Theo giáo trình Luật Tố tụng Hình sự Việt Nam của Khoa luật – Đại học Quốc gia Hà Nội 2019, “Giới hạn của việc xét xử là thẩm quyền xét xử của Tòa án trong phạm vi và hành vi theo tội d
Trang 1TRƯỜNG ĐẠI HỌC KIỂM SÁT HÀ NỘI KHOA PHÁP LUẬT HÌNH SỰ VÀ KIỂM SÁT HÌNH SỰ
-
TIỂU LUẬN LUẬT TỐ TỤNG HÌNH SỰ
Đề tài: 12 Phân tích về giới hạn xét xử của Tòa án theo quy định của
Bộ luật Tố tụng hình sự 2015
Họ và tên: Phạm Thanh Sơn MSSV: 193801010262
Lớp: K7G
Hà Nội - 2021
Trang 2MỤC LỤC
MỤC LỤC 2
ĐẶT VẤN ĐỀ 3
GIẢI QUYẾT VẤN ĐỀ 4
1 MỘT SỐ VẤN ĐỀ CHUNG VỀ GIỚI HẠN XÉT XỬ 4
1.1 Khái niệm 4
1.2 Cơ sở 4
1.3 Ý nghĩa 5
2 PHÂN TÍCH QUY ĐỊNH CỦA BỘ LUẬT TỐ TỤNG HÌNH SỰ NĂM 2015 VỀ GIỚI HẠN XÉT XỬ 5
3 MỘT SỐ KIẾN NGHỊ GÓP PHẦN KHẮC PHỤC NHỮNG BẤT CẬP LIÊN QUAN ĐẾN QUY ĐỊNH GIỚI HẠN XÉT XỬ TRONG BLTTHS 2015 13
KẾT LUẬN 16
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO 17
Trang 3ĐẶT VẤN ĐỀ
Tại thông báo rút kinh nghiệm số 192/TB-VKSTC ngày 31 tháng 8 năm 2021 của Viện Kiểm sát nhân dân tối cao đã thống kê số liệu về việc Tòa án xét xử khác tội danh, khung khoản Viện Kiểm sát (VKS) đã truy tố Theo đó, từ năm 2018 đến hết năm 2020, Tòa án sơ thẩm cấp huyện và cấp tỉnh xét xử 117.645 vụ/197.375 bị cáo Tòa án xét xử khác tội danh, khung khoản VKS đã truy tố 647 vụ/1.162 bị cáo, chiếm 0,55% số vụ và 0,589% số bị cáo đã xét xử Điều này đối với những người học luật không có gì lạ vì đây là thẩm quyền của Tòa án trong quá trình xét xử được quy định trong Bộ luật Tố tụng hình sự (BLTTHS) 2015 với tên gọi “Giới hạn xét xử” Quy định này không phải là mới, mà đã được kế thừa từ những văn bản pháp luật trước đó, như tại Thông tư số 16-TATC ngày 27/9/1974 của Tòa án nhân dân tối cao hướng dẫn về trình tự xét xử sơ thẩm vụ
án hình sự; Điều 170 BLTTHS 1988; Điều 193 BLTTHS 2003 Tuy nhiên đến BLTTHS 2015, quy định “Giới hạn xét xử” tại Điều 298 đã có những sửa đổi, bổ sung quan trọng về nội dung Vậy giới hạn xét xử là gì? Quy định trong BLTTHS
2015 có gì mới Và liệu sau hơn 05 năm thi hành, quy định này có phát sinh những vướng mắc, bất cập gì không? Để hiểu hơn về vấn đề này, em xin lựa chọn đề tài
số 12: Phân tích về giới hạn xét xử của Tòa án theo quy định của Bộ luật Tố
tụng hình sự 2015, để làm bài tiểu luận Mặc dù đã cố gắng, song sự hiểu biết
của bản thân còn nhiều hạn chế, nên khó tránh khỏi thiếu sót Em rất mong nhận được sự góp ý từ thầy cô để bài tiểu luận được hoàn thiện hơn
Em xin cảm ơn!
Trang 4GIẢI QUYẾT VẤN ĐỀ
1 MỘT SỐ VẤN ĐỀ CHUNG VỀ GIỚI HẠN XÉT XỬ
1.1 Khái niệm
Thực tế hiện nay, các văn bản pháp luật tố tụng hình sự không đưa ra một khái niệm cụ thể về “giới hạn xét xử” cũng như “phạm vi xét xử” Theo từ điển
Tiếng Việt, “giới hạn là phạm vi, mức độ nhất định không thể hoặc không được
phép vượt qua” còn “phạm vi là khoảng được giới hạn của một hoạt động hay một cái gì”1 Như vậy, về bản chất thì hai khái niệm này có nội hàm tương đương nhau
Theo giáo trình Luật Tố tụng Hình sự Việt Nam của Khoa luật – Đại học
Quốc gia Hà Nội (2019), “Giới hạn của việc xét xử là thẩm quyền xét xử của Tòa
án trong phạm vi và hành vi theo tội danh mà VKS truy tố được ghi trong bản cáo trạng”2 Giáo trình Trường Đại học Kiểm sát Hà Nội (2016) thì định nghĩa “Giới
hạn của việc xét xử là phạm vi xét xử của Tòa án về người và tội phạm được BLTTHS 2015 quy định mà Tòa án không được vượt quá”3 Từ những phân tích trên cũng như căn cứ theo Điều 298 BLTTHS 2015 và các nguồn tài liệu tham
khảo có thể hiểu một cách khái quát: Giới hạn xét xử (sơ thẩm vụ án hình sự) là
phạm vi mà Tòa án cấp sơ thẩm được xem xét và giải quyết vụ án theo tội danh
mà VKS đã truy tố và Tòa án đã quyết định đưa ra xét xử
1.2 Cơ sở
Pháp luật tố tụng hình sự quy định về giới hạn xét xử xuất phát từ chức năng, nhiệm vụ của VKS, Tòa án trong tố tụng hình sự; Các nguyên tắc cơ bản của tố tụng hình sự; Mối quan hệ giữa các giai đoạn trong tố tụng hình sự; Mối quan hệ giữa phạm vi xét xử sơ thẩm và giới hạn kháng cáo, kháng nghị phúc thẩm; Vai
1 Nguyễn Văn Hùng, Thái Xuân Đệ (2014), Từ điển Tiếng Việt, Nxb Văn hóa – Thông tin, TP Hồ Chí Minh
2 Đại học Quốc gia Hà Nội – Khoa Luật (2019), Giáo trình Luật Tố tụng hình sự Việt Nam, Nxb Đại học Quốc
gia Hà Nội, Hà Nội
3 Trường Đại học Kiểm sát Hà Nội (2016), Giáo trình Luật Tố tụng hình sự Việt Nam, Nxb Chính trị Quốc gia Sự
Thật, Hà Nội
Trang 5trò của Tòa án trong quá trình tranh tụng tại phiên tòa hình sự sơ thẩm; Nhu cầu cần giải quyết những ý kiến chưa thống nhất giữa VKS và Tòa án; Và hơn hết là nhằm bảo đảm quyền và lợi ích hợp pháp của bị can, bị cáo
1.3 Ý nghĩa
Đặt ra giới hạn xét xử chính là để bảo đảm bị cáo và người bào chữa chủ động chuẩn bị chứng cứ, tranh tụng với quan điểm buộc tội của VKS; đồng thời, phù hợp với yêu cầu phân định rành mạch các chức năng của tố tụng hình sự là buộc tội, bào chữa, xét xử Bởi lẽ, quy định về giới hạn xét xử giúp định hướng cho hoạt động tố tụng, đặc biệt là với Tòa án trong việc thực hiện các quyền hạn của mình đối với việc xem xét và quyết định các vấn đề cụ thể về vụ án Từ đó các chủ thể tham gia vào quá trình xét xử vụ án hình sự có điều kiện thực hiện các chức năng, nhiệm vụ của mình một cách triệt để, hiệu quả hơn, ngoài ra còn giúp hạn chế và ngăn ngừa được sự tùy tiện cũng như lạm quyền của Tòa án và VKS trong việc giải quyết vụ án, đảm bảo cho bản án, quyết định của Tòa án phù hợp với sự thật khách quan, chính xác và đúng pháp luật
2 PHÂN TÍCH QUY ĐỊNH CỦA BỘ LUẬT TỐ TỤNG HÌNH SỰ NĂM 2015
VỀ GIỚI HẠN XÉT XỬ
Quy định này không phải là mới mà đã được kế thừa từ những văn bản pháp luật trước đó, như tại Thông tư số 16-TATC ngày 27/9/1974 của Tòa án nhân dân tối cao hướng dẫn về trình tự xét xử sơ thẩm vụ án hình sự; Điều 170 BLTTHS 1988; Điều 193 BLTTHS 2003 Tuy nhiên đến BLTTHS 2015 đã có những sửa đổi, bổ sung quan trọng theo hướng hoàn thiện hơn Điều 298 BLTTHS 2015 quy
định về giới hạn của việc xét xử như sau: “Điều 298 Giới hạn của việc xét xử
1 Tòa án xét xử những bị cáo và những hành vi theo tội danh mà VKS truy tố và Tòa án đã quyết định đưa vụ án ra xét xử
2 Tòa án có thể xét xử bị cáo theo khoản khác với khoản mà VKS đã truy tố trong cùng một điều luật hoặc về một tội khác bằng hoặc nhẹ hơn tội mà VKS đã truy
tố
Trang 63 Trường hợp xét thấy cần xét xử bị cáo về tội danh nặng hơn tội danh VKS truy
tố thì Tòa án trả hồ sơ để VKS truy tố lại và thông báo rõ lý do cho bị cáo hoặc người đại diện của bị cáo, người bào chữa biết; nếu VKS vẫn giữ tội danh đã truy
tố thì Tòa án có quyền xét xử bị cáo về tội danh nặng hơn đó”
Mặc dù đã có những sửa đổi, bổ sung, song tính tới thời điểm hiện tại BLTTHS 2015 đã thi hành được hơn 05 năm nên những quy định tại Điều luật trên cũng bộc lộ không ít những bất cập, vướng mắc Do đó, song song với việc phân tích, em cũng sẽ trình cả những hạn chế, bất cập còn tồn tại trong Điều 298
Thứ nhất, quy định Tòa án xét xử những bị cáo và những hành vi theo tội danh
mà Viện Kiểm sát truy tố và Tòa án đã quyết định đưa vụ án ra xét xử
Quy định này có sự kế thừa từ BLTTHS 2003, tuy nhiên nếu đem so sánh dễ dàng nhận thấy, nhà làm luật đã có sự thay đổi Khoản 1 Điều 196 BLTTHS 2003
quy định: “1 Tòa án chỉ xét xử những bị cáo và những hành vi theo tội danh mà
VKS truy tố và Tòa án đã quyết định đưa ra xét xử” Như vậy, Bộ luật mới đã bỏ
đi từ “chỉ” và giữ nguyên vế còn lại Có thể thấy việc thay đổi này là hoàn toàn
hợp lý, bởi lẽ quy định về giới hạn xét xử như trên đã buộc tòa án phải xét xử theo tội danh mà VKS đã truy tố là trái với nguyên tắc đã được Hiến pháp quy
định: “Khi xét xử, thẩm phán và hội thẩm độc lập và chỉ tuân theo pháp luật”
Hơn nữa, quyết định của Tòa án phải căn cứ vào kết quả xét hỏi, tranh tụng và những chứng cứ đã được kiểm tra, đánh giá tại phiên tòa Như vậy, nếu pháp luật chỉ cho phép Tòa án xét xử những bị cáo và những hành vi theo tội danh mà VKS truy tố thì vô hình trung pháp luật không công nhận kết quả xét hỏi, tranh tụng và những chứng cứ đã được kiểm tra, đánh giá tại phiên tòa và đồng nghĩa với việc không bảo đảm nguyên tắc tranh tụng mà Hiến pháp đã quy định
Với quy định mới, nguyên tắc này cho phép tòa án xét xử độc lập mà không
bị lệ thuộc, chi phối theo ý kiến hoặc quyết định của bất kì cơ quan, tổ chức, cá nhân nào Bởi lẽ, để quyết định hình phạt, tòa án không chỉ đơn thuần căn cứ vào tội danh đã nêu trong bản cáo trạng mà còn qua việc xét xử, tòa án phải trực tiếp
Trang 7xem xét đánh giá toàn bộ các chứng cứ của vụ án để xác định cho đúng tội danh
mà bị cáo đã thực hiện Nguyên tắc này nếu suy rộng có thể hiểu, những người không bị VKS truy tố và những người đã bị VKS truy tố nhưng đã có quyết định rút quyết định truy tố theo Điều 285 BLTTHS 2015 hoặc đã có quyết định đình chỉ hoặc tạm đình chỉ vụ án theo Điều 281 và Điều 282 BLTTHS 2015 thì sẽ không thuộc giới hạn xét xử của Tòa án
Tuy nhiên, xoay quanh điều khoản trên cũng còn nhiều ý kiến khác nhau, ý kiến thứ nhất cho rằng, việc quy định này phải được hiểu theo hướng là một quy
định mang tính chất “đóng”, có nghĩa là, Tòa án vẫn chỉ xét xử những bị cáo và
những hành vi theo tội danh mà VKS truy tố Ý kiến khác lại cho rằng, nội dung Khoản 1 Điều 298 BLTTHS 2015 được sửa đổi cơ bản so với quy định tại Khoản
1 Điều 196 BLTTHS 2003 khi đã bỏ từ “chỉ” như đã phân tích ở trên Vì vậy,
theo ý kiến này, việc xác định giới hạn xét xử của Tòa án cấp sơ thẩm theo quy định này có tính linh hoạt Cá nhân em nghiêng về ý kiến thứ hai vì chắc hẳn sự thay đổi của nhà làm luật bao giờ cũng có dụng ý và ở đây là muốn mở rộng phạm
vi xét xử của Tòa án cũng như đảm bảo nguyên tắc độc lập xét xử Tuy nhiên điều cần phải bàn ở chỗ nếu xét về Khoản 2 Điều 298 thì đang không có sự thống nhất trong kỹ thuật lập pháp Vấn đề này xin phép được đề cập sau khi đã phân tích xong Khoản 2 điều này tại Mục 2.2 của bài tiểu luận
Thứ hai, quy định Tòa án có thể xét xử bị cáo theo khoản khác với khoản mà VKS đã truy tố trong cùng một điều luật hoặc về một tội khác bằng hoặc nhẹ hơn tội mà VKS đã truy tố
Quy định trên đã định hướng và tạo sự chủ động cho Tòa án trước thực tế diễn biến vụ án trong quá trình xét xử tại phiên tòa nhưng không vượt quá giới hạn hành vi và tội danh truy tố của VKS
Thứ nhất, Tòa án có thể xét xử bị cáo theo khoản khác với khoản mà VKS
đã truy tố trong cùng một điều luật mà VKS đã truy tố Chúng ta đều biết, BLHS tại phần các tội phạm, trong cùng một điều luật quy định về tội phạm có thể có
Trang 8nhiều khoản, mỗi khoản lại có sự khác nhau về tính chất, mức độ của tội phạm và tương ứng với nó là loại, mức độ hình phạt được ấn định Vì vậy, với quy định trên, có thể hiểu, khi xét xử về hành vi và tội danh mà VKS truy tố, Tòa án không nhất thiết phải xét xử đúng khoản VKS đã truy tố, mà có thể xét xử theo khoản nặng hơn hoặc theo khoản nhẹ hơn trong cùng một điều luật Ví dụ, trong bản cáo trạng, VKS truy tố bị cáo về tội cướp giật tài sản theo Khoản 2 Điều 171 BLHS
2015, tuy nhiên, với quy định trên Tòa án được quyền xét xử bị cáo theo khoản 1 hoặc theo khoản 3 hoặc cũng có thể theo khoản 4 Điều 171 của BLHS 2015
Thứ hai, Tòa án có thể xét xử bị cáo về một tội khác bằng hoặc nhẹ hơn tội
mà VKS đã truy tố Quy định này thể hiện tính nhân đạo và nguyên tắc không làm xấu thêm tình trạng của người bị cáo buộc phạm tội trong Luật Nhân quyền quốc
tế mà Việt Nam là thành viên4 Quy định này có thể hiểu, với những hành vi mà VKS truy tố , Tòa án có thể xét xử bị cáo về một tội khác bằng hoặc nhẹ hơn tội
mà VKS đã truy tố Trong đó, hai tội phạm bằng nhau là hai tội có hành phạt chính
và hình phạt bổ sung như nhau Tội phạm khác nhẹ hơn là tội phạm có hình phạt chính và hình phạt bổ sung nhẹ hơn so với tội phạm được đưa ra so sánh Để xác định được, trước tiên cần xem xét hình phạt chính đối với hai tội phạm, nếu tội nào điều luật có quy định loại hình phạt nặng nhất nặng hơn thì tội đó nặng hơn + Trong trường hợp điều luật quy định loại hình phạt nặng nhất đối với cả hai tội là tù có thời hạn (không quy định hình phạt tử hình, hình phạt tù chung thân) thì tội nào, điều luật quy định mức hình phạt tù cao nhất đối với tội ấy cao hơn là tội đó nặng hơn
+ Trong trường hợp điều luật quy định loại hình phạt nặng nhất đối với cả hai tội đều tử hình hoặc đều tù chung thân hoặc đều tù có thời hạn và mức phạt tù cao nhất đối với cả hai tội như nhau, thì tội nào điều luật quy định mức hình phạt
tù khởi điểm cao hơn là tội đó nặng hơn
4 Đại học Quốc gia Hà Nội – Khoa Luật (2019), Giáo trình Luật Tố tụng hình sự Việt Nam, Nxb Đại học Quốc
gia Hà Nội, Hà Nội
Trang 9+ Trong trường hợp điều luật quy định loại hình phạt nặng nhất đối với cả hai tội đều là tù có thời hạn và mức phạt tù khởi điểm, mức hình phạt tù cao nhất như nhau, thì tội nào điều luật còn quy định loại hình phạt chính khác nhẹ hơn (cải tạo không giam giữ, phạt tiền, cảnh cáo) thì tội đó nhẹ hơn Nếu điều luật cùng quy định các loại hình phạt như nhau, nhưng có mức cao nhất, mức khởi điểm khác nhau thì việc xác định tội nặng hơn, tội nhẹ hơn được thực hiện tương
tự như đã trình bày trên đây
+ Trong trường hợp điều luật quy định các loại hình phạt chính đối với cả hai tội như nhau, thì tội nào điều luật còn quy định hình phạt bổ sung là tội đó nặng hơn Nếu điều luật cùng quy định hình phạt bổ sung như nhau, nhưng đối với tội này thì hình phạt bổ sung là bắt buộc, còn đối với tội khác hình phạt bổ sung có thể áp dụng, thì tội nào điều luật quy định hình phạt bổ sung bắt buộc là tội đó nặng hơn5
Trong trường hợp, VKS truy tố bị cáo về nhiều tội với nhiều hành vi phạm tội, thì giới hạn của việc xét xử đối với từng tội được thực hiện tương tự như trên Tòa án cũng có thể xét xử bị cáo về tội nhẹ nhất trong các tội mà VKS truy tố hoặc về tội nhẹ hơn tất cả các tội mà VKS truy tố đối với tất cả các hành vi phạm tội đó Ví dụ: VKS truy tố bị cáo A về năm hành vi phạm tội, trong đó hai hành
vi phạm tội bị truy tố về tội cướp tài sản, còn ba hành vi phạm tội bị truy tố về tội cướp giật tài sản, thì Tòa án có thể xét xử bị cáo A về tội cướp giật tài sản đối với
cả năm hành vi phạm tội mà VKS truy tố (cướp giật tài sản nhẹ hơn tội cướp tài sản) Tòa án cũng có thể xét xử bị cáo A về tội cưỡng đoạt tài sản với cả năm hành
vi phạm tội mà VKS truy tố (tội cưỡng đoạt tài sản nhẹ hơn tội cướp giật tài sản
và tội cướp tài sản)
Qua việc phân tích Mục 2.1 và 2.2 cộng với sự tìm hiểu từ các nguồn tài liệu,
cá nhân cho rằng Khoản 1 Điều 298 và Khoản 2 Điều 298 đang có sự chưa thống nhất, mặc dù đều nằm trong cùng một điều luật Khoản 1 Điều 298 quy định Tòa
5 Hội đồng thẩm phán TANDTC (2004), Nghị quyết số 04/2004/NQ-HĐTP Hướng dẫn thi hành một số quy định
trong Phần thứ ba “Xét xử sơ thẩm” của BLTTHS 2003
Trang 10án xét xử những bị cáo và hành những hành vi theo tội danh mà VKS đã truy tố Còn khoản 2 lại cho phép Tòa án xét xử về tội danh nhẹ hơn VKS truy tố là chưa thống nhất Bởi lẽ, theo lý luận Tòa án đóng vai trò là trọng tài chỉ xem xét những hành vi mà VKS đã truy tố Trên cơ sở hồ sơ, chứng cứ, quá trình xét hỏi và tranh luận thì mới định tội danh cho hành vi đó Như vậy mới đảm bảo được sự độc lập của Tòa án trong xét xử Đối chiếu với quy định tại Khoản 2 Điều 298 BLTTHS
2015 dễ dàng nhận thấy, nhà lập pháp đã sử dụng cụm từ “có thể” trong nội dung quy định: “Toà án có thể xét xử…” Như vậy, nội dung quy định tại khoản 2 mang
tính tùy nghi, tạo cơ chế linh hoạt cho Tòa án quyền chủ động xác định phạm vi của việc xét xử Chính việc quy định không rõ ràng trong khoản 1 và không thống nhất trong cách quy định giữa khoản 1 và khoản 2 của điều luật này đã tạo ra nhiều cách hiểu khác nhau về thẩm quyền của Tòa án trong việc xác định giới hạn xét
xử6 (như đã nói tại Mục 2.1) Đây chính là điểm hạn chế trong kỹ thuật lập pháp
Thứ ba, quy định trường hợp xét thấy cần xét xử bị cáo về tội danh nặng hơn tội danh Viện Kiểm sát truy tố thì Tòa án trả hồ sơ để Viện Kiểm sát truy tố lại
và thông báo rõ lý do cho bị cáo hoặc người đại diện của bị cáo, người bào chữa biết; nếu Viện Kiểm sát vẫn giữ tội danh đã truy tố thì Tòa án có quyền xét xử bị cáo về tội danh nặng hơn đó
Đây là quy định mới so với BLTTHS 2003 Sự thay đổi này thể hiện định hướng nâng cao vai trò của Tòa án trong xét xử và thực hiện quyền tư pháp tại Hiến pháp 2013 Theo quy định này trong trường hợp Tòa án phát hiện bị cáo phạm tội danh nặng hơn thì Tòa án không được quyền xét xử mà phải ra quyết định trả hồ sơ đề nghị VKS theo tội danh nặng hơn tội danh đã truy tố Nếu VKS không đồng ý thay đổi theo tội danh nặng hơn và vẫn giữ nguyên quyết định truy
tố thì Tòa án vẫn quyết định xét xử bị cáo theo tội danh nặng hơn Quy định mới này là cần thiết và quan trọng, trong quy định của BLTTHS 2003 không quy định
6 Hoàng Ngọc Anh (2021), Một số hạn chế, vướng mắc trong thực tiễn áp dụng Điều 298 Bộ luật tố tụng hình sự
năm 2015 về giới hạn xét xử và hướng hoàn thiện, Trang điện tử Trường Đào tạo, bồi dưỡng nghiệp vụ Kiểm sát
tại TP Hồ Chí Minh, https://tkshcm.edu.vn/mot-so-han-che-vuong-mac-trong-thuc-tien-ap-dung-dieu-298-bo-luat-to-tung-hinh-su-nam-2015-ve-gioi-han-xet-xu-va-huong-hoan-thien/, truy cập ngày 10/10/2021