1. Trang chủ
  2. » Luận Văn - Báo Cáo

Nghiên cứu tác Động của Đa dạng hóa thu nhập Đến rủi ro và hiệu quả kinh doanh của các ngân hàng thương mại việt nam

94 0 0
Tài liệu đã được kiểm tra trùng lặp

Đang tải... (xem toàn văn)

Tài liệu hạn chế xem trước, để xem đầy đủ mời bạn chọn Tải xuống

THÔNG TIN TÀI LIỆU

Thông tin cơ bản

Tiêu đề Nghiên Cứu Tác Động Của Đa Dạng Hóa Thu Nhập Đến Rủi Ro Và Hiệu Quả Kinh Doanh Của Các Ngân Hàng Thương Mại Việt Nam
Tác giả Hoàng Thu Trà
Người hướng dẫn PGS. TS. Phạm Thị Hoàng Anh
Trường học Học viện Ngân hàng
Chuyên ngành Ngân hàng
Thể loại khóa luận tốt nghiệp
Năm xuất bản 2023
Thành phố Hà Nội
Định dạng
Số trang 94
Dung lượng 1,7 MB

Cấu trúc

  • CHƯƠNG 1: CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ TÁC ĐỘNG CỦA ĐA DẠNG HÓA THU NHẬP ĐẾN RỦI RO VÀ HIỆU QUẢ KINH DOANH CỦA NHTM (16)
    • 1.1. Cơ sở lý luận về đa dạng hóa thu nhập của NHTM (16)
      • 1.1.1. Khái niệm đa dạng hóa thu nhập của NHTM (0)
      • 1.1.2. Phương pháp đo lường đa dạng hóa thu nhập của NHTM (17)
    • 1.2. Cơ sở lý luận về hiệu quả kinh doanh của NHTM (20)
      • 1.2.1. Khái niệm hiệu quả kinh doanh của NHTM (0)
      • 1.2.2. Phương pháp đo lường hiệu quả kinh doanh của NHTM (0)
    • 1.3. Cơ sở lý luận về rủi ro của NHTM (24)
      • 1.3.1. Khái niệm rủi ro của NHTM (0)
      • 1.3.2. Phương pháp đo lường rủi ro của NHTM (25)
    • 1.4. Cơ sở lý luận về tác động của đa dạng hóa thu nhập đến rủi ro và hiệu quả kinh doanh của NHTM (26)
      • 1.4.1. Lý thuyết danh mục đầu tư hiện đại (Modern Portfolio Theory) (0)
      • 1.4.2. Lý thuyết tính kinh tế theo quy mô (Economies of scale) và lý thuyết tính (0)
      • 1.4.3. Lý thuyết về quan điểm phát triển dựa vào nguồn lực (Resource-based view) (0)
      • 1.4.4. Lý thuyết tín hiệu (Signaling Theory) (0)
  • CHƯƠNG 2: CƠ SỞ DỮ LIỆU VÀ PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU (31)
    • 2.1. Cơ sở dữ liệu và xử lý dữ liệu (31)
    • 2.2. Mô hình nghiên cứu (31)
      • 2.2.1. Mô hình nghiên cứu tác động đa dạng hóa thu nhập đến hiệu quả kinh (0)
      • 2.2.2. Mô hình nghiên cứu tác động đa dạng hóa thu nhập đến rủi ro của NHTM (0)
  • CHƯƠNG 3: KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU VỀ TÁC ĐỘNG CỦA ĐA DẠNG HÓA (47)
    • 3.1. Thống kê mô tả dữ liệu nghiên cứu (47)
    • 3.2. Kiểm định lựa chọn mô hình (48)
    • 3.3. Kết quả nghiên cứu (52)
      • 3.3.1. Kết quả nghiên cứu tác động của đa dạng hóa thu nhập đến hiệu quả kinh (0)
      • 3.3.2. Kết quả nghiên cứu tác động của đa dạng hóa thu nhập đến rủi ro của (0)
  • CHƯƠNG 4: KHUYỂN NGHỊ CHÍNH SÁCH (63)
    • 4.1. Đa dạng hóa thu nhập, phát triển nguồn thu nhập ngoài lãi (63)
    • 4.2. Nâng cao hiệu quả chuyển dịch cơ cấu cho vay, kiểm soát khoản vay (64)
    • 4.3. Tuân thủ và nâng cao năng lực quản trị rủi ro (65)
    • 4.4. Tăng cường năng lực quản lý điều hành (66)
    • 4.5. Mở rộng quy mô, tăng vốn tự có (67)
    • 4.6. Nâng cao năng lực phân tích dự báo các chỉ số kinh tế vĩ mô (67)

Nội dung

DANH MỤC VIẾT TẮT NHTMCP Ngân hàng thương mại cổ phần ROA Tỷ suất sinh lời trên tổng tài sản ROE Tỷ suất sinh lời trên vốn chủ sở hữu NNII Thu nhập thuần ngoài lãi

CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ TÁC ĐỘNG CỦA ĐA DẠNG HÓA THU NHẬP ĐẾN RỦI RO VÀ HIỆU QUẢ KINH DOANH CỦA NHTM

Cơ sở lý luận về đa dạng hóa thu nhập của NHTM

1.1.1 Khái niệm đa dạng hóa thu nhập của NHTM

Theo lý thuyết danh mục đầu tư, đa dạng hóa là chiến lược quan trọng giúp tối ưu hóa lợi nhuận và giảm thiểu rủi ro Bằng cách phân bổ tài sản đầu tư vào nhiều cơ hội khác nhau, nhà đầu tư có thể bù đắp sự biến động của một nguồn thu nhập bằng sự ổn định hoặc tăng trưởng của các nguồn thu nhập khác Điều này không chỉ tăng cường khả năng chịu đựng rủi ro mà còn giúp đạt được lợi nhuận ổn định trong dài hạn (Markowitz, 1952).

Theo Ansoff (1957), đa dạng hóa liên quan đến việc thay đổi đặc điểm dòng sản phẩm hoặc thị trường, khác với đa dạng hóa đại diện cho sự thay đổi trong cơ cấu sản phẩm trong chiến lược xâm nhập thị trường, phát triển thị trường hay phát triển sản phẩm Đối với các doanh nghiệp, đa dạng hóa là một chiến lược mở rộng lĩnh vực kinh doanh chính vào các thị trường sản phẩm khác, cho phép hoạt động đồng thời trong nhiều lĩnh vực Trong ngành ngân hàng, đa dạng hóa thể hiện qua việc các ngân hàng mở rộng kinh doanh vào các dịch vụ khác nhau nhằm tăng thu nhập từ lãi và thu nhập truyền thống.

Theo Rose và Hudgins (2008), việc đa dạng hóa thu nhập của ngân hàng được thể hiện qua việc tăng tỷ lệ thu nhập ngoài lãi trong tổng thu nhập bằng cách mở rộng các sản phẩm tài chính và dịch vụ Quá trình này đánh dấu sự chuyển đổi của ngân hàng từ hoạt động tín dụng sang phi tín dụng, tập trung vào lĩnh vực kinh doanh thương mại như đầu tư chứng khoán, kinh doanh ngoại hối và góp vốn mua cổ phần Ngoài ra, ngân hàng cũng chú trọng vào các hoạt động tạo phí và hoa hồng như thu phí dịch vụ và bán bảo hiểm Nếu ngân hàng chỉ dựa vào thu nhập từ lãi, doanh thu sẽ bị ảnh hưởng nghiêm trọng bởi biến động thị trường và thay đổi môi trường kinh doanh, do đó, đa dạng hóa thu nhập cũng là một cách giảm thiểu rủi ro và tạo ra nguồn thu nhập ổn định cho ngân hàng.

Đa dạng hóa thu nhập của ngân hàng là quá trình phân chia tỷ trọng giữa nguồn thu nhập lãi và phi lãi, nhằm giảm phụ thuộc vào hoạt động cho vay và lãi suất Các ngân hàng mở rộng sang các lĩnh vực phi truyền thống như dịch vụ chuyển tiền trong và ngoài nước, thanh toán xuất nhập khẩu, môi giới đầu tư chứng khoán, và phân phối sản phẩm Bancassurance thông qua liên kết với các công ty bảo hiểm Ngoài ra, việc phát triển các sản phẩm và dịch vụ tài chính cho thị trường ngoại hối, kinh doanh ngoại tệ, và cung cấp dịch vụ cho khách hàng quốc tế cũng là một phần của chiến lược này Với sự phát triển nhanh chóng của công nghệ thông tin, ngân hàng còn cung cấp dịch vụ trực tuyến như Internet banking và Mobile banking, góp phần vào việc đa dạng hóa thu nhập hiệu quả.

Đáp ứng và thỏa mãn nhu cầu khách hàng là yếu tố quan trọng giúp mở rộng thị trường, tăng cường sức cạnh tranh và ổn định thu nhập, đồng thời bảo vệ ngân hàng khỏi các rủi ro kinh tế.

1.1.2 Phương pháp đo lường đa dạng hóa thu nhập của NHTM

Theo Asif và Akhter (2019), 29% các nghiên cứu về đa dạng hóa thu nhập sử dụng chỉ số Herfindahl Hirschman (HHI), trong khi 44% nghiên cứu dựa vào tỷ lệ thu nhập ngoài lãi để đánh giá mức độ đa dạng hóa thu nhập tại các ngân hàng Nghiên cứu này không chỉ tập trung vào hai thước đo chính mà còn xem xét các thành phần của thu nhập ngoài lãi cùng với tỷ lệ thu nhập ngoài lãi, nhằm đo lường mức độ đa dạng hóa thu nhập thông qua tỷ lệ thu nhập thuần ngoài lãi.

Ngân hàng có thể phân loại thu nhập theo nhiều tiêu chí khác nhau, nhưng cách phổ biến và đơn giản nhất là chia thành hai loại: thu nhập từ lãi và thu nhập ngoài lãi Trong đó, thu nhập ngoài lãi được chia thành bốn thành phần chính: thu nhập ủy thác từ các hoạt động ủy thác vận hành, phí dịch vụ liên quan đến tài khoản tiền gửi, thu nhập đầu tư kinh doanh và phí cũng như thu nhập khác như phí cam kết cho vay và phí từ két.

Theo Meslier và cộng sự (2014), thu nhập của ngân hàng có thể được phân loại thành ba loại chính: hoa hồng, tiền thuê đất và các khoản thu nhập an toàn Bên cạnh đó, Elsas và các cộng sự (2010) đề xuất một phân loại khác, chia thu nhập ngân hàng thành bốn loại: thu nhập từ lãi, thu nhập từ phí dịch vụ, thu nhập từ kinh doanh và đầu tư, cùng với thu nhập khác.

Theo Nghị định 93/2017/NĐ-CP và Thông tư 16/2018/TT-BTC, thu nhập ngân hàng bao gồm các khoản thu từ hoạt động kinh doanh ngân hàng như thu nhập lãi, thu lãi tiền gửi, thu lãi cho vay, thu lãi từ đầu tư chứng khoán nợ, thu từ bảo lãnh, thu lãi cho thuê tài chính, thu lãi từ mua bán nợ, và các khoản thu khác liên quan đến tín dụng Ngoài ra, thu nhập còn đến từ hoạt động dịch vụ, kinh doanh ngoại hối và vàng, kinh doanh chứng khoán, góp vốn, chuyển nhượng phần vốn góp, cổ phần, cùng với các hoạt động khác.

Trên báo cáo tài chính của các ngân hàng thương mại Việt Nam, thu nhập từ các hoạt động dịch vụ, đầu tư, mua bán chứng khoán, kinh doanh ngoại hối, góp vốn, mua cổ phần và các hoạt động khác được trình bày trên cơ sở thuần Do đó, thu nhập ngoài lãi thuần của các ngân hàng thương mại Việt Nam trong khóa luận này được tính toán dựa trên các nguồn thu nhập đa dạng từ các hoạt động kinh doanh khác nhau.

Thu nhập thuần ngoài lãi được tính bằng tổng thu nhập thuần từ các hoạt động dịch vụ, hoạt động kinh doanh ngoại hối, mua bán chứng khoán kinh doanh, mua bán chứng khoán đầu tư, các hoạt động khác và thu nhập từ góp vốn, mua cổ phần.

Tỷ lệ thu nhập thuần ngoài lãi trên tổng thu nhập thuần của ngân hàng là một chỉ số quan trọng để đo lường sự đa dạng hóa thu nhập của ngân hàng, được áp dụng trong nhiều nghiên cứu như của Stiroh (2004b), Lepetit và cộng sự (2008), Lee và cộng sự (2014), Batten và Võ Xuân Vinh (2016) Tỷ lệ này được tính toán dựa trên công thức cụ thể để phản ánh hiệu quả hoạt động tài chính của ngân hàng.

𝑇ô ̉𝑛𝑔 𝑡ℎ𝑢 𝑛ℎâ ̣𝑝 𝑡ℎ𝑢â𝑛 Với giả thiết các khoản thu nhập thuần đều dương thì tỷ lệ NON có giá trị từ

Giá trị của NON càng cao thì khả năng đa dạng hóa thu nhập càng lớn Để đo lường mức độ đa dạng hóa thu nhập, chỉ số Herfindahl Hirschman là một công cụ hữu ích.

Chỉ số Herfindahl Hirschman (HHI) là một công cụ quan trọng để đo lường mức độ tập trung của thị trường HHI thường được sử dụng để đánh giá khả năng cạnh tranh trong các ngành công nghiệp, giúp xác định mức độ độc quyền và sự phân bố thị phần giữa các doanh nghiệp.

Chỉ số HHI (Chỉ số Herfindahl-Hirschman) đo lường mức độ tập trung của các nguồn thu nhập trong ngân hàng, được tính bằng tổng các bình phương thị phần của từng công ty cạnh tranh trong thị trường Trong lĩnh vực ngân hàng, các thành phần thu nhập chủ yếu bao gồm lãi và phi lãi Do đó, mức độ tập trung thu nhập trong ngân hàng có thể được xác định thông qua công thức tính HHI, phản ánh sự cạnh tranh và khả năng kiểm soát thị trường của các ngân hàng.

INT: Tỷ lệ thu nhập lãi thuần trên tổng thu nhập thuần

NON: Tỷ lệ thu nhập thuần ngoài lãi trên tổng thu nhập thuần

Cơ sở lý luận về hiệu quả kinh doanh của NHTM

1.2.1 Khái niệm hiệu quả kinh doanh của NHTM

Hiệu quả, theo Theo Farrell (1957), là một khái niệm quan trọng để đánh giá khả năng tối đa hóa doanh thu đầu ra trong điều kiện chi phí đầu vào đã được xác định Hiệu quả bao gồm hai thành phần chính: hiệu quả phân bổ và hiệu quả kỹ thuật Hiệu quả phân bổ liên quan đến việc doanh nghiệp sử dụng các yếu tố đầu vào để sản xuất đầu ra với chi phí thấp nhất Trong khi đó, hiệu quả kỹ thuật phản ánh khả năng của doanh nghiệp trong việc đạt được đầu ra từ đầu vào đã định sẵn hoặc sử dụng đầu vào tối thiểu để đạt được mức đầu ra mong muốn.

Hiệu quả trong doanh nghiệp được hiểu là kết quả đầu ra của các hoạt động, và kết quả này có thể được định lượng (Neely và các cộng sự, 1995).

Theo Kablan (2010), hiệu quả được định nghĩa là khả năng tạo ra kết quả với nỗ lực tối thiểu hóa nguồn lực đầu vào Điều này có nghĩa là nó đo lường mức độ mà một đơn vị sản xuất đạt gần đến đường biên.

Giới hạn khả năng sản xuất là tập hợp các điểm tối ưu kết hợp đầu vào để tạo ra đầu ra Trong đó, đường biên giới hạn khả năng sản xuất thể hiện mối quan hệ giữa các yếu tố sản xuất và sản lượng tối đa có thể đạt được.

Hiệu quả trong kinh tế học được định nghĩa là mối quan hệ giữa đầu vào các yếu tố khan hiếm và số lượng hàng hóa, dịch vụ Đồng thời, khái niệm này cũng được sử dụng như một tiêu chuẩn để đánh giá mức độ phân bổ nguồn lực của thị trường.

Nguyễn Việt Hùng (2008) nhấn mạnh rằng hiệu quả kinh doanh của ngân hàng phản ánh khả năng sử dụng các nguồn lực để đạt được mục tiêu Điều này thể hiện mối quan hệ giữa đầu ra và đầu vào, nhằm đạt được hiệu quả đề ra Đồng thời, ngân hàng cần giảm thiểu chi phí để nâng cao khả năng cạnh tranh so với các định chế tài chính khác.

Hiệu quả kinh doanh của ngân hàng được đánh giá khác nhau tùy thuộc vào từng nhà nghiên cứu và dữ liệu thu thập Trong nghiên cứu này, hiệu quả kinh doanh được xác định là mức độ thành công trong việc tối ưu hóa các nguồn lực đầu vào như lao động, kỹ thuật và vốn, nhằm đạt được kết quả đầu ra tối đa như doanh thu và lợi nhuận Mục tiêu của ngân hàng thương mại là tối đa hóa lợi nhuận trong giới hạn rủi ro có thể chấp nhận.

1.2.2 Phương pháp đo lường hiệu quả kinh doanh của NHTM

Phương pháp đo lường hiệu quả kinh doanh qua các chỉ số tài chính là cách đánh giá phổ biến và dễ hiểu đối với hoạt động của ngân hàng thương mại truyền thống Các cổ đông và nhà đầu tư tiềm năng thường dựa vào các chỉ số tài chính quan trọng để so sánh và đánh giá hiệu quả hoạt động của ngân hàng (Grazyna, 2008) Trong bối cảnh dữ liệu thị trường hạn chế, phương pháp này trở thành lựa chọn phổ biến trong các nghiên cứu về hiệu quả kinh doanh ngân hàng Nhóm chỉ tiêu phản ánh khả năng sinh lời đóng vai trò quan trọng trong việc đánh giá này.

Chỉ số ROA (Return on Assets) được tính bằng lợi nhuận sau thuế chia cho tổng tài sản, phản ánh hiệu quả sử dụng tài sản và là một tiêu chí quan trọng để đo lường hiệu quả kinh doanh của ngân hàng thương mại ROA không chỉ giúp đánh giá khả năng sinh lợi của các doanh nghiệp mà còn thể hiện hiệu quả quản lý trong hoạt động của ngân hàng.

Chỉ số ROA (Return on Assets) phản ánh quá trình chuyển tài sản thành thu nhập ròng của ngân hàng, cho thấy khả năng sinh lợi từ tài sản của ngân hàng ROA cao cho thấy ngân hàng hoạt động hiệu quả với cơ cấu tài sản hợp lý và khả năng sử dụng tài sản linh hoạt trước những biến động kinh tế Ngược lại, ROA thấp có thể do chính sách đầu tư hoặc cho vay không hợp lý, dẫn đến giảm thu nhập, hoặc do chi phí hoạt động cao.

ROE (Return on Equity) được tính bằng lợi nhuận sau thuế chia cho tổng vốn chủ sở hữu, là chỉ tiêu quan trọng để đo lường khả năng sinh lời của ngân hàng và doanh nghiệp Chỉ số này cho biết mỗi đồng vốn cổ đông đầu tư mang lại bao nhiêu đồng lợi nhuận, từ đó thể hiện tỷ lệ thu nhập cho cổ đông ROE phản ánh mức thu nhập mà cổ đông nhận được từ việc đầu tư vào ngân hàng, đồng thời cho thấy hiệu quả sử dụng vốn chủ sở hữu trong phân tích kinh doanh.

(iii) NIM = (Thu từ lãi – Chi phí lãi)/ Tổng tài sản hoặc NIM = (Thu từ lãi – Chi phí lãi)/ Tổng tài sản sinh lời

NIM phản ánh hiệu quả hoạt động huy động và cho vay của ngân hàng thông qua việc kiểm soát tài sản sinh lời và tìm kiếm nguồn vốn với chi phí thấp Tỷ lệ này cho thấy khả năng của nhà quản lý và nhân viên ngân hàng trong việc duy trì sự tăng trưởng nguồn thu từ lãi so với chi phí trả lãi Nhóm chỉ tiêu này cũng phản ánh mối quan hệ giữa thu nhập và chi phí trong hoạt động ngân hàng.

Tổng chi phí hoạt động/ Tổng thu từ hoạt động: phản ánh khả năng bù đắp chi phí trong hoạt động ngân hàng

Thu nhập hoạt động/ Số nhân viên làm việc quy đổi theo toàn thời gian: phản ánh hiệu quả sử dụng lao động của ngân hàng

Tổng thu hoạt động và tổng tài sản phản ánh hiệu quả sử dụng tài sản của ngân hàng Hệ số này cao cho thấy ngân hàng đã phân bổ danh mục tài sản một cách hợp lý, từ đó nâng cao lợi nhuận.

Tuy phương pháp này dễ hiểu và dễ thực hiện nhưng khi đánh giá hiệu quả

Kinh doanh qua các chỉ số tài chính yêu cầu phân tích mối quan hệ giữa các biến số, phản ánh các khía cạnh khác nhau trong hoạt động của ngân hàng thương mại (NHTM) Để đánh giá toàn diện hiệu quả kinh doanh của NHTM, cần sử dụng nhiều chỉ tiêu tài chính khác nhau.

Phương pháp đo lường hiệu quả kinh doanh bằng phân tích hiệu quả biên

Phân tích hiệu quả biên là phương pháp xác định chỉ số hiệu quả tương đối bằng cách so sánh khoảng cách giữa các đơn vị với một đơn vị thực hiện hoạt động tốt nhất trên đường biên.

Cơ sở lý luận về rủi ro của NHTM

1.3.1 Khái niệm rủi ro của NHTM

Hoạt động kinh doanh của ngân hàng thương mại luôn tiềm ẩn những rủi ro, được định nghĩa là khả năng xảy ra những sự cố không mong đợi có thể dẫn đến tổn thất tài sản và giảm lợi nhuận thực tế so với dự kiến (Phan Thị Thu Hà, 2013) Rủi ro có thể được đo bằng sai biệt giữa lợi nhuận thực tế và lợi nhuận kỳ vọng (Phan Thị Hương và Cao Tấn Huy, 2023) Từ góc độ tổng quát, rủi ro doanh nghiệp được phân chia thành hai loại chính: rủi ro hệ thống (systematic risk) và rủi ro phi hệ thống (unsystematic risk) (Peirson và các cộng sự, 2014).

Rủi ro trong hoạt động ngân hàng được phân loại theo nguồn gốc thua lỗ, biến động thị trường hoặc vỡ nợ Các rủi ro tiềm tàng trong các ngân hàng thương mại bao gồm rủi ro có nguồn gốc nội tại và rủi ro hệ thống do tác động của thị trường ngân hàng Có ba nhóm nguyên nhân dẫn đến rủi ro ngân hàng: năng lực quản trị ngân hàng, khách hàng và nguyên nhân khách quan liên quan đến môi trường kinh doanh Hầu hết các lý thuyết hoặc nghiên cứu về quản trị rủi ro ngân hàng đều đề cập đến các loại rủi ro chính trong hoạt động ngân hàng như rủi ro tín dụng, rủi ro thanh khoản, rủi ro thị trường, rủi ro lãi suất và rủi ro phá sản.

Theo Thông tư 13/2018/TT-NHNN, rủi ro được định nghĩa là khả năng xảy ra tổn thất tài chính hoặc phi tài chính, dẫn đến giảm thu nhập và vốn tự có, từ đó làm giảm tỷ lệ an toàn vốn hoặc hạn chế khả năng đạt được mục tiêu kinh doanh của ngân hàng thương mại hoặc chi nhánh ngân hàng nước ngoài.

Theo Vũ Hữu Thành và các cộng sự (2018), trong doanh nghiệp có nhiều loại rủi ro, trong đó rủi ro phá sản là loại được quan tâm nhất vì ảnh hưởng đến nhiều bên liên quan như cổ đông, đối tác và người cho vay Rose (1998) nhấn mạnh rằng các ngân hàng cần chú trọng đến khả năng tồn tại lâu dài, hay còn gọi là rủi ro phá sản Khi quy mô nợ khó đòi quá lớn hoặc giá trị thị trường của phần lớn khoản mục đầu tư chứng khoán giảm, vốn chủ sở hữu sẽ bị ảnh hưởng nghiêm trọng.

Nhiều ngân hàng đang trải qua sự giảm sút đáng kể, và nếu các nhà đầu tư cùng người gửi tiền nhận thấy tín hiệu này và quyết định rút tiền, ngân hàng có thể buộc phải tuyên bố mất khả năng thanh toán và đóng cửa.

Rủi ro của ngân hàng thương mại (NHTM) là những sự kiện ngoài mong muốn có thể gây thiệt hại về tài chính và phi tài chính, như uy tín và danh tiếng Khi rủi ro xảy ra liên tiếp và ở mức độ lớn, nó có thể tạo ra hiệu ứng domino, ảnh hưởng đến các thị trường khác như tín dụng, chứng khoán, bất động sản và thương mại Điều này có thể dẫn đến sự phá sản của ngân hàng và làm suy yếu sự ổn định của hệ thống NHTM.

1.3.2 Phương pháp đo lường rủi ro của NHTM

Việc đo lường rủi ro của doanh nghiệp phụ thuộc vào cách thức phân loại rủi ro, tức là cách nhìn nhận rủi ro sẽ xác định phương pháp tính toán tương ứng (Vũ Hữu Thành và các cộng sự, 2018) Một trong những phương pháp phổ biến để đo lường rủi ro là sử dụng chỉ số Z (Z-score).

Rủi ro trong hoạt động kinh doanh ngân hàng có nhiều cấp độ, và rủi ro mất khả năng thanh khoản có thể dẫn đến nguy cơ phá sản Chỉ số Z-score, được phát triển bởi Boyd và Graham (1986) dựa trên đề xuất của Roy (1952), nhằm dự báo nguy cơ phá sản của các tổ chức tài chính và ngân hàng Càng thấp Z-score, mức độ rủi ro của ngân hàng càng cao.

ROA: tỷ suất sinh lời trên tổng tài sản

ETA: tỷ lệ vốn chủ sở hữu trên tổng tài sản σROA: độ lệch chuẩn của ROA

Chỉ số Z-score là thước đo sự ổn định của ngân hàng và xác suất phá sản, kết hợp các phương pháp đo lường về lợi nhuận, đòn bẩy và biến động Khi lợi nhuận được giả định theo phân phối chuẩn, Z-score trở thành nghịch đảo của xác suất vỡ nợ Cụ thể, Z-score cho thấy độ lệch chuẩn khi tỷ suất sinh lời trên tài sản của ngân hàng giảm xuống dưới giá trị kỳ vọng trước khi vốn chủ sở hữu bị ảnh hưởng.

Chỉ số Z-score là một công cụ quan trọng để đo lường sự ổn định của ngân hàng và rủi ro khánh kiệt Theo nghiên cứu của Roy (1952) và Boyd cùng các cộng sự (1993), Z-score cao hơn cho thấy ngân hàng có khả năng thanh toán tốt hơn và rủi ro khánh kiệt thấp hơn Nhiều nghiên cứu đã áp dụng phương pháp này, như Sanya và Wolfe (2011), Meslier và cộng sự (2014), Stiroh và Rumble (2006), cùng với việc đo lường thông qua độ lệch chuẩn của ROA và ROE.

Chỉ số độ lệch chuẩn của lợi nhuận trên vốn chủ sở hữu σ(ROE) và lợi nhuận trên tổng tài sản σ(ROA) đã được Goyeau và Tarazi (1992) đề xuất như một phương pháp thay thế cho chỉ số Z-score, cho phép phân tích xác suất trong các phân phối không bình thường Độ lệch chuẩn đo lường sự biến thiên trong mẫu nghiên cứu, với độ lệch chuẩn cao cho thấy rủi ro lớn hơn, trong khi độ lệch chuẩn thấp chỉ ra rủi ro thấp hơn do phân phối xác suất hẹp hơn Vì vậy, σ(ROA) và σ(ROE) thường được sử dụng làm biến đại diện cho rủi ro trong nhiều nghiên cứu, như Stiroh & Rumble (2006) và Lepetit cùng cộng sự (2008).

Cơ sở lý luận về tác động của đa dạng hóa thu nhập đến rủi ro và hiệu quả kinh doanh của NHTM

1.4.1 Lý thuyết danh mục đầu tư hiện đại (Modern Portfolio Theory)

Lý thuyết danh mục đầu tư hiện đại, được phát triển bởi Harry Markowitz vào năm 1952, nhấn mạnh tầm quan trọng của việc đa dạng hóa danh mục so với việc lựa chọn các chứng khoán riêng lẻ Ý tưởng "đừng bỏ tất cả trứng vào một cái giỏ" thể hiện quan điểm rằng các nhà đầu tư nên tránh rủi ro và tìm kiếm mức lợi nhuận dự kiến nhất định Theo lý thuyết này, các nhà đầu tư sẽ luôn ưu tiên các danh mục có ít rủi ro hơn.

Lý thuyết danh mục đầu tư hiện đại giới thiệu khái niệm "đường biên hiệu quả", là tập hợp các danh mục đầu tư tối ưu mang lại lợi nhuận kỳ vọng cao nhất cho một mức rủi ro xác định, hoặc rủi ro thấp nhất cho một mức lợi nhuận kỳ vọng nhất định Đường biên hiệu quả giúp đánh giá các danh mục đầu tư dựa trên thang đo lợi nhuận và rủi ro.

Tỷ suất sinh lợi phức hợp hàng năm (CAGR) thường được sử dụng để đo lường lợi nhuận của một khoản đầu tư, trong khi độ lệch chuẩn hàng năm thể hiện mức độ rủi ro liên quan Mối quan hệ giữa tỷ suất sinh lợi và rủi ro được thể hiện qua trục tung và trục hoành, giúp nhà đầu tư đánh giá hiệu quả và an toàn của các quyết định đầu tư.

Một thành phần quan trọng của lý thuyết danh mục đầu tư hiện đại là sự đa dạng hóa Markowitz cho rằng các nhà đầu tư có thể đạt được kết quả tốt nhất bằng cách chọn một sự kết hợp tối ưu giữa hai loại tài sản dựa trên mức chấp nhận rủi ro của họ Lý thuyết này đề xuất rằng các nhà đầu tư có thể tối thiểu hóa rủi ro thị trường cho một mức tỷ suất sinh lợi kỳ vọng bằng việc xây dựng một danh mục đầu tư đã được đa dạng hóa.

Lý thuyết đa dạng hóa danh mục đầu tư do Markowitz và Jame phát triển, được trích dẫn trong bài viết của Levy & Sarnat (1970), nhấn mạnh rằng thành công của việc đa dạng hóa không chỉ phụ thuộc vào mức độ đa dạng hóa mà còn vào mối tương quan giữa các khoản đầu tư trong danh mục.

1.4.2 Lý thuyết tính kinh tế theo quy mô (Economies of scale) và lý thuyết tính kinh tế theo phạm vi (Economies of scope)

Lý thuyết về tính kinh tế theo quy mô và lý thuyết về tính kinh tế theo phạm vi đều nhấn mạnh lợi ích chi phí mà doanh nghiệp có thể đạt được thông qua việc tối ưu hóa quy trình sản xuất, từ đó nâng cao hiệu quả hoạt động.

Tính kinh tế theo quy mô xảy ra khi sản xuất một loại sản phẩm duy nhất với khối lượng lớn, dẫn đến việc giảm chi phí bình quân cho mỗi sản phẩm khi sản lượng tăng Theo Wang và Lin (2021), ngân hàng có thể chuyển sang mô hình khác và tận dụng lợi thế theo quy mô để giảm chi phí liên quan đến các hoạt động ngoài lãi, gia tăng thu nhập từ phí bảo hiểm Kết hợp với cải tiến từ kỹ thuật đến quản trị, ngân hàng sẽ có nhiều nguồn thu khác nhau, giúp tăng cường sự ổn định và giảm rủi ro từ các hoạt động cụ thể Tuy nhiên, theo Stiroh (2004) và Stiroh cùng Rumble (2006), thu nhập ngoài lãi và thu nhập từ lãi có mối tương quan cao, kết quả từ việc bán chéo các sản phẩm khác nhau.

Theo nghiên cứu của Hoque và các cộng sự (2013), các ngân hàng không thuộc sở hữu nhà nước, mặc dù có lợi thế về quy mô, vẫn phải đối mặt với những rủi ro nhất định.

Tính kinh tế theo phạm vi xảy ra khi sản xuất nhiều loại sản phẩm cùng lúc, thay vì chỉ một loại duy nhất, giúp tăng hiệu quả sản xuất Việc sản xuất một loạt sản phẩm hoặc dịch vụ cùng nhau thường hiệu quả hơn so với sản xuất ít loại hơn hoặc từng loại riêng lẻ Đặc biệt, tính phi kinh tế theo phạm vi có thể xuất hiện khi doanh nghiệp thực hiện đa dạng hóa theo chiều dọc hoặc ở ngành kinh doanh không liên quan Hơn nữa, nếu doanh nghiệp đa dạng hóa quá mức hoặc kinh doanh ở nhiều lĩnh vực khác nhau, dù có liên quan hay không đến lĩnh vực chính, sẽ làm khó khăn trong việc chia sẻ các nguồn lực chung và giảm hiệu quả hoạt động.

1.4.3 Lý thuyết về quan điểm phát triển dựa vào nguồn lực (Resource-based view)

Wernerfelt (1984) và Barney (1991) đã phát triển lý thuyết về quan điểm phát triển dựa vào nguồn lực, dựa trên lý thuyết tăng trưởng doanh nghiệp của Penrose (1959) Lý thuyết này kết hợp các quan điểm truyền thống về chiến lược liên quan đến năng lực đặc biệt của doanh nghiệp và sự không đồng nhất của năng lực giữa các doanh nghiệp Từ đó, nó tập trung sự chú ý của người quản lý vào các nguồn lực nội bộ để xác định tài sản, khả năng và năng lực có tiềm năng đạt được lợi thế cạnh tranh bền vững và tạo ra giá trị gia tăng.

Lý thuyết cho rằng khi doanh nghiệp có nguồn lực dư thừa và dòng tiền tự do lớn, họ sẽ tiến hành đa dạng hóa Tuy nhiên, những tài sản đặc thù trong nguồn lực sẵn có có thể tạo ra lợi thế cạnh tranh bền vững nhưng cũng là trở ngại trong việc chuyển đổi sang lĩnh vực kinh doanh mới Do đó, giá trị của việc đa dạng hóa phụ thuộc vào sự phù hợp giữa nguồn lực hiện có và lĩnh vực mà doanh nghiệp thâm nhập Lý luận này khuyến nghị doanh nghiệp nên đa dạng hóa vào các ngành có liên quan để dễ dàng chuyển đổi nguồn lực, trong khi việc đa dạng hóa vào các ngành không liên quan có thể gặp khó khăn.

22 sẽ khiến cho việc chuyển đổi trở nên khó khăn hơn và kéo theo hiệu quả sẽ giảm

(Wan và các cộng sự, 2010)

1.4.4 Lý thuyết tín hiệu (Signaling Theory)

Lý thuyết về thị trường với thông tin bất cân xứng lần đầu tiên xuất hiện vào những năm 1970 Thông tin bất cân xứng xảy ra khi người mua và người bán nắm giữ các thông tin khác nhau, dẫn đến việc một bên có lợi thế hơn trong giao dịch Tình trạng này thường diễn ra trước khi có giao dịch nhằm che đậy thông tin quan trọng.

Thông tin bất cân xứng dẫn đến những lựa chọn bất lợi và rủi ro đạo đức, khiến người bán thiếu động lực sản xuất hàng hóa chất lượng tốt Kết quả là thị trường chỉ còn lại những sản phẩm kém chất lượng, gây thiệt hại cho cả người mua và người bán, đồng thời làm giảm hiệu quả thị trường Thông tin bất cân xứng cũng tạo ra rủi ro lớn cho ngân hàng, đặc biệt trong hoạt động đầu tư, làm giảm sự ổn định của các ngân hàng thương mại Điều này dẫn đến quyết định đầu tư không chính xác và gia tăng các rủi ro như rủi ro thị trường và rủi ro lãi suất khi thị trường trở nên kém hiệu quả.

Nghiên cứu của Spence (1973) chỉ ra rằng cơ chế phát tín hiệu có thể khắc phục hiện tượng bất cân xứng thông tin Bên có nhiều thông tin hơn có khả năng phát tín hiệu một cách trung thực và tin cậy đến bên có ít thông tin Theo đó, nghiên cứu này cho rằng việc tăng tỷ lệ vốn chủ sở hữu cho thấy các nhà quản trị ngân hàng đang phát tín hiệu về triển vọng lợi nhuận tốt trong tương lai.

Trong chương này, tác giả hệ thống hóa kiến thức lý luận cơ bản về đa dạng hóa thu nhập, rủi ro và hiệu quả kinh doanh của ngân hàng thương mại (NHTM) bằng cách cung cấp khái niệm và phương pháp đo lường cho từng phạm trù Nghiên cứu áp dụng phương pháp đo lường mức độ đa dạng hóa thu nhập qua chỉ số Herfindahl Hirschman, hiệu quả kinh doanh dựa vào các chỉ số tài chính như ROA và ROE, cùng chỉ số Z-score để đánh giá rủi ro của NHTM Bên cạnh đó, các lý thuyết trong kinh tế học cũng được đề cập nhằm giải thích mối quan hệ giữa các đối tượng nghiên cứu sau này.

CƠ SỞ DỮ LIỆU VÀ PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU

Cơ sở dữ liệu và xử lý dữ liệu

Mẫu nghiên cứu bao gồm 286 quan sát được thu thập từ dữ liệu thứ cấp, cụ thể là báo cáo tài chính của 26 ngân hàng thương mại đã được kiểm toán trong giai đoạn 2012 - 2022 Dữ liệu này được công bố trên trang web của các ngân hàng, cổng dữ liệu tài chính và công cụ đầu tư chứng khoán (VietstockFinance) Ngoài ra, trang dữ liệu của Ngân hàng Thế giới (World Bank) cũng được sử dụng để thu thập các dữ liệu kinh tế vĩ mô như tỷ lệ lạm phát và tốc độ tăng trưởng GDP Sau khi thu thập, các dữ liệu này được tổng hợp dưới dạng bảng và tính toán các chỉ số cần thiết trên phần mềm Microsoft Excel trước khi đưa vào phần mềm Stata 14.

Trước khi chạy các mô hình hồi quy, tác giả thực hiện thống kê mô tả và kiểm định hiện tượng tự tương quan Nghiên cứu áp dụng các phương pháp ước lượng cho dữ liệu bảng, bao gồm mô hình hồi quy Pooled OLS, mô hình REM và mô hình FEM Để chọn giữa Pooled OLS và REM, tác giả sử dụng kiểm định nhân tử Lagrange, trong khi kiểm định Hausman được áp dụng để so sánh FEM và REM Sau khi kiểm định các khuyết tật của mô hình, tác giả sử dụng ước lượng Driscoll - Kraay để khắc phục và đạt được kết quả cuối cùng Các phân tích thảo luận sẽ được thực hiện dựa trên kết quả này.

Mô hình nghiên cứu

2.2.1 Mô hình nghiên cứu tác động đa dạng hóa thu nhập đến hiệu quả kinh doanh của NHTM

Dựa trên các nghiên cứu trước đây của Lee và cộng sự (2014) cùng với Chiorazzo và cộng sự (2008), mô hình tổng quát đã được xây dựng như sau:

Yit = β0 + β1DIVit + β2CIRit + β3SIZEit + β4GTAit + β5ETAit + β6DTAit + β7LTAit + β8GDPit + β9INFit + β10COVIDit*DIVit + εit

Trong đó: β0, …, βj: Các tham số được ước tính i: là ngân hàng quan sát thứ i (i = 1, 2, 3,…, 26) t: là năm quan sát thứ t (t = 1, 2, 3, , 11) εit: Sai số

Y: Biến phụ thuộc là hiệu quả kinh doanh của ngân hàng

Ký hiệu Công thức Dấu kỳ vọng Tài liệu tham khảo

ROA Lợi nhuận sau thuế/ Tổng tài sản Lee và cộng sự (2014), Meslier và cộng sự (2014), Võ Xuân Vinh và Trần Thị Phương Mai (2015)

ROE Lợi nhuận sau thuế/ Tổng vốn chủ sở hữu

CIR Chi phí hoạt động/Tổng thu nhập hoạt động -

Hồ Thị Hồng Minh và Nguyễn Thị Cành (2015), Lê Long Hậu và Phạm Xuân Quỳnh (2017)

SIZE ln(Tổng tài sản) + Sanya và Wolfe (2011),

GTA Tốc độ tăng tổng tài sản + Mercieca và các cộng sự (2007),

Chiorazzo và các cộng sự (2008)

ETA Vốn chủ sở hữu/Tổng tài sản + Stiroh và Rumble (2006),

Chiorazzo và các cộng sự (2008),

Ký hiệu Công thức Dấu kỳ vọng Tài liệu tham khảo

Sanya và Wolfe (2011), Lê Long Hậu và Phạm Xuân Quỳnh (2017)

DTA Tiền gửi khách hàng/

Tổng tài sản + Lee và cộng sự (2014), Lê Long

Hậu và Phạm Xuân Quỳnh (2017)

LTA Cho vay khách hàng/Tổng tài sản + Chiorazzo và các cộng sự (2008),

GDP Tốc độ tăng trưởng kinh tế hằng năm +

Sanya và Wolfe (2011), Lê Long Hậu và Phạm Xuân Quỳnh (2017),

Hồ Thị Hồng Minh và Nguyễn Thị Cành (2015)

INF Tỷ lệ lạm phát hằng năm +

Lê Long Hậu và Phạm Xuân Quỳnh (2016), Hồ Thị Hồng Minh và Nguyễn Thị Cành (2015)

* DIV Đa dạng hóa thu nhập trong thời kỳ COVID + Nghiên cứu tự bổ sung

Bảng 2.1: Mô tả các biến trong mô hình nghiên cứu tác động đa dạng hóa thu nhập đến hiệu quả kinh doanh của NHTM

(Nguồn: Tự tổng hợp của tác giả) a) Biến phụ thuộc

Trong nghiên cứu này, nhằm đo lường hiệu quả kinh doanh của ngân hàng, tác giả sử dụng hai biến phụ thuộc là ROA và ROE

Tỷ suất sinh lời trên tổng tài sản (ROA)

ROA (Return on Assets) được tính bằng lợi nhuận sau thuế chia cho tổng tài sản, và nó được sử dụng để đánh giá khả năng chuyển đổi 1 đồng tài sản thành bao nhiêu đồng thu nhập Chỉ số ROA phản ánh khả năng quản lý tài sản và năng lực tận dụng nguồn lực của doanh nghiệp.

Ngân hàng cần tận dụng tất cả các nguồn lực hiện có để tối đa hóa mức sinh lời Tỷ lệ ROA thấp cho thấy ngân hàng chưa sử dụng hiệu quả các nguồn lực của mình Bên cạnh đó, các chính sách và chiến lược kinh doanh của ngân hàng, cũng như những yếu tố vi mô bên ngoài, đều có ảnh hưởng đáng kể đến tỷ lệ ROA.

Tỷ suất sinh lời trên vốn chủ sở hữu (ROE)

ROE (Lợi nhuận sau thuế/Vốn chủ sở hữu) là chỉ số đánh giá khả năng sinh lời của ngân hàng từ mỗi đồng vốn chủ sở hữu, cho thấy lợi nhuận mà cổ đông nhận được từ khoản đầu tư Trong nhiều nghiên cứu trước đây, ROE được sử dụng như biến phụ thuộc và bị ảnh hưởng bởi nhiều yếu tố cả bên trong và bên ngoài ngân hàng Đặc biệt, sự đa dạng hóa thu nhập (DIV) và ảnh hưởng của đại dịch COVID-19 đến việc đa dạng hóa thu nhập (COVID*DIV) cũng là những yếu tố quan trọng cần xem xét.

NII: Thu nhập lãi thuần

NNII: Thu nhập ngoài lãi thuần

NOI, hay Tổng thu nhập thuần từ hoạt động kinh doanh, được tính bằng công thức NOI = NII + NNII Theo lý thuyết danh mục đầu tư hiện đại, việc ngân hàng đa dạng hóa các nguồn thu nhập không chỉ nâng cao lợi nhuận mà còn giảm thiểu rủi ro Đa dạng hóa nguồn doanh thu giúp củng cố an toàn tài chính, như đã được chứng minh trong các nghiên cứu của Meslier và cộng sự (2014), Lee và cộng sự (2014), cũng như Võ Xuân Vinh và Trần Thị Phương Mai.

Theo nghiên cứu của Lê Văn Hậu và Phạm Xuân Quỳnh (2016), việc các ngân hàng thương mại đa dạng hóa thu nhập một cách mạnh mẽ sẽ dẫn đến hiệu quả kinh doanh tốt hơn Điều này được xác nhận bởi các nghiên cứu trước đó của DeYoung và Rice (2004), Stiroh (2004a, 2004b) và Mercieca cùng các cộng sự (2007).

Ngoài ra, nhằm đánh giá tác động của đa dạng hóa thu nhập thời kì COVID-

19 khóa luận đưa vào biến COVID*DIV, với biến giả COVID nhận giá trị 1 vào các năm có dịch (cụ thể từ 2020-2022) và 0 với các năm còn lại

Đa dạng hóa thu nhập là một chiến lược hiệu quả giúp ngân hàng tăng lợi nhuận Bằng cách tận dụng các nguồn lực sẵn có, ngân hàng có thể mở rộng dịch vụ và sản phẩm, từ đó tạo ra nhiều nguồn doanh thu mới Việc này không chỉ cải thiện tình hình tài chính mà còn nâng cao khả năng cạnh tranh trên thị trường.

Đa dạng hóa thu nhập là một yếu tố quan trọng giúp tăng cường hiệu quả kinh doanh của các ngân hàng thương mại (NHTM) Nghiên cứu cho thấy rằng sự đa dạng hóa thu nhập có mối quan hệ tích cực với các chỉ số hiệu quả như ROA và ROE Đặc biệt, trong bối cảnh đại dịch COVID-19, sự đa dạng hóa thu nhập vẫn tiếp tục phát huy tác dụng tích cực, khi mối liên hệ giữa biến CODIV*DIV và các chỉ số ROA, ROE vẫn duy trì chiều hướng tích cực.

Tỷ lệ chi phí hoạt động (CIR)

CIR là tỷ lệ giữa chi phí hoạt động và doanh thu hoạt động Khi CIR cao, điều này cho thấy chi phí hoạt động chiếm phần lớn doanh thu, dẫn đến việc giảm biên lợi nhuận và hiệu quả kinh doanh Nghiên cứu của Hồ Thị Hồng Minh và Nguyễn Thị Cảnh đã chỉ ra mối liên hệ này.

Nghiên cứu của Lê Long Hậu và Phạm Xuân Quỳnh (2017) đã chỉ ra rằng mối quan hệ giữa tỷ lệ chi phí hoạt động và hiệu quả kinh doanh là ngược chiều, tức là khi chi phí hoạt động tăng cao, hiệu quả kinh doanh sẽ giảm Do đó, giả thuyết khóa luận đề xuất rằng hiệu quả quản lý điều hành hoạt động ngân hàng càng cao thì hiệu quả kinh doanh cũng sẽ tăng theo.

Tỷ lệ chi phí hoạt động tác động ngược chiều đến hiệu quả kinh doanh của NHTM (biến CIR ngược chiều với ROA và ROE)

Quy mô của ngân hàng (SIZE)

Quy mô ngân hàng ảnh hưởng đến hiệu quả hoạt động, với những ngân hàng lớn có khả năng mở rộng mạng lưới phân phối và đa dạng hóa sản phẩm, từ đó nâng cao hiệu suất Những ngân hàng này có thể đầu tư vào công nghệ tiên tiến, quản lý rủi ro tốt hơn và giảm biến động lợi nhuận khi thâm nhập thị trường Tuy nhiên, một số ý kiến cho rằng quy mô không phải là yếu tố quyết định chính, vì sự gia tăng quy mô có thể dẫn đến chi phí cao hơn và quản lý không theo kịp, làm giảm hiệu quả kinh doanh.

29 viết đưa ra giả thuyết:

Quy mô của ngân hàng tác động cùng chiều đến hiệu quả kinh doanh của NHTM (biến SIZE cùng chiều với ROA và ROE)

Tốc độ tăng trưởng của ngân hàng (GTA)

Biến này không chỉ phản ánh tốc độ tăng trưởng tài sản mà còn ảnh hưởng đến chiến lược của ngân hàng Chiorazzo và cộng sự (2008) chứng minh rằng ngân hàng có tốc độ phát triển tài sản cao thường ưu tiên chiến lược tăng trưởng nhanh, dẫn đến rủi ro cao và đầu tư vào nguồn thu nhập phi truyền thống Ngược lại, Mercieca và cộng sự (2007) cho rằng việc mở rộng tài sản, đặc biệt ở ngân hàng nhỏ, có thể cải thiện khả năng thanh toán nợ và nâng cao năng lực kinh doanh tổng thể Khóa luận đưa ra giả thuyết rằng

Tốc độ tăng trưởng của ngân hàng có mối quan hệ cùng chiều với hiệu quả kinh doanh của NHTM (biến GTA cùng chiều với ROA và ROE)

Tỷ lệ an toàn vốn (ETA)

Mức độ đòn bẩy tài chính của ngân hàng là một yếu tố quan trọng trong nghiên cứu về đa dạng hóa thu nhập, thường được biểu thị bằng biến này (Sanya và Wolfe, 2011; Chiorazzo và cộng sự, 2008; Stiroh, 2004b) Tỷ lệ này có mối tương quan thuận chiều với hiệu quả hoạt động ngân hàng, như đã chỉ ra trong nghiên cứu của Stiroh và Rumble (2006) cũng như Lê Long Hậu và Phạm Xuân Quỳnh (2017) Do đó, tác giả đưa ra giả thuyết rằng

Tỷ lệ an toàn vốn có tác động thuận chiều với hiệu quả kinh doanh của NHTM (biến ETA cùng chiều với ROA và ROE)

Tỷ lệ tiền gửi của khách hàng (DTA)

Phần lớn nguồn vốn tài trợ cho các hoạt động của NHTM đến từ tiền gửi của

Nguồn vốn từ khách hàng là yếu tố ổn định và dễ chi trả, góp phần nâng cao hiệu quả kinh doanh của ngân hàng Nghiên cứu của Lee và cộng sự (2014) cho thấy có mối tương quan tích cực giữa hiệu quả kinh doanh và tỷ lệ tiền gửi, trái ngược với quan điểm của Lê Long Hậu và Phạm Xuân Quỳnh (2017) Khi ngân hàng huy động vốn từ tiền gửi khách hàng, chi phí vốn sẽ thấp hơn so với các nguồn khác, từ đó tiết kiệm chi phí trả lãi và gia tăng lợi nhuận Do đó, giả thuyết được đưa ra là ngân hàng càng thu hút nhiều tiền gửi thì hiệu quả kinh doanh càng cao.

Tỷ lệ tiền gửi của khách hàng có tác động thuận chiều với hiệu quả kinh doanh của NHTM (biến DTA cùng chiều với ROA và ROE)

Tỷ lệ cho vay (LTA)

Chính sách tín dụng có tác động quan trọng đến hiệu quả kinh doanh, thường được phân tích qua tỷ lệ cho vay Theo DeYoung và Roland (2001), doanh thu từ hoạt động cho vay của ngân hàng thường ổn định do chi phí chuyển đổi và thông tin Chiorazzo và cộng sự (2008) chỉ ra rằng tỷ lệ cho vay trên tổng tài sản tăng lên sẽ cải thiện hiệu quả ngành ngân hàng, phù hợp với phát hiện của Sanya và Wolfe (2011) Mặc dù các khoản cho vay là nguồn thu chính và dự đoán có tác động tích cực đến khả năng sinh lời, chi phí của ngân hàng, bao gồm chi phí thẩm định và theo dõi khoản vay, sẽ tăng nếu tỷ lệ cho vay trên tổng tài sản cao Điều này được chứng minh trong nghiên cứu của Staikouras (2004).

Tỷ lệ cho vay khách hàng tác động thuận chiều với hiệu quả kinh doanh của NHTM (biến LTA cùng chiều với ROA và ROE)

Tăng trưởng kinh tế (GDP)

KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU VỀ TÁC ĐỘNG CỦA ĐA DẠNG HÓA

Thống kê mô tả dữ liệu nghiên cứu

Variable | Obs Mean Std Dev Min Max

Bảng 3.1: Thống kê mô tả các biến trong mô hình nghiên cứu

(Nguồn: Số liệu tổng hợp được xử lý qua phần mềm Stata)

Bảng 3.1 chỉ ra rằng giá trị ROE trung bình của các ngân hàng thương mại (NHTM) Việt Nam trong mẫu nghiên cứu là 10.29% Ngân hàng có ROE cao nhất đạt 30.33%, trong khi ngân hàng có ROE thấp nhất gần như bằng 0%, cho thấy sự chênh lệch lớn giữa các ngân hàng Tương tự, giá trị ROA trung bình là 0.91%, với ngân hàng có ROA cao nhất đạt 3.58% và ngân hàng có ROA thấp nhất cũng gần 0%.

Về rủi ro, giá trị trung bình của RISK là 3.1238, trong khi ngân hàng có RISK lớn nhất đạt 6.5467 và ngân hàng có RISK thấp nhất là 1.8398 Độ lệch chuẩn của hệ số này là 0.6996, cho thấy không có sự chênh lệch lớn trong mức độ rủi ro giữa các ngân hàng trong suốt 11 năm.

Chỉ số đa dạng hóa thu nhập (DIV) trong nghiên cứu cho thấy giá trị trung bình là 0.3106, với mức cao nhất đạt 0.4999, phản ánh mức độ đa dạng hóa của các ngân hàng thương mại (NHTM) Việt Nam ở ngưỡng trung bình Điều này cho thấy không có sự khác biệt đáng kể về mức độ đa dạng hóa theo thời gian, với độ lệch chuẩn là 0.1226 Biến COVID*DIV có giá trị thấp nhất là 0, tương ứng với những năm không có COVID-19, và giá trị cao nhất đạt 0.4814.

Dựa trên các biến được liệt kê trong bảng 3.1, độ lệch chuẩn của các biến không chênh lệch quá lớn, cho phép sử dụng dữ liệu này để thực hiện hồi quy.

Kiểm định lựa chọn mô hình

Kiểm định hiện tượng tự tương quan và đa cộng tuyến

Tương quan giữa các biến trong mô hình được trình bày ở bảng 3.2 và 3.3 cho thấy hầu hết các biến độc lập có hệ số tương quan dưới 0,8 Tuy nhiên, biến SIZE và INF có mối liên hệ khá chặt chẽ với hệ số tương quan trên 0,8 Theo Gujarati (2004), hiện tượng đa cộng tuyến quá cao có thể xảy ra nếu hệ số tương quan giữa các biến độc lập trong mô hình lớn hơn 0,8, dẫn đến sai lệch kết quả nghiên cứu.

| DIV CIR SIZE GTA ETA DTA LTA GDP INF COVIDDIV -+ - DIV | 1.0000

Bảng 3.2 trình bày ma trận tương quan giữa các biến độc lập trong mô hình nghiên cứu tác động của đa dạng hóa thu nhập đến hiệu quả kinh doanh của ngân hàng thương mại (NHTM) Việc phân tích mối quan hệ này giúp xác định ảnh hưởng của các yếu tố đa dạng hóa đến hiệu quả hoạt động của NHTM, từ đó đưa ra những chiến lược phù hợp nhằm nâng cao hiệu suất kinh doanh.

(Nguồn: Số liệu tổng hợp được xử lý qua phần mềm Stata)

| DIV NIM SIZE GTA ETA DTA LTD GDP INF COVIDDIV -+ - DIV | 1.0000

Bảng 3.3 trình bày ma trận tương quan giữa các biến độc lập trong mô hình nghiên cứu về tác động của việc đa dạng hóa thu nhập đến rủi ro của ngân hàng thương mại (NHTM) Mô hình này giúp xác định mối liên hệ giữa các yếu tố và ảnh hưởng của chúng đến sự ổn định tài chính của NHTM Việc phân tích tương quan này là cần thiết để hiểu rõ hơn về cách thức đa dạng hóa thu nhập có thể giảm thiểu rủi ro trong hoạt động ngân hàng.

Để kiểm tra hiện tượng đa cộng tuyến trong nghiên cứu, chúng tôi sử dụng hệ số nhân tử phóng đại (VIF) được xử lý qua phần mềm Stata.

Hệ số phương sai (VIF) trong nghiên cứu tác động của đa dạng hóa thu nhập đến hiệu quả kinh doanh của ngân hàng thương mại (NHTM) có giá trị trung bình là 1.99, trong khi mô hình nghiên cứu tác động đến rủi ro của NHTM có hệ số VIF là 2.09 Không có biến nào có hệ số VIF lớn hơn 10, cho thấy hiện tượng đa cộng tuyến không xuất hiện trong mô hình.

Variable | VIF 1/VIF -+ - SIZE | 4.67 0.214176 INF | 3.88 0.257574 ETA | 1.90 0.525347 COVIDDIV | 1.82 0.549131 NIM | 1.77 0.566122 LTD | 1.54 0.650423 DTA | 1.42 0.706633 GDP | 1.41 0.708808 DIV | 1.37 0.729933 GTA | 1.17 0.852817 -+ - Mean VIF | 2.09

Bảng 3.4 và Bảng 3.5: Kiểm định đa cộng tuyến

(Nguồn: Số liệu tổng hợp được xử lý qua phần mềm Stata)

Kiểm định lựa chọn mô hình phù hợp cho các biến phụ thuộc

Để chọn mô hình phù hợp với dữ liệu nghiên cứu, tác giả áp dụng phương pháp nhân tử Lagrange của Breusch và Pagan (1980) với cặp giả thuyết.

Ho : Mô hình Pooled OLS phù hợp hơn

H1 : Mô hình REM phù hợp hơn

Kết quả kiểm định cho thấy các biến đều có giá trị p-value = 0.0000, nhỏ hơn mức ý nghĩa 5%, dẫn đến việc bác bỏ giả thuyết H0 và chấp nhận H1 Do đó, mô hình REM phù hợp hơn so với mô hình Pooled OLS, như được trình bày chi tiết trong bảng sau.

Chi bình phương (λ 2 ) p - value Kết luận

Mô hình REM phù hợp hơn mô hình Pooled OLS

Bảng 3.6: Kiểm định lựa chọn mô hình Pooled OLS và mô hình REM

(Nguồn: Số liệu tổng hợp được xử lý qua phần mềm Stata)

Tác giả sử dụng kiểm định Hausman (1978) với các giả thuyết để lựa chọn giữa mô hình REM và FEM:

Ho : Không có tương quan giữa các biến giải thích và thành phần ngẫu nhiên (Mô hình REM phù hợp hơn)

H1 : Có tương quan giữa các biến giải thích và thành phần ngẫu nhiên (Mô hình FEM phù hợp hơn)

Theo Hausman (1978), nếu mức ý nghĩa nhỏ hơn 5%, mô hình phù hợp là mô hình FEM; ngược lại, nếu p-value lớn hơn 0.05, mô hình phù hợp là mô hình REM Kết quả kiểm định mô hình phù hợp được tác giả trình bày trong bảng sau.

Chi bình phương (λ 2 ) p - value Kết luận

ROA 17.02 0.0740 Mô hình REM là phù hợp

ROE 23.99 0.0076 Mô hình FEM là phù hợp

RISK 14.76 0.1410 Mô hình REM là phù hợp

Bảng 3.7: Kiểm định lựa chọn mô hình REM và mô hình FEM

Để kiểm định hiện tượng phương sai sai số thay đổi trong mô hình FEM, tác giả đã thực hiện kiểm định Wald (1943), trong khi đối với mô hình REM, tác giả sử dụng kiểm định LM – Breusch (1980) Cả hai phương pháp này đều có chung cặp giả thuyết.

Ho : Mô hình không có hiện tượng phương sai sai số thay đổi

H1 : Mô hình có hiện tượng phương sai sai số thay đổi

Chi bình phương (λ 2 ) p - value Kết luận

Mô hình có hiện tượng phương sai sai số thay đổi

Bảng 3.8: Kiểm định hiện tượng phương sai sai số thay đổi

(Nguồn: Số liệu tổng hợp được xử lý qua phần mềm Stata)

Kết quả kiểm định từ phần mềm STATA cho thấy giá trị p-value của các mô hình đều bằng 0.000, nhỏ hơn mức ý nghĩa 5% Điều này chỉ ra rằng mô hình mắc khuyết tật phương sai sai số thay đổi.

Kiểm định hiện tượng tự tương quan

Tác giả thực hiện kiểm định khuyết tật tự tương quan bằng kiểm định Wooldridge (1991) với giả thuyết:

Ho : Mô hình không có hiện tượng tự tương quan bậc 1

H1 : Mô hình có hiện tượng tự tương quan bậc 1

Dữ liệu từ bảng 3.9 cho thấy giá trị p-value đều nhỏ hơn 0.05, dẫn đến việc bác bỏ giả thuyết Ho và chấp nhận H1, cho thấy mô hình xuất hiện tự tương quan bậc 1.

Chi bình phương (λ 2 ) p - value Kết luận

Mô hình có hiện tượng tự tương quan

Bảng 3.9: Kiểm định hiện tượng tự tương quan

(Nguồn: Số liệu tổng hợp được xử lý qua phần mềm Stata)

Khắc phục mô hình Để khắc phục khuyết tật trong mô hình, nghiên cứu sử dụng ước lượng Driscoll

Kỹ thuật mà Kraay (1998) đề xuất cho phép xử lý hiệu quả các vấn đề như thiên lệch phương sai (heteroscedasticity), tự tương quan (auto-correlation), phụ thuộc chéo (cross-sectional dependence), thiên lệch tiềm tàng trong điều kiện bậc 1 của hồi quy tiêu chuẩn, và lỗi cấu trúc của phần dư.

Kết quả nghiên cứu

3.3.1 Kết quả nghiên cứu tác động của đa dạng hóa thu nhập đến hiệu quả kinh doanh của NHTM

*,**,*** tương ứng mức ý nghĩa thống kê lần lượt là 10%, 5%, 1%

Bảng 3.10: Kết quả nghiên cứu tác động của đa dạng hóa thu nhập đến hiệu quả kinh doanh của ngân hàng

(Nguồn: Số liệu tổng hợp được xử lý qua phần mềm Stata)

(Pooled OLS) (REM) (FEM) (Driscoll -

Kraay) (Pooled OLS) (REM) (FEM) (Driscoll -

VARIABLES ROA ROA ROA ROA ROE ROE ROE ROE

46 Đa dạng hóa thu nhập (DIV) và đa dạng hóa thu nhập trong thời kỳ COVID

Nghiên cứu cho thấy rằng đa dạng hóa thu nhập (DIV) có tác động tích cực đến hiệu quả kinh doanh của ngân hàng thương mại (NHTM), được hỗ trợ bởi lý thuyết đa dạng hóa danh mục đầu tư hiện đại Các nghiên cứu trước đây như của Võ Xuân Vinh, Trần Thị Phương Mai (2015), Lê Long Hậu, Phạm Xuân Quỳnh (2016), và Nguyễn Minh Sáng (2017) đã chỉ ra sự quan trọng của DIV Bài viết này đã mở rộng nghiên cứu bằng cách thêm biến COVID*DIV, phát hiện mối tương quan giữa đa dạng hóa trong thời kỳ COVID-19 và hiệu quả kinh doanh của NHTM Biến COVID*DIV cho thấy có ý nghĩa thống kê tại mức 1% với biến phụ thuộc ROA và 5% với biến phụ thuộc ROE, chứng minh rằng đa dạng hóa trong thời gian này đã hỗ trợ tích cực cho lợi nhuận của các NHTM.

Trong bối cảnh đại dịch kéo dài và các chỉ đạo giãn cách xã hội của Chính phủ, các ngân hàng thương mại (NHTM) đã mạnh mẽ áp dụng số hóa vào hoạt động kinh doanh để thích nghi với tình hình Điều này không chỉ gia tăng giá trị cho khách hàng mà còn tạo lợi thế cạnh tranh trên thị trường COVID-19 đã tạo ra cú hích quan trọng cho quá trình số hóa trong ngành ngân hàng Việt Nam Các ngân hàng đã đa dạng hóa nguồn thu, tăng tỷ lệ thu ngoài lãi thông qua việc đẩy mạnh bán chéo bảo hiểm và giảm sự phụ thuộc vào khoản thu lãi từ hoạt động tín dụng Đồng thời, họ cũng tiết giảm chi phí để duy trì tăng trưởng trong suốt dịch bệnh Đặc biệt, doanh thu từ phí dịch vụ và sản phẩm số đã nổi lên như một điểm sáng trong hoạt động của các ngân hàng.

Tỷ lệ chi phí hoạt động (CIR) có tác động ngược chiều đến hiệu quả kinh doanh của ngân hàng, với mức ý nghĩa 1% Khi quản lý không phát huy hiệu suất, chi phí hoạt động tăng lên, dẫn đến lợi nhuận kỳ vọng giảm sút Phát hiện này phù hợp với kết quả nghiên cứu của Hồ Thị Hồng Minh và Nguyễn Thị Cảnh (2015), cũng như Lê Long Hậu và Phạm Xuân Quỳnh (2016) Gần đây, tỷ lệ CIR của nhiều ngân hàng đã giảm đáng kể nhờ vào quá trình số hóa các hoạt động.

Trong thời kỳ dịch bệnh, mức độ tham gia và tương tác của khách hàng với các dịch vụ ngân hàng trực tuyến đã tăng mạnh, giúp ngân hàng giảm chi phí cố định Đồng thời, các ngân hàng thương mại cũng chủ động thực hiện các biện pháp cắt giảm chi phí vận hành, chi phí văn phòng và hạn chế các chi phí không cần thiết khác nhằm giảm thiểu thiệt hại do COVID-19 gây ra.

Quy mô ngân hàng (SIZE)

Mối liên hệ giữa quy mô ngân hàng và hiệu quả hoạt động ngân hàng là thuận chiều, cho thấy rằng việc tăng trưởng hoạt động kinh doanh của ngân hàng sẽ giúp ngân hàng hoạt động hiệu quả hơn Kết quả này trái ngược với nghiên cứu của Meslier và các cộng sự (2014), nhưng tương tự như nghiên cứu của Lee và các cộng sự (2014), cùng với Võ Xuân Vinh và Trần Thị Phương Mai (2015) Giải thích cho điều này là các ngân hàng thương mại lớn có thể hưởng lợi từ quy mô kinh tế, năng lực đầu tư, và cải thiện dịch vụ khách hàng, từ đó nâng cao hiệu quả kinh doanh theo lý thuyết kinh tế quy mô.

Tốc độ tăng trưởng của ngân hàng (GTA)

Nghiên cứu của Lee và cộng sự (2014) cho thấy có mối liên hệ tích cực giữa tăng trưởng hoạt động kinh doanh (GTA) và hiệu quả kinh doanh, được đánh giá qua ROA và ROE với mức ý nghĩa lần lượt là 1% và 10% Tăng trưởng cao thường đi kèm với doanh số tăng, đặc biệt trong lĩnh vực tín dụng, giúp ngân hàng thu hút khách hàng và mở rộng doanh thu Hơn nữa, sự tăng trưởng mạnh mẽ nâng cao khả năng cạnh tranh, thu hút nhiều khách hàng mới, từ đó tăng giá trị thương hiệu và lợi nhuận cho ngân hàng thương mại Điều này cũng cho phép ngân hàng có vị thế đàm phán tốt hơn trong các giao dịch, cải thiện điều kiện kinh doanh và giá cả Cuối cùng, tăng trưởng nhanh chóng tạo cơ hội để ngân hàng mở rộng mạng lưới kinh doanh, tăng cường đầu tư vào các lĩnh vực mới và phát triển lợi nhuận tiềm năng.

Tỷ lệ an toàn vốn (ETA)

Nghiên cứu cho thấy ETA có tác động tích cực đến hiệu quả kinh doanh của ngân hàng, được đo bằng ROA với mức ý nghĩa 1%, tương tự như kết quả của Stiroh và Rumble (2006) cũng như Lê Long Hậu và Phạm Xuân Quỳnh (2017) Ngược lại, đối với biến phụ thuộc ROE, tỷ lệ này lại thể hiện mối quan hệ nghịch Mối quan hệ giữa ROE và ETA được thể hiện qua công thức cụ thể.

𝐸𝑇𝐴 có thể giải thích như sau:

Vốn chủ sở hữu tăng có thể xuất phát từ việc ngân hàng thương mại huy động vốn trên thị trường chứng khoán hoặc từ các nguồn vốn khác Mặc dù những nguồn vốn này thường có chi phí cao hơn so với vốn vay, nhưng lại mang lại thu nhập thấp hơn so với thu nhập từ hoạt động cho vay của ngân hàng.

Mặc dù tổng tài sản có thể tăng, doanh thu không nhất thiết phải tăng tương ứng do hiệu quả đầu tư kém, điều này có thể dẫn đến giảm ROE Chẳng hạn, khi đầu tư vào các kênh phi tín dụng như bất động sản hay chứng khoán, lợi nhuận có thể không tăng tương xứng với tốc độ tăng trưởng tài sản.

ROE của ngân hàng có thể bị ảnh hưởng bởi sự giảm lãi suất huy động và cho vay theo xu hướng chung của thị trường Ngân hàng thương mại thường hưởng lợi từ chênh lệch giữa lãi suất cho vay và lãi suất huy động Khi lãi suất thị trường giảm, ngân hàng phải hạ lãi suất cho vay và huy động, dẫn đến việc chênh lệch giữa hai loại lãi suất bị thu hẹp Điều này làm giảm thu nhập lãi thuần và lợi nhuận sau thuế của ngân hàng Mặc dù tổng tài sản của ngân hàng vẫn tăng do hoạt động tín dụng phát triển, nhưng sự giảm thu nhập lãi thuần sẽ ảnh hưởng tiêu cực đến lợi nhuận sau thuế và ROE của ngân hàng.

Tỷ lệ tiền gửi của khách hàng (DTA)

Kết quả của mô hình trái ngược với giả thuyết nghiên cứu nhưng lại phù hợp với giả thuyết của Lê Long Hậu và Phạm Xuân Quỳnh (2016), cho thấy mối quan hệ giữa tỷ lệ tiền gửi và hiệu quả kinh doanh ngân hàng là ngược chiều Xu hướng này có thể được giải thích bởi thực tế rằng việc huy động tiền gửi không phải lúc nào cũng có chi phí rẻ Các ngân hàng tăng lãi suất tiền gửi để thu hút người tiêu dùng trong thời kỳ kinh tế khó khăn.

Trong bối cảnh cạnh tranh gia tăng, các ngân hàng thương mại phải đối mặt với áp lực lớn, dẫn đến việc tăng chi phí và giảm lợi nhuận Đồng thời, khi tỷ lệ tiền gửi tăng, khách hàng cảm thấy an toàn hơn với số tiền của mình, dẫn đến việc giảm nhu cầu vay vốn, đặc biệt trong thời kỳ COVID-19, từ đó ảnh hưởng tiêu cực đến hiệu quả kinh doanh.

Tỷ lệ cho vay (LTA)

Với mức ý nghĩa 1%, tỷ lệ cho vay khách hàng có mối liên hệ tích cực đến hiệu quả kinh doanh của ngân hàng thương mại, điều này chứng minh cho lập luận của Chiorazzo và cộng sự.

Theo Sanya và Wolfe (2011), đối với các ngân hàng thương mại (NHTM) Việt Nam, tín dụng vẫn được coi là hoạt động chính, mang lại phần lớn lợi nhuận cho ngân hàng, mặc dù mục tiêu là đa dạng hóa cơ cấu thu nhập Khi tỷ lệ cho vay tăng, ngân hàng có khả năng thu được nhiều lợi nhuận hơn từ chênh lệch giữa lãi suất cho vay và lãi suất huy động Chiorazzo và cộng sự (2008) nhấn mạnh rằng tốc độ tăng trưởng tín dụng tốt sẽ giúp ngân hàng mở rộng mạng lưới hoạt động và tăng thu nhập.

Tăng trưởng kinh tế (GDP)

Nghiên cứu với mức ý nghĩa 10% cho thấy có mối tương quan thuận chiều giữa tăng trưởng kinh tế và hiệu quả hoạt động của ngân hàng thương mại, thông qua biến phụ thuộc ROA Phát hiện này phù hợp với kết quả nghiên cứu của Meslier và cộng sự (2014).

KHUYỂN NGHỊ CHÍNH SÁCH

Đa dạng hóa thu nhập, phát triển nguồn thu nhập ngoài lãi

Nghiên cứu đã chỉ ra rằng đa dạng hóa thu nhập có tác động tích cực đến giảm rủi ro và nâng cao hiệu quả kinh doanh của ngân hàng, đặc biệt trong bối cảnh COVID-19 Dựa trên những phân tích này, nghiên cứu khuyến nghị các ngân hàng thương mại tiếp tục theo đuổi chiến lược đa dạng hóa thu nhập, nhằm giảm thiểu sự phụ thuộc vào thu nhập từ lãi và tập trung vào việc tăng cường tỷ trọng thu nhập ngoài lãi thông qua các biện pháp cụ thể.

Việc phát triển các ứng dụng ngân hàng trên điện thoại thông minh và Internet dựa trên nền tảng công nghệ thông tin hiện đại sẽ giúp ngân hàng cung cấp dịch vụ nhanh chóng và thuận tiện cho nhiều người Điều này không chỉ khuyến khích khách hàng sử dụng dịch vụ ngân hàng mà còn góp phần thúc đẩy thanh toán không dùng tiền mặt.

Phát triển các sản phẩm tài chính vi mô linh hoạt, đơn giản và phù hợp với nhu cầu của đa số người dân, đặc biệt là người dân nông thôn, là một bước đi quan trọng Đối tượng này thường chưa hoặc ít được ngân hàng phục vụ tốt, do đó, việc này không chỉ phù hợp với chủ trương và chính sách của Chính phủ Việt Nam về tài chính toàn diện mà còn nhận được sự ủng hộ và hỗ trợ từ ngân hàng để thực hiện chiến lược này.

Ngân hàng cần phát triển các sản phẩm dịch vụ đa dạng nhằm tạo ra chuỗi giá trị gia tăng phục vụ khách hàng, không chỉ đáp ứng các nhu cầu cơ bản như vay vốn, gửi tiền hay thanh toán mà còn các nhu cầu phong phú hơn như tư vấn tài chính, quản lý tài chính, đầu tư và kinh doanh Để thực hiện điều này, ngân hàng cần hiểu rõ nhu cầu và đối tượng khách hàng, từ đó tạo sự hài lòng và nâng cao gắn kết của khách hàng với ngân hàng.

Phát triển sản phẩm liên kết và bán chéo với các đối tác như công ty bảo hiểm và doanh nghiệp bất động sản sẽ nâng cao giá trị tiện ích cho sản phẩm ngân hàng, đồng thời mở rộng phạm vi phân phối hiệu quả.

Bên cạnh việc phát triển sản phẩm, dịch vụ mới, các NHTM cần chú trọng các vấn đề sau:

Cải tiến kênh phân phối sản phẩm giúp tăng khả năng tiếp cận khách hàng hiệu quả hơn Ngân hàng đã cung cấp nhiều hình thức giao dịch đa dạng qua các chi nhánh và nền tảng Internet, tạo điều kiện thuận lợi cho khách hàng trong việc thực hiện các giao dịch tài chính.

Mạng lưới chi nhánh ngân hàng hiện chưa đồng đều, vì vậy các ngân hàng thương mại cần có chiến lược phân bổ và tận dụng thị trường tại các khu vực đô thị lớn và trung tâm kinh tế, thay vì mở rộng một cách dàn trải Đồng thời, việc phát triển ngân hàng điện tử sẽ giúp giao dịch của người tiêu dùng trở nên đơn giản hơn Trong bối cảnh cạnh tranh gia tăng, các ngân hàng cần cải thiện công tác bán hàng, tư vấn sản phẩm và phát triển các kênh bán chéo nhằm tăng thu nhập ngoài lãi.

Mở rộng hợp tác với các công ty công nghệ tài chính (fintech) là một bước đi quan trọng giúp ngân hàng tận dụng ưu điểm về tốc độ và quyền riêng tư Qua đó, ngân hàng có thể mở rộng phạm vi dịch vụ cho cả nhóm khách hàng mới và khách hàng truyền thống, đồng thời cho phép người dùng dễ dàng tiếp cận dịch vụ ngân hàng với chi phí thấp nhất.

Ngân hàng thương mại (NHTM) cần mở rộng chiến lược tiếp thị sản phẩm và quảng bá thương hiệu bằng cách xác định rõ đối tượng khách hàng và lựa chọn kênh quảng bá phù hợp Mặc dù đã xây dựng website và tài trợ các sự kiện, việc quảng bá truyền thông vẫn còn hạn chế Do đó, ngân hàng nên tăng thời lượng và chất lượng quảng bá, cập nhật thông tin thường xuyên trên website, tài trợ sự kiện và phát tài liệu quảng cáo Bên cạnh đó, việc kết hợp tư vấn và quảng bá sản phẩm khi phục vụ khách hàng cũng sẽ giúp tăng cường nhận diện thương hiệu và thúc đẩy bán chéo sản phẩm.

Đẩy mạnh nghiên cứu thị trường và lấy nhu cầu khách hàng làm động lực phát triển sản phẩm là rất quan trọng đối với ngân hàng thương mại Ngân hàng cần thường xuyên khảo sát và thu thập ý kiến phản hồi từ khách hàng thông qua các cuộc điều tra và phỏng vấn để nắm bắt chính xác nhu cầu Với thông tin khách hàng sẵn có, ngân hàng có thể tiếp cận và hiểu rõ hơn về nhu cầu của họ trong quá trình giao dịch Chiến lược này không chỉ giúp ngân hàng cải tiến sản phẩm hiện tại mà còn mở rộng dịch vụ để đáp ứng tốt hơn nhu cầu thị trường và đa dạng hóa đối tượng khách hàng.

Nâng cao hiệu quả chuyển dịch cơ cấu cho vay, kiểm soát khoản vay

Kết quả mô hình cho thấy tỷ lệ cho vay ảnh hưởng tích cực đến hiệu quả kinh doanh, trong khi tỷ lệ thu nhập lãi cận biên cũng đóng vai trò quan trọng trong việc giảm thiểu tình trạng thiếu hụt.

58 rủi ro của ngân hàng, do đó nghiên cứu lưu ý một số vấn đề sau:

Đẩy mạnh chuyển dịch cơ cấu cho vay theo ngành kinh tế là cần thiết, ưu tiên các ngành có triển vọng và giảm dần cho vay ở những ngành đã bão hòa và có rủi ro cao Điều này giúp giảm sự phụ thuộc vào một số ngành cụ thể, từ đó hạn chế rủi ro do biến động lớn trong từng ngành.

Mở rộng tệp khách hàng cho vay bằng cách nhắm đến các phân khúc như doanh nghiệp vừa và nhỏ, doanh nghiệp FDI và khách hàng cá nhân là rất quan trọng Ngân hàng nên tăng cường các biện pháp thu hút nhóm khách hàng này thông qua các chính sách ưu đãi hấp dẫn Việc này không chỉ giúp ngân hàng đa dạng hóa nguồn khách hàng mà còn giảm thiểu sự phụ thuộc vào một nhóm khách hàng cụ thể.

Phân loại và đánh giá rủi ro tín dụng một cách chính xác là rất quan trọng, và điều này có thể đạt được thông qua việc kết hợp xếp hạng tín dụng nội bộ với các quy định hiện hành Việc phân loại và trích lập dự phòng nợ xấu phù hợp sẽ tạo nền tảng vững chắc cho ngân hàng trong việc quản lý rủi ro tín dụng hiệu quả hơn.

Để kiểm soát sự gia tăng của các tài sản có sinh lời, cần đặt ra hạn mức tối đa về quy mô đầu tư vào từng loại tài sản như bất động sản, chứng khoán, và quỹ đầu tư Đồng thời, xác định mức tỷ suất lợi nhuận tối thiểu, đánh giá mức độ tiềm ẩn rủi ro và lợi ích tiềm năng của từng khoản đầu tư là rất quan trọng.

Tuân thủ và nâng cao năng lực quản trị rủi ro

Trong bối cảnh hội nhập quốc tế sâu rộng, việc xây dựng hệ thống quản lý rủi ro và tuân thủ các chuẩn mực quản lý rủi ro của Basel và NHNN trở nên cấp thiết cho các ngân hàng Việt Nam Điều này không chỉ giúp nâng cao năng lực quản trị mà còn đa dạng hóa sản phẩm và tối ưu hóa hoạt động kinh doanh.

Nghiên cứu cho thấy, đa dạng hóa thu nhập đã giúp giảm thiểu rủi ro cho ngân hàng trước COVID-19, nhưng lại làm gia tăng rủi ro trong giai đoạn dịch bệnh Do đó, ngân hàng cần phân tích kỹ các rủi ro tiềm ẩn và xây dựng hệ thống giám sát, phòng ngừa, cảnh báo và kiểm soát rủi ro phù hợp Hệ thống này cần bao gồm các quy trình, biện pháp và chính sách giám sát các loại rủi ro như tín dụng, thị trường, thanh khoản và hoạt động.

Một hệ thống quản lý rủi ro hiệu quả giúp ngân hàng đa dạng hóa dịch vụ, mở rộng thị phần và giảm thiểu thiệt hại từ các rủi ro phát sinh Điều này góp phần vào việc đạt được mục tiêu hiệu quả cao nhất trong hoạt động kinh doanh của ngân hàng.

Chính phủ và cơ quan quản lý cần tạo môi trường thuận lợi cho ngân hàng thương mại (NHTM) bằng cách hoàn thiện khung pháp lý và các chính sách hướng dẫn về dịch vụ ngân hàng mới như tư vấn tài chính và quản lý tài sản Điều này sẽ giúp thị trường tài chính và ngân hàng phát triển ổn định, với sự tham gia của nhiều đối tác đa dạng Đồng thời, công tác thanh tra và kiểm tra hoạt động ngân hàng cần được đổi mới và tăng cường, kịp thời phát hiện và xử lý nghiêm các vi phạm để đảm bảo sự ổn định trong hoạt động ngân hàng.

Tăng cường năng lực quản lý điều hành

Mặc dù giảm chi phí là yếu tố quan trọng để nâng cao hiệu quả hoạt động, các ngân hàng không nên cắt giảm đầu tư vào hạ tầng và con người Thay vào đó, họ cần đầu tư phát triển công nghệ và nâng cao năng lực nhân sự để phát triển sản phẩm và tìm kiếm nguồn thu nhập mới Mặc dù chi phí hoạt động sẽ tăng khi đầu tư phát triển, việc đa dạng hóa các kênh thu có thể gia tăng thu nhập từ hoạt động ngoài lãi và bù đắp cho khoản chi này Hiện tất cả ngân hàng Việt Nam đều áp dụng hệ thống ngân hàng lõi (Core banking), nhưng cần hiện đại hóa và nâng cấp hệ thống này cùng với cơ sở hạ tầng công nghệ thông tin để phát huy tối đa hiệu quả ứng dụng công nghệ Đầu tư công nghệ không chỉ cải thiện khả năng quản lý và giám sát từ xa mà còn cung cấp các dịch vụ tài chính ngân hàng hiện đại, đáp ứng nhu cầu người tiêu dùng và bảo vệ an toàn thông tin Để duy trì giao dịch an toàn, các ngân hàng cần có phương án khắc phục khi triển khai công nghệ mới và nên đẩy mạnh hợp tác với Fintech để học hỏi kinh nghiệm, chia sẻ chi phí và áp dụng công nghệ hiệu quả hơn.

Ngân hàng cần thành lập trung tâm đào tạo chuyên ngành để nâng cao trình độ nhân viên, đồng thời trích quỹ hỗ trợ tham gia các chương trình học Tăng cường liên kết với các trường đại học và hỗ trợ sinh viên qua học bổng và thực tập sẽ giúp thu hút nhân tài trẻ và tuyển dụng nhân lực chất lượng Xây dựng đội ngũ chuyên gia quản lý nhân sự để phát huy tối đa khả năng cán bộ sẽ nâng cao hiệu quả kinh doanh Chính sách đãi ngộ hợp lý, công khai và minh bạch cùng việc lấy kết quả làm tiêu chí xác định mức thưởng sẽ tạo động lực cho nhân viên làm việc hiệu quả hơn.

Với chiến lược đầu tư phát triển hợp lý, các ngân hàng thương mại có thể đa dạng hóa và mở rộng cơ cấu thu nhập, đồng thời tối ưu hóa chi phí để nâng cao hiệu quả hoạt động.

Mở rộng quy mô, tăng vốn tự có

Kết quả nghiên cứu cho thấy tỷ lệ an toàn vốn và quy mô đóng vai trò quan trọng trong việc nâng cao hiệu quả kinh doanh và bảo vệ ngân hàng trước các rủi ro Do đó, các ngân hàng thương mại (NHTM) cần tiếp tục bổ sung vốn điều lệ và mở rộng quy mô Mặc dù đã tăng vốn điều lệ theo quy định của Nhà nước, việc này vẫn cần thiết để NHTM có đủ nguồn lực đầu tư công nghệ, phát triển sản phẩm và đầu tư vào lĩnh vực có thế mạnh Với kết quả kinh doanh khả quan, NHTM có thể tăng vốn từ phần thặng dư lợi nhuận hoặc chia cổ tức bằng cổ phiếu thưởng, phát hành trái phiếu, cổ phiếu ưu đãi Tuy nhiên, xu hướng sáp nhập và mua lại (M&A) vẫn đang diễn ra mạnh mẽ, và để đạt được thành công trong quá trình này, các NHTM cần giải quyết các vấn đề về nhân sự và văn hóa sau sáp nhập.

Nâng cao năng lực phân tích dự báo các chỉ số kinh tế vĩ mô

Dự đoán xu hướng biến động của lạm phát có ảnh hưởng tích cực đến việc xây dựng chiến lược và nâng cao khả năng thích ứng của ngân hàng, từ đó phát triển các hoạt động kinh doanh hiệu quả hơn.

Các ngân hàng thương mại cần theo dõi chặt chẽ các chính sách của Ngân hàng Nhà nước và học hỏi từ các tổ chức tài chính quốc tế uy tín như IMF và World Bank Họ cũng nên chú trọng vào việc xác định rủi ro về lãi suất và kỳ hạn, đồng thời xây dựng hệ thống cảnh báo sớm trước những thay đổi và ảnh hưởng của lạm phát Việc ứng dụng công nghệ hiện đại như trí tuệ nhân tạo và phân tích dữ liệu lớn sẽ giúp cải thiện chất lượng dự báo Ngoài ra, việc tuyển dụng và đào tạo chuyên gia giỏi về nghiên cứu kinh tế vĩ mô là rất cần thiết Các cơ quan quản lý cũng cần kiểm soát lạm phát ở mức ổn định, tạo điều kiện thuận lợi cho ngân hàng trong việc dự báo xu hướng biến động thị trường và điều chỉnh các chính sách phù hợp nhằm giảm thiểu rủi ro.

Khóa luận đã phân tích tác động của đa dạng hóa thu nhập đến rủi ro và hiệu quả kinh doanh của 26 ngân hàng thương mại Việt Nam trong giai đoạn 2012 - 2022 Nghiên cứu chỉ ra rằng việc đa dạng hóa thu nhập không chỉ giúp giảm thiểu rủi ro mà còn nâng cao hiệu quả hoạt động của các ngân hàng, từ đó góp phần vào sự phát triển bền vững của ngành ngân hàng Việt Nam.

Bài viết đã chỉ ra tác động tích cực của việc đa dạng hóa thu nhập đến hiệu quả kinh doanh của ngân hàng trong thời kỳ COVID-19, bên cạnh các yếu tố như tỷ lệ chi phí hoạt động, quy mô ngân hàng, tốc độ tăng trưởng, tỷ lệ an toàn vốn, tỷ lệ tiền gửi của khách hàng, tỷ lệ cho vay và các biến vĩ mô như tăng trưởng kinh tế và tỷ lệ lạm phát Nghiên cứu nhấn mạnh tầm quan trọng của đa dạng hóa thu nhập trong quản trị rủi ro ngân hàng, đặc biệt trong bối cảnh đại dịch COVID-19, điều này cũng là điểm mới so với các nghiên cứu trước đây Dựa trên những phân tích này, bài viết đã đưa ra các khuyến nghị chính sách cho hệ thống ngân hàng thương mại.

Khoá luận còn tồn tại một số hạn chế, như chưa kiểm định nội sinh, không xét đến độ trễ của dữ liệu và đánh giá tác động theo từng nhóm NHTM khác nhau Các tác động trong giai đoạn đại dịch COVID-19 cần được đánh giá kỹ lưỡng hơn do số năm quan sát hạn chế và ảnh hưởng của dịch bệnh vẫn còn Hơn nữa, việc phân tích dữ liệu còn thiếu sót, khi chỉ dựa vào báo cáo tài chính của NHTM và dữ liệu vi mô công khai Do đó, tác giả sẽ tiếp tục mở rộng nghiên cứu để đưa ra những khuyến nghị chi tiết hơn, phù hợp với bối cảnh của NHTM Việt Nam Tác giả hy vọng bài viết sẽ hỗ trợ các NHTM tìm ra hướng đi đúng đắn trong chiến lược đa dạng hóa thu nhập và làm cơ sở cho các nghiên cứu tương lai về chủ đề này.

TÀI LIỆU THAM KHẢO Tiếng Anh

1 Adusei, M & Elliott, C (2015) “The impact of bank size and funding risk on bank stability”, Cogent Economics & Finance, 3(1), 1-19

2 Alber, N (2017), “Banking Efficiency and Financial Stability: Which Causes Which? A Panel Analysis”, Springer International Publishing, 91–98

3 Ansoff, H I (1957), “Strategies for diversification”, Harvard business review, 35(5), 113-124

4 Asif, R., & Akhter, W (2019), “Exploring the influence of revenue diversification on financial performance in banking industry: A systematic literature review”, Qualitative Research in Financial Markets

5 Baele, L., De Jonghe, O., & Vander Vennet, R (2007), “Does the stock market value bank diversification?”, Journal of Banking & Finance, 31(7), 1999-2023

6 Batten, J A., & Võ Xuân Vinh (2016), “Bank risk shifting and diversification in an emerging market”, Risk Management, 18(4), 217-235

7 Berger, A N., Humphrey, D B (1997), “Efficiency of financial institutions: international survey and directions for future research”, European Journal of Operational Research, 98, 175-212

8 Bikker, J.A & Bos, J.A.W (2008), Bank performance: A theoretical and empirical framework for the analysis of profitability, competition and efficiency,

9 Boyd, J.H and Graham, S (1986), “Risk, regulation, and bank holding company expansion into nonbanking”, Federal Reserve Bank of Minneapolis Quarterly Review, 10(2), 2-17

10 Boyd, J.H., Stanley, L.G and Hewitt, R.S (1993) Bank holding company mergers with nonbank financial firms: effects on the risk of failure, Journal of Banking Finance, 17(1), 43-63

11 Chiorazzo, V., Milani, C., & Salvini, F (2008), “Income diversification and bank performance: Evidence from Italian banks”, Journal of Financial Services Research, 33(3), 181-203

12 DeYoung, R., & Roland, K P (2001), “Product mix and earnings volatility

64 at commercial banks: Evidence from a degree of total leverage model”, Journal of Financial Intermediation, 10(1), 54-84

13 DeYoung, R., & Rice, T (2004), “Noninterest income and financial performance at US commercial banks”, Financial Review, 39(1), 101-127

14 Edirisuriya, P., Gunasekarage, A and Dempsey, M (2015), “Australian Specific Bank Features and the Impact of Income Diversification on Bank Performance and Risk”, Social Science Research Network

15 Elsas, R., Hackethal, A., & Holzhọuser, M (2010), “The anatomy of bank diversification’’, Journal of Banking & Finance, 34(6), 1274-1287

16 Farrell, M J 1957, “The measurement of productive efficiency”, Journal of the Royal Statistical Society Series A (General), 120(3), 253-290

17 Gamra, S.B & Plihon, D (2011), “Revenue diversification in emerging market banks: implications for financial performance”

18 Grazyna, W (2008), “Methods of Measuring the Efficiency of Commercial Banks: An Example of Polish Banks”, Ekonomika, 84(1), 81-91

19 Goyeau, D & Tarazi, A (1992), “An Empirical Investigation on Bank Risk in Europe”, International Financial Group Working Paper 93-11, the University of Birmingham

20 Gujarati, D N (2004), Basic Economics, 4th edition, McGraw-Hill Inc,

21 Gurbuz, A O., Yanik, S., & Ayturk, Y (2013), “Income diversification and bank performance: Evidence from Turkish banking sector”, Journal of BRSA Banking and Financial markets, 7(1), 9-29

22 Hughes, J.P & Mester, L.J (2014), “Measuring the Performance of Banks: Theory, Practice, Evidence, and Some Policy Implications”, Oxford University Press eBooks, 247–270

“Bank regulation, risk and return: Evidence from the credit and sovereign debt crisies”, Journal of banking and finance, 50, 455-474

24 Kablan, S (2009), “Banking efficiency and financial development in sub-Saharan Africa (SSA)”, African Finance Journal, 11(2), 28-50

25 Kohler, M (2014), “Does non-interest income make banks more risky? Retail - versus investment - oriented banks”, Review of Financial Economics,

26 Kohler, M (2015), “Which banks are more risky? The impact of business models on bank stability””, Journal of Financial Stability, 16, 195-212

27 Kunt, A.D & Huizinga, H (2009), “Bank activity and funding strategies: The impact on risk and returns”, Journal of Financial Economics, 98(3), 626–650

28 Lee, C C., Yang, S J., & Chang, C H (2014), “Non-interest income, profitability, and risk in banking industry: A cross-country analysis”, The North American Journal of Economics and Finance, 27, 48-67

29 Lepetit, L., Nys, E., Rous, P., & Tarazi, A (2008), “Bank income structure and risk: Anempirical analysis of European banks”, Journal of Banking & Finance, 32(8), 1452-1467

30 Levy, H., & Sarnat, M (1970), “International diversification of investment portfolios”, The American Economic Review, 60(4), 668-675

31 Meng, X., Cavoli, T., & Deng, X (2018), “Determinants of income diversification: evidence from Chinese banks”, Applied Economics, 50(17), 1934-

32 Mercieca, S., Schaeck, K., & Wolfe, S (2007), “Small European banks: Benefits from diversification?”, Journal of Banking & Finance, 31(7), 1975-1998

33 Meslier, C., Tacneng, R., & Tarazi, A (2014), “Is bank income diversification beneficial? Evidence from an emerging economy”, Journal of International Financial Markets, Institutions and Money, 31, 97-126

34 Neely, A., Gregory, M., & Platts, K (1995), “Performance measurement system design: A literature review and research agenda”, International Journal of Operations & Production Management, 15(4), 80-116

35 Palich, L E., Cardinal, L B., & Miller, C C (2000), “Curvilinearity in the diversificationperformance linkage: An examination of over three decades of research”, Strategic Management Journal, 21, 155-174

36 Peirson, G., Brown, R., Easton, S., & Howard, P (2014), Business finance, Sydney, Australia: McGraw-Hill Education Australia

37 Penrose, E T (1959), Theory of the growth of the firm, Oxford, UK: Oxford University Press

38 Perry, P (1992), “Do banks gain or lose from inflation?”, Journal of Retail

39 Pils, F (2009), Diversification, relatedness, and performance, Berlin,

Germany: Springer Science & Business Media

40 Rose, P.S (1989), “Diversification of the Banking Firm’’, The Financial Review, 24(2), 251–280

41 Rose, PS, and Hudgins, SC (2008), Bank Management and Financial Services, 7 th Edition, McGraw-Hill Inc, New York

42 Roy, A D (1952), “Safety first and the holding of assets”, Journal of the Econometric Society, 20(3), 431-449

43 Sanya, S., & Wolfe, S (2011), “Can banks in emerging economies benefit from revenue diversification?”, Journal of Financial Services Research, 40(1-2), 79-

44 Spence, M (1973), “Job market signaling”, The Quarterly Journal of Economics, 355-374

45 Staikouras, C K., Wood G E (2004), “The determinants of European Bank Profitability”, International Business and Economics Research Journal, 3(6), 57-68

46 Stiroh, K J (2004a), “Diversification in banking: Is noninterest income the answer?”, Journal of Money, Credit, and Banking, 36(5), 853-882

47 Stiroh, K J (2004b), “Do community banks benefit from diversification?”,

Journal of Financial Services Research, 25(2-3), 135-160

48 Stiroh, K J., & Rumble, A (2006), “The dark side of diversification: The case of US financial holding companies”, Journal of banking & finance, 30(8), 2131-

49 Sufian, F., & Chong, R R (2008), “Determinants of bank profitability in a developing economy: Empirical evidence from the Philippines”, Asian academy of management journal of accounting and finance, 4(2), 91-112

50 Wan, W P., Hoskisson, R E., Short, J C., & Yiu, D W (2010), “Resource- based theory andcorporate diversification: Accomplishments and opportunities”,

51 Wang, C & Lin, Y (2021), “Income diversification and bank risk in Asia Pacific”, The North American Journal of Economics and Finance, 57, 501-519

52 Wernerfelt, B (1984), “A resource-based view of the firm”, Strategic Management Journal, 5(2), 171-180

1 Báo cáo tài chính đã kiểm toán của 26 ngân hàng thương mại cổ phần giai đoạn từ 2012 – 2022

2 Bộ Tài chính (2018), Thông tư số 16/2018/TT-BTC hướng dẫn một số Điều về chế độ tài chính đối với tổ chức tín dụng, chi nhánh ngân hàng nước ngoài, ban hành ngày 07 tháng 02 năm 2018

3 Bessis, J (2011), Risk management in banking, bản dịch tiếng Việt, Nhà xuất bản Lao động – Xã hội, Hà Nội

4 Chính phủ (2017), Nghị định số 93/2017/NĐ-CP về chế độ tài chính đối với tổ chức tín dụng, chi nhánh ngân hàng nước ngoài và giám sát tài chính, đánh giá hiệu quả đầu tư vốn nhà nước tại tổ chức tín dụng do Nhà nước nắm giữ 100% vốn điều lệ và tổ chức tín dụng có vốn Nhà nước, ban hành ngày 07 tháng 08 năm 2017

5 Hồ Thị Hồng Minh và Nguyễn Thị Cành (2015), “Đa dạng hóa thu nhập và các yếu tố tác động khả năng sinh lời của các NHTM Việt Nam”, Tạp chí Công nghệ ngân hàng, 106&107, 13-23

6 Lê Long Hậu và Phạm Xuân Quỳnh (2017), “Ảnh hưởng của thu nhập ngoài lãi đến hiệu quả kinh doanh của các ngân hàng thương mại Việt Nam giai đoạn 2006- 2016”, Tạp chí Ngân hàng, 9, 13-17

7 Nguyễn Minh Sáng (2014), “Phân tích các nhân tố tác động đến hiệu quả sử dụng nguồn lực của các ngân hàng thương mại Việt Nam”, Tạp chí Ngân hàng, 4, 23-30

8 Nguyễn Minh Sáng (2017), “Tác động của đa dạng hóa thu nhập đến hiệu quả hoạt động của NHTM tại Việt Nam”, Tạp chí Kinh tế và Phát triển, 241, 40- 49

9 Nguyễn Văn Ngọc (2012), Từ điển kinh tế học, Nhà xuất bản Đại học Kinh tế Quốc dân

10 Nguyễn Việt Hùng (2008), Phân tích các nhân tố ảnh hưởng đến hiệu quả hoạt động của các ngân hàng thương mại ở Việt Nam, Luận án Tiến sĩ kinh tế, Trường Đại học Kinh tế Quốc dân

11 Phạm Tiến Đạt (2013), “Đánh giá rủi ro trong ngân hàng thương mại nhằm phục vụ cho hoạt động kiểm toán báo cáo tài chính”, Tạp chí Học viện Ngân hàng,

12 Phan Thị Hương và Cao Tấn Huy (2023), “Mối quan hệ giữa đa dạng hóa, rủi ro và hiệu quả hoạt động của các ngân hàng thương mại Việt Nam: Tiếp cận từ mô hình PVAR”, Tạp chí Nghiên cứu Tài chính – Marketing, 73(14), 14-25

13 Phan Thị Thu Hà (2013), Ngân hàng thương mại, Nhà xuất bản Đại học Kinh tế Quốc dân

14 Rose, P (1998), Quản trị ngân hàng thương mại (bản dịch), Nhà xuất bản Tài chính, Hà Nội

15 Thủ tướng Chính phủ (2012), Quyết định số 254/QĐ-TTg phê duyệt đề án

“Cơ cấu lại hệ thống các tổ chức tín dụng giai đoạn 2011 - 2015”, ban hành ngày 01 tháng 03 năm 2012

16 Thủ tướng Chính phủ (2018), Quyết định số 986/QĐ-TTg về việc phê duyệt chiến lược phát triển ngành ngân hàng Việt Nam đến năm 2025, định hướng đến năm

2030, ban hành ngày 08 tháng 08 năm 2018

Ngày đăng: 09/11/2024, 16:05

Nguồn tham khảo

Tài liệu tham khảo Loại Chi tiết
13. DeYoung, R., & Rice, T. (2004), “Noninterest income and financial performance at US commercial banks”, Financial Review, 39(1), 101-127 Sách, tạp chí
Tiêu đề: Noninterest income and financial performance at US commercial banks”, "Financial Review
Tác giả: DeYoung, R., & Rice, T
Năm: 2004
14. Edirisuriya, P., Gunasekarage, A. and Dempsey, M. (2015), “Australian Specific Bank Features and the Impact of Income Diversification on Bank Performance and Risk”, Social Science Research Network Sách, tạp chí
Tiêu đề: Australian Specific Bank Features and the Impact of Income Diversification on Bank Performance and Risk”
Tác giả: Edirisuriya, P., Gunasekarage, A. and Dempsey, M
Năm: 2015
15. Elsas, R., Hackethal, A., & Holzhọuser, M. (2010), “The anatomy of bank diversification’’, Journal of Banking & Finance, 34(6), 1274-1287 Sách, tạp chí
Tiêu đề: The anatomy of bank diversification’’, "Journal of Banking & Finance, 34(
Tác giả: Elsas, R., Hackethal, A., & Holzhọuser, M
Năm: 2010
16. Farrell, M. J. 1957, “The measurement of productive efficiency”, Journal of the Royal Statistical Society. Series A (General), 120(3), 253-290 Sách, tạp chí
Tiêu đề: The measurement of productive efficiency”, "Journal of the Royal Statistical Society. Series A (General), 120
17. Gamra, S.B. & Plihon, D. (2011), “Revenue diversification in emerging market banks: implications for financial performance” Sách, tạp chí
Tiêu đề: Revenue diversification in emerging market banks: implications for financial performance
Tác giả: Gamra, S.B. & Plihon, D
Năm: 2011
18. Grazyna, W. (2008), “Methods of Measuring the Efficiency of Commercial Banks: An Example of Polish Banks”, Ekonomika, 84(1), 81-91 Sách, tạp chí
Tiêu đề: Methods of Measuring the Efficiency of Commercial Banks: An Example of Polish Banks”, "Ekonomika
Tác giả: Grazyna, W
Năm: 2008
19. Goyeau, D. & Tarazi, A. (1992), “An Empirical Investigation on Bank Risk in Europe”, International Financial Group Working Paper 93-11, the University of Birmingham Sách, tạp chí
Tiêu đề: An Empirical Investigation on Bank Risk in Europe
Tác giả: Goyeau, D. & Tarazi, A
Năm: 1992
20. Gujarati, D. N. (2004), Basic Economics, 4th edition, McGraw-Hill Inc, New York, p. 359 Sách, tạp chí
Tiêu đề: Basic Economics
Tác giả: Gujarati, D. N
Năm: 2004
21. Gurbuz, A. O., Yanik, S., & Ayturk, Y. (2013), “Income diversification and bank performance: Evidence from Turkish banking sector”, Journal of BRSA Banking and Financial markets, 7(1), 9-29 Sách, tạp chí
Tiêu đề: Income diversification and bank performance: Evidence from Turkish banking sector”, "Journal of BRSA Banking and Financial markets, 7
Tác giả: Gurbuz, A. O., Yanik, S., & Ayturk, Y
Năm: 2013
22. Hughes, J.P. & Mester, L.J. (2014), “Measuring the Performance of Banks: Theory, Practice, Evidence, and Some Policy Implications”, Oxford University Press eBooks, 247–270 Sách, tạp chí
Tiêu đề: Measuring the Performance of Banks: Theory, Practice, Evidence, and Some Policy Implications”, "Oxford University Press eBooks
Tác giả: Hughes, J.P. & Mester, L.J
Năm: 2014
23. Hoque, H., Andriosopoulos, D., Andriosopoulos, K., Doualay, R. (2015), “Bank regulation, risk and return: Evidence from the credit and sovereign debt crisies”, Journal of banking and finance, 50, 455-474 Sách, tạp chí
Tiêu đề: Bank regulation, risk and return: Evidence from the credit and sovereign debt crisies”, "Journal of banking and finance
Tác giả: Hoque, H., Andriosopoulos, D., Andriosopoulos, K., Doualay, R
Năm: 2015
24. Kablan, S. (2009), “Banking efficiency and financial development in sub- Saharan Africa (SSA)”, African Finance Journal, 11(2), 28-50 Sách, tạp chí
Tiêu đề: Banking efficiency and financial development in sub-Saharan Africa (SSA)”, "African Finance Journal
Tác giả: Kablan, S
Năm: 2009
25. Kohler, M. (2014), “Does non-interest income make banks more risky? Retail - versus investment - oriented banks”, Review of Financial Economics, 23(4),182–193 Sách, tạp chí
Tiêu đề: Does non-interest income make banks more risky? Retail - versus investment - oriented banks”, "Review of Financial Economics
Tác giả: Kohler, M
Năm: 2014
26. Kohler, M. (2015), “Which banks are more risky? The impact of business models on bank stability””, Journal of Financial Stability, 16, 195-212 Sách, tạp chí
Tiêu đề: Which banks are more risky? The impact of business models on bank stability””, "Journal of Financial Stability, 16
Tác giả: Kohler, M
Năm: 2015
27. Kunt, A.D. & Huizinga, H. (2009), “Bank activity and funding strategies: The impact on risk and returns”, Journal of Financial Economics, 98(3), 626–650 Sách, tạp chí
Tiêu đề: Bank activity and funding strategies: The impact on risk and returns”, "Journal of Financial Economics
Tác giả: Kunt, A.D. & Huizinga, H
Năm: 2009
28. Lee, C. C., Yang, S. J., & Chang, C. H. (2014), “Non-interest income, profitability, and risk in banking industry: A cross-country analysis”, The North American Journal of Economics and Finance, 27, 48-67 Sách, tạp chí
Tiêu đề: Non-interest income, profitability, and risk in banking industry: A cross-country analysis”, "The North American Journal of Economics and Finance, 27
Tác giả: Lee, C. C., Yang, S. J., & Chang, C. H
Năm: 2014
29. Lepetit, L., Nys, E., Rous, P., & Tarazi, A. (2008), “Bank income structure and risk: Anempirical analysis of European banks”, Journal of Banking & Finance, 32(8), 1452-1467 Sách, tạp chí
Tiêu đề: Bank income structure and risk: Anempirical analysis of European banks”, "Journal of Banking & Finance
Tác giả: Lepetit, L., Nys, E., Rous, P., & Tarazi, A
Năm: 2008
30. Levy, H., & Sarnat, M. (1970), “International diversification of investment portfolios”, The American Economic Review, 60(4), 668-675 Sách, tạp chí
Tiêu đề: International diversification of investment portfolios”, "The American Economic Review
Tác giả: Levy, H., & Sarnat, M
Năm: 1970
31. Meng, X., Cavoli, T., & Deng, X. (2018), “Determinants of income diversification: evidence from Chinese banks”, Applied Economics, 50(17), 1934- 1951 Sách, tạp chí
Tiêu đề: Determinants of income diversification: evidence from Chinese banks”, "Applied Economics
Tác giả: Meng, X., Cavoli, T., & Deng, X
Năm: 2018
1. Cổng thông tin dữ liệu tài chính và công cụ đầu tư chứng khoán, https://finance.vietstock.vn/ Link

TÀI LIỆU CÙNG NGƯỜI DÙNG

TÀI LIỆU LIÊN QUAN

w