn chưa được ghi nhận trong đợt khảo sát này.
Tại xã Mường Lói, cần tiến hành nhiều nghiên cứu bổ sung về thành phần loài, đặc biệt là các loài bò sát và lưỡng cư quý hiếm để phục vụ công tác bảo tồn đa dạng sinh học Đồng thời, việc ưu tiên và thực hiện các giải pháp cụ thể nhằm bảo tồn 4 loài bò sát và lưỡng cư quý hiếm trong khu vực là rất cần thiết.
Các mối đe dọa tới các các loài bò sát, lưỡng cư tại xã Mường Lói
Kết quả điều tra cho thấy có hai nhóm mối đe dọa chính ảnh hưởng đến các loài bò sát, lưỡng cư và sinh cảnh sống của chúng, bao gồm mối đe dọa trực tiếp và mối đe dọa gián tiếp.
4.4.1 Nhóm mối đe dọa trực tiếp
Các loài bò sát và lưỡng cư đang phải đối mặt với nhiều mối đe dọa trực tiếp, dẫn đến sự suy giảm đáng kể về số lượng và chất lượng sinh cảnh sống của chúng Những mối đe dọa này bao gồm săn bắt, phá rừng để làm nương rẫy, cháy rừng, cũng như khai thác gỗ và lâm sản ngoài gỗ trái phép.
4.4.1.1 Hoạt động săn bắt trái phép
Trên địa bàn xã Mường Lói, nơi chủ yếu có người dân tộc thiểu số sinh sống, hoạt động săn bắt trái phép các loài bò sát và lưỡng cư diễn ra thường xuyên Những loài này thường được săn bắt để làm thực phẩm, đặc biệt là vào mùa sinh sản từ tháng 6 đến tháng 8, khi chúng dễ bị bắt hơn Các loài lưỡng cư thường xuyên bị săn bắt bao gồm Nghóe, Ếch đồng, Chàng đá và Ếch trơn.
Hình 4.24: Ếch nhái bị bắt làm thực phẩm tại hộ gia đình bản Lói 2
4.4.1.2 Phá rừng để canh tác nương rẫy
Xã Mường Lói chủ yếu trồng lúa nương, với diện tích canh tác lúa nước hạn chế, chiếm khoảng 80% Việc phát rừng để làm nương rẫy rất phổ biến, dẫn đến diện tích đất canh tác ngày càng tăng qua các năm Đây là nguyên nhân chính gây ra tình trạng mất rừng tại xã Mường Lói.
Trên các nương rẫy, người dân xây dựng lán để sinh sống và chăn nuôi Việc cư trú lâu dài đòi hỏi thực phẩm, dẫn đến việc săn bắt động vật hoang dã, bao gồm cả bò sát và lưỡng cư Ngoài ra, hoạt động chăn nuôi gia súc như trâu, bò, dê và gia cầm như gà, vịt, ngan, cũng như chó, mèo có nguy cơ lây lan dịch bệnh và có thể gây ra tình trạng săn bắt các loài bò sát, lưỡng cư làm thức ăn.
Hình 4.25: Hoạt động canh tác nương rẫy tại bản Lói 3
Tại xã Mường Lói, tình trạng cháy rừng vẫn diễn ra do hành vi cố ý hoặc vô ý của người dân, đặc biệt là trong quá trình chăn thả trâu bò khi họ đốt cỏ tranh để phục vụ mục đích này Hoạt động đốt nương thiếu kiểm soát cũng góp phần gây ra cháy rừng, dẫn đến ngọn lửa lan rộng sang các khu rừng khác Cháy rừng không chỉ gây thiệt hại cho các loài bò sát và lưỡng cư mà còn làm chia cắt sinh cảnh sống của chúng, đặc biệt là những loài sinh sống và sinh sản ở khu vực rừng giáp ranh với đất canh tác nông nghiệp.
Hình 4.26: Đốt nương làm rẫy dẫn đến cháy rừng tại bản Lói 2
4.4.1.4 Khai thác gỗ và lâm sản ngoài gỗ trái phép
Hoạt động khai thác gỗ trái phép tại xã Mường Lói diễn ra không thường xuyên, chủ yếu phục vụ cho phong tục làm nhà sàn của các dân tộc Lào, Thái, Khơ Mú và H’Mông Gỗ được khai thác chủ yếu để xây dựng nhà ở và chuồng trại cho vật nuôi.
Hoạt động khai thác lâm sản ngoài gỗ chủ yếu bao gồm củi và măng, với việc khai thác củi diễn ra quanh năm và mùa khai thác măng từ tháng 3 đến tháng 8 Đối tượng tham gia khai thác chủ yếu là người dân trong xã và các xã lân cận Ngoài việc thu hoạch củi và măng, người dân còn bắt các loài động vật, bao gồm bò sát và lưỡng cư, để làm thực phẩm.
Hoạt động khai thác củi và lâm sản ngoài gỗ, đặc biệt là khai thác măng, diễn ra từ tháng 3 đến tháng 6 hàng năm Người dân trong xã và các xã lân cận tham gia vào hoạt động này, thường theo hình thức cá nhân hoặc nhóm từ 3-5 người Tuy nhiên, việc khai thác này có thể ảnh hưởng đến sinh cảnh sống của các loài bò sát và lưỡng cư.
4.4.2 Nhóm mối đe dọa gián tiếp
Các loài bò sát và lưỡng cư tại xã Mường Lói đang phải đối mặt với các mối đe dọa gián tiếp chủ yếu từ sự gia tăng dân số và tình trạng nghèo đói của người dân địa phương Thu nhập của người dân còn thấp và không ổn định, chủ yếu phụ thuộc vào nông nghiệp Hơn nữa, trình độ nhận thức của cộng đồng còn hạn chế, với tỷ lệ học sinh tốt nghiệp THPT thấp Truyền thống văn hóa bản sắc dân tộc, như việc sống trong nhà sàn, cũng góp phần vào việc phá rừng tự nhiên.
Đề xuất các giải pháp quản lý và bảo tồn các loài bò sát, lưỡng cư tại xã Mường Lói
Dựa trên tình hình thực tiễn tại xã Mường Lói và các kết quả nghiên cứu, chúng tôi đề xuất 4 giải pháp nhằm cải thiện công tác quản lý và bảo tồn các loài bò sát, lưỡng cư cũng như các loài động vật khác tại địa phương này.
Để bảo tồn sinh cảnh cho các loài bò sát và lưỡng cư, việc bảo vệ diện tích rừng hiện có là rất quan trọng Tại xã Mường Lói, giải pháp bảo vệ rừng bao gồm việc thành lập tổ đội bảo vệ rừng và tăng cường hoạt động của kiểm lâm địa bàn Cần thực hiện tuần tra thường xuyên, xử lý các vi phạm, và triển khai các biện pháp phòng chống cháy rừng, đặc biệt tại các khu vực rừng cấm và khu vực phục hồi sinh thái.
Chính quyền địa phương và các cơ quan chức năng cần phát động chương trình trồng rừng cây gỗ, tre măng và vườn cây thuốc nhằm giảm thiểu sự phụ thuộc vào nguồn lâm sản tự nhiên Đối với diện tích rừng bị cháy, cần tổ chức trồng rừng lại và hạn chế chăn thả gia súc để phục hồi hệ sinh thái, tạo hành lang đa dạng sinh học kết nối giữa các khoảnh rừng, từ đó giảm thiểu sự chia cắt sinh cảnh.
Giải pháp nhân nuôi các loài bò sát, lƣỡng cƣ có giá trị:
Nhân nuôi động vật hoang dã không chỉ hỗ trợ phát triển kinh tế cho người dân mà còn góp phần bảo tồn nguồn gen đa dạng sinh học Tại xã Mường Lói, nhiều loài bò sát và lưỡng cư có giá trị thực phẩm đang được khai thác.
Việc phát triển mô hình nuôi trồng các dược liệu như Ếch đồng và Ba ba gai đang được khuyến khích tại nhiều địa phương trên cả nước, với mục tiêu nâng cao giá trị kinh tế Chính quyền địa phương và các cơ quan chức năng cần xem xét xây dựng các chương trình hỗ trợ người dân trong việc nuôi các loài đã được nhân nuôi thành công, đồng thời thử nghiệm nhân nuôi các loài mới như Ếch trơn và Ếch xanh bắc bộ Sự đa dạng hóa trong chăn nuôi không chỉ giúp phát triển kinh tế mà còn giảm áp lực khai thác tài nguyên từ tự nhiên.
Giải pháp về các hoạt động ƣu tiên bảo tồn:
Sự nghèo đói và tăng dân số nhanh là những nguyên nhân gián tiếp ảnh hưởng đến đa dạng sinh học tại xã Mường Lói Để giảm thiểu sự lệ thuộc vào tài nguyên rừng, cần ưu tiên nâng cao đời sống của người dân địa phương Chính quyền cần thực hiện chính sách giao đất, giao rừng và phân chia đất canh tác hợp lý, đảm bảo nhu cầu lương thực tối thiểu cho các hộ gia đình, hướng tới mục tiêu thoát nghèo Đồng thời, việc tăng cường chuyển giao kỹ thuật khuyến nông, khuyến lâm sẽ giúp tăng thu nhập và giảm áp lực lên nguồn tài nguyên đa dạng sinh học trong khu vực.
Giải pháp về tuyên truyền:
Trình độ dân trí tại xã Mường Lói hiện còn thấp, do đó, việc nâng cao nhận thức cộng đồng về bảo tồn nguồn tài nguyên đa dạng sinh học là rất cần thiết Các chương trình giáo dục bảo tồn nên hướng tới cộng đồng và học sinh địa phương thông qua các hoạt động bảo tồn đa dạng sinh học và giáo dục pháp luật bảo vệ rừng Hình thức tuyên truyền có thể đa dạng, bao gồm phát trên đài truyền thanh, tổ chức họp thôn, giao lưu văn nghệ, hoặc các chương trình ngoại khóa tại trường học.
KẾT LUÂN, TỒN TẠI VÀ KHUYẾN NGHỊ
Các kết quả nghiên cứu của đề tài đã đáp ứng được các nội dung và mục tiêu đề ra
Tại xã Mường Lói, bảng danh sách các loài bò sát và lưỡng cư đã được xây dựng, bao gồm 22 loài thuộc 13 họ và 3 bộ Trong đó, lớp bò sát có 8 loài, 7 họ và 2 bộ; lớp lưỡng cư có 14 loài, 6 họ và 1 bộ Các loài này được ghi nhận với thông tin tin cậy, trở thành tài liệu hữu ích cho các nghiên cứu trong tương lai.
Tại xã Mường Lói, các loài bò sát và lưỡng cư đã được ghi nhận và mô tả chi tiết, bao gồm địa điểm xuất hiện và các đặc điểm hình thái của chúng Thông tin này dựa trên các mẫu vật được thu thập trong quá trình điều tra thực địa.
Mặc dù Mường Lói chỉ ghi nhận một số lượng hạn chế về bò sát và lưỡng cư, nhưng nơi đây có 4 loài quan trọng cần được bảo tồn, không chỉ ở Việt Nam mà còn trên toàn cầu Các loài này bao gồm Ếch cây kio, Rùa đất sê pôn, Rùa núi viền và Ba ba gai, đều là những loài ưu tiên bảo tồn tại xã Mường Lói.
Tại xã Mường Lói, nguồn tài nguyên đa dạng sinh học, đặc biệt là bò sát và lưỡng cư, đang đối mặt với nhiều mối đe dọa nghiêm trọng Các hoạt động săn bắt trái phép, phá rừng để làm nương rẫy, cháy rừng, và khai thác gỗ cũng như lâm sản ngoài gỗ trái phép đang gia tăng Bên cạnh đó, sự gia tăng dân số và tình trạng nghèo đói cũng được xem là nguyên nhân gián tiếp ảnh hưởng xấu đến sự đa dạng sinh học trong khu vực.
Dựa trên tình hình thực tiễn của khu vực và các kết quả nghiên cứu, bốn giải pháp đã được đề xuất để cải thiện công tác quản lý và bảo tồn các loài bò sát tại xã Mường Lói.
Mặc dù bản thân đã rất cố gắng trong quá trình nghiên cứu nhưng bản khóa luận vẫn còn một số tồn tại sau:
Địa hình phức tạp của khu vực nghiên cứu đã gây khó khăn trong quá trình điều tra, ảnh hưởng đến việc khảo sát toàn diện diện tích xã Do các tuyến điều tra chỉ mang tính đại diện, nên kết quả nghiên cứu của đề tài còn nhiều hạn chế.
Trong quá trình điều tra, thời tiết nắng nóng ban ngày và lạnh vào ban đêm, cùng với việc không có mưa, đã ảnh hưởng đáng kể đến kết quả Hơn nữa, do thời gian nghiên cứu ngắn và năng lực hạn chế, diện tích khảo sát cũng bị giới hạn, dẫn đến việc kết quả chưa phản ánh đầy đủ nguồn tài nguyên bò sát và lưỡng cư tại xã Mường Lói.
Từ những tồn tại trong quá trình điều tra thực tế, tôi có một số khuyến nghị như sau:
Tại xã Mường Lói, cần tiến hành nhiều nghiên cứu sâu hơn về thành phần loài bò sát và lưỡng cư Các nghiên cứu nên được thực hiện vào các mùa khác nhau, kéo dài thời gian và bao quát toàn bộ sinh cảnh cùng với các đai cao trong toàn xã.