1. Trang chủ
  2. » Luận Văn - Báo Cáo

Hoạt Động xác minh, thu thập chứng cứ của tòa Án trong giải quyết vụ Án dân sự sơ thẩm

203 8 2
Tài liệu đã được kiểm tra trùng lặp

Đang tải... (xem toàn văn)

Tài liệu hạn chế xem trước, để xem đầy đủ mời bạn chọn Tải xuống

THÔNG TIN TÀI LIỆU

Thông tin cơ bản

Tiêu đề Hoạt Động Xác Minh, Thu Thập Chứng Cứ Của Tòa Án Trong Giải Quyết Vụ Án Dân Sự Sơ Thẩm
Tác giả Lã Thị Bình
Người hướng dẫn TS. Phạm Kim Anh
Trường học Đại học Quốc gia Thành phố Hồ Chí Minh
Chuyên ngành Luật Dân sự - Tố tụng dân sự
Thể loại luận văn thạc sĩ luật học
Năm xuất bản 2023
Thành phố TP. Hồ Chí Minh
Định dạng
Số trang 203
Dung lượng 16,68 MB

Cấu trúc

  • 1. Lý do chọn đề tài (8)
  • 2. Tình hình nghiên cứu đề tài (10)
  • 3. Đối tượng và mục đích nghiên cứu (11)
  • 4. Phạm vi nghiên cứu (11)
  • 5. Phương pháp luận và phương pháp nghiên cứu (12)
  • 6. Ý nghĩa khoa học và giá trị ứng dụng của đề tài (12)
  • 7. Bố cục của luận văn (13)
  • CHƯƠNG 1 CƠ SỞ LÝ LUẬN VÀ QUY ĐỊNH CỦA PHÁP LUẬT VỀ HOẠT ĐỘNG XÁC MINH, THU THẬP CHỨNG CỨ CỦA TÒA ÁN (14)
    • 1.1. Cơ sở lý luận và quy định của pháp luật về Chứng cứ trong pháp luật Tố tụng dân sự (14)
      • 1.1.1. Khái niệm chứng cứ (14)
      • 1.1.2. Đặc điểm của chứng cứ (16)
      • 1.1.3. Phân loại chứng cứ (17)
    • 1.2. Cơ sở lý luận và quy định của pháp luật về hoạt động xác minh, thu thập chứng cứ của Tòa án trong giải quyết vụ án dân sự sơ thẩm (18)
      • 1.2.1. Khái niệm (18)
      • 1.2.2. Đặc điểm hoạt động xác minh, thu thập chứng cứ của Tòa án trong giải quyết vụ án dân sự sơ thẩm (20)
      • 1.2.5. Các trường hợp Tòa án tiến hành xác minh, thu thập chứng cứ (32)
        • 1.2.5.1. Tòa án xác minh, thu thập chứng cứ theo yêu cầu của đương sự (32)
        • 1.2.5.2. Tòa án xác minh, thu thập chứng cứ theo yêu cầu Viện kiểm sát nhân dân (34)
        • 1.2.5.3. Tòa án tự xác minh, thu thập chứng cứ khi xét thấy cần thiết (35)
      • 1.2.6. Các biện pháp xác minh, thu thập chứng cứ của Tòa án trong giải quyết vụ án dân sự sơ thẩm (36)
        • 1.2.6.1. Lấy lời khai của đương sự, người làm chứng (36)
        • 1.2.6.2. Đối chất (40)
        • 1.2.6.3. Xem xét, thẩm định tại chỗ (42)
        • 1.2.6.4. Trưng cầu giám định (44)
        • 1.2.6.5. Định giá tài sản (47)
        • 1.2.6.6. Ủy thác thu thập chứng cứ (50)
        • 1.2.6.7. Yêu cầu cơ quan, tổ chức, cá nhân cung cấp tài liệu, chứng cứ 44 1.2.6.8. Xác minh sự có mặt hoặc vắng mặt của đương sự tại nơi cư trú (51)
  • CHƯƠNG 2 THỰC TIỄN ÁP DỤNG PHÁP LUẬT VỀ HOẠT ĐỘNG XÁC MINH, THU THẬP CHỨNG CỨ CỦA TÒA ÁN TRONG GIẢI QUYẾT VỤ ÁN DÂN SỰ SƠ THẨM TẠI THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH VÀ KIẾN NGHỊ HOÀN THIỆN (58)
    • 2.2.1. Bất cập về việc xác định trách nhiệm của Tòa án trong xác minh, thu thập chứng cứ và kiến nghị hoàn thiện (61)
    • 2.2.2. Bất cập về việc Tòa án áp dụng các biện pháp xác minh, thu thập chứng cứ và kiến nghị hoàn thiện (66)
      • 2.2.2.1. Lấy lời khai của đương sự, người làm chứng (66)
      • 2.2.2.2. Xem xét, thẩm định tại chỗ (69)
      • 2.2.2.3. Trưng cầu giám định (72)
      • 2.2.2.4. Định giá tài sản (76)
      • 2.2.2.5. Ủy thác thu thập chứng cứ (81)
      • 2.2.2.6. Yêu cầu cơ quan, tổ chức, cá nhân cung cấp tài liệu, chứng cứ 75 TIỂU KẾT CHƯƠNG 2 (82)
  • PHỤ LỤC (94)

Nội dung

Tòa án không chỉ xem xét, giải quyết vụ án trong phạm vi giới hạn những tài liệu, chứng cứ đã được xuất trình mà còn có thể trực tiếp áp dụng các biện pháp xác minh, thu thập chứng cứ tr

Tình hình nghiên cứu đề tài

Hoạt động xác minh và thu thập chứng cứ của Tòa án đóng vai trò quan trọng trong pháp luật tố tụng dân sự (TTDS) Chính vì vậy, đề tài này đã thu hút sự quan tâm nghiên cứu của nhiều tác giả từ các khía cạnh và góc độ khác nhau.

Luận văn thạc sĩ luật học – Trường Đại học Kinh tế - Luật TP HCM năm

Năm 2019, tác giả Phan Đình Hải đã nghiên cứu về "Pháp luật về hoạt động thu thập chứng cứ trong Tố tụng dân sự Việt Nam" Trước đó, vào năm 2007, Nguyễn Minh Hằng đã bảo vệ luận án tiến sĩ tại Trường Đại học Luật Hà Nội với đề tài "Chế định chứng minh trong tố tụng dân sự Việt Nam" Gần đây, năm 2020, Nguyễn Thị Thu Sương đã hoàn thành luận văn thạc sĩ tại Trường Đại học Luật TP HCM với chủ đề "Nguyên tắc cung cấp chứng cứ và chứng minh trong Tố tụng dân sự".

Ngoài ra, có nhiều công trình nghiên cứu đăng trên các tạp chí chuyên ngành luật, trong đó nổi bật là bài viết của Th.s Nguyễn Thanh Tùng năm 2019.

Bài viết của tác giả Nguyễn Thị Thu Sương trên Báo Dân chủ và Pháp luật (tr55-57) chỉ ra một số bất cập trong chế định chứng cứ theo bộ luật Tố tụng dân sự 2015 Những vấn đề này ảnh hưởng đến tính hiệu quả và công bằng trong quá trình xét xử, đòi hỏi cần có sự điều chỉnh để nâng cao chất lượng công tác tố tụng.

Bài viết năm 2021 của tác giả Nguyễn trên Tạp chí Kiểm sát số 11/2021 (tr34) đề cập đến trách nhiệm hỗ trợ đương sự trong việc thu thập chứng cứ của Tòa án trong quy trình tố tụng dân sự Nội dung nhấn mạnh tầm quan trọng của việc đảm bảo quyền lợi hợp pháp của các bên liên quan và vai trò của Tòa án trong việc tạo điều kiện thuận lợi cho việc thu thập chứng cứ.

Vinh Hưng năm 2018 viết về “Nghĩa vụ chứng minh trong BLTTDS năm 2015” trên Tạp chí Kiểm sát số 20/2018 (tr6)

Các nghiên cứu đã cung cấp cái nhìn toàn diện về hoạt động chứng minh của Tòa án trong giải quyết vụ án dân sự (VADS), đánh giá ưu điểm và hạn chế của việc áp dụng pháp luật hiện hành Những công trình này đề xuất giải pháp khắc phục khó khăn còn tồn tại Mặc dù một số nghiên cứu được thực hiện trước khi Bộ luật Tố tụng Dân sự 2015 ra đời và trong bối cảnh kinh tế - xã hội khác, chúng vẫn có giá trị lý luận và thực tiễn quan trọng, cần được kế thừa để làm cơ sở cho hoạt động xác minh và thu thập chứng cứ của Tòa án trong lĩnh vực tố tụng dân sự.

Đối tượng và mục đích nghiên cứu

Đề tài luận văn nghiên cứu các vấn đề lý luận cơ bản về hoạt động xác minh và thu thập chứng cứ, đồng thời phân tích quy định và thực tiễn áp dụng pháp luật hiện hành liên quan đến hoạt động này trong giải quyết vụ án dân sự sơ thẩm Bên cạnh đó, luận văn so sánh với pháp luật của một số quốc gia khác về hoạt động xác minh và thu thập chứng cứ của Tòa án Qua đó, đề tài đánh giá quy định pháp luật hiện hành, chỉ ra những bất cập và vướng mắc trong thực tiễn giải quyết vụ án dân sự, đồng thời đề xuất giải pháp hoàn thiện quy định về hoạt động chứng minh của Tòa án, đặc biệt là trong lĩnh vực xác minh và thu thập chứng cứ.

Mục đích nghiên cứu đề tài là phân tích các quy định pháp luật liên quan đến hoạt động xác minh và thu thập chứng cứ của Tòa án trong giải quyết vụ án dân sự sơ thẩm Bằng cách xem xét thực tiễn áp dụng pháp luật hiện hành, nghiên cứu sẽ chỉ ra những hạn chế và bất cập trong quy trình này, từ đó đưa ra kiến nghị nhằm hoàn thiện các quy định về hoạt động chứng minh của Tòa án trong giải quyết vụ án dân sự sơ thẩm.

Phương pháp luận và phương pháp nghiên cứu

Dựa trên cơ sở lý luận và phương pháp luận Triết học Mác – Lê nin, tư tưởng

Hồ Chí Minh và quan điểm của Đảng, Nhà nước Việt Nam về cải cách tư pháp và xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa được thể hiện rõ trong từng chương của bài viết Các phương pháp nghiên cứu được áp dụng một cách cụ thể nhằm làm nổi bật tầm quan trọng của cải cách tư pháp trong việc xây dựng một Nhà nước pháp quyền vững mạnh và công bằng.

Chương 1 trình bày phương pháp phân tích và so sánh trong việc nghiên cứu khái niệm, đặc điểm và ý nghĩa của chứng cứ cũng như hoạt động chứng minh của Tòa án trong tố tụng dân sự (TTDS) Phương pháp phân tích và bình luận được áp dụng để làm rõ các quy định của pháp luật hiện hành liên quan đến hoạt động xác minh và thu thập chứng cứ của tòa án trong quá trình giải quyết vụ án dân sự sơ thẩm.

Chương 2 tập trung vào việc sử dụng phương pháp phân tích để đánh giá thực trạng thi hành quy định pháp luật Việt Nam liên quan đến hoạt động xác minh và thu thập chứng cứ của Tòa án trong quá trình giải quyết vụ án dân sự sơ thẩm Bài viết sẽ bình luận và đánh giá những bất cập cũng như vướng mắc trong thực tiễn xét xử, đồng thời đưa ra các đề xuất nhằm khắc phục những hạn chế hiện tại, hoàn thiện hệ thống pháp luật và nâng cao hiệu quả xét xử trong tương lai.

Ý nghĩa khoa học và giá trị ứng dụng của đề tài

Luận văn nghiên cứu toàn diện về hoạt động xác minh và thu thập chứng cứ của Tòa án trong giải quyết vụ án dân sự sơ thẩm, phân tích ưu điểm, nhược điểm và những bất cập trong thực tiễn xét xử Bài viết đưa ra các đề xuất nhằm cải thiện quy định pháp luật liên quan, từ đó nâng cao chất lượng công tác của Tòa án, giảm thiểu tình trạng hủy án và sửa án kéo dài Những cải tiến này không chỉ tiết kiệm thời gian và chi phí cho các bên liên quan mà còn bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của người dân.

Bố cục của luận văn

Ngoài phần mở đầu, kết luận, danh mục từ viết tắt và danh mục tài liệu tham khảo, bố cục luận văn bao gồm có 2 chương:

Chương 1 trình bày cơ sở lý luận và quy định pháp luật liên quan đến hoạt động xác minh và thu thập chứng cứ của Tòa án trong quá trình giải quyết vụ án dân sự sơ thẩm Nội dung này nhấn mạnh tầm quan trọng của việc thu thập chứng cứ chính xác và hợp pháp nhằm đảm bảo công bằng trong xét xử Các quy định pháp luật sẽ được phân tích để làm rõ vai trò của Tòa án trong việc thực hiện các biện pháp xác minh, từ đó nâng cao hiệu quả và chất lượng của quá trình giải quyết tranh chấp dân sự.

Chương 2: Phân tích thực tiễn áp dụng pháp luật liên quan đến hoạt động xác minh và thu thập chứng cứ của Tòa án trong quá trình giải quyết các vụ án dân sự sơ thẩm tại Thành phố Hồ Chí Minh Bài viết cũng đưa ra các kiến nghị nhằm hoàn thiện quy trình này, góp phần nâng cao hiệu quả và tính công bằng trong xét xử.

CƠ SỞ LÝ LUẬN VÀ QUY ĐỊNH CỦA PHÁP LUẬT VỀ HOẠT ĐỘNG XÁC MINH, THU THẬP CHỨNG CỨ CỦA TÒA ÁN

Cơ sở lý luận và quy định của pháp luật về Chứng cứ trong pháp luật Tố tụng dân sự

Luật TTDS Việt Nam là một phần quan trọng trong hệ thống pháp luật, quy định các quan hệ phát sinh để đảm bảo giải quyết vụ việc dân sự (VVDS) và thi hành án dân sự một cách nhanh chóng và chính xác, bảo vệ quyền lợi hợp pháp của cá nhân, tổ chức và Nhà nước Chứng cứ là yếu tố then chốt trong hoạt động TTDS, ảnh hưởng lớn đến tốc độ và tính chính xác của việc giải quyết vụ án Chứng cứ không chỉ là cơ sở để chứng minh mà còn là phương tiện duy nhất giúp xác định các sự kiện thực tế Nếu không có chứng cứ, Tòa án sẽ khó khăn trong việc đánh giá đúng các tình tiết và xác định quyền, nghĩa vụ của các bên Do đó, việc hiểu đúng về chứng cứ là rất cần thiết cho quá trình chứng minh trong TTDS.

Chứng cứ hình thành và tồn tại dựa trên lý luận của Chủ nghĩa duy vật biện chứng, cho thấy tất cả sự vật và hiện tượng trong thế giới đều tương tác và liên kết với nhau Mỗi sự kiện hay tình tiết xảy ra đều có mối quan hệ với những sự kiện khác, và mọi tình tiết đã xảy ra đều để lại dấu vết Những dấu vết này có thể được lưu giữ trên các tài liệu và đồ vật.

Trong giáo trình Luật Tố tụng dân sự Việt Nam của Trường Đại học Luật Hà Nội, vật chất và phi vật chất được coi là dấu vết quan trọng trong việc thu thập thông tin về các sự kiện đã xảy ra Con người sử dụng các dấu vết này để làm rõ vấn đề, phản ánh thực tại khách quan qua các giai đoạn nhận thức cảm tính và lý tính Lênin đã nhấn mạnh rằng quá trình nhận thức chân lý diễn ra từ trực quan sinh động đến tư duy trừu tượng và ngược lại Khi xác định được vấn đề xảy ra, ta có căn cứ để xác định sự thật khách quan của vụ án.

Chứng cứ là yếu tố quan trọng trong việc xác định sự thật khách quan trong quan hệ pháp luật dân sự, theo định nghĩa từ điển Tiếng Việt Trong các tranh chấp pháp lý, việc trình bày chứng cứ để chứng minh sự tồn tại của các sự kiện hoặc hành vi pháp lý là rất cần thiết Chứng cứ có thể được thể hiện qua nhiều hình thức như hợp đồng, thư điện tử, băng ghi âm, và ghi hình Tòa án có trách nhiệm thu thập, nghiên cứu và đánh giá chứng cứ theo trình tự pháp luật quy định để làm sáng tỏ sự thật khách quan của vụ việc dân sự Theo Điều 93 BLTTDS 2015, chứng cứ được định nghĩa là những gì có thật do các bên đương sự và các tổ chức, cá nhân khác cung cấp cho Tòa án trong quá trình tố tụng, nhằm làm căn cứ xác định các yêu cầu và giải quyết vụ án một cách đúng đắn.

5 Lênin toàn tập (2006), tập 29, Bút kí triết học, Nxb Chính trị quốc gia, tr179

6 TS Chu Bích Thu (2012), Từ điển Tiếng Việt phổ thông, Nxb Phương Đông, tr174

Trường Đại học Luật Hà Nội (2017) trong giáo trình "Luật Tố tụng dân sự Việt Nam" nhấn mạnh rằng việc xem xét các tình tiết khách quan của vụ án và xác định yêu cầu hoặc sự phản đối của đương sự cần phải được thực hiện một cách có căn cứ và hợp pháp.

1.1.2 Đặc điểm của chứng cứ

Thứ nhất, tính khách quan của chứng cứ

Chứng cứ phải là những sự vật, hiện tượng có thật, tồn tại khách quan mà không bị tác động bởi ý chí con người Theo lý luận nhận thức, chỉ khi nào sự vật được phản ánh một cách khách quan thì người ta mới có thể hiểu đúng bản chất của nó Những gì được tạo ra từ tưởng tượng hay hư cấu không thể phản ánh đúng sự thật và không thể làm cơ sở cho nhận thức Do đó, tính khách quan của chứng cứ là yếu tố quan trọng, giúp Tòa án đánh giá và sử dụng chứng cứ một cách đúng đắn, từ đó giải quyết vụ việc dân sự một cách khách quan và chính xác.

Thứ hai, tính liên quan của chứng cứ

Chứng cứ đóng vai trò quan trọng trong việc xác định sự tồn tại của các tình tiết và sự kiện liên quan đến việc giải quyết vụ việc dân sự (VVDS) Mối liên hệ giữa chứng cứ và VVDS thể hiện tính liên quan, giúp làm rõ các vấn đề cần giải quyết trong quá trình tố tụng.

Tòa án cần thu thập và đánh giá các thông tin, dấu vết, và tài liệu thực tế có liên quan trực tiếp hoặc gián tiếp đến vụ việc dân sự (VVDS) Mỗi thông tin và tài liệu phải có ý nghĩa thiết thực trong việc giải quyết VVDS, giúp Tòa án có cơ sở để công nhận hoặc bác bỏ các tình tiết và sự kiện Do đó, việc chọn lọc và đánh giá thông tin là rất quan trọng để đảm bảo Tòa án đưa ra quyết định chính xác trong quá trình xem xét và giải quyết vụ án.

Thứ ba, tính hợp pháp của chứng cứ

Chứng cứ phải được thu thập từ các nguồn hợp pháp như vật chứng, lời khai của đương sự và nhân chứng, và phải được nghiên cứu, đánh giá theo trình tự luật định Điều này có nghĩa là những thông tin, hiện tượng có giá trị chứng minh nhưng không được lấy từ các nguồn hợp pháp sẽ không được công nhận.

Theo quy định tại Trường Đại học Luật Hà Nội, việc thu thập, nghiên cứu, đánh giá và sử dụng chứng cứ phải tuân thủ đúng quy định của pháp luật; nếu không, chứng cứ đó sẽ không được công nhận và không thể sử dụng trong quá trình giải quyết vụ án Quy trình này đảm bảo giá trị của chứng cứ, buộc Tòa án phải giải quyết vụ án theo đúng quy định, đồng thời bảo vệ tính khách quan và độ tin cậy của chứng cứ cũng như quyết định của Tòa án Như vậy, tính hợp pháp là một đặc tính hình thức, phản ánh các đặc tính nội dung của chứng cứ.

Phân loại chứng cứ được dựa trên nhiều tiêu chí khác nhau như:

Chứng cứ được phân chia thành hai loại dựa trên tính chất hình thành: chứng cứ gốc và chứng cứ thuật lại Chứng cứ gốc là thông tin và dấu vết thực tế đầu tiên liên quan đến tình tiết, sự kiện cần chứng minh, chưa qua sao chép Ngược lại, chứng cứ thuật lại là những chứng cứ phản ánh không trực tiếp từ sự kiện cần chứng minh, mà thông qua một sự kiện trung gian, như sao chép, chụp lại hoặc tường thuật lại chứng cứ gốc.

Chứng cứ trong pháp lý được phân chia thành hai loại: chứng cứ trực tiếp và chứng cứ gián tiếp Chứng cứ trực tiếp giúp xác định rõ ràng các tình tiết cần chứng minh trong vụ việc dân sự (VVDS) Trong khi đó, chứng cứ gián tiếp không xác định trực tiếp các tình tiết nhưng khi kết hợp với các sự vật, hiện tượng khác, nó có thể giúp làm sáng tỏ những tình tiết này trong VVDS.

Chứng cứ được phân loại dựa trên nguồn gốc hình thành thành hai loại chính: chứng cứ theo người và chứng cứ theo vật Chứng cứ theo người bao gồm lời khai từ đương sự và người làm chứng, kết luận từ các giám định viên, cùng với kết luận định giá tài sản Trong khi đó, chứng cứ theo vật là những vật chứa đựng thông tin thực tế liên quan đến vụ việc, thường được gọi là vật chứng.

9 Trường Đại học Luật Hà Nội, tlđd(4), tr172

10 Trường Đại học Kiểm sát Hà Nội (2019), Giáo trinh Luật Tố tụng dân sự Việt Nam, Nxb Chính trị sự thật quốc gia, tr181

Chứng cứ có thể được phân loại dựa trên tính chất của nó, bao gồm chứng cứ khẳng định và chứng cứ phủ định, chứng cứ viết và chứng cứ miệng Việc phân loại này đóng vai trò quan trọng trong nghiên cứu, đánh giá và sử dụng chứng cứ mà không làm giảm giá trị chứng minh của nó Từ việc phân loại chứng cứ, Tòa án có thể xác định phạm vi chứng cứ và tài liệu cần thu thập, cũng như yêu cầu sử dụng cho các chứng cứ cụ thể, từ đó đảm bảo việc giải quyết vụ việc dân sự hiệu quả.

Cơ sở lý luận và quy định của pháp luật về hoạt động xác minh, thu thập chứng cứ của Tòa án trong giải quyết vụ án dân sự sơ thẩm

Mỗi vụ án dân sự đều tiềm ẩn xung đột lợi ích giữa các bên, do đó, để giải quyết vụ án một cách chính xác và hợp pháp, cần làm rõ mọi vấn đề trước khi Tòa án đưa ra quyết định Quá trình này, được gọi là hoạt động chứng minh trong tố tụng dân sự, cho phép Tòa án xác định sự tồn tại của các sự kiện, diễn biến vụ việc, cũng như trách nhiệm của các bên liên quan Chứng minh trong tố tụng dân sự là hoạt động của các chủ thể tố tụng nhằm làm rõ các sự kiện và tình tiết của vụ án.

Việc chứng minh trong tố tụng pháp lý có vai trò quan trọng trong việc xác định quan hệ pháp luật giữa các bên và tư cách pháp lý của đương sự Chứng minh bao gồm các hoạt động như cung cấp, xác minh, thu thập và đánh giá chứng cứ, cùng với việc đưa ra các căn cứ pháp lý liên quan đến vụ án Trong đó, xác minh và thu thập chứng cứ là những hoạt động then chốt, ảnh hưởng lớn đến kết quả và chất lượng của quá trình chứng minh Hoạt động này không chỉ tìm kiếm mà còn tập hợp và đưa chứng cứ vào hồ sơ VADS để Tòa án có thể nghiên cứu và đánh giá.

11 Trường Đại học Luật Hà Nội, tlđd(4), tr173

12 Trường Đại học Kinh tế - Luật, tlđd (1), tr142

13 Trường Đại học Luật Hà Nội, tlđd(4), tr134

Xác minh, theo từ điển Tiếng Việt, là quá trình làm rõ sự thật thông qua thực tế và chứng cứ cụ thể Điều này bao gồm việc tìm hiểu, thu thập thông tin và tài liệu từ các sự việc xảy ra trong cuộc sống để làm sáng tỏ vấn đề Trong lĩnh vực tố tụng, xác minh chứng cứ là hoạt động mà cơ quan tiến hành tố tụng thực hiện để kiểm tra và xác định tính khách quan, liên quan và hợp pháp của chứng cứ Hoạt động này có tính pháp lý, diễn ra khi đương sự không cung cấp được tài liệu hoặc khi có mâu thuẫn giữa các chứng cứ Mục đích của xác minh là kiểm tra tính đúng, sai của tài liệu thông qua việc đối chiếu và so sánh, đảm bảo tính hợp pháp và khách quan.

Hoạt động xác minh chứng cứ trong tố tụng dân sự (TTDS) là quá trình mà các cơ quan tiến hành tố tụng thực hiện để tìm hiểu và thu thập thông tin, tài liệu Mục đích của hoạt động này là kiểm tra và xác định tính khách quan, tính liên quan cũng như tính hợp pháp của chứng cứ, theo trình tự và thủ tục được quy định bởi pháp luật TTDS.

Theo Từ điển tiếng Việt, "thu thập" có nghĩa là "góp nhặt và tập hợp lại" Điều này có thể hiểu rằng "thu thập chứng cứ" là quá trình mà các chủ thể chứng minh tìm kiếm, phát hiện và thu nhận thông tin, sự kiện để bảo vệ quyền lợi của mình Trong tố tụng dân sự, hoạt động thu thập chứng cứ không chỉ bao gồm việc góp nhặt mà còn liên quan đến việc thu giữ, cung cấp, tiếp nhận và bảo quản chứng cứ, tất cả nhằm phục vụ cho việc chứng minh và làm sáng tỏ vụ án dân sự Các hoạt động này có mối quan hệ tương tác lẫn nhau và mỗi hoạt động đều đóng vai trò quan trọng trong việc giải quyết vụ án.

Hoạt động thu thập chứng cứ trong tố tụng dân sự (TTDS) là quá trình mà các chủ thể tham gia chứng minh thực hiện để phát hiện và ghi nhận chứng cứ theo một trình tự nhất định.

14 TS Chu Bích Thu, tlđd(6), tr1052

15 TS Chu Bích Thu, tlđd(6), tr882

Giáo trình Luật Tố tụng dân sự Việt Nam của Trường Đại học Luật Tp Hồ Chí Minh (2012) nêu rõ rằng các tài liệu và thủ tục do pháp luật tố tụng dân sự quy định cần được đưa vào hồ sơ vụ án Mục đích của việc này là để nghiên cứu, đánh giá và sử dụng trong quá trình giải quyết vụ án dân sự.

Trong quá trình thu thập chứng cứ, các chủ thể như đương sự, Tòa án và Viện kiểm sát đều có vai trò quan trọng Theo quy định trong tố tụng dân sự, đương sự có quyền và nghĩa vụ chủ động cung cấp tài liệu, chứng cứ cho Tòa án Nếu chứng cứ đã nộp chưa đủ để giải quyết vụ việc, Thẩm phán có quyền yêu cầu bổ sung Chứng cứ do đương sự thu thập thường là những tài liệu mà họ quản lý, nhưng cũng có những chứng cứ do các cá nhân, tổ chức khác lưu giữ, mà đương sự có quyền yêu cầu cung cấp Tuy nhiên, thực tế cho thấy không phải lúc nào yêu cầu này cũng được đáp ứng kịp thời và đầy đủ, dẫn đến khó khăn trong việc thu thập chứng cứ Do đó, hoạt động xác minh và thu thập chứng cứ của Tòa án không chỉ hỗ trợ đương sự mà còn đóng vai trò quan trọng trong việc giải quyết vụ án, đảm bảo có đủ chứng cứ cần thiết, đặc biệt là trong các vụ án đang được xử lý ở cấp sơ thẩm.

Hoạt động xác minh và thu thập chứng cứ của Tòa án sơ thẩm trong giải quyết vụ án dân sự (VADS) là quá trình quan trọng nhằm phát hiện, ghi nhận và xác định tính khách quan, liên quan và hợp pháp của chứng cứ Quy trình này phải tuân theo các thủ tục pháp luật tố tụng dân sự để đảm bảo chứng cứ được đưa vào hồ sơ vụ án, từ đó phục vụ cho việc nghiên cứu và đánh giá, làm cơ sở cho việc giải quyết VADS ở cấp sơ thẩm.

1.2.2 Đặc điểm hoạt động xác minh, thu thập chứng cứ của Tòa án trong giải quyết vụ án dân sự sơ thẩm

Thứ nhất, hoạt động xác minh, thu thập chứng cứ của Tòa án sơ thẩm là hoạt động hỗ trợ đương sự trong quá trình giải quyết VADS

Nghĩa vụ chứng minh thuộc về đương sự, những người nắm rõ các tình tiết liên quan đến vụ án dân sự (VADS) và có trách nhiệm cung cấp chứng cứ bảo vệ quyền lợi của mình hoặc phản bác yêu cầu của bên khác Đương sự cần thu thập và giao nộp tài liệu, chứng cứ cho Tòa án để chứng minh tính hợp pháp của yêu cầu, trừ khi có quy định khác Đương sự phản đối yêu cầu cũng phải thể hiện bằng văn bản và cung cấp chứng cứ để chứng minh sự phản đối Dù Tòa án có quyền xác minh, thu thập chứng cứ, nhưng chỉ hỗ trợ đương sự trong những trường hợp nhất định Nếu đương sự không cung cấp đầy đủ tài liệu theo yêu cầu của Tòa án mà không có lý do chính đáng, Tòa án sẽ dựa vào chứng cứ đã được giao nộp để giải quyết vụ án.

Trước đây, pháp luật Việt Nam quy định trách nhiệm thu thập chứng cứ của Tòa án rất rộng, buộc Tòa án phải chủ động trong việc này, dẫn đến tình trạng đương sự ỷ lại và không tích cực cung cấp chứng cứ, gây quá tải cho Tòa án và lãng phí nguồn nhân lực Hơn nữa, điều này có thể dẫn đến lạm quyền và thiếu công bằng trong giải quyết vụ án Hiện nay, pháp luật đã điều chỉnh nguyên tắc quyền quyết định và tự định đoạt của đương sự, đồng thời tăng cường yếu tố tranh tụng trong tố tụng dân sự Theo Điều 6 – Bộ luật Tố tụng Dân sự năm 2015, đương sự có quyền và nghĩa vụ chủ động thu thập, giao nộp chứng cứ cho Tòa án, trong khi Tòa án chỉ hỗ trợ và thu thập chứng cứ trong những trường hợp cụ thể Quy định này tương đồng với pháp luật của một số quốc gia khác về vai trò của Tòa án.

21 Khoản 4 Điều 91 BLTTDS năm 2015 trợ đương sự, ví dụ: Tại khoản 1 Điều 57 BLTTDS Liên bang Nga có quy định

Tòa án có quyền yêu cầu các bên tham gia tố tụng cung cấp thêm chứng cứ, theo quy định tại Điều 65 của Luật Tố tụng Dân sự Trung Quốc, trong đó nhấn mạnh rằng đương sự có trách nhiệm cung cấp chứng cứ đúng thời hạn quy định.

Tòa án, với vai trò là cơ quan xét xử của nhà nước, chỉ tiếp nhận và đánh giá các yêu cầu, tài liệu, chứng cứ theo quy định của pháp luật để đưa ra phán quyết, mà không có nghĩa vụ thu thập chứng cứ thay cho đương sự Điều này nhấn mạnh rằng khả năng bảo vệ lợi ích của đương sự trong vụ án hoàn toàn phụ thuộc vào việc họ thực hiện tốt nghĩa vụ thu thập chứng cứ, không phải vào vai trò của Tòa án.

Hoạt động xác minh và thu thập chứng cứ của Tòa án sơ thẩm diễn ra từ khi tiếp nhận đơn khởi kiện cho đến khi phiên tòa sơ thẩm kết thúc.

Khi nhận đơn khởi kiện, người khởi kiện cần gửi kèm theo các tài liệu, chứng cứ chứng minh quyền lợi hợp pháp của mình bị xâm phạm Nếu không thể nộp đầy đủ, họ phải cung cấp tài liệu hiện có để chứng minh quyền lợi Ngoài ra, người khởi kiện có thể bổ sung tài liệu theo yêu cầu của Tòa án trong quá trình giải quyết vụ án Để phù hợp với mô hình tố tụng hiện đại, Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015 đã quy định rõ quyền thu thập chứng cứ của các bên liên quan và trách nhiệm của người tiến hành tố tụng trong việc xác minh, thu thập chứng cứ, nhằm đảm bảo có đủ căn cứ khi giải quyết vụ án.

2015 đã thay thế cụm từ “đương sự” và quy định “Cơ quan, tổ chức, cá nhân có

22 Nguyễn Thị Hoài Phương (2016), Bình luận những điểm mới trong Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015, Nxb Hồng Đức, tr41

THỰC TIỄN ÁP DỤNG PHÁP LUẬT VỀ HOẠT ĐỘNG XÁC MINH, THU THẬP CHỨNG CỨ CỦA TÒA ÁN TRONG GIẢI QUYẾT VỤ ÁN DÂN SỰ SƠ THẨM TẠI THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH VÀ KIẾN NGHỊ HOÀN THIỆN

Bất cập về việc xác định trách nhiệm của Tòa án trong xác minh, thu thập chứng cứ và kiến nghị hoàn thiện

Một trong những điều kiện để Tòa án thực hiện việc xác minh, thu thập chứng cứ theo yêu cầu của đương sự là khi "Đương sự không thể tự mình thu thập tài liệu, chứng cứ" Tuy nhiên, pháp luật Việt Nam chưa có quy định cụ thể về trường hợp này Có quan điểm cho rằng chỉ khi đương sự chứng minh rõ ràng nỗ lực của mình nhưng gặp khó khăn khách quan thì trách nhiệm thu thập chứng cứ mới chuyển sang Tòa án Dù vậy, nếu đương sự đã yêu cầu Tòa án hỗ trợ, Tòa án phải có trách nhiệm thực hiện Trong trường hợp Tòa án không tiến hành theo yêu cầu và quyết định, bản án bị hủy do thiếu chứng cứ, Thẩm phán sẽ phải chịu trách nhiệm Thực tế cho thấy, việc đương sự chủ động thu thập chứng cứ gặp nhiều khó khăn, đặc biệt là khi yêu cầu cơ quan, tổ chức cung cấp tài liệu nhưng thường không nhận được phản hồi hoặc bị từ chối mà không có lý do rõ ràng Việc từ chối thường không được thể hiện qua văn bản, khiến đương sự không có căn cứ chứng minh nỗ lực của mình Do đó, Tòa án không thể viện dẫn việc đương sự chưa chứng minh rõ ràng mà không hỗ trợ họ trong việc thu thập chứng cứ TAND tối cao cần có văn bản hướng dẫn cụ thể để đảm bảo sự thống nhất trong việc áp dụng và bảo vệ quyền lợi của đương sự.

Hiện nay, khi Viện kiểm sát yêu cầu Tòa án thực hiện xác minh và thu thập chứng cứ, Tòa án không nhất thiết phải chấp nhận mọi yêu cầu Quyết định này phụ thuộc vào năng lực nghiệp vụ và đánh giá chủ quan của Thẩm phán Nếu Tòa án nhận thấy yêu cầu của Kiểm sát viên là không cần thiết hoặc không khả thi, sau thời hạn mở phiên tòa, Thẩm phán chỉ cần thông báo cho Kiểm sát viên về việc không thể thực hiện yêu cầu đó.

Để đảm bảo quyền yêu cầu của Kiểm sát viên được thực hiện, yêu cầu cần cụ thể và rõ ràng, không làm phức tạp vụ án Yêu cầu phải cần thiết và khả thi Nếu Tòa án không thực hiện xác minh hoặc thu thập chứng cứ theo yêu cầu mà không thông báo lý do bằng văn bản, Kiểm sát viên có quyền kiến nghị Đồng thời, cần tăng cường phối hợp giữa Viện kiểm sát và Tòa án nhằm nâng cao chất lượng và hiệu quả trong giải quyết án dân sự, bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của đương sự.

Trong luận văn thạc sĩ của Nguyễn Thị Thu Sương (2020) tại Trường Đại học Luật TP HCM, tác giả đã trình bày nguyên tắc cung cấp chứng cứ và chứng minh trong tố tụng dân sự Nghiên cứu này không chỉ làm rõ vai trò của chứng cứ trong quá trình xét xử mà còn nhấn mạnh tầm quan trọng của việc tuân thủ các quy định pháp luật liên quan đến chứng minh Luận văn cung cấp cái nhìn sâu sắc về các yếu tố ảnh hưởng đến hiệu quả của chứng cứ trong việc bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của các bên liên quan trong vụ án dân sự.

Bài viết của Nguyễn Huy Quang và Nguyễn Thị Thu Trang khám phá quyền yêu cầu của Viện Kiểm sát Nhân dân (VKSND) trong việc kiểm sát giải quyết các vụ việc dân sự Tác giả nhấn mạnh tầm quan trọng của vai trò VKSND trong việc bảo đảm công lý và bảo vệ quyền lợi hợp pháp của công dân Thông qua việc kiểm sát, VKSND không chỉ góp phần nâng cao chất lượng giải quyết vụ án mà còn đảm bảo tính minh bạch và công bằng trong hệ thống tư pháp Để tìm hiểu chi tiết, bạn có thể truy cập vào bài viết tại địa chỉ: https://vksndtc.gov.vn/cong-tac-kiem-sat/quyen-yeu-cau-cua-vksnd-trong-cong-tac-kiem-sat-vi-d10-t10306.html, truy cập ngày 25/02/2023.

Thứ ba, trách nhiệm của Tòa án chủ động xác minh thu thập chứng cứ khi xét thấy cần thiết:

Nước ta áp dụng mô hình tố tụng thẩm vấn, trong đó vai trò và trách nhiệm của đương sự phụ thuộc nhiều vào Tòa án, cơ quan chủ động trong việc xác minh và thu thập chứng cứ Mặc dù đương sự có quyền tự định đoạt, nhưng Tòa án là đơn vị quyết định về giá trị và mức độ đầy đủ của chứng cứ Khái niệm “cần thiết” để Tòa án hỗ trợ đương sự trong việc xác minh chứng cứ không có quy chuẩn cụ thể, dẫn đến sự khác biệt trong nhận thức của Thẩm phán và việc Tòa án không chủ động thực hiện các biện pháp này Pháp luật hiện hành chưa quy định rõ về trách nhiệm của Tòa án trong việc hỗ trợ đương sự, gây ảnh hưởng đến tính chính xác của bản án và quyền lợi của các bên liên quan Một ví dụ điển hình là vụ tranh chấp thừa kế giữa ông Phan Văn C và các bị đơn, trong đó nội dung di chúc của bà Phạm Thị R không được đồng thuận, dẫn đến việc Tòa án phải xem xét nhiều lần do thiếu chứng cứ đầy đủ.

Tòa án nhân dân TP Hồ Chí Minh trong bản án phúc thẩm số 622/2022/DS-PT đã chỉ ra những vi phạm nghiêm trọng của Tòa án sơ thẩm trong việc thu thập chứng cứ, dẫn đến đánh giá không khách quan về tính hợp pháp của bản di chúc Cụ thể, bị đơn và các bên liên quan không công nhận bản di chúc là hợp pháp, và Tòa án sơ thẩm cần phải thông báo cho đương sự về quyền yêu cầu giám định chữ ký, dấu vân tay để xác minh tính hợp pháp của di chúc Việc chỉ dựa vào bản di chúc và lời khai của người lập di chúc để đánh giá là chưa đủ khách quan Do đó, Tòa án cấp phúc thẩm đã quyết định hủy bản án sơ thẩm để giải quyết lại vụ án theo đúng thẩm quyền.

Trong vụ án tranh chấp nhà giữa bà Trương Thị Tuyết L và bà Nguyễn Thị K, bà L đã mua nhà của ông Nguyễn Vũ B vào năm 2012 Sau khi ký hợp đồng, bà L phát hiện bà K đang chiếm giữ nhà và không đồng ý trả lại, yêu cầu bà L cung cấp giấy tờ chứng minh quyền sở hữu Ngày 14-3-2014, bà L và ông Nguyễn Văn Giàu được cấp Giấy chứng nhận quyền sở hữu nhà và đất Sau đó, bà L khởi kiện yêu cầu bà K trả lại nhà, nhưng bà K vẫn không đồng ý và yêu cầu Tòa án xem xét tính hợp pháp của giấy chứng nhận Tuy nhiên, Tòa án cấp sơ thẩm không thu thập xác minh rõ ràng, dẫn đến khả năng có dấu hiệu tội phạm liên quan đến việc giao dịch tài sản.

Bị đơn đang chiếm hữu nhà đất tranh chấp và khai rằng đã mua nhà qua bà Nguyễn Thị X, người đứng tên trên giấy tờ Sơ thẩm cần xác minh tính hợp pháp của "Giấy chứng nhận quyền sở hữu nhà ở" và "Giấy phép mua bán - chuyển dịch nhà cửa" từ UBND quận Bình Thạnh để làm rõ chứng cứ Việc xác minh sẽ giúp xác định giấy chủ quyền nào là hợp pháp, từ đó có đủ căn cứ giải quyết vụ án Tại bản án phúc thẩm số 510/DS-PT ngày 15/6/2020, TAND TP Hồ Chí Minh nhận định rằng các vấn đề này không thể khắc phục ngay và cần hủy án để giải quyết lại theo thủ tục sơ thẩm nhằm đảm bảo tính hợp pháp.

Việc Tòa án không thực hiện xác minh và thu thập chứng cứ có thể dẫn đến việc vụ án không được giải quyết đúng đắn, gây khó khăn trong việc thi hành bản án đã có hiệu lực pháp luật Để đảm bảo sự thống nhất trong thực tiễn áp dụng, TAND tối cao cần hướng dẫn cụ thể về các trường hợp mà Tòa án có quyền chủ động áp dụng biện pháp xác minh và thu thập chứng cứ Đồng thời, việc phát triển án lệ để minh chứng cho những tình huống cần thiết cũng rất quan trọng, giúp Thẩm phán tham khảo và học hỏi, từ đó tạo sự đồng nhất trong công tác giải quyết vụ án giữa các Tòa án cấp và các địa phương.

Bất cập về việc Tòa án áp dụng các biện pháp xác minh, thu thập chứng cứ và kiến nghị hoàn thiện

2.2.2.1 Lấy lời khai của đương sự, người làm chứng

Theo quy định, "Thẩm phán chỉ tiến hành lấy lời khai của đương sự khi đương sự chưa có bản khai hoặc nội dung bản khai chưa đầy đủ, rõ ràng." Tuy nhiên, việc xác định "nội dung bản khai chưa đầy đủ, rõ ràng" lại phụ thuộc vào ý chí chủ quan của Thẩm phán Thẩm phán, khi nghiên cứu hồ sơ, sẽ có những định hướng nhất định trong việc xây dựng hồ sơ, dẫn đến việc đánh giá tính rõ ràng và đầy đủ của lời khai của đương sự.

“cần” thì sẽ được hướng dẫn lấy lời khai lại

Theo quy định, nếu “đương sự không thể tự viết được”, Thẩm phán sẽ tiến hành lấy lời khai từ đương sự và ghi lại vào biên bản Tuy nhiên, khái niệm “đương sự không thể tự viết được” vẫn chưa được hiểu và áp dụng một cách thống nhất, dẫn đến sự khác biệt trong thực tiễn.

Việc đương sự không thể tự viết bản khai có thể do nhiều nguyên nhân như không biết chữ, chữ viết không rõ hoặc lý do sức khỏe Một câu hỏi đặt ra là tại sao pháp luật không cho phép đương sự nhờ người thân viết hộ bản khai, khi mà họ có thể tin tưởng người này sẽ ghi lại đầy đủ ý kiến và quyền lợi của mình Việc quy định rằng chỉ Thẩm phán hoặc Thư ký Tòa án mới có quyền ghi lời khai đã tạo ra nhiều công việc không cần thiết cho Tòa án Hơn nữa, Bộ luật Tố tụng Dân sự cũng không quy định rằng khi đương sự không biết chữ, phải có mặt của người thứ ba, điều này đặt ra nghi vấn về tính chính xác và đầy đủ của biên bản ghi lời khai.

Thư ký, Thẩm phán đã “cố tình” ghi lại nội dung lời khai không đúng với nội dung, ý chí và mong muốn trình bày của người đã khai

Pháp luật hiện hành không giới hạn số lần Tòa án có thể lấy lời khai của đương sự, dẫn đến tình trạng đương sự có thể đưa ra những lời khai khác nhau trong các thời điểm khác nhau, gây khó khăn cho việc đánh giá chứng cứ Giá trị chứng minh của từng biên bản lấy lời khai phụ thuộc vào nhận định của Thẩm phán Việc không quy định nội dung lời khai lần sau phải khác lần trước có thể khiến Thẩm phán và Thư ký ghi lại lời khai không đúng với ý chí của đương sự, từ đó làm sai lệch bản chất vụ án và hướng đến mục đích mà Thẩm phán đã định sẵn.

Theo quy định pháp luật, khi biên bản ghi lời khai của đương sự được lập ngoài trụ sở Tòa án, cần có sự chứng kiến của người làm chứng hoặc xác nhận từ UBND cấp xã, Công an xã, phường, thị trấn hoặc cơ quan, tổ chức có thẩm quyền Tuy nhiên, pháp luật không yêu cầu người làm chứng phải ký vào biên bản để xác nhận sự tham gia của mình, điều này có thể ảnh hưởng đến tính hợp pháp của quá trình lấy lời khai và quyền lợi của đương sự.

Vào thứ năm, nhiều người ngần ngại tham gia tố tụng với vai trò là người làm chứng do quy định về quyền lợi của họ chưa rõ ràng và việc thực hiện còn hạn chế Quyền được bảo vệ tính mạng, sức khỏe, danh dự, nhân phẩm và tài sản của người làm chứng khi tham gia tố tụng chưa được đảm bảo Hệ quả là, không ít người làm chứng từ chối hợp tác với Tòa án trong việc cung cấp thông tin và tài liệu cần thiết Mặc dù vậy, chế tài xử lý đối với những người làm chứng không hợp tác vẫn chưa được áp dụng hiệu quả.

Theo Khoản 6 Điều 78 BLTTDS năm 2015, việc trình bày lời khai cho Tòa án vẫn chưa được đảm bảo Pháp luật hiện hành chỉ quy định chế tài đối với người làm chứng khi họ không đến phiên tòa mà không có lý do chính đáng, gây cản trở cho việc xét xử Tuy nhiên, vấn đề đặt ra là nếu người làm chứng không có mặt theo yêu cầu trước phiên tòa, thì họ sẽ bị xử lý như thế nào khi hành vi của họ gây khó khăn cho Tòa án trong việc giải quyết vụ án dân sự?

Dựa trên những khó khăn và vướng mắc trong việc lấy lời khai từ đương sự và người làm chứng, tác giả đề xuất một số kiến nghị nhằm cải thiện quy trình này.

Cần thiết phải quy định một cơ chế bảo vệ cụ thể cho người làm chứng, đảm bảo an toàn về tính mạng, sức khỏe, danh dự, nhân phẩm, tài sản và các quyền lợi hợp pháp khác Điều này sẽ khuyến khích họ tham gia tích cực vào quá trình tố tụng khi có yêu cầu, nhằm hỗ trợ giải quyết vụ án Đồng thời, pháp luật cũng cần thiết lập chế tài phù hợp đối với những trường hợp không hợp tác, không có lý do chính đáng khi Tòa án yêu cầu họ có mặt để lấy lời khai.

Để đảm bảo nội dung lời khai phản ánh đúng ý chí và nguyện vọng của đương sự, đồng thời đảm bảo tính khách quan, cần sửa đổi quy định tại khoản 1, 2 Điều 98 của Bộ luật Tố tụng dân sự 2015.

Khi đương sự chưa có bản khai hoặc bản khai không đầy đủ, Thẩm phán sẽ yêu cầu đương sự tự viết hoặc bổ sung bản khai và ký tên Nếu đương sự không thể tự viết, họ có thể nhờ người khác hoặc yêu cầu Tòa án lấy lời khai.

Thẩm phán hoặc Thư ký Tòa án sẽ ghi lại lời khai của đương sự theo yêu cầu, tập trung vào những tình tiết chưa được khai báo đầy đủ và rõ ràng Việc lấy lời khai diễn ra tại trụ sở Tòa án, nhưng trong trường hợp cần thiết, có thể thực hiện ngoài trụ sở.

2 Bản khai do người khác viết hộ phải có ký tên hoặc điểm chỉ của người khai và ký tên của người viết hộ Biên bản ghi lời khai của đương sự phải được người khai tự đọc lại hay nghe đọc lại và ký tên hoặc điểm chỉ Đương sự có quyền

Theo Khoản 8 Điều 78 Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015, biên bản ghi lời khai phải ghi rõ các sửa đổi, bổ sung và có chữ ký hoặc điểm chỉ của người khai Biên bản cần có chữ ký của người lập biên bản và phải được đóng dấu của Tòa án Nếu biên bản có nhiều trang, cần ký vào từng trang và đóng dấu giáp lai Đối với biên bản ghi lời khai được lập ngoài trụ sở Tòa án, cần có người làm chứng và chữ ký của họ, hoặc xác nhận từ UBND cấp xã, Công an xã, phường, thị trấn hoặc cơ quan, tổ chức nơi lập biên bản.

Pháp luật cần hướng dẫn cụ thể về khái niệm “đương sự không thể tự viết được” và quy định chặt chẽ hơn về điều kiện Tòa án lấy lại lời khai của đương sự Điều này nhằm ngăn chặn việc Tòa án thực hiện một cách tùy ý và lạm dụng việc lấy lời khai để phục vụ mục đích cá nhân của Thẩm phán trong quá trình giải quyết vụ án.

2.2.2.2 Xem xét, thẩm định tại chỗ

Ngày đăng: 28/12/2024, 10:58

TỪ KHÓA LIÊN QUAN

TÀI LIỆU CÙNG NGƯỜI DÙNG

TÀI LIỆU LIÊN QUAN

w