Mục tiêu nghiên cứu
Mục tiêu của nghiên cứu là đánh giá và phân tích định lượng các yếu tố ảnh hưởng đến xác suất phát sinh nợ xấu của khách hàng cá nhân sử dụng thẻ tín dụng quốc tế tại Ngân hàng Chính sách xã hội tỉnh CN4 Nghiên cứu sẽ trả lời hai câu hỏi chính liên quan đến vấn đề này.
(1) Những nhân tố nào ảnh hưởng đến xác suất phát sinh nợ xấu TTDQT của khách hàng cá nhân sử dụng TTDQT tại NHCTCN4?
(2) Mức độ ảnh hưởng của từng nhân tố đến xác suất phát sinh nợ xấu
TTDQT của khách hàng cá nhân sử dụng TTDQT tại NHCTCN4?
Phạm vi và phương pháp nghiên cứu
Đề tài nghiên cứu tập trung vào việc kiểm tra và phân tích tác động của các yếu tố đến khả năng trả nợ của khách hàng cá nhân sử dụng thẻ tín dụng quốc tế được phát hành tại Ngân hàng Công thương Việt Nam chi nhánh 4.
Phạm vi thu thập dữ liệu được thực hiện thông qua phương pháp chọn mẫu thuận tiện, bao gồm thông tin của 589 khách hàng sử dụng thẻ tín dụng quốc tế (TTDQT) tại NHCTCN4 trong giai đoạn từ 2012 đến 2015 Trong số này, có 94 chủ thẻ đang gặp nợ xấu (nhóm nguy cơ) và 495 chủ thẻ không có nợ xấu nhưng có phát sinh giao dịch trong 6 kỳ sao kê từ tháng 01/2015 đến tháng 06/2015 (nhóm đối chứng) Các chủ thẻ không phát sinh giao dịch hoặc không có dư nợ đã bị loại bỏ khỏi nghiên cứu Tại thời điểm nghiên cứu, có 105 trường hợp nợ xấu, trong đó 11 khách hàng thiếu thông tin cần thiết như trình độ, tình trạng hôn nhân, số người phụ thuộc và tình trạng sở hữu nhà, nên cũng được loại khỏi mẫu Cuối cùng, chỉ có 495 chủ thẻ trong tổng số 1.953 chủ thẻ tại NHCTCN4 thỏa mãn ba điều kiện: không có nợ xấu, có giao dịch trong 6 kỳ sao kê gần nhất hoặc có dư nợ TTDQT, và có đầy đủ thông tin cần thiết cho nghiên cứu.
Dựa trên lý thuyết về hành vi thanh toán nợ vay, bài viết ứng dụng mô hình Logistic để xây dựng mô hình hồi quy Logistic, nhằm phân tích các yếu tố ảnh hưởng đến xác suất phát sinh nợ xấu TTDQT của khách hàng Các bước thực hiện được trình bày cụ thể để đảm bảo tính chính xác trong việc đánh giá rủi ro nợ xấu.
Bước 1: Xác định câu hỏi nghiên cứu
Bước 2: Trên cơ sở lý thuyết về nợ xấu TTDQT, tác giả lập luận lựa chọn mô hình nghiên cứu phù hợp
Bước 3 trong quy trình nghiên cứu là thu thập dữ liệu, sử dụng mô hình hồi quy Logistic để xử lý thông tin trên phần mềm SPSS và R Phương pháp nghiên cứu định lượng được áp dụng nhằm phân tích các yếu tố ảnh hưởng đến xác suất phát sinh nợ xấu TTDQT của khách hàng.
Bước 4: Phân tích và đánh giá kết quả nghiên cứu.
Ý nghĩa thực tiễn của đề tài
Đề tài này cung cấp cho các tổ chức tín dụng một cơ sở vững chắc để dự báo xác suất khách hàng phát sinh nợ xấu, từ đó giúp giảm thiểu nợ xấu cho ngân hàng Đây cũng là nền tảng khoa học cho các nghiên cứu quy mô lớn hơn trong lĩnh vực tài chính Bên cạnh đó, tác giả đề xuất các giải pháp ứng dụng hiệu quả nhằm hạn chế tình trạng nợ xấu liên quan đến thẻ tín dụng.
Kết cấu luận văn
Lời mở đầu của bài viết giới thiệu lý do chọn đề tài, xác định vấn đề nghiên cứu, mục tiêu cụ thể, và đặt ra câu hỏi nghiên cứu Đồng thời, nó cũng xác định phạm vi nghiên cứu, nêu rõ ý nghĩa thực tiễn của đề tài, phương pháp nghiên cứu được áp dụng, và kết cấu của luận văn.
Chương 1: Tổng quan thẻ tín dụng và hành vi thanh toán nợ thẻ tín dụng quốc tế
Chương 1 cung cấp cái nhìn tổng quan về thẻ tín dụng và lý thuyết hành vi thanh toán nợ thẻ tín dụng Tác giả tóm lược kết quả từ nhiều nghiên cứu trong nước và quốc tế liên quan đến hành vi thanh toán nợ Đồng thời, chương này cũng trình bày mô hình nghiên cứu đề xuất và lý do lựa chọn mô hình Logistic để thực hiện đề tài.
Chương 2: Thực trạng phát triển và thực trạng nợ xấu TTDQT
Chương 2 phân tích thực trạng phát triển thẻ tín dụng quốc tế (TTDQT) qua các năm, đồng thời nêu rõ tình hình nợ xấu liên quan đến TTDQT Ngoài ra, chương này cũng làm nổi bật tiềm năng phát triển của thẻ tín dụng và các nguyên nhân chính dẫn đến nợ xấu trong lĩnh vực này.
Chương 3: Phân tích các nhân tố ảnh hưởng tới xác suất nợ xấu TTDQT
Chương 3 của bài viết thực hiện phân tích thống kê mô tả các yếu tố ảnh hưởng đến khả năng trả nợ của khách hàng, đồng thời tiến hành phân tích định lượng mô hình nghiên cứu dựa trên cơ sở lý thuyết đã trình bày ở chương 1.
Chương 4: Kết luận và giải pháp giúp hạn chế nợ xấu TTDQT
Chương 4 tổng kết các nhân tố ảnh hưởng đến khả năng thanh toán nợ của khách hàng và đánh giá mức độ tác động của từng yếu tố Dựa trên những kết luận này, bài viết đề xuất các giải pháp nhằm áp dụng mô hình nghiên cứu vào thực tiễn, từ đó giúp giảm thiểu nợ xấu trong lĩnh vực TTDQT.
TỔNG QUAN THẺ TÍN DỤNG VÀ HÀNH VI THANH TOÁN NỢ THẺ TÍN DỤNG QUỐC TẾ
Tổng quan về thẻ tín dụng quốc tế
Thẻ tín dụng là công cụ tài chính cho phép chủ thẻ chi tiêu trong hạn mức tín dụng được cấp, với yêu cầu thanh toán đúng hạn Đặc biệt, thẻ tín dụng vừa đóng vai trò là phương tiện giao dịch, vừa là hình thức vay ngắn hạn Tổ chức phát hành thẻ quy định hạn mức chi tiêu dựa trên khả năng trả nợ của khách hàng, cho phép họ rút tiền mặt và thanh toán hàng hóa, dịch vụ Mô hình này cho phép người dùng chi tiêu trước và trả tiền sau, với kỳ sao kê thường là một tháng Cuối mỗi kỳ sao kê, chủ thẻ cần thanh toán toàn bộ hoặc một phần số tiền đã chi tiêu, và việc thanh toán đúng hạn giúp duy trì tín dụng tốt.
Thẻ tín dụng là cam kết của tổ chức phát hành trong việc thanh toán các khoản chi tiêu của chủ thẻ Khi khách hàng mua hàng hóa hoặc dịch vụ, tổ chức thanh toán sẽ tạm ứng số tiền cho nhà cung cấp Ngân hàng phát hành sau đó sẽ thanh toán cho ngân hàng thanh toán và thu hồi khoản tiền này từ khách hàng theo thỏa thuận đã ký kết.
Thẻ tín dụng là phương tiện thanh toán hiện đại hàng đầu, cho phép chủ thẻ chi tiêu mà không cần mang theo tiền mặt.
Thẻ tín dụng được chia thành hai loại chính: thẻ tín dụng nội địa và thẻ tín dụng quốc tế Thẻ tín dụng nội địa chỉ có thể sử dụng và thanh toán trong một quốc gia nhất định, với tổ chức phát hành và cơ sở chấp nhận thẻ cùng nằm trong quốc gia đó, và đồng tiền sử dụng là đồng nội tệ Ngược lại, thẻ tín dụng quốc tế được phát hành bởi các ngân hàng và tổ chức tài chính trong nước cũng như quốc tế, cho phép người dùng thực hiện thanh toán tại các đơn vị chấp nhận thẻ và rút tiền trên phạm vi toàn cầu.
Lý thuyết về hành vi thanh toán nợ thẻ tín dụng
Hành vi thanh toán nợ thẻ tín dụng là việc trả tiền cho tổ chức phát hành liên quan đến các khoản chi tiêu hoặc rút tiền mặt mà chủ thẻ tín dụng đã thực hiện.
Hành vi thanh toán nợ thẻ tín dụng được chia thành hai loại: thanh toán đúng hạn và thanh toán quá hạn Thanh toán đúng hạn là khi người dùng thực hiện giao dịch lớn hơn số tiền tối thiểu trước thời điểm hết hạn, trong khi thanh toán quá hạn xảy ra khi nợ không được thanh toán đúng hạn Hành vi thanh toán quá hạn thường được phân loại thành hai nhóm khác nhau.
Phân loại theo kỳ sao kê cho thấy mức độ thanh toán nợ quá hạn phụ thuộc vào bội số của kỳ sao kê Các mức độ này bao gồm nợ quá hạn dưới mức quy định.
Phân loại nợ quá hạn theo kỳ sao kê từ 30 ngày, 30 đến 60 ngày, 61 đến 90 ngày và 91 đến 120 ngày giúp quản lý nợ hiệu quả và phân loại khách hàng một cách thuận tiện.
Ngân hàng phân loại nợ theo nhóm dựa trên thời gian thanh toán nợ quá hạn, cụ thể là: nợ quá hạn dưới 10 ngày, từ 10 đến 90 ngày, từ 91 đến 180 ngày, từ 181 đến 360 ngày và trên 360 ngày.
Tại Ngân hàng NHCTCN4, trước ngày 31/12/2014, việc phân loại hành vi nợ quá hạn được thực hiện theo kỳ sao kê Tuy nhiên, từ ngày 01/01/2015, NHCTVN đã áp dụng đồng thời hai phương pháp phân loại trong các báo cáo liên quan đến nợ quá hạn thẻ tín dụng.
Trong nghiên cứu hành vi thanh toán nợ quá hạn, các tác giả đã đưa ra nhiều định nghĩa khác nhau tùy theo mục tiêu nghiên cứu Zhao và cộng sự (2009) xác định khách hàng quá hạn là những người không thanh toán đủ số tối thiểu trong kỳ sao kê, trong khi Black và cộng sự (1998) coi khách hàng quá hạn là những người đã từng quá hạn ít nhất một kỳ trong năm Noh và cộng sự (2005) lập luận rằng nợ quá hạn được xác định khi khoản nợ quá hạn từ 30 ngày trở lên Nguyễn Ngọc Phương Thảo (2013) và Stanvins (2000) cho rằng hành vi thanh toán nợ quá hạn xảy ra khi khách hàng chậm trả nợ trong hai kỳ liên tiếp Các nghiên cứu của Sheng (2011), Bellotti và cộng sự (2009), Nyamongo (2009), và Dunn (1999) tập trung vào hành vi của khách hàng đã phát sinh nợ quá hạn từ ba kỳ sao kê trở lên.
1.2.2 Một số nghiên cứu về hành vi thanh toán thẻ tín dụng
1.2.1 Các nghiên cứu trong nước
Nghiên cứu của Nguyễn Thị Thanh Hương (2012) về các yếu tố ảnh hưởng đến khả năng trả nợ của khách hàng cá nhân sử dụng mô hình hồi quy Logistic, phân tích dữ liệu từ 91 khách hàng có quan hệ tín dụng tại ngân hàng liên doanh Việt Thái Kết quả cho thấy các yếu tố dự báo khả năng trả nợ của khách hàng vay tiêu dùng bao gồm nhiều khía cạnh quan trọng cần xem xét.
Thâm niên / Kinh nghiệm làm việc
Thời gian làm công việc hiện tại
Tình trạng sở hữu bất động sản
Tình trạng sử dụng dịch vụ
Nghiên cứu chỉ ra rằng có sáu yếu tố không có khả năng dự đoán hành vi trả nợ trễ hạn của khách hàng, bao gồm trình độ học vấn, cơ cấu gia đình, số người phụ thuộc, thu nhập gia đình, tình hình trả nợ và tình hình chậm trả lãi Điều này đặt ra câu hỏi liệu các yếu tố ảnh hưởng đến khả năng phát sinh nợ xấu từ các khoản vay qua thẻ tín dụng có giống với các khách hàng vay tiêu dùng thông thường hay không.
Nghiên cứu của Nguyễn Ngọc Phương Thảo (2013) tập trung vào các yếu tố ảnh hưởng đến hành vi thanh toán nợ thẻ tín dụng Dựa trên mô hình nghiên cứu của Stavins (2000), tác giả đã ứng dụng mô hình hồi quy Logistic để xây dựng mô hình cụ thể nghiên cứu hành vi này.
Mô hình nghiên cứu hành vi thanh toán nợ thẻ tín dụng với biến phụ thuộc (Y) được xác định như sau: Y = 1 nếu khách hàng thanh toán trễ hạn từ 2 kỳ sao kê trở lên, và Y = 0 nếu khách hàng chỉ thanh toán trễ hạn tối đa 1 kỳ sao kê.
i là các hệ số hồi quy tương ứng
Các biến độc lập bao gồm độ tuổi, trình độ học vấn, tình trạng hôn nhân, số người phụ thuộc, giới tính, thu nhập, tình trạng sở hữu bất động sản, và tỷ lệ hạn mức thẻ tín dụng so với thu nhập.
Nghiên cứu chỉ ra rằng các yếu tố ảnh hưởng tích cực đến nợ quá hạn thẻ tín dụng bao gồm số lượng người phụ thuộc và tỷ lệ hạn mức thẻ tín dụng so với thu nhập Ngược lại, những yếu tố có mối tương quan nghịch với nợ quá hạn bao gồm trình độ học vấn, tình trạng hôn nhân, tình trạng sở hữu nhà ở và thu nhập Đáng lưu ý, độ tuổi và giới tính không có tác động đáng kể đến hành vi thanh toán nợ của chủ thẻ.
Nghiên cứu của Nguyễn Thị Thanh Hương (2012) gặp hạn chế trong việc lựa chọn mô hình tối ưu để dự báo hành vi thanh toán nợ, do loại bỏ tất cả các biến có mức ý nghĩa nhỏ hơn 5% mà không có phương pháp hợp lý Nhược điểm này cũng được lặp lại trong nghiên cứu của Nguyễn Ngọc Phương Thảo (2013) Để khắc phục vấn đề này, tác giả đã thực hiện lựa chọn mô hình tối ưu bằng cách loại từng biến một, sử dụng chỉ tiêu AIC và đưa vào phân tích các tiêu chuẩn định tính.
1.2.2 Các nghiên cứu quốc tế
Nghiên cứu của Stavins (2000) đã chỉ ra mối quan hệ giữa dư nợ thẻ tín dụng, nợ quá hạn và phá sản cá nhân, sử dụng mô hình hồi quy Logistic để phân tích dữ liệu Nghiên cứu này cũng đề xuất một mô hình dự báo nợ quá hạn thẻ tín dụng hiệu quả.
Mô hình hồi quy Logistic
Mô hình Logistic sử dụng biến phụ thuộc là biến nhị phân, với hai giá trị có thể nhận là 0 hoặc 1 Các biến độc lập trong mô hình này có thể là biến liên tục hoặc không liên tục, theo nghiên cứu của Nguyễn Văn Tuấn (2008).
Trong đó, Y là biến phụ thuộc Y bằng 1 nếu hiện tượng nghiên cứu sảy ra,
Y = 0 khi hiện tượng nghiên cứu không xảy ra, trong đó i là hệ số hồi quy tương ứng và các biến độc lập được đưa vào mô hình Để thuận tiện cho việc diễn giải kết quả nghiên cứu, mô hình Logistic có thể được viết lại dưới dạng khác.
Mô hình Logistic được sử dụng để dự báo xác suất xảy ra của sự kiện Sau khi xây dựng mô hình, người dùng có thể thay thế các giá trị quan sát vào hàm Binary Logistic để tính toán xác suất sự kiện xảy ra (P) Điều này cho phép dễ dàng chứng minh công thức tính xác suất từ mô hình Logistic.
Theo mô hình dự báo, khi P > 0,5, sự kiện có khả năng xảy ra; khi P = 0,5, chưa thể xác định sự kiện có xảy ra hay không; và khi P < 0,5, sự kiện được coi là không có khả năng xảy ra với độ chính xác tương ứng với tỷ lệ dự báo chính xác của mô hình Hoàng Trọng – Chu Nguyễn Mộng Ngọc 2008.
P và logit(P) có mối quan hệ liên tục và theo dạng như sau
Biểu đồ 1.1: Mối quan hệ giữa Logit (P)
Các giả định của mô hình hồi qui Logistic Nguyễn Văn Tuấn (2008):
1 Mô hình cung cấp một sự “Đại diện” tiêu biểu giữa biến phụ thuộc và biến độc lập
2 Các quan sát của biến phụ thuộc là độc lập với nhau
3 Các biến độc lập không có sai số ngẫu nhiên Ƣu điểm:
Đối với các mối quan hệ phi tuyến, chúng ta cần áp dụng hồi quy tuyến tính với các quan hệ phi tuyến, trong đó mối quan hệ giữa các biến độc lập và biến phụ thuộc là phi tuyến, nhưng các hệ số trong mô hình hồi quy vẫn giữ hình thức tuyến tính Hồi quy Binary Logistic sử dụng biến phụ thuộc nhị phân để ước lượng xác suất xảy ra của một sự kiện dựa trên thông tin từ biến độc lập Khi biến phụ thuộc là nhị phân, nó sẽ được mã hóa thành hai giá trị “0” và “1” Việc phân tích biến phụ thuộc nhị phân bằng hồi quy thông thường không khả thi do vi phạm giả định về phân phối chuẩn của phần dư, mà thay vào đó sẽ có phân phối nhị thức, làm giảm hiệu lực của các kiểm định thống kê Thêm vào đó, khi sử dụng hồi quy tuyến tính thông thường, giá trị dự đoán của biến phụ thuộc không thể được diễn giải như xác suất.
Mô hình Logistic là một công cụ đo lường rủi ro tín dụng đơn giản và dễ thực hiện, được đánh giá cao về khả năng dự báo chính xác Với tính dễ hiểu và dễ trình bày trong nghiên cứu, mô hình này thường được sử dụng rộng rãi Là mô hình định lượng, Logistic khắc phục nhược điểm của mô hình định tính, đảm bảo tính khách quan và nhất quán, không phụ thuộc vào ý kiến chủ quan.
Mô hình Logistic giúp đánh giá vai trò của các yếu tố ảnh hưởng đến hạng tín dụng của khách hàng Nó cho phép điều chỉnh và thêm bớt các biến để xác định rõ ràng tác động của từng yếu tố đối với rủi ro tín dụng.
Mô hình Logistic giúp ngân hàng phân loại khách hàng và nhận diện rủi ro bằng cách ước lượng xác suất không trả được nợ Nhờ vào kết quả này, ngân hàng có thể xác định khách hàng ở vùng an toàn và vùng cảnh báo, từ đó chủ động đưa ra các biện pháp hạn chế rủi ro hiệu quả.
Mô hình Logistic nổi bật hơn so với mô hình xếp hạng tín dụng truyền thống và mô hình KMV nhờ khả năng đo lường vai trò của các yếu tố ảnh hưởng đến hạng tín dụng của khách hàng Trong khi mô hình điểm số Z có tính cứng nhắc trong việc xem xét các yếu tố tác động và hệ số của chúng, mô hình Logistic cho phép dễ dàng điều chỉnh và thêm bớt các biến, từ đó xác định cụ thể tác động của các yếu tố đến rủi ro tín dụng.
Mô hình này có nhược điểm là phụ thuộc vào độ chính xác của nguồn thông tin về thu nhập, khả năng dự báo và trình độ phân tích của người nghiên cứu.
Mô hình nghiên cứu đề xuất
Đề tài ứng dụng mô hình hồi quy Logistic trong nghiên cứu của tác giả Cox
Hồi quy Logistic, được giới thiệu vào năm 1958, là một trong những kỹ thuật định lượng phổ biến nhất trong quản lý rủi ro tín dụng Mô hình này thường được sử dụng để phân tích và dự báo các vấn đề liên quan đến nợ quá hạn, nợ xấu và số dư tài khoản (Zhao, 2009 theo Rosenberg và Gleit, 1994).
Nghiên cứu toàn cầu về các yếu tố ảnh hưởng đến nợ xấu thẻ tín dụng đã bắt đầu từ năm 1995, khi thẻ tín dụng trở nên phổ biến ở các quốc gia phát triển Các lý thuyết liên quan đến nợ xấu thẻ tín dụng ngày càng được phát triển một cách chi tiết và phức tạp Tại Việt Nam, sự phát triển của thẻ tín dụng đã diễn ra mạnh mẽ từ năm
2010 Do đó, các nghiên cứu về thẻ tín dụng còn ít và được thực hiện từ năm 2012 trở lại đây
Một số nghiên cứu trước đây đã đưa ra được các nhân tố chính ảnh hưởng đến nợ xấu thẻ tín dụng gồm:
Nghiên cứu của Wang và cộng sự (2010) cho thấy nam giới có xu hướng sử dụng thẻ tín dụng nhiều hơn nữ giới Hira (2009) cũng chỉ ra rằng nam chủ thẻ thường có khả năng phát sinh nợ xấu thấp hơn so với nữ Điều này cho thấy sự khác biệt rõ rệt giữa hai giới trong việc sử dụng và quản lý thẻ tín dụng.
(2013), Nyamongo (2009) lại cho rằng tác động của giới tính đến nợ quá hạn, nợ xấu thẻ tín dụng là không có ý nghĩa thống kê
Tuổi: Người lớn tuổi thường có cuộc sống ổn định và uy tín cá nhân cao hơn Vì vậy, trong các nghiên cứu của Nyamongo (2009), Bellotti và cộng sự
Nhiều nghiên cứu, bao gồm của Noh và các cộng sự (2005), Stavins (2000) và Dunn (1999), đã chỉ ra rằng có mối quan hệ ngược chiều giữa tuổi tác và nợ xấu, nợ quá hạn thẻ tín dụng, tức là khi tuổi càng cao thì khả năng phát sinh nợ xấu càng thấp Tuy nhiên, nghiên cứu của Nguyễn Ngọc Phương Thảo (2013) lại cho thấy mối tương quan giữa độ tuổi và nợ quá hạn thẻ tín dụng không có ý nghĩa thống kê.
Người có trình độ học vấn cao thường có khả năng nhận thức tốt hơn và lập kế hoạch chi tiêu hợp lý hơn Nghiên cứu của Nguyễn Ngọc Phương Thảo đã chỉ ra mối liên hệ giữa trình độ học vấn và khả năng quản lý tài chính cá nhân.
Nghiên cứu của Stavins (2000) chỉ ra rằng trình độ học vấn có mối quan hệ ngược chiều với xác suất nợ quá hạn thẻ tín dụng, trong khi đó, nghiên cứu của Dunn (1999) lại cho thấy không có sự tương quan giữa trình độ học vấn và nợ xấu thẻ tín dụng.
Tình trạng hôn nhân ảnh hưởng đến chất lượng cuộc sống, với những người đang kết hôn thường trải qua cuộc sống hạnh phúc và ổn định hơn so với những người chưa kết hôn hoặc đã ly hôn, theo nghiên cứu của Nguyễn Ngọc Phương Thảo (2013).
Nghiên cứu của Stavins (2000) và Dunn (1999) chỉ ra rằng những người đã kết hôn có khả năng trả nợ đúng hạn cao hơn so với những người chưa kết hôn Bên cạnh đó, Wang và cộng sự (2010) cũng cho thấy rằng các chủ thẻ đã kết hôn thường xuyên sử dụng thẻ tín dụng hơn.
Số người phụ thuộc có ảnh hưởng lớn đến khả năng trả nợ, khi số lượng này tăng lên, thu nhập còn lại để thanh toán nợ sẽ giảm, dẫn đến chi phí hàng tháng cao hơn Nghiên cứu của Nguyễn Ngọc Phương Thảo (2013) và Dunn (1999) chỉ ra rằng, sự gia tăng số người phụ thuộc làm tăng khả năng phát sinh nợ quá hạn và nợ xấu, đặc biệt là nợ xấu thẻ tín dụng Ngược lại, nghiên cứu của Nguyễn Thị Thanh Hương (2012) cho thấy rằng tác động của số người phụ thuộc đến khả năng phát sinh nợ quá hạn là không đáng kể.
Tình trạng sở hữu nhà ở có mối liên hệ với khả năng thanh toán nợ của chủ thẻ Người sở hữu nhà thường có nguồn tài chính ổn định và ít thay đổi nơi ở, dẫn đến việc họ thanh toán nợ đúng hạn hơn so với những người sống trong nhà thuộc sở hữu của bố mẹ hoặc nhà thuê, theo nghiên cứu của Nguyễn Ngọc Phương Thảo (2013) và Stavins (2000) Tuy nhiên, nghiên cứu của Dunn (1999) cho thấy không có sự tương quan rõ ràng giữa tình trạng sở hữu nhà và nợ xấu thẻ tín dụng Tương tự, Nyamongo (2009) cũng chỉ ra rằng việc sở hữu nhiều tài sản không có ảnh hưởng đáng kể đến khả năng phát sinh nợ xấu thẻ tín dụng.
Thu nhập bao gồm lương và các khoản thu nhập khác, đóng vai trò quan trọng trong việc đánh giá khả năng tài chính của khách hàng để trả nợ Khách hàng có thu nhập cao thường có khả năng trả nợ tốt hơn, điều này là yếu tố hàng đầu khi xem xét quyết định cấp tín dụng Nhiều nghiên cứu, như của Nguyễn Ngọc Phương Thảo (2013), Yi Zhao và cộng sự (2009), Nyamongo (2009), Bellotti và cộng sự (2009), cùng với Stavins (2000), đều cho thấy rằng thu nhập cao có liên quan đến xác suất nợ quá hạn và nợ xấu thấp hơn.
Nghiên cứu năm 1999 cho thấy thu nhập không có tác động thống kê đáng kể đến nợ xấu thẻ tín dụng Tuy nhiên, tỷ lệ hạn mức/thu nhập và số tiền thanh toán tối thiểu/thu nhập lại có mối quan hệ ngược chiều mạnh mẽ với nợ xấu thẻ tín dụng.
Hạn mức thẻ tín dụng quốc tế do ngân hàng cấp cho khách hàng có thể là một công cụ tài chính hữu ích nếu được xác định ở mức hợp lý Tuy nhiên, nếu hạn mức quá cao so với khả năng thanh toán, khách hàng có nguy cơ cao mắc nợ xấu Nghiên cứu của Zhao (2009) và Bellotti cùng các cộng sự đã chỉ ra mối liên hệ giữa hạn mức thẻ tín dụng và khả năng trả nợ của người dùng.
Nghiên cứu năm 2009 chỉ ra rằng hạn mức tín dụng có mối quan hệ ngược chiều với nợ quá hạn và nợ xấu thẻ tín dụng Các nghiên cứu của Nguyễn Ngọc Phương Thảo (2013), Stavins (2000) và Dunn (1999) cũng cho thấy rằng tỷ lệ giữa hạn mức thẻ tín dụng và thu nhập càng cao thì xác suất nợ quá hạn và nợ xấu càng gia tăng.
Nợ xấu thẻ tín dụng quốc tế xảy ra khi khách hàng không thanh toán đủ số tiền tối thiểu ghi trên sao kê Việc này có thể dẫn đến các vấn đề tài chính nghiêm trọng và ảnh hưởng đến điểm tín dụng của người tiêu dùng.
THỰC TRẠNG PHÁT TRIỂN VÀ NỢ XẤU TTDQT
Thực trạng phát triển thẻ tín dụng
2.1.1 Thực trạng phát triển thẻ tín dụng tại Việt Nam
Thẻ tín dụng là phương tiện thanh toán không dùng tiền mặt phổ biến thứ hai tại Mỹ và ngày càng được ưa chuộng trên toàn thế giới Tại Việt Nam, thị trường thẻ tín dụng trong giai đoạn 2010 - 2011 diễn ra cạnh tranh gay gắt với khoảng 50 ngân hàng tham gia phát hành Thẻ tín dụng giúp giảm rủi ro khi mang tiền mặt, thanh toán nhanh chóng và dễ dàng, đồng thời cho phép thực hiện giao dịch bằng bất kỳ loại tiền tệ nào Chính vì những lợi ích này, thẻ tín dụng nhanh chóng trở nên phổ biến và được người tiêu dùng Việt Nam ưa chuộng.
Biểu đồ 2.1: Số lƣợng thẻ giai đoạn 2012 - 2014
Thẻ tín dụng mang lại lợi nhuận lớn cho các tổ chức phát hành, điều này giải thích tại sao các tổ chức thẻ quốc tế đã nhanh chóng xâm nhập vào thị trường Việt Nam ngay từ những ngày đầu.
Số lượng thẻ tín dụng không ngừng tăng lên với tốc độ cao và đỉnh điểm là giai đoạn 2010 - 2011 Số lượng thẻ tín dụng năm 2011 tăng 137% so với năm 2010
Hạn mức vay qua thẻ tín dụng thường nhỏ và áp lực chỉ tiêu cao đã dẫn đến việc kiểm soát rủi ro bị lỏng lẻo Khi nợ xấu tăng, các tổ chức phát hành buộc phải giảm số lượng thẻ mới để nâng cao chất lượng nợ Do đó, trong năm 2012 và 2013, tốc độ tăng trưởng thẻ hàng năm chậm lại nhưng vẫn duy trì trên 50% Theo cafef.vn, đến hết quý 3 năm 2014, số lượng thẻ đạt hơn 3 triệu Từ năm 2010 đến 2014, tốc độ tăng trưởng thẻ tín dụng tại Việt Nam rất nhanh, với số lượng thẻ tăng gấp hơn 6 lần trong 5 năm và dự báo sẽ tiếp tục tăng trưởng trong tương lai.
2.1.2 Thực trạng phát triển TTDQT tại NHCTCN4
NHCT cung cấp TTDQT tín chấp cho cá nhân Việt Nam từ 15 tuổi trở lên với thu nhập tối thiểu 2.5 triệu đồng Hạn mức tín dụng tối đa cho khách hàng thông thường là gấp 10 lần lương Đối tượng khách hàng phải làm việc tại các cơ quan hành chính nhận lương từ ngân sách nhà nước, đơn vị sự nghiệp công lập, doanh nghiệp có vốn nhà nước, hoặc các tổ chức tài chính có quan hệ với NHCT Khách hàng cá nhân có giao dịch tại NHCT hoặc là cán bộ công nhân viên của NHCT cũng đủ điều kiện để vay.
NHCT nhận thấy lợi nhuận từ TTDQT là cao, nhưng việc khai thác khách hàng vẫn chưa hiệu quả Từ giữa năm 2010, NHCT đã triển khai các chính sách nhằm mở rộng phát triển TTDQT với chỉ tiêu cao cho các chi nhánh Hệ thống kiểm soát rủi ro nợ xấu được xây dựng bài bản, và nhân viên tín dụng sẽ dựa vào năng lực tài chính của khách hàng để đề xuất HMTD phù hợp Để đáp ứng áp lực tăng số lượng TTDQT, các chính sách phát hành TTDQT đã được nới lỏng dần Tốc độ phát triển TTDQT tại NHCTCN4 đã có nhiều chuyển biến qua từng giai đoạn.
1 Số lượng thẻ năm 2014 trên biểu đồ là số lượng thẻ đến cuối quí 3 năm 2014 vì tác giả chưa có số liệu chính xác đến cuối năm 2014
Bảng 2.1: Số lƣợng thẻ tín dụng tại NHCTCN4 từ năm 2010 – 2014
Nguồn: Báo cáo phát hành TTDQT NHCTCN4 2010 - 2014
TTDQT tại NHCTCN4 đã bắt đầu phát triển từ năm 2010, với sự gia tăng bùng nổ số lượng thẻ từ tháng 6 cùng năm Trong 5 tháng đầu năm 2010, tổng số thẻ phát hành đạt hơn 50 thẻ, và đến cuối năm, con số này đã tăng lên 983 thẻ, tuy nhiên chỉ có 193 thẻ hoạt động thực sự Năm 2010 ghi nhận số lượng chủ thẻ mới cao nhất trong giai đoạn 2010 – 2014 với 735 người, nhưng chính sách phát hành thẻ còn lỏng lẻo dẫn đến nợ xấu phát sinh Ban lãnh đạo Chi nhánh đã nhận thức được rủi ro từ các khoản vay qua hình thức phát hành thẻ và đã chỉ đạo tập trung vào chất lượng thẻ thay vì số lượng Dù vậy, do áp lực chỉ tiêu thẻ, Ban lãnh đạo chỉ yêu cầu các phòng ban tăng cường kiểm soát rủi ro.
Trước áp lực gia tăng của nợ xấu từ thẻ tín dụng quốc tế (TTDQT), Ban giám đốc Chi nhánh đã quyết định tập trung vào việc khai thác khách hàng hiện tại thay vì phát triển khách hàng mới Chiến lược này bao gồm việc tiếp thị cho cả khách hàng hiện tại và mới, nhằm nâng cao tỷ lệ thẻ hoạt động Kết quả cho thấy, năm 2011, số lượng thẻ phát hành mới chỉ tăng 10%, trong khi số lượng chủ thẻ phát hành mới giảm 21% so với năm 2010 Đến năm 2012, số lượng thẻ phát hành đã tăng 22% và tỷ lệ kích hoạt thẻ đạt 73%, mặc dù số lượng chủ thẻ phát hành mới giảm 39% so với năm trước Ngân hàng Chính sách Xã hội (NHCT) nhận thấy có sự lãng phí lớn khi phát hành TTDQT mà khách hàng không kích hoạt.
Năm 2012, ngân hàng phát hành 1.099 thẻ TTDQT với chi phí trung bình 35.000 đồng cho mỗi thẻ, bao gồm các khoản chi như tổ chức trung gian, in thẻ và lương Để tăng tỷ lệ thẻ kích hoạt, NHCT áp dụng chính sách 1 thẻ kích hoạt được tính bằng 3 thẻ không kích hoạt, dẫn đến việc chi nhánh đẩy mạnh hoạt động này Kết quả, năm 2013, số thẻ kích hoạt tăng 119% mặc dù số thẻ phát hành mới giảm 40% và số chủ thẻ mới giảm 57% Đến năm 2014, đối mặt với nguy cơ rủi ro cao từ TTDQT, Ban giám đốc quyết định tạm ngưng phát triển khách hàng mới, tập trung phục vụ khách hàng hiện tại và nâng cao tỷ lệ kích hoạt thẻ Năm 2014, tỷ lệ thẻ phát hành tăng 22% và tỷ lệ kích hoạt tăng 39%, dù số lượng chủ thẻ mới tăng thấp hơn so với các năm trước.
Biểu đồ 2.2: Số lƣợng thẻ tín dụng tại NHCTCN4 giai đoạn 2010 - 2014
Nguồn: Báo cáo phát hành TTDQT NHCTCN4 2010 - 2014
Theo biểu đồ 2.2, số lượng thẻ phát hành có sự biến động không ổn định, đạt đỉnh vào năm 2012 Mặc dù năm 2013 ghi nhận sự giảm nhẹ trong số thẻ phát hành, nhưng đến năm 2014, con số này lại tăng trở lại Sự gia tăng số thẻ được kích hoạt qua các năm đã giúp ngân hàng cải thiện hiệu quả trong việc phát hành thẻ Tuy nhiên, số lượng chủ thẻ mới lại có xu hướng giảm dần, đặc biệt là vào năm 2013, khi số chủ thẻ mới giảm tới 39% so với năm 2012.
Thực trạng và nguyên nhân gây ra nợ xấu TTDQT
2.2.1 Thực trạng nợ xấu TTDQT tại NHCTCN4
Sau một thời gian phát triển mạnh mẽ thẻ tín dụng, ngân hàng đã phải đối mặt với hậu quả nghiêm trọng khi nợ xấu thẻ tín dụng quốc tế tại NHCTCN4 chiếm tỷ lệ cao so với tổng hạn mức tín dụng được cấp.
Bảng 2.2: Số liệu nợ xấu giai đoạn 2012 – 2014 ĐVT: Triệu đồng
Năm Nợ xấu Tổng HMTD thẻ Tỷ lệ xấu/tổng HMTD
Nguồn: Báo cáo nợ xấu TTDQT NHCTCN4 2012 - 2014
Năm 2012, tổng nợ xấu TTDQT tại NHCTCN4 là 2,109 triệu đồng Nợ xấu tăng nhanh qua các năm Năm 2013 nợ xấu tăng 58.32% so với năm 2012 Năm
Năm 2014, nhờ cải cách trong thu hồi nợ và thẩm định cho vay, tỷ lệ nợ xấu đã giảm xuống còn 15.15%, cho thấy tín hiệu tích cực Mặc dù nợ xấu và hạn mức tín dụng đều tăng, nhưng tỷ lệ nợ xấu trên tổng hạn mức tín dụng (HMTD) lại giảm, cho thấy hạn mức tín dụng cấp cho khách hàng mới tăng nhanh hơn nợ xấu Tuy nhiên, tỷ lệ nợ xấu từ 7,08% đến 16,82% vẫn rất cao, nghĩa là cứ 100 đơn vị cho vay thì có đến 7,08 đơn vị có nguy cơ mất vốn, vượt xa ngưỡng an toàn 3% về tỷ lệ nợ xấu trên tổng dư nợ.
NHCTCN4 cho thấy một con số cao, tuy nhiên, nghiên cứu chỉ ra rằng không phải tất cả chủ thẻ được cấp hạn mức TTDQT đều sử dụng hết HMTD Điều này dẫn đến tỷ lệ nợ xấu so với Tổng HMTD thấp hơn so với tỷ lệ nợ xấu so với Tổng dư nợ Do đó, mức độ nghiêm trọng của nợ xấu trong thực tế vẫn là một vấn đề đáng lo ngại.
Bảng 2.3: Số chủ thẻ phát sinh nợ xấu ĐVT: Người
Năm Số chủ thẻ nợ xấu Tổng số chủ thẻ Tỷ lệ chủ thẻ nợ xấu
Nguồn: Báo cáo nợ xấu TTDQT NHCTCN4 2012 - 2014
Bảng 2.3 chỉ ra rằng số lượng chủ thẻ quá hạn và chủ thẻ đề nghị tăng qua các năm, tuy nhiên, tốc độ tăng trưởng đang chậm lại Đồng thời, tỷ lệ chủ thẻ có hành vi thanh toán nợ quá hạn từ ba kỳ sao kê trở lên đang gia tăng liên tục Với tỷ lệ 5,38%, số chủ thẻ phát sinh nợ xấu là rất đáng lo ngại, tương ứng với mỗi 100 khoản vay được cấp tín dụng thì có tới 5 khoản vay có khả năng mất vốn.
Tại NHCTCN4, tổng dư nợ thẻ quá hạn chỉ đạt 3,845 triệu đồng, với tỷ lệ nợ xấu trên tổng dư nợ chỉ 0,096%, cho thấy tình hình nợ xấu của chi nhánh là khá nhỏ Mặc dù nợ xấu thẻ tín dụng của tất cả các ngân hàng trên toàn quốc cũng chiếm tỷ lệ nhỏ, nhưng cần lưu ý rằng tính nghiêm trọng của vấn đề này xuất phát từ khả năng thu hồi nợ thấp và khó khăn trong việc thu hồi.
Khi thẩm định hồ sơ vay của khách hàng, cán bộ thẩm định dựa vào các tài liệu như giấy đề nghị mở thẻ, hợp đồng mở thẻ và sao kê lương Ngân hàng yêu cầu đơn vị công tác xác nhận thu nhập và cam kết hỗ trợ trong việc thu hồi nợ Để kiểm tra lịch sử nợ, cán bộ thẩm định truy vấn trên Hệ thống CIC và hệ thống ngân hàng Ngoài ra, họ cũng tham khảo thông tin từ các cơ quan chức năng như cơ quan thuế và website doanh nghiệp để đảm bảo tính chính xác.
2.2.2 Nguyên nhân phát sinh nợ xấu TTDQT
2.2.2.1 Nguyên nhân từ phía ngân hàng
Nghiên cứu của Stanvin (2000) chỉ ra rằng nguyên nhân chính dẫn đến nợ xấu là do người cho vay chấp nhận cấp tín dụng cho những cá nhân có mức độ rủi ro cao Việc cho vay với dư nợ vượt quá khả năng thanh toán của người đi vay làm gia tăng tỷ lệ nợ xấu Để đối phó với rủi ro tín dụng, bên cho vay thường áp dụng lãi suất và phí cao hơn, nhưng chính những người đi vay chấp nhận điều này lại có xu hướng phát sinh nợ xấu và phá sản Nghiên cứu cũng cho thấy rằng lãi suất và phí cao không tương ứng với tỷ lệ nợ xử lý rủi ro, cụ thể, nếu lãi suất tăng 1%, tỷ lệ nợ xấu có thể tăng 0,21%, phí tăng 1 USD dẫn đến nợ xấu tăng 0,04%, và phí phạt tăng 1 USD có thể làm nợ xấu tăng 0,07%.
Các tổ chức phát hành thẻ tín dụng áp dụng lãi suất dựa trên rủi ro của người vay, với những người có tỷ lệ "dư nợ/thu nhập" cao phải chịu lãi suất cao hơn Những tổ chức này thường có doanh thu cao từ thẻ tín dụng, dẫn đến nguy cơ lựa chọn ngược Tuy nhiên, nghiên cứu cho thấy, cho vay khách hàng rủi ro cao hơn vẫn mang lại lợi nhuận cao hơn, vì vậy ngân hàng có xu hướng cấp tín dụng cho những người vay này để tối ưu hóa lợi nhuận.
Nghiên cứu cho thấy các tổ chức phát hành thẻ với lãi suất cho vay và phí phạt trả nợ quá hạn cao thường đạt doanh thu lớn hơn Mặc dù tỷ lệ nợ xấu cao hơn, nhưng lãi suất cao mang lại lợi nhuận tốt hơn cho tổ chức Tuy nhiên, nếu lãi suất tăng quá cao, một số khách hàng tốt có thể chuyển sang tổ chức khác với mức phí thấp hơn Cụ thể, nếu lãi suất tăng thêm 1%, doanh thu sẽ tăng 4 triệu USD; nếu phí phạt trả nợ quá hạn tăng cao hơn 1/2 độ lệch chuẩn, doanh thu sẽ tăng 3 triệu USD; và nếu phí thanh toán tối thiểu cao hơn 1/2 độ lệch chuẩn, doanh thu sẽ tăng 8 triệu USD.
Tại NHCTCN4, việc nới lỏng quy định về đối tượng mở thẻ tín dụng nhằm mục đích lợi nhuận đã dẫn đến gia tăng nợ xấu Mặc dù chi nhánh đã áp dụng các ràng buộc chặt chẽ hơn so với quy định chung, tỷ lệ nợ xấu vẫn tăng cao Ví dụ, trong khi NHCT cho phép phát hành thẻ với hạn mức tối đa gấp 10 lần tiền lương, NHCTCN4 chỉ phát hành thẻ với hạn mức gấp 3 - 5 lần Thị trường thẻ tín dụng cạnh tranh gay gắt đòi hỏi việc nới lỏng quy định để phát triển khách hàng, nhưng cần đồng bộ hóa việc này với các biện pháp kiểm soát quản lý rủi ro để đảm bảo chất lượng nợ.
Vấn đề người ủy quyền
Vấn đề người ủy quyền liên quan đến việc bên ủy quyền giao phó cho bên thừa hành thực hiện các mục tiêu cụ thể, nhưng lợi ích giữa hai bên thường không đồng nhất Người được ủy quyền thường nắm giữ thông tin nhiều hơn so với người ủy quyền, khiến cho người ủy quyền không thể kiểm soát hoàn toàn hành động của họ Điều này dẫn đến khả năng người được ủy quyền có thể hành động trái ngược với lợi ích của người ủy quyền Trong lĩnh vực thẻ tín dụng, nhân viên tín dụng có thể vì mục tiêu cá nhân, nhận hối lộ hoặc các lợi ích khác mà chấp thuận cấp tín dụng cho khách hàng có rủi ro cao, từ đó tạo ra nguy cơ nợ xấu cho tổ chức phát hành.
Nhân viên tín dụng là người phân tích và đánh giá năng lực pháp lý cũng như tài chính của khách hàng để quyết định phát hành thẻ tín dụng Trình độ, kỹ năng và kinh nghiệm của họ rất quan trọng trong việc tuân thủ quy định ngân hàng, giúp phát hiện và hạn chế rủi ro cho ngân hàng Dù được đào tạo bài bản, nhân viên tín dụng thường phải đối mặt với áp lực về tốc độ xử lý hồ sơ và chỉ tiêu cao, trong khi các khoản vay thẻ tín dụng thường nhỏ lẻ Điều này dẫn đến việc họ không có đủ thời gian để rà soát kỹ lưỡng hồ sơ, làm tăng khả năng xảy ra sai sót.
Tại NHCTCN4, chỉ có một nhân viên quản lý toàn bộ hồ sơ thẻ tín dụng quốc tế, đồng thời chăm sóc khoảng 2.000 khách hàng và phát triển khách hàng mới Áp lực thời gian khiến nhân viên tín dụng phải xử lý hồ sơ rất gấp rút, nếu không sẽ không đạt chỉ tiêu và ảnh hưởng đến lương thưởng Việc làm hồ sơ nhanh chóng và bỏ qua các bước kiểm tra đã dẫn đến vấn đề về người ủy quyền.
Hồ sơ được xử lý theo quy trình một cửa tại NHCTCN4, nơi nhân viên tín dụng tiếp xúc và thẩm định hồ sơ, phát hành và giao thẻ cho khách hàng Cán bộ tín dụng cũng thực hiện việc xác minh thông tin khách hàng, nhưng do hạn chế về thời gian, khâu xác minh thường bị bỏ qua Mặc dù phương pháp này giúp tiết kiệm chi phí và giải quyết hồ sơ nhanh chóng, nhưng nó cũng mang lại rủi ro lớn do kiểm soát thông tin kém.
Tại NHCTVN, hệ thống chấm điểm tín dụng được xây dựng theo chuẩn Basel II nhưng chưa được coi trọng đúng mức, dẫn đến xác suất dự báo chính xác thấp Điểm tín dụng chỉ là một yếu tố tham khảo trong quyết định cấp tín dụng, và việc chấm điểm chưa thực sự chặt chẽ, mang tính hình thức Các khoản vay nhỏ dưới 50 triệu đồng ít được chú ý, khiến cho việc chấm điểm cho các khoản vay này không phản ánh đúng rủi ro Hệ thống tự động tính điểm tín dụng cho các khoản vay hạn mức dưới 50 triệu đồng là 77, hạng A, nhưng thực tế có đến 85% khách hàng có hạn mức này gặp nợ quá hạn Việc kiểm soát chấm điểm cũng bị xem nhẹ, dẫn đến tình trạng khách hàng dù có điểm tín dụng từ hạng BBB trở lên vẫn phát sinh nợ xấu.
2.2.2.2 Nguyên nhân từ phía khách hàng
Các biện pháp thu hồi nợ xấu TTDQT và khó khăn
Ngân hàng áp dụng các biện pháp thu hồi nợ xấu từ thẻ tín dụng bằng cách liên hệ trực tiếp với chủ thẻ hoặc thông qua người thân của họ Đồng thời, ngân hàng gửi công văn đề nghị hỗ trợ thu hồi nợ đến nơi làm việc của chủ thẻ và các cơ quan Đoàn, Đảng, chính quyền địa phương Ngoài ra, ngân hàng cũng có quyền phong tỏa hoặc trích nợ từ các tài khoản tiền gửi của khách hàng tại ngân hàng để thu hồi nợ.
Để xử lý khách hàng bị quá hạn và vẫn làm việc tại đơn vị, ngân hàng cần gửi văn bản đề nghị cơ quan quản lý lao động trích tiền lương, trợ cấp và thu nhập khác của khách hàng nhằm thu hồi nợ thẻ tín dụng Hồ sơ mở thẻ tín dụng thường yêu cầu đơn vị quản lý lao động xác nhận thu nhập và cam kết hỗ trợ thu hồi nợ Tuy nhiên, một số đơn vị quản lý lao động thường từ chối trách nhiệm và không hợp tác với ngân hàng, gây khó khăn trong quá trình thu hồi nợ.
Ngân hàng áp dụng các biện pháp thu hồi nợ đối với khách hàng đã nghỉ việc bằng cách cử cán bộ tín dụng đến địa chỉ thường trú hoặc tạm trú của khách hàng Đồng thời, ngân hàng cũng gửi công văn đến công an địa phương và đơn vị công tác mới của khách hàng để đề nghị hỗ trợ trong việc thu hồi nợ Tuy nhiên, một trong những khó khăn lớn là nếu khách hàng thất nghiệp, họ sẽ không có nguồn thu để trả nợ, và việc tìm kiếm đơn vị công tác mới của khách hàng cũng gặp nhiều trở ngại và tốn thời gian.
Ngân hàng có thể áp dụng biện pháp thu hồi nợ đối với khách hàng thanh toán lương qua ngân hàng khác bằng cách gửi công văn đề nghị ngân hàng quản lý tài khoản tiền gửi của chủ thẻ hỗ trợ thu hồi nợ Theo thỏa thuận trong Hợp đồng mở thẻ tín dụng, nếu chủ thẻ không trả được nợ, ngân hàng có quyền trích tiền từ tài khoản tiền gửi của chủ thẻ tại các ngân hàng khác Tuy nhiên, một trong những khó khăn lớn là các ngân hàng quản lý tài khoản thường không hợp tác với ngân hàng cho vay trong việc thực hiện việc trích tiền này.
Chủ thẻ gặp khó khăn tài chính tạm thời, như thất nghiệp hoặc phá sản, thường phải đối mặt với phí phạt và lãi suất cao hơn số tiền họ có thể thanh toán hàng tháng Trong những tình huống này, các ngân hàng thường áp dụng biện pháp tái cơ cấu nợ để hỗ trợ khách hàng phục hồi khả năng tài chính.
Biện pháp đối phó với chủ thẻ giả mạo hồ sơ vay là cần thiết do khả năng kiểm soát rủi ro kém, dẫn đến tình trạng làm giả hồ sơ vay Khi chủ thẻ sử dụng thẻ để mua hàng hoặc rút tiền mà ngân hàng không thể tìm được để thu hồi nợ, ngân hàng phải gửi công văn đề nghị cơ quan công an và chính quyền địa phương hỗ trợ xác minh thông tin Tuy nhiên, khó khăn phát sinh do các cơ quan chức năng không có nhiệm vụ cung cấp thông tin cho ngân hàng, và hồ sơ pháp lý không có thật khiến việc khởi kiện gặp nhiều trở ngại Do đó, khả năng mất vốn trong các trường hợp này là rất cao.
Biện pháp cuối cùng để xử lý nợ thẻ tín dụng là thương lượng với chủ thẻ về việc miễn hoặc giảm lãi suất và phí phạt trong trường hợp khách hàng gặp khó khăn do các yếu tố khách quan như tử vong hoặc tai nạn mất khả năng lao động Nếu chủ thẻ có tinh thần hợp tác và số tiền lãi, phí phạt lớn so với số tiền gốc, ngân hàng có thể xem xét giảm thiểu các khoản phí này Tuy nhiên, việc thực hiện biện pháp này có thể dẫn đến giảm lợi nhuận cho ngân hàng.
Trong trường hợp chủ thẻ qua đời hoặc mất tích, người thừa hưởng quyền lợi sẽ có trách nhiệm thanh toán nợ vay Nếu người thừa kế từ chối nghĩa vụ này, ngân hàng sẽ phải áp dụng các biện pháp xử lý rủi ro liên quan đến khoản nợ Mặc dù tình huống này ít xảy ra, nhưng nó có thể dẫn đến rủi ro mất vốn cao cho ngân hàng.
Ngân hàng thường không áp dụng biện pháp khởi kiện đối với khách hàng nợ xấu thẻ tín dụng vì một số lý do Đầu tiên, khoản nợ xấu từ thẻ tín dụng thường không lớn Thứ hai, quy trình khởi kiện tốn kém về chi phí và nhân sự Thứ ba, các khoản vay qua thẻ tín dụng thường không có tài sản đảm bảo, nên dù khởi kiện thành công, ngân hàng vẫn không thu hồi được nợ Cuối cùng, ngân hàng thiếu nhân sự, trong khi chỉ tiêu về thẻ tín dụng rất cao, nhưng chỉ có hai nhân viên quản lý, dẫn đến việc nhân viên phải đảm nhiệm nhiều vị trí khác nhau.
Trong Chương 2, tác giả nêu rõ sự phát triển nhanh chóng của thẻ tín dụng và những hậu quả khó xử lý đi kèm Mặc dù một số khách hàng gặp phải nợ xấu, thị trường thẻ tín dụng tại Việt Nam vẫn còn tiềm năng lớn Do đó, trong Chương 3, tác giả sẽ giới thiệu các mô hình cảnh báo rủi ro sớm cho các tổ chức phát hành thẻ.