1. Trang chủ
  2. » Luận Văn - Báo Cáo

Bảo Đảm nghĩa vụ bằng quyền tài sản tại các ngân hàng thương mại Ở việt nam

216 0 0
Tài liệu đã được kiểm tra trùng lặp

Đang tải... (xem toàn văn)

Tài liệu hạn chế xem trước, để xem đầy đủ mời bạn chọn Tải xuống

THÔNG TIN TÀI LIỆU

Thông tin cơ bản

Tiêu đề Bảo Đảm Nghĩa Vụ Bằng Quyền Tài Sản Tại Các Ngân Hàng Thương Mại Ở Việt Nam
Tác giả Huỳnh Anh
Người hướng dẫn TS. Phạm Trí Hùng, PGS.TS. Nguyễn Thị Thủy
Trường học Trường Đại Học Luật Tp. Hồ Chí Minh
Chuyên ngành Luật Kinh Tế
Thể loại Luận Án Tiến Sĩ Luật Học
Năm xuất bản 2024
Thành phố Tp. Hồ Chí Minh
Định dạng
Số trang 216
Dung lượng 1,6 MB

Cấu trúc

  • 1. Tính cấp thiết của đề tài (8)
  • 2. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu của đề tài (10)
  • 3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu đề tài (11)
  • 4. Ý nghĩa khoa học và thực tiễn của đề tài (12)
  • 5. Các điểm mới của luận án (13)
  • 6. Kết cấu của luận án (14)
  • CHƯƠNG 1. TỔNG QUAN VỀ VẤN ĐỀ NGHIÊN CỨU (15)
    • 1.1 Tình hình nghiên cứu trong nước và ngoài nước (15)
      • 1.1.1 Các công trình nghiên cứu về quyền tài sản (15)
      • 1.1.2 Các công trình nghiên cứu về bảo đảm nghĩa vụ tại các ngân hàng thương mại (19)
      • 1.1.3 Các công trình nghiên cứu bảo đảm nghĩa vụ và điều kiện của quyền tài sản được dùng bảo đảm nghĩa vụ tại các ngân hàng thương mại (23)
      • 1.1.4 Các công trình nghiên cứu về xử lý các quyền tài sản được dùng bảo đảm nghĩa vụ và xác định thứ tự ưu tiên thanh toán tại các ngân hàng thương mại (28)
    • 1.2 Câu hỏi nghiên cứu và giả thuyết nghiên cứu (33)
    • 1.3 Cơ sở lý thuyết của đề tài (35)
      • 1.3.1 Lý thuyết về rủi ro, quản trị rủi ro trong hoạt động ngân hàng (35)
      • 1.3.2 Lý thuyết về tài sản (35)
      • 1.3.3 Lý thuyết về quyền sở hữu (39)
      • 1.3.4 Lý thuyết vật quyền và trái quyền (40)
      • 1.3.5 Lý thuyết về chi phí giao dịch (41)
      • 1.3.6 Lý thuyết về hợp đồng (42)
      • 1.3.7 Lý thuyết về thông tin bất cân xứng (42)
    • 1.4 Phương pháp luận, cách tiếp cận và phương pháp nghiên cứu (43)
      • 1.4.1 Phương pháp luận (43)
      • 1.4.2 Về cách tiếp cận của luận án (44)
      • 1.4.3 Phương pháp nghiên cứu (44)
  • CHƯƠNG 2. NHỮNG VẤN ĐỀ CHUNG VỀ QUYỀN TÀI SẢN VÀ BẢO ĐẢM NGHĨA VỤ BẰNG QUYỀN TÀI SẢN TẠI CÁC NGÂN HÀNG THƯƠNG MẠI (48)
    • 2.1 Khái niệm, phân loại quyền tài sản (48)
      • 2.1.2 Phân loại quyền tài sản (54)
    • 2.2 Các loại quyền tài sản được dùng bảo đảm nghĩa vụ tại các ngân hàng thương mại (55)
      • 2.2.1 Quan niệm về quyền tài sản được dùng bảo đảm nghĩa vụ (55)
      • 2.2.2 Các loại quyền tài sản cụ thể được dùng bảo đảm nghĩa vụ theo pháp luật Việt Nam (59)
    • 2.3 Khái niệm bảo đảm nghĩa vụ, bản chất, đặc trưng của bảo đảm nghĩa vụ bằng quyền tài sản trong hoạt động cho vay tại các ngân hàng thương mại (82)
      • 2.3.1 Khái niệm bảo đảm nghĩa vụ bằng quyền tài sản tại các ngân hàng thương mại (82)
      • 2.3.2 Bản chất của bảo đảm nghĩa vụ bằng quyền tài sản trong hoạt động cho vay tại các ngân hàng thương mại (84)
      • 2.3.3 Đặc trưng của bảo đảm nghĩa vụ bằng quyền tài sản trong hoạt động cho vay của ngân hàng thương mại (85)
    • 2.4 Nghĩa vụ được dùng quyền tài sản để bảo đảm trong hoạt động cho vay tại các ngân hàng thương mại (87)
    • 2.5 Các biện pháp bảo đảm và việc đăng ký biện pháp bảo đảm có đối tượng là quyền tài sản trong hoạt động cho vay tại các ngân hàng thương mại (88)
      • 2.5.1 Các biện pháp bảo đảm có đối tượng là quyền tài sản trong hoạt động cho vay tại các ngân hàng thương mại (88)
      • 2.5.2 Đăng ký biện pháp bảo đảm có đối tượng là quyền tài sản trong hoạt động cho (92)
    • 2.6 Mối quan hệ giữa hợp đồng tín dụng và hợp đồng bảo đảm bằng quyền tài sản (94)
    • 2.7 Các nguyên tắc bảo đảm nghĩa vụ bằng quyền tài sản trong trong hoạt động (0)
    • 2.8 Một số nội dung cụ thể trong bảo đảm nghĩa vụ bằng quyền tài sản tại các ngân hàng thương mại (98)
      • 2.8.1 Điều kiện chung của quyền sản tài được dùng bảo đảm nghĩa vụ (0)
      • 2.8.2 Những vấn đề lý luận về xử lý quyền tài sản bảo đảm tại các ngân hàng thương mại (103)
  • CHƯƠNG 3. ĐIỀU KIỆN ĐỂ QUYỀN TÀI SẢN ĐƯỢC DÙNG BẢO ĐẢM TẠI CÁC NGÂN HÀNG THƯƠNG MẠI ...................................................................... 106 3.1 Thực trạng pháp luật về điều kiện của quyền tài sản dùng để bảo đảm tại các (113)
    • 3.1.2 Về điều kiện quyền tài sản được dùng bảo đảm nghĩa vụ có thể chuyển giao trong (127)
    • 3.1.3 Điều kiện về tính xác định của quyền tài sản được dùng bảo đảm nghĩa vụ tại các ngân hàng thương mại (132)
    • 3.2 Kiến nghị hoàn thiện pháp luật về điều kiện để quyền tài sản được dùng bảo đảm tại các ngân hàng thương mại (139)
      • 3.2.1 Hoàn thiện quy định về điều kiện quyền tài sản phải thuộc quyền sở hữu của bên bảo đảm (139)
      • 3.2.2 Hoàn thiện quy định về điều kiện quyền tài sản được dùng bảo đảm phải có thể chuyển giao (142)
      • 3.2.3 Hoàn thiện các quy định liên quan đến tính xác định của quyền tài sản được dùng bảo đảm (142)
      • 3.2.4 Về xác định quyền tài sản bảo đảm hình thành trong tương lai (144)
  • CHƯƠNG 4. XỬ LÝ QUYỀN TÀI SẢN ĐƯỢC DÙNG BẢO ĐẢM TẠI CÁC NGÂN HÀNG THƯƠNG MẠI (148)
    • 4.1 Thực trạng pháp luật về xử lý quyền tài sản bảo đảm tại các ngân hàng thương mại (148)
      • 4.1.1 Căn cứ xử lý quyền tài sản bảo đảm (148)
      • 4.1.2 Thẩm quyền xử lý quyền tài sản bảo đảm (148)
      • 4.1.3 Quyền tài sản được xử lý (149)
      • 4.1.4 Quy trình xử lý quyền tài sản bảo đảm (155)
      • 4.1.5 Xác định thứ tự ưu tiên khi xử lý quyền tài sản bảo đảm (167)
      • 4.1.6 Thứ tự ưu tiên giữa bên nhận bảo đảm với bên thứ ba trong một số trường hợp đặc biệt (173)
    • 4.2 Kiến nghị hoàn thiện pháp luật về xử lý quyền tài sản bảo đảm tại các ngân hàng thương mại (181)
      • 4.2.1 Hoàn thiện pháp luật về xác định phạm vi quyền tài sản bảo đảm để xử lý (181)
      • 4.2.2 Hoàn thiện pháp luật về quy trình xử lý quyền tài sản bảo đảm (184)
      • 4.2.3 Hoàn thiện pháp luật về xác định thứ tự ưu tiên thanh toán khi xử lý quyền tài sản bảo đảm (185)

Nội dung

Đối tượng nghiên cứu Đối tượng nghiên cứu của luận án là những vấn đề lý luận và quy định pháp luật về QTS, về đảm bảo nghĩa vụ bằng QTS, về điều kiện của QTS được dùng bảo đảm nghĩa

Tính cấp thiết của đề tài

Cấp tín dụng là hoạt động quan trọng của ngân hàng thương mại (NHTM), trong đó các NHTM thường yêu cầu bên vay sử dụng tài sản làm bảo đảm cho khoản tín dụng Điều này không chỉ giúp phòng ngừa rủi ro mà còn thúc đẩy hoạt động tín dụng trong hệ thống NHTM.

Trong bối cảnh nền kinh tế tri thức và sự chuyển mình hướng tới cách mạng công nghiệp 4.0, các tài sản trí tuệ (QTS) đang ngày càng phong phú và đa dạng, tạo ra giá trị mới cho doanh nghiệp và nền kinh tế Tuy nhiên, nguồn lực này vẫn chưa được khai thác hiệu quả, chủ yếu do hầu hết các QTS chưa được vốn hóa, dẫn đến khó khăn trong việc đáp ứng nhu cầu phát triển Nguyên nhân chính là các ngân hàng thương mại còn dè dặt trong việc nhận QTS làm tài sản đảm bảo, lo ngại về rủi ro tín dụng.

Hiện nay, tài sản vô hình (QTS) ngày càng chiếm tỷ trọng lớn trong tổng tài sản của doanh nghiệp, đặc biệt là ở Việt Nam, nơi doanh nghiệp vừa và nhỏ chiếm số lượng lớn và sở hữu chủ yếu là QTS Việc sử dụng các tài sản này để đảm bảo khoản vay là rất quan trọng, giúp doanh nghiệp có vốn sản xuất thông qua hoạt động cấp tín dụng của ngân hàng thương mại Cơ chế hỗ trợ QTS trở thành tài sản bảo đảm sẽ góp phần khơi thông nguồn vốn cho nền kinh tế và thúc đẩy sự phát triển kinh tế.

QTS thường có tính chất vô hình, gây khó khăn trong việc nhận diện và đảm bảo nghĩa vụ trong hoạt động cấp tín dụng, từ đó tiềm ẩn rủi ro nếu thiếu cơ chế điều chỉnh hiệu quả Tính vô hình này đặt ra thách thức trong việc xác định điều kiện sử dụng QTS làm bảo đảm, bao gồm khó khăn trong việc nhận diện chủ sở hữu, khả năng chuyển giao, và xác định chính xác QTS như một đối tượng bảo đảm Việc mô tả QTS vốn không tồn tại dưới dạng vật chất cụ thể cũng gặp nhiều trở ngại Khi xem xét QTS để nhận bảo đảm, các ngân hàng thương mại cần thận trọng để giảm thiểu rủi ro.

Các QTS có tiềm năng lớn trong lĩnh vực quyền sở hữu trí tuệ, quyền đòi nợ và các quyền tài sản phát sinh từ việc góp vốn, nhưng việc sử dụng chúng làm tài sản đảm bảo tại ngân hàng thương mại vẫn còn hạn chế.

Việt Nam hiện có hơn 500 doanh nghiệp vừa và nhỏ dựa vào tài sản trí tuệ và giá trị công nghệ, cùng với hơn 3.000 doanh nghiệp khởi nghiệp công nghệ Những doanh nghiệp này có tiềm năng phát triển nhanh chóng, trong đó có 2 doanh nghiệp khởi nghiệp đạt giá trị tỷ USD, hơn 10 doanh nghiệp có giá trị trên 100 triệu USD, và nhiều doanh nghiệp khác được định giá hàng chục triệu USD.

Theo báo cáo sách trắng doanh nghiệp 2021, tính đến ngày 31/12/2019, cả nước có 449.031 doanh nghiệp quy mô siêu nhỏ, chiếm 67,2% tổng số doanh nghiệp; 179.319 doanh nghiệp quy mô nhỏ, chiếm 26,8%; 22.788 doanh nghiệp quy mô vừa, chiếm 3,5%; và 17.367 doanh nghiệp quy mô lớn, chỉ chiếm 2,5% Để giảm thiểu thiệt hại tài sản và duy trì giá trị, cần tính toán khả năng kiểm soát và quản lý, cũng như khả năng xử lý vi phạm nghĩa vụ liên quan đến quyền tài sản, bao gồm việc định đoạt và chuyển giao quyền tài sản trong quá trình thu hồi nợ, nhằm đảm bảo quyền lợi cho ngân hàng.

Các quyền tài sản (QTS) thường liên quan đến chủ thể thứ ba và có những đặc trưng riêng, đòi hỏi pháp luật điều chỉnh một cách tương thích Thực tiễn đã chỉ ra nhiều bất cập, như việc người mắc nợ không hợp tác khi quyền đòi nợ là tài sản bảo đảm (TSBĐ) cần xử lý, hay thiếu quy định rõ ràng về trách nhiệm của các thành viên doanh nghiệp khi vốn góp được sử dụng để bảo đảm nghĩa vụ Bên cạnh đó, các quyền bề mặt và quyền hưởng dụng, mặc dù khá mới, cũng cần có quy định đảm bảo lợi ích giữa các chủ thể liên quan đến quyền sử dụng đất (QSDĐ) Do đó, cần xây dựng một hệ thống pháp luật minh bạch để dự liệu các trường hợp phát sinh xung đột lợi ích giữa các chủ thể và thiết lập một trật tự công bằng nhằm giải quyết những xung đột này.

Quan sát các ngân hàng thương mại (NHTM) và các bản án, quyết định của Tòa án liên quan đến tranh chấp bảo đảm có đối tượng là quyền tài sản (QTS), cho thấy nhiều bất cập trong xử lý QTS dùng bảo đảm Cụ thể, quá trình truy đòi tài sản bảo đảm (TSBĐ), định đoạt TSBĐ, xác định phạm vi TSBĐ để xử lý, và thứ tự ưu tiên giữa các chủ thể có lợi ích liên quan gặp khó khăn Những vấn đề này xuất phát từ việc pháp luật chưa quy định rõ ràng về quyền truy đòi và quyền định đoạt của ngân hàng, dẫn đến việc xử lý QTS trở nên khó khăn Hơn nữa, các quy định về phạm vi QTS bảo đảm và thứ tự ưu tiên chưa đầy đủ và thiếu tính hệ thống, đặc biệt khi có sự xuất hiện của tài sản phái sinh.

Mặc dù Nhà nước đã có những nỗ lực đáng kể trong việc hoàn thiện quy định về giao dịch bảo đảm, đặc biệt với sự ra đời của NĐ 21/2021/NĐ-CP, nhưng thực tiễn áp dụng cho thấy vẫn còn nhiều vướng mắc và thiếu sự thống nhất giữa các Tòa án Quy định về bảo đảm nghĩa vụ bằng QTS vẫn còn hạn chế, chưa có tính hệ thống và chưa phản ánh đầy đủ đặc trưng của các QTS Điều này dẫn đến việc các ngân hàng thương mại (NHTM) trở nên dè dặt trong việc cấp tín dụng với bảo đảm bằng QTS.

Để thúc đẩy hoạt động cấp tín dụng có tài sản bảo đảm (TSBĐ) dựa trên quyền tài sản (QTS) và giải quyết những lo ngại của ngân hàng thương mại (NHTM) về rủi ro liên quan đến loại tài sản này, cần tạo ra một khuôn khổ pháp lý hiệu quả Việc nghiên cứu các vấn đề lý luận và thực tiễn trong việc bảo đảm nghĩa vụ bằng QTS là rất quan trọng Xuất phát từ những vấn đề trên, tác giả đã chọn đề tài “Bảo đảm nghĩa vụ bằng quyền tài sản tại các ngân hàng thương mại ở Việt Nam” để nghiên cứu cho luận án tiến sĩ luật học.

Đối tượng và phạm vi nghiên cứu đề tài

Đối tượng nghiên cứu của luận án tập trung vào các vấn đề lý luận và quy định pháp luật liên quan đến quyền tài sản (QTS) và việc đảm bảo nghĩa vụ bằng QTS tại các ngân hàng thương mại (NHTM) ở Việt Nam Luận án phân tích thực trạng pháp luật cũng như thực tiễn áp dụng các quy định về điều kiện của QTS được sử dụng để bảo đảm nghĩa vụ, cùng với việc xử lý quyền tài sản bảo đảm (QTSBĐ) khi nghĩa vụ bị vi phạm Tác giả sẽ đề xuất các giải pháp nhằm hoàn thiện quy định pháp luật về bảo đảm nghĩa vụ tại NHTM Để thực hiện nghiên cứu này, tác giả dựa vào các lý thuyết và quan điểm khoa học về QTS, QTSBĐ, cùng với các đánh giá từ các nhà khoa học trong lĩnh vực pháp luật, các bản án của Tòa án Nhân dân về tranh chấp hợp đồng tín dụng và các tài liệu từ nước ngoài.

Luận án nghiên cứu các quy định pháp luật Việt Nam liên quan đến quyền tài sản (QTS) mà cá nhân và tổ chức sử dụng để đảm bảo nghĩa vụ phát sinh từ hoạt động cho vay của ngân hàng thương mại (NHTM).

Luận án nghiên cứu QTS được xem như một loại tài sản từ góc độ pháp lý, đồng thời cũng phân tích QTS theo khía cạnh kinh tế để làm rõ hơn về bản chất của QTS như một tài sản và mối quan hệ giữa chúng.

Nghiên cứu về quyền tài sản (QTS) có phạm vi rộng, nhưng nghiên cứu sinh sẽ tập trung vào một số QTS tiêu biểu như quyền sử dụng đất (QSDĐ), quyền sở hữu trí tuệ (SHTT), quyền đòi nợ, và phần vốn góp, cổ phần Lý do chọn các QTS này là: (i) QSDĐ, mặc dù được sử dụng để bảo đảm nghĩa vụ, vẫn gặp nhiều vướng mắc trong thực tiễn áp dụng, do đó nghiên cứu sẽ giới hạn ở việc phân tích bất cập trong thế chấp QSDĐ tại ngân hàng thương mại; (ii) QTS liên quan đến quyền SHTT chưa được khai thác hiệu quả ở Việt Nam do rào cản pháp luật, mặc dù có tiềm năng lớn; (iii) quyền đòi nợ ngày càng phổ biến trong quan hệ kinh tế, với nhu cầu sử dụng để cấp vốn và đảm bảo nguồn vốn của doanh nghiệp; (iv) phần vốn góp và cổ phần vẫn là QTS mới mẻ, chưa được sử dụng rộng rãi để bảo đảm nghĩa vụ tại Việt Nam.

Tác giả tập trung vào việc phân tích bảo đảm nghĩa vụ bằng quyền tài sản (QTS) trong hoạt động cho vay của các ngân hàng thương mại (NHTM), trong khi các hoạt động cấp tín dụng khác như cho thuê tài chính, bao thanh toán, chiết khấu và bảo lãnh ngân hàng không nằm trong phạm vi nghiên cứu của luận án Lý do cho vay được chọn là vì nó chiếm tỷ trọng lớn nhất trong các hoạt động cấp tín dụng, và các tranh chấp liên quan đến bảo đảm bằng QTS thường phát sinh chủ yếu từ hoạt động cho vay, được minh chứng qua việc phân tích các bản án của Tòa án nhân dân các cấp Ngoài ra, nghiên cứu không đề cập đến việc xử lý QTSBĐ trong trường hợp doanh nghiệp phá sản.

Luận án nghiên cứu ba nội dung chính: các loại tài sản đảm bảo (QTS) có thể sử dụng để bảo đảm nghĩa vụ, điều kiện áp dụng QTS trong việc bảo đảm nghĩa vụ, và phương thức xử lý QTS khi nghĩa vụ bảo đảm bị vi phạm.

Luận án không tập trung vào trình tự và thủ tục đăng ký biện pháp bảo đảm liên quan đến QTS, cũng như định giá QTSBĐ và hiệu lực của giao dịch bảo đảm bằng QTS Tuy nhiên, quá trình phân tích đã đề cập đến những yếu tố này như một nội dung liên quan, nhằm làm rõ điều kiện của QTS được sử dụng để bảo đảm tại ngân hàng thương mại hoặc trong việc xử lý vấn đề liên quan đến QTSBĐ.

Về phạm vi không gian, luận án nghiên cứu pháp luật về bảo đảm nghĩa vụ bằng

Trong bài viết này, tác giả phân tích và so sánh quy định về Quyền Tài sản (QTS) tại Việt Nam với các quốc gia có kinh nghiệm trong việc bảo đảm nghĩa vụ bằng QTS như Úc, Pháp, Anh, Mỹ và Canada Việc tham khảo kinh nghiệm từ những quốc gia này giúp Việt Nam có thể tiếp nhận và áp dụng những quy định phù hợp nhằm nâng cao hiệu quả bảo đảm nghĩa vụ.

Luận án tập trung nghiên cứu các quy định pháp luật về bảo đảm nghĩa vụ bằng QTS tại các NHTM từ năm 2005 đến nay, do giai đoạn này xuất hiện nhiều bất cập liên quan đến QTSBĐ Mặc dù các quy định pháp luật trước năm 2005 chỉ được đề cập một cách hạn chế, nhưng chúng sẽ được nêu trong một số nội dung của luận án nhằm nghiên cứu lịch sử lập pháp, nhận diện hệ thống và lý giải quá trình phát triển cũng như dự báo xu hướng của các thuật ngữ và nội dung pháp lý liên quan đến đề tài.

Ý nghĩa khoa học và thực tiễn của đề tài

Luận án tiến sĩ đầu tiên tại Việt Nam nghiên cứu về bảo đảm nghĩa vụ bằng quyền sử dụng đất (QTS) tại các ngân hàng thương mại (NHTM) đã cung cấp những nội dung quan trọng về lý luận và thực tiễn Nghiên cứu làm rõ khái niệm QTS và các yêu cầu cần thiết để mở rộng đối tượng bảo đảm nghĩa vụ bằng QTS Bên cạnh đó, luận án cũng phân tích thực trạng pháp luật và thực tiễn áp dụng QTS trong việc bảo đảm nghĩa vụ, đặc biệt là điều kiện pháp lý của QTS và xử lý QTS bị thu hồi Cuối cùng, luận án đưa ra các giải pháp nhằm hoàn thiện quy định pháp luật về bảo đảm nghĩa vụ bằng QTS, góp phần nâng cao hiệu quả quản lý và thực thi pháp luật trong lĩnh vực này.

Kết quả nghiên cứu của đề tài cung cấp nguồn tham khảo quan trọng cho việc xây dựng và hoàn thiện pháp luật tại Việt Nam về sử dụng quyền tài sản để đảm bảo nghĩa vụ tại các ngân hàng thương mại Nghiên cứu không chỉ hỗ trợ các cơ quan trong việc giải quyết tranh chấp liên quan đến quyền tài sản, mà còn giúp các ngân hàng thương mại, bên bảo đảm và bên có lợi ích liên quan lựa chọn cách ứng xử phù hợp nhằm bảo vệ quyền lợi chính đáng trong mối quan hệ với quyền tài sản đảm bảo.

Các điểm mới của luận án

Thứ nhất, luận án làm sáng tỏ nội hàm, đặc trưng của QTS, theo đó phân biệt

QTS được công nhận là tài sản có thể dùng để bảo đảm nghĩa vụ đối với các QTS khác, bao gồm quyền tài sản theo Bộ luật Dân sự và các quyền tài sản khác Bài viết này sẽ làm rõ các loại QTS, đặc biệt nhấn mạnh vào nội dung và bản chất của một số QTS cụ thể như quyền sử dụng đất, quyền đòi nợ, QTS liên quan đến quyền sở hữu trí tuệ, cũng như phần vốn góp và cổ phần.

Luận án đã phân tích quan niệm về QTSBĐ ở Việt Nam và quốc tế, chỉ ra rằng phạm trù QTSBĐ theo pháp luật Việt Nam hẹp hơn so với một số nước như Mỹ, Úc và hướng dẫn của Uncitral Các nước này tiếp cận QTSBĐ theo hướng “lợi ích bảo đảm”, cho phép các bên thỏa thuận bất kỳ quyền, lợi ích nào làm TSBĐ, miễn là đảm bảo chức năng bảo đảm Giải pháp này có thể khai thác tốt nhất giá trị kinh tế của QTS, được nghiên cứu sinh đề xuất áp dụng cho Việt Nam.

Luận án đã tiến hành phân tích các quy định pháp luật và thực tiễn để đánh giá tính phù hợp của các loại tài sản đảm bảo nghĩa vụ Kết quả phân tích chỉ ra rằng có những bất cập trong quy định hiện hành, như việc chưa xác định rõ nội hàm quyền đòi nợ và sự trùng lắp về lợi ích giữa các loại tài sản đảm bảo mà không có quy định điều chỉnh cụ thể Từ những vấn đề này, nghiên cứu sinh đề xuất một số giải pháp nhằm khắc phục các bất cập đã nêu.

Luận án tập trung làm rõ cơ sở lý luận và phân tích những bất cập trong quy định pháp luật về điều kiện để tài sản bảo đảm (QTS) được sử dụng Dựa trên đặc điểm của các loại QTS như quyền sử dụng đất (QSDĐ), quyền đòi nợ, quyền sở hữu trí tuệ (SHTT), cùng với các vụ tranh chấp liên quan đến cho vay có bảo đảm, luận án đã phân tích các điều kiện cần thiết để QTS trở thành tài sản bảo đảm Qua đó, những bất cập trong pháp luật và thực tiễn áp dụng đã được chỉ ra Luận án đề xuất giải pháp khắc phục các hạn chế, bao gồm việc sửa đổi quy định về quyền sở hữu của bên bảo đảm, đặc biệt là liên quan đến QSDĐ, và xác định quyền sở hữu trong các trường hợp cụ thể liên quan đến QTS SHTT Nổi bật là kiến nghị xây dựng lộ trình xác định QTS hình thành trong tương lai được dùng bảo đảm nghĩa vụ, cùng với đề xuất phạm vi QTS trong các trường hợp cụ thể.

Luận án đã đánh giá tính phù hợp của quy định về xử lý QTSBĐ thông qua phân tích pháp luật và các bản án liên quan, từ đó chỉ ra những hạn chế trong quy định hiện hành Để khắc phục, luận án đề xuất nhiều giải pháp, bao gồm quyền thu giữ tài sản, xác định phạm vi QTSBĐ, quyền định đoạt của NHTM nhận bảo đảm, và xác định thứ tự ưu tiên thanh toán giữa các chủ thể liên quan Đặc biệt, một trong những giải pháp nổi bật là kiến nghị xây dựng khái niệm tài sản phái sinh và các quy định liên quan đến loại tài sản này từ QTSBĐ.

Luận án mới mang đến cách tiếp cận dựa trên nguyên tắc phòng ngừa rủi ro tín dụng, tập trung vào việc bảo vệ quyền lợi của bên nhận bảo đảm là ngân hàng, đồng thời cũng đảm bảo quyền và lợi ích hợp pháp của bên bảo đảm cùng các chủ thể khác trong mối quan hệ với quyền tài sản, tránh thiên lệch về một bên nào.

Kết cấu của luận án

Ngoài lời nói đầu, kết luận, tài liệu tham khảo, nội dung của luận án gồm 4 chương như sau:

Chương 1 Tổng quan về vấn đề nghiên cứu

Chương 2 Những vấn đề chung về quyền tài sản và bảo đảm nghĩa vụ bằng quyền tài sản tại các ngân hàng thương mại

Chương 3 Điều kiện để quyền tài sản được dùng bảo đảm tại các ngân hàng thương mại

Chương 4 Xử lý quyền tài sản được dùng bảo đảm tại các ngân hàng thương mại

TỔNG QUAN VỀ VẤN ĐỀ NGHIÊN CỨU

Tình hình nghiên cứu trong nước và ngoài nước

1.1.1 Các công trình nghiên cứu về quyền tài sản

Nghiên cứu về quyền tài sản (QTS) cho thấy đây là một khái niệm phức tạp, với nhiều khía cạnh khác nhau được các tác giả khai thác Điều này dẫn đến việc cụm từ “quyền tài sản” có nội hàm và ý nghĩa đa dạng, phụ thuộc vào góc nhìn của từng nhà nghiên cứu.

Tác giả Nguyễn Ngọc Điện trong một bài viết “Cần xây dựng lại khái niệm

Trong luật dân sự Việt Nam năm 2005, "quyền tài sản" được coi là một loại quyền chủ thể, thể hiện cách tiếp cận pháp lý về tài sản Theo đó, "quyền" không phải là một loại tài sản mà là một phương thức hiểu biết về tài sản, với quyền và vật được đặt đối lập để thể hiện hai cách hình dung khác nhau về tài sản Tác giả Nguyễn Ngọc Điện cũng chỉ ra rằng tài sản có thể được phân loại theo hai cách: nếu xem là vật, tài sản được chia thành vật hữu hình và vật vô hình; nếu xem là quyền, có thể phân thành quyền đối vật, quyền đối nhân và các quyền theo luật định.

Trong bài viết của Lê Hồng Hạnh về việc sử dụng khái niệm quyền tài sản thay cho vật quyền trong Dự thảo Bộ luật Dân sự (sửa đổi) năm 2015, tác giả chứng minh rằng khái niệm quyền tài sản (QTS) có nội hàm đầy đủ hơn so với khái niệm vật quyền Bài viết phân tích và viện dẫn nhiều khái niệm về tài sản và QTS từ các quốc gia khác nhau, cho thấy rằng QTS không chỉ đơn thuần là tài sản mà còn bao gồm các quyền tài sản khác.

Trong bài viết "Quyền tài sản trong cải cách kinh tế, quan niệm, một bài học nước ngoài và kiến nghị" (năm 2002), tác giả Phạm Duy Nghĩa đã phân tích bản chất của quyền tài sản (QTS) như là cách ứng xử giữa con người liên quan đến tài sản Ông cho rằng QTS liên quan đến sự phân chia tài nguyên khan hiếm, trong đó luôn tồn tại sự tập trung quyền kiểm soát của một cá nhân và giới hạn quyền này đối với người khác Hơn nữa, QTS có thể bị kiểm soát và chia sẻ lợi ích giữa nhiều chủ thể khác nhau Quan điểm này phản ánh sự phức tạp trong mối quan hệ tài sản trong xã hội.

4 Nguyễn Ngọc Điện, (2005), “Cần xây dựng lại khái niệm "quyền tài sản" trong luật dân sự Việt Nam”, Tạp chí

Nghiên cứu lập pháp, (3)(50), tr 16-21

Trong bài viết của Lê Hồng Hạnh (2015), tác giả đề xuất việc thay thế khái niệm vật quyền bằng quyền tài sản trong Dự thảo Bộ luật Dân sự (sửa đổi) Bài viết đăng trên Tạp chí Nhà nước và Pháp luật, số 4, trang 3-10, phân tích những lợi ích và tính hợp lý của việc áp dụng khái niệm quyền tài sản, nhằm nâng cao tính minh bạch và hiệu quả trong quản lý tài sản.

Trong bài viết của Phạm Duy Nghĩa (2002) mang tiêu đề “Quyền tài sản trong cải cách kinh tế, quan niệm, một bài học nước ngoài và kiến nghị”, tác giả đã phân tích khái niệm quyền tài sản (QTS) không chỉ dừng lại ở việc hiểu nó như một loại tài sản thông thường, mà còn mở rộng ra tất cả các quyền có giá trị kinh tế có thể quy đổi thành tiền Tác giả nhấn mạnh rằng, dù pháp luật hiện hành có công nhận hay không, QTS vẫn cần được nhìn nhận từ góc độ kinh tế, theo học thuyết “Bundle of rights” của Harold Demsetz.

Trong bài viết “Tổng luận về chế định tài sản trong Dự thảo Bộ luật Dân sự 2005 sửa đổi” của tác giả Ngô Huy Cương (năm 2015), tài sản được phân loại thành hai loại chính: hữu hình và vô hình, cũng như bất động sản và động sản Tài sản hữu hình là những vật thể cụ thể, trong khi tài sản vô hình đại diện cho các quyền Các vật thể này đáp ứng nhu cầu vật chất và tinh thần của con người, trong khi tài sản vô hình, hay còn gọi là quyền tài sản, bao gồm quyền đối vật, quyền đối nhân và quyền sở hữu trí tuệ.

Trong nghiên cứu của Vũ Thị Hồng Yến (2017) về "Tài sản thế chấp và xử lý tài sản thế chấp theo quy định của Bộ luật dân sự năm 2015", tác giả đã phân loại tài sản thành hai loại chính: hữu hình và vô hình Tác giả định nghĩa tài sản bao gồm vật chất (tài sản hữu hình) và quyền lợi (tài sản vô hình), đồng thời đồng nhất quyền tài sản với tài sản vô hình Tuy nhiên, nghiên cứu chưa xác định rõ ràng phạm vi của các tài sản vô hình và hữu hình, dẫn đến sự tranh cãi về việc trong một số trường hợp, yếu tố vô hình có thể tồn tại trong các vật hữu hình.

Trong bài viết của Nguyễn Văn Vân (2020) về "Tài sản và quyền sở hữu - kinh nghiệm từ pháp luật Liên bang Nga", tác giả đã phân tích quy định về tài sản của Liên Bang Nga và so sánh với quy định tại Việt Nam Bài viết chỉ ra sự khác biệt trong cách nhìn nhận quyền tài sản giữa hai quốc gia, đồng thời giải thích rằng pháp luật Nga phân chia tài sản thành hai nhóm: vật và tài sản vô hình, dựa trên tính chất vật lý Tác giả cũng làm rõ bản chất của các giấy tờ có giá như là tài sản vô hình Nhờ đó, bài viết đã cung cấp cho tác giả luận án một góc nhìn mới về quyền tài sản, giúp nhận thức rõ hơn về phạm vi và bản chất của vấn đề này.

7 Harold Demsetz (1967), “Toward a Theory of Property Rights”, The American Economic Review, Vol 57, (2), tr 347-359

Ngô Huy Cương trong bài viết “Tổng luận về chế định tài sản trong Dự thảo Bộ luật Dân sự 2005 sửa đổi” đã trình bày những điểm quan trọng về chế định tài sản, nghĩa vụ và hợp đồng Bài viết được công bố trong Kỷ yếu Tọa đàm do Trường Đại học Quốc gia Hà Nội tổ chức, góp phần làm rõ những nội dung chính trong Dự thảo Bộ luật Dân sự 2005 sửa đổi.

Nội tổ chức ngày 05/02/2015 tại Trường Đại học Quốc gia Hà Nội, tr 9

Tài sản thế chấp và quy trình xử lý tài sản thế chấp được quy định trong Bộ luật dân sự năm 2015 là một chủ đề quan trọng Theo Vũ Thị Hồng Yến (2017), những quy định này không chỉ đảm bảo quyền lợi của các bên liên quan mà còn góp phần vào sự ổn định của thị trường tài chính Việc hiểu rõ các quy định về tài sản thế chấp là cần thiết để thực hiện đúng các thủ tục pháp lý và bảo vệ quyền lợi hợp pháp.

10 Nguyễn Văn Vân, (2020), “Tài sản và quyền sở hữu - kinh nghiệm từ pháp luật Liên bang Nga”, Tạp chí Khoa học pháp lý Việt Nam, (4)(104), tr 34-47

Trong "Giáo trình Pháp luật về tài sản, quyền sở hữu và quyền thừa kế" (2019) của Trường Đại học Luật Thành phố Hồ Chí Minh, Lê Minh Hùng và các tác giả đã đưa ra khái niệm quyền tài sản (QTS) như một loại tài sản, đồng thời liệt kê một số QTS cơ bản Tuy nhiên, nhóm tác giả vẫn chưa nhất quán trong việc xác định một số QTS dạng vật quyền Điểm mới của khái niệm là việc lần đầu tiên đưa yếu tố quyền dân sự vào QTS, thể hiện sự tiến bộ trong nhận thức về tài sản QTS được xác định bao gồm các quyền mang tính đối vật, đối nhân, tố quyền về tài sản và các QTS vô hình tuyệt đối Nhóm tác giả cũng đã diễn giải và phân tích các quyền tương ứng với các dạng quyền đã xác định, cung cấp kiến thức cơ bản về QTS cho người đọc.

Trong cuốn sách "Bảo đảm quyền tài sản trong nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam hiện nay" (2019), nhóm tác giả Trần Văn Biên và các cộng sự đã trình bày quan niệm về quyền tài sản (QTS) trong pháp luật Việt Nam, coi QTS là một loại tài sản Tác giả đã giải thích khái niệm và đặc trưng của QTS dựa trên Điều 115 Bộ luật Dân sự 2015 Ngoài ra, cuốn sách cũng đề cập đến một số QTS tiêu biểu, bao gồm quyền sở hữu trí tuệ (SHTT) và quyền sử dụng đất (QSDĐ).

Phan Chí Hiếu và các tác giả khác (2021) trong cuốn sách "Quyền sở hữu và quyền khác đối với tài sản: pháp luật, thực tiễn và kiến nghị" đã phân tích các khía cạnh pháp lý liên quan đến tài sản và quyền sở hữu Họ cũng đưa ra những kiến nghị quan trọng về các vấn đề này Đặc biệt, nhóm tác giả đã gợi mở và phân tích một số loại tài sản mới, chưa có tiền lệ, xuất hiện từ sự phát triển mạnh mẽ của khoa học công nghệ, được xác định là quyền tài sản.

Trong kỷ nguyên công nghệ số, các loại tài sản "có thể trị giá được bằng tiền" ngày càng phong phú, bao gồm tên miền, địa chỉ email, tài sản ảo trong game, tiền ảo và các tài sản ảo khác Nhiều tác giả đã nghiên cứu về quyền sở hữu những tài sản này, như bài viết của Thụy Anh nêu ra các quan điểm trái ngược về việc công nhận "tài sản ảo" và vấn đề điều chỉnh pháp lý liên quan, trong khi bài viết của Trương Hồ Hải phân tích bản chất của "tài sản ảo" và đặt ra các vấn đề cần được giải quyết.

11 Trường Đại học Luật Thành phố Hồ Chí Minh (2019), Giáo trình pháp luật về tài sản, quyền sở hữu và thừa kế

(tái bản có sửa đổi, bổ sung), Lê Minh Hùng chủ biên, NXB Hồng Đức, Hà Nội, tr 38-48

Câu hỏi nghiên cứu và giả thuyết nghiên cứu

Câu hỏi nghiên cứu tổng quát đề cập đến việc làm thế nào để thúc đẩy và đa dạng hóa các quy trình tài sản (QTS) được sử dụng trong các ngân hàng thương mại (NHTM) tại Việt Nam Để đạt được hiệu quả tối ưu trong việc sử dụng QTS, cần phải hoàn thiện các quy định pháp luật liên quan Việc cải thiện này sẽ góp phần nâng cao hiệu quả quản lý và sử dụng QTS trong hệ thống ngân hàng, từ đó thúc đẩy sự phát triển bền vững của ngành tài chính.

Luật thực định của Việt Nam về việc bảo đảm nghĩa vụ bằng quyền tài sản trong hoạt động cấp tín dụng của các ngân hàng thương mại hiện đang lạc hậu so với lý thuyết pháp lý Trong những năm qua, nhiều quyền tài sản có giá trị lớn không được ngân hàng nhận làm tài sản bảo đảm, dẫn đến việc hạn chế khả năng cấp tín dụng hiệu quả.

NH thường nhận TSBĐ là tài sản hữu hình

Luật thực định về bảo đảm nghĩa vụ bằng QTS tại Việt Nam hiện còn nhiều bất cập, không đáp ứng yêu cầu của quan hệ kinh tế thị trường Điều này dẫn đến việc quy định pháp luật không thể điều chỉnh hiệu quả các quan hệ dân sự kinh tế Để cải thiện tình hình, cần nhận diện rõ ràng đặc tính các loại QTS, đảm bảo các quy định về điều kiện của QTSBĐ đầy đủ và thuận lợi cho các bên, đồng thời bảo vệ lợi ích chính đáng của các bên trong việc xử lý QTSBĐ, đặc biệt là quyền truy đòi và thứ tự ưu tiên Nếu luật pháp đáp ứng được những yêu cầu này, sẽ mở rộng khả năng sử dụng QTS trong bảo đảm nghĩa vụ, tạo nhiều cơ hội tiếp cận tín dụng cho các chủ thể.

Câu hỏi và giả thuyết nghiên cứu cụ thể:

Câu hỏi cụ thể thứ nhất: Cơ sở lý luận về bảo đảm nghĩa vụ bằng QTS tại các

NHTM là gì? Các loại QTS nào được dùng bảo đảm nghĩa vụ?

Giả thuyết nghiên cứu cho rằng các QTS (quyền tài sản) là vô hình và đa dạng, do đó việc xây dựng các quy định liên quan đến QTSBĐ (quyền tài sản bất động) không chỉ dựa trên các quy định chung về TSBĐ (tài sản bất động) mà còn cần phải phù hợp với đặc điểm riêng của QTS.

Các vấn đề lý luận về quyền tài sản (QTS) và đặc tính của nó, bao gồm bản chất, đặc trưng trong việc bảo đảm nghĩa vụ bằng QTS, cùng với đặc điểm pháp lý của QTS, là nền tảng quan trọng để xây dựng các quy định liên quan đến việc bảo đảm nghĩa vụ trong hoạt động cho vay của các ngân hàng thương mại (NHTM).

Các loại tài sản đảm bảo (QTS) được phép sử dụng để bảo đảm nghĩa vụ có phạm vi rộng hơn so với quy định của luật pháp Việt Nam Việc nhận diện các loại QTS này và mối quan hệ giữa chúng trong việc bảo đảm nghĩa vụ theo pháp luật Việt Nam vẫn còn nhiều vấn đề cần được làm rõ.

Câu hỏi nghiên cứu thứ hai tập trung vào các điều kiện pháp lý mà QTS cần đáp ứng để trở thành tài sản bảo đảm (TSBĐ) Bên cạnh đó, bài viết cũng phân tích những hạn chế trong các quy định pháp lý liên quan đến QTS, ảnh hưởng đến khả năng trở thành TSBĐ tại các ngân hàng thương mại (NHTM).

Để QTS trở thành tài sản bảo đảm (TSBĐ), nó cần đáp ứng các điều kiện chung như thuộc quyền sở hữu của bên bảo đảm, có khả năng chuyển giao trong giao dịch và có thể xác định được Tuy nhiên, các điều kiện này đối với QTSBĐ bị ảnh hưởng bởi đặc tính chung của QTS, vốn là vô hình và thường liên quan đến chủ thể thứ ba, cùng với đặc tính riêng của từng loại QTS Do đó, nội dung cụ thể về các điều kiện sẽ có sự khác biệt khi xác định khả năng sử dụng của chúng để bảo đảm nghĩa vụ.

Pháp luật hiện hành về điều kiện để quyền tài sản (QTS) trở thành tài sản bảo đảm (TSBĐ) còn nhiều hạn chế, đặc biệt là trong việc xác định chủ sở hữu của bên bảo đảm trong các trường hợp sở hữu chung và quyền sở hữu đối với các QTS mới phát sinh Ngoài ra, sự can thiệp của bên thứ ba trong việc quy định tính chuyển nhượng và tính xác định của TSBĐ vẫn thiếu hướng dẫn cụ thể và phù hợp, đặc biệt là trong việc xác định QTS hình thành trong tương lai.

Câu hỏi nghiên cứu thứ ba đề cập đến những bất cập trong các quy định xử lý QTSBĐ, ảnh hưởng đến an toàn tín dụng ngân hàng và quyền lợi của bên bảo đảm cũng như các chủ thể liên quan Việc xem xét kỹ lưỡng các quy định hiện hành là cần thiết để đảm bảo tính hiệu quả và công bằng trong quá trình xử lý tài sản bảo đảm.

Nghiên cứu chỉ ra rằng pháp luật hiện hành gặp nhiều bất cập trong các quy định liên quan đến quyền truy đòi QTSBĐ, bao gồm tính thực thi, phương thức xử lý, xác định phạm vi và thứ tự ưu tiên khi xử lý QTSBĐ Những vấn đề này xuất phát từ việc quy định quyền truy đòi chưa đảm bảo tính chủ động cho ngân hàng trong việc thu giữ tài sản, cũng như kiểm soát QTSBĐ vô hình, đặc biệt khi có bên thứ ba liên quan Bên cạnh đó, quy định về định đoạt QTSBĐ còn dè dặt, chưa tạo điều kiện cho ngân hàng thương mại chủ động hơn trong xử lý Cuối cùng, chưa có một trật tự quyền ưu tiên rõ ràng, vừa đảm bảo an toàn cho hệ thống ngân hàng, vừa bảo vệ quyền lợi của bên bảo đảm và các bên liên quan một cách công bằng.

Câu hỏi nghiên cứu thứ tư: Giải pháp pháp lý nào nhằm thúc đẩy, đa dạng hóa

QTS được sử dụng để đảm bảo nghĩa vụ và nâng cao hiệu quả trong hoạt động cho vay của các ngân hàng thương mại (NHTM) tại Việt Nam Việc áp dụng QTS giúp các NHTM quản lý rủi ro tốt hơn, đồng thời tăng cường khả năng thu hồi nợ, từ đó nâng cao hiệu quả kinh doanh Sử dụng QTS không chỉ bảo vệ quyền lợi của ngân hàng mà còn tạo sự tin tưởng cho khách hàng trong các giao dịch vay vốn.

Giả thuyết nghiên cứu cho rằng việc hoàn thiện pháp luật về bảo đảm nghĩa vụ bằng quyền tài sản (QTS) là cần thiết để đáp ứng nhu cầu phát triển kinh tế, xã hội Luận án đề xuất các kiến nghị nhằm khắc phục những hạn chế của pháp luật hiện hành, đặc biệt liên quan đến quyền sử dụng đất, quyền đòi nợ, quyền tài sản trong lĩnh vực sở hữu trí tuệ, cũng như phần vốn góp và cổ phần Những đề xuất này không chỉ thúc đẩy tín dụng ngân hàng mà còn đảm bảo an toàn và lành mạnh trong hoạt động cho vay của các ngân hàng thương mại Các giải pháp hoàn thiện pháp luật dựa trên thực tiễn bảo đảm nghĩa vụ bằng QTS và nhu cầu điều chỉnh pháp luật sao cho phù hợp với đặc tính của các QTS, đồng thời học hỏi kinh nghiệm từ một số quốc gia trên thế giới.

Cơ sở lý thuyết của đề tài

1.3.1 Lý thuyết về rủi ro, quản trị rủi ro trong hoạt động ngân hàng

Lý thuyết quản trị rủi ro tín dụng, xuất phát từ các lý thuyết cổ điển về ngân hàng, đã được nhiều nhà kinh tế học phát triển qua thời gian Rủi ro tín dụng được xác định là rủi ro chủ yếu mà ngân hàng phải đối mặt trong các giao dịch với khách hàng và đối tác, do đó quản trị rủi ro trở thành một yếu tố quan trọng cần kiểm soát trong hoạt động ngân hàng Để quản trị rủi ro tín dụng hiệu quả, có năm yếu tố chính cần xem xét: tính cách, năng lực, vốn, điều kiện và tài sản bảo đảm Việc xác định và ngăn ngừa rủi ro, gian lận bao gồm các hoạt động như báo cáo tình hình tài sản bảo đảm, kiểm tra những thay đổi lớn và kiểm tra định kỳ thực tế Lý thuyết này cũng nhấn mạnh tầm quan trọng của quản trị tài sản bảo đảm và sự cần thiết điều chỉnh bằng pháp luật để bảo đảm nghĩa vụ trong hoạt động cho vay của ngân hàng thương mại.

1.3.2 Lý thuyết về tài sản

The theory of intermediation in banking has been extensively studied by economists throughout various periods Notably, Richard A Werner's 2016 work, "A Lost Century in Economics: Three Theories of Banking and the Conclusive Evidence," published in the International Review of Financial Analysis, offers significant insights into this subject.

The evolution of financial theories has been shaped by numerous influential works, including key contributions from Gurley and Shaw (1955), Tobin (1969), and Diamond and Dybvig (1983) Subsequent research by Baltensperger (1980), Diamond (various years), and others such as Eatwell, Milgate, and Newman (1989) has further advanced our understanding of financial systems Notable studies by Gorton and Pennacchi (1990), Bencivenga and Smith (1991), and Bernanke and Gertler (1995) have explored the dynamics of banking and credit markets More recent analyses by Rajan (1998), Allen and Gale (2004), and Kashyap, Rajan, and Stein (2002) continue to inform contemporary economic discourse, highlighting the importance of these foundational theories in shaping modern financial practices.

(2011) and Stein (2014) Trích dẫn lại từ Trương Tuyết Minh, tlđd (25), tr.42

Several authors have explored the topic of risk in banking activities, including Kupper, E F (2000) in "Risk Management in Banking, Crisis"; Vyas, M., & Singh, S (2011) in "Risk Management in Banking Sector," published in BVIMR Management Edge, 4(1); and Bessis, J (2011) in "Risk Management in Banking," released by John Wiley & Sons.

68 Richard J Kerwin, (1995), “Bankcruptcy fraud”, The Secured Lender, tr 90

69 Richard J Kerwin, (1995), “Inventory fraud and field examination”, The Secured Lender, tr 24-32

70 Messod D Beneish (1999), “The detection of earnings manipulation”, Financial Analysis Journal, tr 24-36

71 Lewis Koflowits, (1997), “Reducing risks and exposure to fraud”, The Secured Lender, tr 8-12

Lý thuyết về tài sản là một lĩnh vực đa dạng với nhiều quan điểm và trường phái khác nhau, phản ánh sự tiến hóa của khái niệm tài sản qua các giai đoạn lịch sử Một số nội dung quan trọng trong lý thuyết này bao gồm các khía cạnh như giá trị, quyền sở hữu và sự phân bổ tài nguyên.

Wesley Newcomb Hohfeld trong các công trình của mình đã chỉ ra rằng khái niệm tài sản không chỉ bao gồm quyền sở hữu mà còn cả đặc quyền và quyền lực Theo Hohfeld, tài sản được hiểu là một tập hợp các quyền, trong đó mối quan hệ pháp lý giữa con người là yếu tố chính, không phải giữa con người và vật Harold Demsetz cũng nhấn mạnh rằng tài sản là một nhóm quyền và các quyền này có thể được chia sẻ giữa nhiều chủ thể khác nhau Barzel đóng góp vào lý thuyết tài sản bằng cách đặt giá trị vào

72 lý thuyết về tài sản đã dẫn đến sự phát triển của nhiều học thuyết và trường phái khác nhau, bao gồm học thuyết quyền tự nhiên, chủ nghĩa thực chứng, thuyết khái niệm, thuyết vị lợi và thuyết tân khái niệm Những tác giả tiêu biểu trong lĩnh vực này gồm có Aristotle, Locke, Jeremy Bentham và William.

73 Wesley Newcomb Hohfeld, (1917), “Fundamental Legal Conceptions as Applied in Judicial Reasoning”, Yale

74 Wesley Newcomb Hohfeld, (1913), “Some Fundamental Legal Conceptions as Applied in Judicial Reasoning”, Yale Law Journal

In his 1961 work "Ownership," featured in the Oxford Essays on Jurisprudence published by Oxford University Press, 75 AM Honore provides a definition of property rights that introduces the concept of "the bundle of rights." This perspective emphasizes the multifaceted nature of ownership, highlighting the various rights associated with property.

Quan điểm của Hohfeld là một công cụ quan trọng trong việc phân tích và hiểu rõ các quyền sở hữu trong luật tài sản Theo Hohfeld, bản chất của luật tài sản được thể hiện qua việc thu thập các quyền (sticks) trong một tập hợp quyền (the bundle of rights) Việc bóc tách các vật quyền này giúp làm rõ hơn về các khía cạnh pháp lý liên quan đến quyền sở hữu.

77 Harold Demsetz, (1967), “Toward a Theory of Property Rights”, The American Economic Review, Vol 57, tr 347-359

Yoram Barzel's 1997 work, "Economic Analysis of Property Rights," explores the implications of property rights in economic contexts It highlights the prioritization of secured creditors in cases of conflicting interests between them and third parties controlling the collateral This analysis is crucial for understanding the dynamics of secured transactions in financial institutions.

Lý thuyết của Guido Calabresi và Douglas Melamed trong “Property Rules, Liability Rules, and Inalienability: One View of the Cathedral” phân tích hiệu lực của các quyền trong khái niệm tài sản, xác định rằng tài sản bao gồm ba quy tắc bảo vệ quyền: quy tắc tài sản, quy tắc không thể chuyển nhượng và quy tắc trách nhiệm pháp lý Quyền được bảo vệ bởi quy tắc không thể chuyển nhượng không thể chuyển nhượng ngay cả với sự đồng ý của chủ sở hữu, trong khi quyền theo quy tắc tài sản có thể được chuyển nhượng theo giá thỏa thuận Đặc biệt, quyền theo quy tắc trách nhiệm pháp lý có thể bị lấy đi bởi bên thứ ba với giá do bên thứ ba xác định, và chủ sở hữu không có quyền bác bỏ điều này Lý thuyết này cũng áp dụng cho giao dịch bảo đảm bằng quyền tài sản trong hoạt động ngân hàng, cho thấy rằng thỏa thuận chuyển giao quyền sở hữu tài sản bảo đảm là hợp pháp và có hiệu lực.

Gần đây, các học giả theo thuyết tân khái niệm và thuyết vị lợi đã thống nhất quan điểm về nhiệm vụ của luật tài sản, nhấn mạnh vào bản chất vật quyền và nguyên tắc giới hạn quy tắc vật quyền Tác giả Henry E Smith và Merrill trong các bài viết "Tiêu chuẩn hóa tối ưu trong luật tài sản: các nguyên tắc giới hạn" và "Sự giao thoa tài sản/hợp đồng" đã làm rõ những khía cạnh này, khẳng định tầm quan trọng của việc hệ thống hóa quy tắc vật quyền trong luật tài sản.

E Smith,“The Language of Property: Form, Context, and Audience” 83 (Ngôn ngữ của tài sản: hình thức, bối cảnh và quyền được lên tiếng), cho rằng, khi phạm vi của quyền sở hữu càng rộng thì chi phí tìm kiếm thông tin càng tăng đối với bên thứ ba Đồng thời, các quan điểm cũng cho rằng, vì hợp đồng chỉ tạo ra quyền đối nhân và không thể ảnh hưởng tới các bên thứ ba, nên luật hợp đồng không cần tiêu chuẩn hóa Trong khi, luật tài sản có nhiệm vụ: xác định rõ và cố định các vật quyền để giảm chi phí phân bổ thông tin về nguồn gốc tài sản và những quyền kèm theo của nó Lý thuyết này được sử dụng trong các phân tích về nội dung thỏa thuận bảo đảm bằng QTS Theo đó, vì yêu cầu tiêu

79 Guido Calabresi và Douglas Melamed, (1972), “Property Rules, Liability Rules, and Inalienability: One View of the Cathedral”, Harvard Law Review, Vol 85, Number 6

80 Xem Trương Tuyết Minh, tlđd (25), tr 38

81 Henry E Smith và Merrill, (2000),” Optimal Standardization in the Law of Property: The Numerus Clausus Principle”, Yale Law Journal

82 Henry E Smith và Merrill, (2001), “Property/Contract Interface”, Law Review

In his 2003 article "The Language of Property: Form, Context, and Audience" published in the Stanford Law Review, Henry E Smith emphasizes the importance of standardizing property rights He argues that agreements for the transfer of ownership rights, particularly those conditioned by secured transactions, must be recognized as legal agreements and classified as secured transactions under the law.

Quan điểm của Barzel trong công trình "Phân tích kinh tế của quyền tài sản" cho rằng luật pháp chỉ là một trong những công cụ bảo vệ giá trị tài sản, và quyền sở hữu không thể là cơ chế duy nhất để hiểu về tài sản Giá trị của tài sản vẫn tồn tại và hữu ích cho các chủ thể khác, trong khi sự bảo vệ của pháp luật không phải là tuyệt đối và cần có chi phí nhất định Quan điểm này tương đồng với lý thuyết của Grossman, Hart và Moore về quyền định đoạt cuối cùng, nhấn mạnh rằng cấu trúc sở hữu tối ưu yêu cầu chủ sở hữu chuyển giao một phần quyền sở hữu cho những người có khả năng kiểm soát thông tin cần thiết Lý thuyết của Barzel hỗ trợ việc xác định nhu cầu của các chủ thể giao dịch bảo đảm, đồng thời yêu cầu bảo vệ công bằng quyền lợi của các chủ thể khác so với các chủ nợ có bảo đảm cần được quy định rõ ràng trong trật tự quyền ưu tiên.

Phương pháp luận, cách tiếp cận và phương pháp nghiên cứu

Luận án áp dụng phương pháp luận của chủ nghĩa Mác – Lênin, kết hợp với chủ nghĩa duy vật biện chứng và duy vật lịch sử, nhằm giải quyết các vấn đề pháp luật và nhu cầu điều chỉnh nghĩa vụ bằng QTS trong thời đại công nghệ số Nghiên cứu tập trung vào mối quan hệ giữa kiến trúc thượng tầng và cơ sở hạ tầng, phân tích thực trạng bảo đảm nghĩa vụ bằng QTS và những hạn chế của hệ thống pháp luật hiện hành, bao gồm điều kiện QTSBĐ và xử lý QTSBĐ Ngoài ra, luận án còn kết hợp các phương pháp luận khác như lý thuyết về rủi ro và quản trị rủi ro trong hoạt động để giải quyết các vấn đề nêu trên.

104 Xem George Akerlof, “The Market for Lemons: Quality Uncertainty and the Market Mechanism”, The Quarterly Journal of Economics, No 3, Vol 84 (1970): 488-500; Busuioc, A N D R A D A., & Birau, R R

(2011) “The Role of Information Asymmetry in the Outburst and the Deepening of the Contemporary Economic Crisis”, Academy of Economic Studies Journal, tr 891-902

Lý thuyết tài sản và quyền sở hữu đóng vai trò quan trọng trong việc xác định quyền lợi của cá nhân đối với tài sản Các khái niệm về vật quyền và trái quyền giúp phân biệt giữa quyền sở hữu và quyền sử dụng tài sản Bên cạnh đó, lý thuyết hợp đồng là cơ sở cho các thỏa thuận giữa các bên, trong khi lý thuyết chi phí giao dịch nhấn mạnh tầm quan trọng của việc giảm thiểu chi phí trong các giao dịch Cuối cùng, lý thuyết thông tin bất cân xứng chỉ ra rằng sự thiếu hụt thông tin có thể dẫn đến các quyết định không tối ưu trong thị trường.

1.4.2 Về cách tiếp cận của luận án

Luận án tập trung vào việc xác định cơ chế nhằm biến QTS thành tài sản bảo đảm phổ biến trong hoạt động cho vay của các ngân hàng thương mại Tác giả sẽ tiếp cận vấn đề này một cách cụ thể để nâng cao hiệu quả sử dụng QTS trong thực tiễn.

Cách tiếp cận trong cấu trúc luận án được thiết kế kết hợp giữa cấu trúc ngang và dọc nhằm phân tích hiệu quả Cấu trúc ngang giúp làm rõ các vấn đề cụ thể, trong khi cấu trúc dọc đảm bảo tính hệ thống và liên kết mạch lạc cho toàn bộ luận án.

Luận án này tập trung vào hai nội dung trọng tâm liên quan đến việc đánh giá điều kiện pháp lý để quyền tài sản trở thành tài sản bảo đảm trong hoạt động cho vay tại ngân hàng thương mại, và cách xử lý quyền tài sản bảo đảm trong các giao dịch cho vay Điều kiện pháp lý đóng vai trò quan trọng, làm cơ sở cho ngân hàng nhận quyền tài sản bảo đảm nghĩa vụ, trong khi xử lý quyền tài sản bảo đảm là bước cuối cùng giúp ngân hàng thu hồi nợ khi xảy ra sự kiện bảo đảm, từ đó giảm thiểu rủi ro tín dụng.

Luận án được cấu trúc theo ba phần chính: đầu tiên là lý luận chung về bảo đảm nghĩa vụ bằng QTS, tiếp theo là phân tích thực trạng pháp luật hiện hành về vấn đề này, và cuối cùng là đề xuất các giải pháp nhằm hoàn thiện hệ thống pháp luật liên quan đến bảo đảm nghĩa vụ bằng QTS.

Luận án tập trung vào việc dung hòa lợi ích của các bên trong quan hệ bảo đảm, bao gồm ngân hàng thương mại nhận bảo đảm, bên bảo đảm và bên thứ ba có liên quan, thay vì nghiêng về việc bảo vệ cho một chủ thể cụ thể nào.

Luận án này tiếp tục phát triển các kết quả nghiên cứu đã được công bố trước đó, nhằm làm rõ thêm các vấn đề lý luận và thực tiễn liên quan đến việc bảo đảm nghĩa vụ bằng quyền tài sản tại các ngân hàng thương mại.

Luận án này tập trung vào việc phân tích các quy định về điều kiện để QTS trở thành TSBĐ, đồng thời xử lý QTSBĐ thông qua việc so sánh và đối chiếu với các quy định của các nước tiên tiến trong lĩnh vực này.

Luận án kết hợp lý thuyết khoa học với luật thực định, tạo sự gắn kết chặt chẽ giữa lý luận và thực tiễn nhằm đạt được kết quả nghiên cứu khoa học tối ưu.

Phương pháp phân tích được áp dụng để làm rõ và đánh giá các lý thuyết, quan điểm, quy định pháp luật cũng như tình huống thực tiễn liên quan đến việc đảm bảo nghĩa vụ bằng QTS trong hoạt động cho vay của ngân hàng thương mại Phương pháp này được sử dụng xuyên suốt trong nội dung của luận án.

Tác giả áp dụng phương pháp tổng hợp để hệ thống hóa tài liệu và công trình nghiên cứu khoa học trong và ngoài nước, nhằm làm rõ nội dung và kết quả nghiên cứu về QTSBĐ Qua đó, tác giả xác định những vấn đề cần tiếp tục nghiên cứu cho luận án.

Phương pháp tổng hợp được áp dụng để khái quát hóa và rút ra kết luận từ việc phân tích, đánh giá các ý kiến và luận điểm khoa học về lý luận Đồng thời, phương pháp này cũng được sử dụng sau khi phân tích thực trạng và thực tiễn liên quan đến việc đảm bảo nghĩa vụ bằng chất lượng tín dụng tại các ngân hàng thương mại (NHTM) ở Việt Nam.

1.4.3.3 Phương pháp phân tích tình huống

Trong các chương 3 và 4, phương pháp phân tích được áp dụng chủ yếu để đánh giá thực trạng các tranh chấp liên quan đến quyền sử dụng đất trong lĩnh vực cho vay của ngân hàng thương mại tại Việt Nam Phương pháp này giúp làm rõ các vấn đề pháp lý trong từng tình huống, từ đó tìm ra hướng giải quyết tranh chấp dựa trên các quy định pháp luật hiện hành.

1.4.3.4 Phương pháp so sánh luật học

Phương pháp so sánh được áp dụng để đối chiếu quy định pháp luật của Việt Nam với các quốc gia khác về việc xác định phạm vi quyền tài sản (QTS) sử dụng để đảm bảo nghĩa vụ Bài viết cũng phân tích các điều kiện pháp lý cần thiết để QTS trở thành tài sản bảo đảm (TSBĐ), quyền truy đòi và quyền định đoạt của bên nhận bảo đảm trong quá trình xử lý TSBĐ, cũng như thứ tự ưu tiên thanh toán trong các giao dịch liên quan.

NHỮNG VẤN ĐỀ CHUNG VỀ QUYỀN TÀI SẢN VÀ BẢO ĐẢM NGHĨA VỤ BẰNG QUYỀN TÀI SẢN TẠI CÁC NGÂN HÀNG THƯƠNG MẠI

Khái niệm, phân loại quyền tài sản

2.1.1 Khái niệm quyền tài sản

Các nhà nghiên cứu tiếp cận QTS từ nhiều góc độ khác nhau, bao gồm việc xem QTS như một quyền chủ thể và như một khái niệm pháp lý liên quan đến tài sản.

QTS dưới khía cạnh là một loại quyền chủ thể

Theo Đại từ điển kinh tế thị trường, quyền tài sản (QTS) được định nghĩa là quyền đối xứng của quyền nhân thân, thể hiện quyền lợi dân sự với nội dung cụ thể về của cải vật chất và mang lại lợi ích kinh tế QTS có thể được phân loại thành quyền tài sản công (thuộc về công), quyền tài sản tư hữu (thuộc về cá nhân) và quyền tài sản cá nhân Ngoài ra, QTS còn được chia thành quyền sở hữu và trái quyền (quyền chủ nợ).

Quyền chủ thể là sự thừa nhận của pháp luật về quyền lợi mà một chủ thể được hưởng, và tất cả mọi người khác phải tôn trọng quyền lợi đó Nó bao gồm các hành vi của một chủ thể cụ thể, được pháp luật cho phép và bảo vệ bằng sức mạnh cưỡng chế của Nhà nước, liên quan đến tài sản hoặc cá nhân Dựa trên giá trị tài sản của quyền, quyền chủ thể được phân thành hai loại: quyền nhân thân không thể định giá bằng tiền và quyền tài sản có thể định giá bằng tiền.

Theo cách hiểu này, phạm trù quyền tài sản (QTS) rất đa dạng, bao gồm không chỉ quyền sở hữu mà còn quyền ưu tiên thanh toán, quyền thế chấp, cầm cố, quyền hưởng dụng, quyền chuyển nhượng, quyền cho thuê và quyền sử dụng.

QTS, dưới góc độ pháp lý, vẫn chưa có một định nghĩa thống nhất trong lĩnh vực tài sản Các nhà nghiên cứu hiện nay tiếp cận khái niệm QTS từ nhiều khía cạnh khác nhau, dẫn đến những quan niệm rộng và hẹp khác nhau về nó.

QTS được hiểu là một cách nhìn nhận mới về tài sản, theo luật La Mã cổ đại, tài sản được định nghĩa là vật (res) Trong ngôn ngữ pháp lý La Tinh, "res" không chỉ ám chỉ một vật thể cụ thể mà còn thể hiện quyền trừu tượng mà con người sở hữu đối với vật đó.

105 Nguyễn Hữu Quỳnh và các tác giả khác (1998), Đại từ điển kinh tế thị trường, Viện nghiên cứu và phổ biến tri thức bách khoa, Hà Nội, tr 1953

106 Nguyễn Ngọc Điện (2005), tlđd (4), tr 17-18

Giáo trình "Pháp luật về tài sản, quyền sở hữu và thừa kế" do Lê Minh Hùng chủ biên, được xuất bản bởi NXB Hồng Đức và Hội luật gia Việt Nam vào năm 2019, cung cấp cái nhìn sâu sắc về các quy định pháp lý liên quan đến tài sản và quyền thừa kế Tài liệu này không chỉ là nguồn tham khảo hữu ích cho sinh viên luật mà còn hỗ trợ các chuyên gia trong lĩnh vực pháp lý.

38 của quyền thì con người là chủ thể của quyền Chính trong quan hệ đó mà vật được coi là tài sản 108 Có lẽ chính vì “res” vừa được hiểu là “vật” và cũng được hiểu là “quyền” nên các hệ thống pháp luật hiện nay đã tiếp cận khái niệm tài sản theo hai hướng “vật” hoặc “quyền” Như vậy, nếu tiếp cận (hình dung) tài sản là quyền thì QTS có phạm trù đồng nhất với tài sản

Theo tác giả Nguyễn Ngọc Điện, trong lĩnh vực pháp luật tài sản, quyền và vật không được phân chia thành hai loại tài sản khác nhau mà được nhìn nhận dưới hai cách tiếp cận khác nhau Về mặt pháp lý, tài sản có thể được nhận diện là vật hoặc quyền, với vật bao gồm vật hữu hình và vô hình, và quyền được chia thành quyền đối vật, quyền đối nhân và các quyền khác theo quy định của pháp luật Do đó, QTS có thể được hiểu là tài sản được tiếp cận từ khía cạnh quyền.

Theo tác giả Lê Hồng Hạnh, học thuyết và pháp luật các nước xác định tài sản bao gồm các quyền đối với vật, trong đó bất kỳ vật nào mà cá nhân có quyền được pháp luật bảo vệ đều được coi là tài sản Tài sản không chỉ bao gồm quyền sở hữu tuyệt đối mà còn cả những quyền khác Pháp luật định nghĩa tài sản là hệ thống các quyền liên quan đến vật hữu hình và vô hình Do đó, khái niệm QTS được hiểu rộng rãi và đồng nhất với tài sản, bao gồm mọi quyền và lợi ích có giá trị đối với vật hữu hình và vô hình được pháp luật bảo vệ.

Theo tác giả Phùng Trung Tập, quyền tài sản được hiểu rộng rãi là tổng hợp các quyền và lợi ích của chủ thể trong việc kiểm soát tài sản, không chỉ giới hạn ở quyền sở hữu mà còn bao gồm mọi quyền và lợi ích có giá trị kinh tế được pháp luật bảo vệ.

Các quan điểm và quy định về tài sản ở nhiều quốc gia có nguồn gốc từ lý thuyết của Demsetz về tài sản, được trình bày lần đầu vào năm 1967 Lý thuyết này đóng vai trò quan trọng trong việc hình thành các quy định và cách hiểu về tài sản trong bối cảnh kinh tế hiện đại.

108 Nguyễn Ngọc Điện (2009), Giáo trình Luật La Mã, NXB Chính trị Quốc gia – sự thật Hà Nội, tr.11

109 Nguyễn Ngọc Điện (2005), tlđd (4), tr 16-21

110 Các quyền được thực hiện trực tiếp trên một vật hữu hình mà không cần sự hỗ trợ của một người nào khác gọi là quyền đối vật

111 Các quyền được thực hiện chống lại một người gọi là quyền đối nhân; quyền chủ nợ là quyền đối nhân điển hình

Quyền vô hình, hay còn gọi là quyền vô hình tuyệt đối, là những quyền không thể thực hiện trực tiếp trên một vật hoặc chống lại một cá nhân, mà chỉ tồn tại theo quy định của pháp luật Ví dụ điển hình cho quyền vô hình là quyền tác giả và quyền sở hữu trí tuệ.

113 Lê Hồng Hạnh, (2015), tlđd (5), tr 3-10

114 Trích theo Nguyễn Văn Cừ và các tác giả khác (2017), Bình luận khoa học Bộ luật Dân sự 2015, NXB Công an nhân dân, tr 228

Theo Harold Demsetz, "bundle of rights" (QTS) có thể được hiểu là một nhóm quyền có giá trị kinh tế, bao gồm quyền kiểm soát, quyền thụ hưởng lợi nhuận, quyền chuyển nhượng và thế chấp tài sản QTS không chỉ thuộc về một cá nhân mà có thể được kiểm soát và chia sẻ giữa nhiều chủ thể Tác giả Phạm Duy Nghĩa nhấn mạnh rằng QTS phản ánh cách ứng xử của con người liên quan đến tài sản, với pháp luật quy định mối quan hệ giữa con người chứ không phải giữa người với tài sản Bản chất của QTS chính là sự phân chia và giới hạn quyền kiểm soát tài nguyên khan hiếm, đồng thời tập trung quyền cho một số người và loại trừ quyền đó đối với những người khác.

QTS dưới khía cạnh kinh tế có thể hiểu là tất cả những gì có giá trị bằng tiền đều được coi là tài sản Về mặt pháp lý, những tài sản này được bảo vệ bởi pháp luật, trừ khi pháp luật không công nhận chúng Điều này cho thấy, nếu xem tài sản như một tập hợp các quyền, thì QTS chính là tổng hợp tất cả các quyền có nội dung kinh tế.

Các loại quyền tài sản được dùng bảo đảm nghĩa vụ tại các ngân hàng thương mại

2.2.1 Quan niệm về quyền tài sản được dùng bảo đảm nghĩa vụ

Pháp luật Việt Nam hiện chưa có định nghĩa chính thức về QTSBĐ Trước đây, theo Nghị định 163/2006/NĐ-CP về giao dịch bảo đảm, TSBĐ được hiểu là tài sản mà bên bảo đảm sử dụng để đảm bảo thực hiện nghĩa vụ dân sự đối với bên nhận bảo đảm Nghĩa vụ được bảo đảm có thể thuộc nhiều lĩnh vực khác nhau, nhưng định nghĩa này chỉ tập trung vào khía cạnh nghĩa vụ.

Quyền tài sản (QTS) chủ yếu là các loại trái quyền và không được coi là vật quyền, vì vật quyền liên quan đến quyền đối với tài sản, bao gồm cả quyền đối với QTS Nếu vật được xem là tài sản, thì các quyền đối với vật đó sẽ không thể được xem là tài sản Tuy nhiên, có một số ngoại lệ như quyền sử dụng đất (QSDĐ) ở Việt Nam và quyền tài sản đối với các đối tượng của quyền sở hữu trí tuệ (SHTT) QTSBĐ là tài sản vô hình mà bên bảo đảm sử dụng để bảo đảm thực hiện nghĩa vụ đối với bên nhận bảo đảm, đặc biệt trong hoạt động ngân hàng, QTSBĐ là tài sản vô hình mà bên bảo đảm dùng để bảo đảm nghĩa vụ đối với khoản tín dụng do ngân hàng cấp cho bên bảo đảm hoặc bên thứ ba.

BLDS 2015 không định nghĩa TSBĐ mà chỉ nêu các đặc điểm của nó, từ đó suy ra rằng QTSBĐ có những đặc điểm như: (i) QTS phải thuộc quyền sở hữu của bên bảo đảm, trừ trường hợp cầm giữ hoặc bảo lưu quyền sở hữu; (ii) QTS phải xác định được; (iii) QTS có thể là tài sản hiện có hoặc tài sản hình thành trong tương lai; và (iv) Giá trị của QTSBĐ có thể lớn hơn, bằng hoặc nhỏ hơn giá trị nghĩa vụ được bảo đảm (Điều 295) Điều này được cụ thể hóa tại Điều 8 Nghị định số 21/2021/NĐ-CP, quy định rằng tài sản dùng để bảo đảm nghĩa vụ bao gồm tài sản hiện có hoặc tài sản hình thành trong tương lai, trừ khi pháp luật cấm mua bán hoặc chuyển nhượng quyền sở hữu Pháp luật Việt Nam cũng liệt kê các tài sản được sử dụng để bảo đảm nghĩa vụ, trong đó có QTS, trong các văn bản hướng dẫn về bảo đảm nghĩa vụ.

Trong việc xác định đối tượng được sử dụng bảo đảm nghĩa vụ, khái niệm về tài sản và quyền sở hữu (QTS) đóng vai trò quan trọng Các nước theo hệ thống Civil law nhấn mạnh tính chất tuyệt đối và toàn vẹn của quyền sở hữu, trong khi các nước Common law tiếp cận QTS từ góc độ tập hợp các quyền đối với tài sản Điều này dẫn đến việc xác định một QTS có thể trở thành đối tượng bảo đảm nghĩa vụ bị chi phối bởi tính trọn vẹn của quyền sở hữu Pháp luật Việt Nam cũng theo hướng này, yêu cầu đối tượng QTS bảo đảm nghĩa vụ phải có đủ ba yếu tố: chiếm hữu, sử dụng và định đoạt của chủ sở hữu, từ đó QTSBĐ được xem như một loại tài sản bảo đảm nghĩa vụ.

Khác với các nước theo hệ thống Civil law, các nước theo hệ thống Common law coi quyền tài sản (QTS) là tập hợp các quyền có những đặc điểm nổi bật Đầu tiên, QTS mang tính vô hình, không thể nhìn thấy nhưng vẫn có giá trị pháp lý Thứ hai, nó có thể được tách rời thành các bộ phận cấu thành riêng biệt Thứ ba, QTS có khả năng lưu thông trên thị trường, cho phép giao dịch và chuyển nhượng Cuối cùng, QTS thể hiện tính linh hoạt và khả năng thích nghi với các điều kiện thay đổi của thị trường.

Hiện nay, các nước theo hệ thống Civil law không còn tuyệt đối hóa quyền sở hữu mà nhận diện các quyền khác có phạm vi nhỏ hơn quyền sở hữu, dẫn đến việc tranh cãi về việc sử dụng các quyền này để bảo đảm nghĩa vụ Tại Việt Nam, quyền hưởng dụng và quyền bề mặt không được công nhận là tài sản, do đó không thể sử dụng để bảo đảm nghĩa vụ Ngược lại, pháp luật Pháp cho thấy cách nhìn nhận thoáng hơn, phân loại quyền hưởng dụng và quyền bề mặt là động sản, cho phép sử dụng chúng để bảo đảm nghĩa vụ Trong khi đó, hệ thống pháp luật Common law, như ở Mỹ, tiếp cận từ khía cạnh “lợi ích bảo đảm” thay vì “TSBĐ”, theo định nghĩa của UCC, “lợi ích bảo đảm” bao gồm quyền lợi đối với tài sản được sử dụng để bảo đảm thanh toán hoặc thực hiện nghĩa vụ, không phụ thuộc vào hình thức của tài sản.

Ngày càng nhiều khu vực pháp lý trên toàn cầu đang áp dụng mô hình luật giao dịch bảo đảm của Mỹ, trong đó có luật bảo đảm tài sản cá nhân của Úc (PPSA) Sự phát triển này cho thấy xu hướng toàn cầu hóa trong việc xây dựng và cải cách các quy định pháp lý liên quan đến giao dịch bảo đảm, nhằm tạo ra một khung pháp lý đồng bộ và hiệu quả hơn cho các hoạt động thương mại.

2009) cũng tuân theo cách tiếp cận chức năng và định nghĩa “quyền lợi bảo đảm” là

Quyền lợi đối với tài sản cá nhân được hình thành từ các giao dịch nhằm đảm bảo thanh toán hoặc thực hiện nghĩa vụ, không phân biệt việc tài sản đó được xem là cầm cố, thế chấp, bán có điều kiện hay chuyển nhượng theo luật chung.

Quyền lợi bảo đảm được định nghĩa là kế hoạch chuyển giao tài sản của con nợ cho một chủ nợ cụ thể, có thể là toàn bộ hoặc một phần quyền sở hữu hoặc quyền sử dụng, tùy thuộc vào các tình huống như con nợ vỡ nợ Tài sản được sử dụng để bảo đảm nghĩa vụ trong trường hợp này được hiểu một cách rộng rãi, bao gồm "thứ gì đó thuộc về cá nhân", "một phần của quyền sở hữu" hoặc "quyền sử dụng".

Theo Luật mẫu của Uncitral về giao dịch bảo đảm, luật này điều chỉnh các giao dịch bảo đảm liên quan đến động sản, bao gồm cả tài sản vô hình Luật không định nghĩa cụ thể về tài sản bảo đảm là động sản hay tài sản vô hình, mà tập trung vào việc mô tả giao dịch bảo đảm và việc xác lập quyền lợi bảo đảm trên tài sản bảo đảm là động sản (Điều 6) Ngoài ra, luật cũng nêu rõ các động sản có thể được sử dụng để bảo đảm nghĩa vụ (Điều 8).

Theo Điều 137 của Quyển 9 Bộ luật Thương mại, động sản được phân loại thành ba loại chính: động sản hữu hình, động sản bán hữu hình (quasi-tangible property) và động sản vô hình Động sản bán hữu hình bao gồm các quyền tài sản thể hiện trên giấy tờ như hối phiếu, vận đơn, hóa đơn lưu kho, giấy nhận nợ có tài sản bảo đảm, chứng khoán và quyền thanh toán theo thư tín dụng Trong khi đó, động sản vô hình bao gồm quyền đòi nợ, quyền yêu cầu bồi thường thiệt hại trong các vụ kiện thương mại, và các tài sản vô hình khác như quyền sở hữu trí tuệ, tên miền, cơ sở dữ liệu, quyền đăng ký nhãn hiệu, quyền xin cấp bằng sáng chế, cùng với các quyền lợi phát sinh từ giấy phép kinh doanh như giấy phép kinh doanh đồ uống có cồn và lĩnh vực viễn thông.

138 Theo UCC, tại § 1–201(2001): “‘Security interest’ means an interest in personal property or fixtures which secures payment or performance of an obligation.”

139 Xem thêm Eva-Maria Kieninger et al, tlđd (49), sđđ, tr.15-16

Security interest refers to a mechanism that allows for the transfer of a debtor's specific asset, whether wholly or partially, to a designated creditor, contingent upon certain conditions such as the debtor's default.

Uncitral tiếp cận giao dịch bảo đảm theo hướng xác lập quyền lợi bảo đảm trên tài sản bảo đảm (TSBĐ), khác với cách nhìn nhận của Bộ luật Dân sự Việt Nam hiện hành Theo Điều 8 Luật mẫu Uncitral về giao dịch bảo đảm năm 2016, tài sản có thể sử dụng để bảo đảm nghĩa vụ không chỉ được xác định dưới góc độ tài sản mà còn dưới góc độ quyền lợi bảo đảm Điều này mở rộng phạm vi các động sản có thể được sử dụng để bảo đảm nghĩa vụ, bao gồm cả động sản và một phần hoặc quyền chưa phân chia trên động sản.

“một phần hoặc một quyền chưa phân chia trên động sản.”

Trong hướng dẫn của Uncitral về giao dịch bảo đảm năm 2020, quyền lợi bảo đảm được định nghĩa là quyền tài sản dưới dạng động sản nhằm bảo vệ nghĩa vụ của con nợ đối với chủ nợ có bảo đảm Chủ nợ có bảo đảm có quyền sử dụng giá trị của tài sản bảo đảm để thu hồi khoản nợ khi con nợ không thanh toán Điều này cũng mang lại lợi thế cho chủ nợ có bảo đảm trong các thủ tục phá sản, giúp họ được ưu tiên hơn so với chủ nợ không có bảo đảm.

Quan niệm về đối tượng QTS dùng để bảo đảm nghĩa vụ ở các quốc gia có những điểm tương đồng, bao gồm: QTS thuộc quyền sở hữu của bên bảo đảm, có tính xác định, và có thể là tài sản hiện tại hoặc tài sản hình thành trong tương lai Tuy nhiên, do sự khác biệt trong tiếp cận QTS giữa các quốc gia, phạm vi QTS và QTSBĐ cũng có sự khác biệt Các nước theo hệ thống Common law và xu hướng toàn cầu (theo hướng dẫn của Uncitral) thường có phạm vi QTS rộng hơn so với các nước Civil law, bao gồm cả Việt Nam.

Khái niệm bảo đảm nghĩa vụ, bản chất, đặc trưng của bảo đảm nghĩa vụ bằng quyền tài sản trong hoạt động cho vay tại các ngân hàng thương mại

2.3.1 Khái niệm bảo đảm nghĩa vụ bằng quyền tài sản tại các ngân hàng thương mại

Trong các giao dịch dân sự và quan hệ hợp đồng, việc đảm bảo các bên đạt được mục đích giao dịch và quyền lợi là rất quan trọng Để thực hiện điều này, cần có cơ chế buộc bên có nghĩa vụ phải thực hiện đúng nghĩa vụ của mình, từ đó tạo sự ổn định và khuyến khích giao dịch Pháp luật cho phép các bên thỏa thuận các biện pháp bảo đảm nhằm bảo vệ quyền lợi và thực hiện nghĩa vụ phát sinh từ hợp đồng.

Pháp luật Việt Nam hiện hành không định nghĩa cụ thể về bảo đảm nghĩa vụ, nhưng Bộ luật Dân sự đã liệt kê các biện pháp bảo đảm và đưa ra các định nghĩa, giải thích rõ ràng cho từng biện pháp này.

Bảo đảm nghĩa vụ, theo quy định tại Điều 309 đến Điều 350 Bộ luật Dân sự, là hành động của một hoặc nhiều bên (bên bảo đảm) sử dụng tài sản hoặc uy tín để cam kết thực hiện nghĩa vụ cho chính mình hoặc cho bên khác Nếu nghĩa vụ được bảo đảm bị vi phạm, bên có quyền (bên nhận bảo đảm) có quyền xử lý tài sản hoặc yêu cầu bên bảo đảm, thường là người thứ ba, thực hiện nghĩa vụ trả nợ để thu hồi khoản nợ đó.

Bảo đảm nghĩa vụ trong hoạt động cấp tín dụng tại ngân hàng thương mại (NHTM) bao gồm các hoạt động như cho vay, chiết khấu, bảo lãnh và bao thanh toán Trong đó, bảo đảm trong hoạt động cho vay được gọi là bảo đảm tiền vay Ngân hàng đóng vai trò trung gian tài chính, giúp kết nối các nguồn vốn với nhu cầu vay mượn của khách hàng.

Ngân hàng hoạt động theo pháp luật nhằm bảo vệ quyền lợi và an toàn hệ thống, thường yêu cầu khách hàng vay phải có tài sản đảm bảo nghĩa vụ trả nợ Quan hệ bảo đảm nghĩa vụ giữa ngân hàng và khách hàng được hình thành, trong đó ngân hàng là bên nhận bảo đảm và khách hàng hoặc người thứ ba là bên bảo đảm cho khoản tín dụng được cấp.

Bảo đảm tiền vay là quá trình thiết lập các điều kiện nhằm xác định khả năng hoàn trả vốn vay của khách hàng Các chuyên gia ngân hàng tại Anh và Mỹ khuyến nghị cần có từ hai đến ba vành đai bảo đảm để bảo vệ người cho vay khỏi rủi ro không trả nợ Đầu tiên, nguồn tiền mặt, tức là thu nhập của khách hàng, là yếu tố chính để trả nợ Thứ hai, tài sản của khách hàng có thể được sử dụng làm bảo đảm cho khoản vay Cuối cùng, bảo lãnh từ tổ chức hoặc cá nhân cũng là một hình thức bảo đảm quan trọng cho khoản vay.

Bảo đảm tiền vay là một khái niệm quan trọng trong lĩnh vực ngân hàng, được định nghĩa là các biện pháp mà tổ chức tín dụng áp dụng để phòng ngừa rủi ro và tạo cơ sở thu hồi nợ Các biện pháp này bao gồm việc đánh giá khả năng thu nhập của khách hàng vay, cũng như xem xét tài sản mà khách hàng hoặc bên thứ ba đưa ra làm bảo đảm cho khoản vay Mục tiêu chính là đảm bảo rằng vốn cho vay sẽ được hoàn trả cho người cho vay.

Bảo đảm tiền vay có nghĩa rộng, nhưng nếu xem xét từ góc độ hẹp hơn, tập trung vào tài sản bảo đảm (TSBĐ), có thể hiểu rằng bảo đảm tiền vay là hành động mà tổ chức tín dụng thực hiện để bảo vệ khoản vay thông qua việc áp dụng các biện pháp bảo đảm tài sản.

204 Lê Thị Thu Thủy, tlđd (34), tr 43-44

Theo Khoản 1 Điều 2 Nghị định số 178/1999/NĐ-CP, việc bảo đảm tiền vay của các tổ chức tín dụng thông qua tài sản nhằm phòng ngừa rủi ro và tạo cơ sở pháp lý cho việc thu hồi nợ Tài sản bảo đảm có thể là hữu hình hoặc vô hình, và việc sử dụng tài sản vô hình (QTS) trong ngân hàng thương mại là sự thỏa thuận giữa bên vay và ngân hàng, dựa trên quy định pháp luật Biện pháp này không chỉ nhằm đảm bảo việc trả nợ mà còn ngăn ngừa vi phạm và khắc phục hậu quả do vi phạm nghĩa vụ gây ra.

Khi nhìn nhận từ góc độ khách hàng vay, việc sử dụng quyền tài sản (QTS) làm bảo đảm tiền vay tại ngân hàng thương mại (NHTM) có nghĩa là khách hàng hoặc bên thứ ba sẽ sử dụng QTS của mình để đảm bảo cho khoản vay Điều này bao gồm việc cam kết chuyển giao quyền sở hữu cho NHTM, cho phép ngân hàng xử lý quyền tài sản bảo đảm trong trường hợp khách hàng vi phạm nghĩa vụ trả nợ.

Bảo đảm nghĩa vụ bằng quyền tài sản (QTS) trong hoạt động cho vay tại ngân hàng thương mại (NHTM) là việc bên vay hoặc bên thứ ba sử dụng QTS để đảm bảo nghĩa vụ trả nợ Điều này cho phép ngân hàng cho vay có quyền xử lý QTS nhằm thu hồi nợ nếu bên vay không thực hiện hoặc thực hiện không đúng nghĩa vụ trả nợ theo thỏa thuận.

2.3.2 Bản chất của bảo đảm nghĩa vụ bằng quyền tài sản trong hoạt động cho vay tại các ngân hàng thương mại

Bảo đảm nghĩa vụ bằng QTS trong hoạt động ngân hàng, còn được gọi là bảo đảm tín dụng hay bảo đảm tiền vay, là việc thiết lập cơ sở pháp lý để tạo ra nguồn thu nợ thứ hai Điều này dựa trên thế chấp hoặc cầm cố QTS thuộc sở hữu của người vay hoặc bên thứ ba, nhằm bảo vệ quyền lợi của ngân hàng trong trường hợp nguồn thu nợ thứ nhất không phát sinh.

QTSBĐ chỉ được xử lý khi bên vay vi phạm nghĩa vụ trả nợ theo hợp đồng tín dụng Đây là biện pháp dự phòng nhằm khấu trừ nghĩa vụ khi bên vay không thực hiện đúng cam kết Tính chất dự phòng này có nghĩa là ngân hàng không được phép xử lý QTSBĐ nếu bên vay thực hiện đúng nghĩa vụ Chỉ khi đến hạn mà bên vay không trả nợ hoặc trả không đúng mới có cơ sở để xử lý QTSBĐ Điều này khuyến khích khách hàng tuân thủ nghĩa vụ thông qua quy định pháp luật và thỏa thuận giữa hai bên.

Biện pháp bảo đảm nghĩa vụ bằng QTS không chỉ thúc đẩy việc trả nợ của bên vay mà còn đóng vai trò dự phòng hiệu quả Mục tiêu chính của biện pháp này là duy trì sự ổn định và phát triển bình thường trong quan hệ tài sản, đồng thời bảo đảm an toàn pháp lý cho các bên liên quan.

Nguồn thu nợ đầu tiên từ cho vay kinh doanh phụ thuộc vào doanh thu thực tế đối với cho vay ngắn hạn, và từ lợi nhuận cùng khấu hao cho vay trung và dài hạn Để đảm bảo hiệu quả trong giao dịch dân sự và kinh tế, việc đánh giá các điều kiện của tài sản đảm bảo (TSBĐ) trước khi ngân hàng nhận TSBĐ là rất quan trọng, nhằm đảm bảo tài sản đó có khả năng thực hiện vai trò dự phòng cần thiết.

2.3.3 Đặc trưng của bảo đảm nghĩa vụ bằng quyền tài sản trong hoạt động cho vay của ngân hàng thương mại

Nghĩa vụ được dùng quyền tài sản để bảo đảm trong hoạt động cho vay tại các ngân hàng thương mại

Trong giao dịch bảo đảm tiền vay, nghĩa vụ chính được bảo đảm là nghĩa vụ hoàn trả nợ vay cùng các chi phí liên quan của bên vay đối với ngân hàng Nghĩa vụ này có thể được bảo đảm một phần hoặc toàn bộ theo thỏa thuận hoặc quy định pháp luật Nếu không có thỏa thuận và pháp luật không quy định rõ phạm vi bảo đảm, nghĩa vụ sẽ được coi là được bảo đảm toàn bộ, bao gồm cả nghĩa vụ trả lãi, tiền phạt và bồi thường thiệt hại.

Nghĩa vụ trả nợ trong hợp đồng tín dụng có thể bao gồm nợ gốc, lãi suất phát sinh, tiền phạt vi phạm do chậm trả và bồi thường thiệt hại, tùy thuộc vào thỏa thuận giữa các bên Nếu không có thỏa thuận cụ thể, nghĩa vụ được bảo đảm sẽ là toàn bộ So với Bộ luật Dân sự 2005, Bộ luật Dân sự 2015 đã làm rõ hơn phạm vi nghĩa vụ bảo đảm, bổ sung tiền phạt vào nghĩa vụ này Trong thực tiễn, các ngân hàng thương mại thường yêu cầu tài sản bảo đảm phải lớn hơn nghĩa vụ tiền vay trong hợp đồng tín dụng.

Các bên có thể thỏa thuận về nghĩa vụ được bảo đảm, bao gồm cả nghĩa vụ hiện tại và nghĩa vụ hình thành trong tương lai, cũng như thỏa thuận về nghĩa vụ có điều kiện theo quy định tại khoản 2 Điều 314 Bộ luật Dân sự.

Nghĩa vụ hiện tại là nghĩa vụ đã được xác lập từ thời điểm thiết lập biện pháp bảo đảm, trong khi nghĩa vụ hình thành trong tương lai là những nghĩa vụ phát sinh sau thời điểm đó Ngoài ra, nghĩa vụ bảo đảm có điều kiện là loại nghĩa vụ mà sự hình thành của nó phụ thuộc vào sự phát sinh, thay đổi hoặc chấm dứt của một sự kiện nhất định Khi các bên ký kết hợp đồng bảo đảm, họ có thể thỏa thuận về một sự kiện cụ thể, và khi sự kiện này xảy ra, nghĩa vụ được hình thành sẽ trở thành nghĩa vụ được bảo đảm.

Trong trường hợp bảo đảm nghĩa vụ trong tương lai, cần chú ý đến hai yếu tố chính: thời hạn bảo đảm và thời hạn thực hiện nghĩa vụ được bảo đảm Theo quy định tại khoản 3 Điều 293 BLDS 2015, nghĩa vụ hình thành trong thời hạn bảo đảm sẽ được coi là nghĩa vụ được bảo đảm, trừ khi có thỏa thuận khác Nếu nghĩa vụ bảo đảm phát sinh sau khi biện pháp bảo đảm đã hết thời hạn, nó sẽ không được coi là nghĩa vụ được bảo đảm Do đó, khi các bên thỏa thuận về thời hạn thực hiện nghĩa vụ trong tương lai, thời hạn bảo đảm sẽ được xác định dựa trên thời hạn thực hiện đó Điều này làm rõ cách xác định phạm vi của nghĩa vụ được bảo đảm trong tương lai, là một bổ sung mới so với quy định trước đây.

Nếu các bên không thống nhất về thời hạn thực hiện nghĩa vụ trong tương lai, thời hạn sẽ được coi là không có thời hạn, cho phép mỗi bên thực hiện hoặc yêu cầu nghĩa vụ bất kỳ lúc nào, nhưng phải thông báo cho bên kia trong thời gian hợp lý (khoản 3 Điều 278 BLDS) Việc không thỏa thuận về thời hạn cũng không ảnh hưởng đến hiệu lực của biện pháp bảo đảm đối với bên thứ ba (Điều 25 NĐ 21/2021/NĐ-CP).

Theo quy định hiện hành, việc sử dụng các loại tài sản khác nhau để bảo đảm nghĩa vụ không ảnh hưởng đến thỏa thuận giữa các bên về các nghĩa vụ được bảo đảm Cụ thể, QTS có thể được dùng để bảo đảm cho một phần hoặc toàn bộ nghĩa vụ trong hợp đồng tín dụng, bao gồm cả gốc, lãi, tiền phạt và tiền bồi thường thiệt hại (nếu có).

Nghĩa vụ được bảo đảm trong hoạt động cho vay của ngân hàng thương mại (NHTM) là khoản nợ mà khách hàng phải trả cho ngân hàng, bao gồm vốn vay, lãi suất, tiền phạt chậm trả và các khoản phí khác Trong lĩnh vực dân sự, nghĩa vụ này thường chỉ bao gồm vốn và lãi, trong khi trong ngân hàng, hợp đồng tín dụng có thể bao gồm nhiều khoản vay và nghĩa vụ tương lai Điều này cho thấy sự khác biệt rõ rệt giữa nghĩa vụ được bảo đảm trong hoạt động ngân hàng và trong lĩnh vực dân sự.

Các biện pháp bảo đảm và việc đăng ký biện pháp bảo đảm có đối tượng là quyền tài sản trong hoạt động cho vay tại các ngân hàng thương mại

2.5.1 Các biện pháp bảo đảm có đối tượng là quyền tài sản trong hoạt động cho vay tại các ngân hàng thương mại

Khi ký kết hợp đồng, các bên thường mong muốn thực hiện đầy đủ và tự nguyện các nghĩa vụ đã thỏa thuận Tuy nhiên, không phải lúc nào điều này cũng khả thi do nhiều nguyên nhân, cả khách quan lẫn chủ quan Do đó, việc nhận diện các nguy cơ và rủi ro có thể dẫn đến việc không thực hiện nghĩa vụ hợp đồng là rất quan trọng Các bên cần chủ động đưa ra các biện pháp hạn chế, phòng ngừa và khắc phục rủi ro để đảm bảo tính hiệu quả của hợp đồng.

Theo quy định pháp luật hiện hành, các biện pháp chế tài được áp dụng khi các bên không tuân thủ thỏa thuận, bao gồm xử phạt vi phạm hợp đồng, bồi thường thiệt hại, đình chỉ hoặc hủy bỏ hợp đồng Tuy nhiên, tính thụ động của các biện pháp này có thể hạn chế hiệu quả, đặc biệt khi bên vi phạm không còn tài sản để thực hiện nghĩa vụ Do đó, những biện pháp này thường chỉ được áp dụng trong các giao dịch mua bán hàng hóa thông thường hoặc có giá trị thấp.

Các biện pháp bảo đảm thực hiện nghĩa vụ là những phương thức chủ động và hiệu quả nhằm buộc các bên thực hiện đúng cam kết trong hợp đồng Những biện pháp này cho phép bên có quyền nắm giữ tài sản để ép buộc bên vi phạm thực hiện nghĩa vụ Trong trường hợp bên vi phạm không thực hiện đúng, bên có quyền có thể sử dụng tài sản đang nắm giữ để bù trừ cho các nghĩa vụ đã vi phạm.

Pháp luật Việt Nam không có định nghĩa cụ thể về biện pháp bảo đảm, nhưng có thể hiểu qua định nghĩa về giao dịch bảo đảm tại khoản 1 Điều 323 BLDS 2005 Giao dịch bảo đảm được xác định là giao dịch dân sự do các bên thỏa thuận hoặc theo quy định của pháp luật, nhằm thực hiện biện pháp bảo đảm theo khoản 1 Điều 318 của Bộ luật này Điều này cho thấy biện pháp bảo đảm là lựa chọn của các bên trong giao dịch để bảo vệ việc thực hiện nghĩa vụ, đóng vai trò quan trọng trong nội dung giao dịch bảo đảm.

Biện pháp bảo đảm thực hiện nghĩa vụ dân sự được định nghĩa là phương thức mà một bên sử dụng tài sản hoặc uy tín của mình để bảo đảm cho việc thực hiện nghĩa vụ của mình hoặc của bên khác Khái niệm này nhấn mạnh rằng tài sản được sử dụng để bảo đảm phải thuộc quyền sở hữu của bên bảo đảm, cho thấy sự liên kết giữa quyền sở hữu và nghĩa vụ dân sự trong hệ thống pháp luật.

Biện pháp bảo đảm nghĩa vụ bằng QTS tại NHTM có những đặc điểm nổi bật: đầu tiên, đây là biện pháp được khách hàng và NHTM thỏa thuận lựa chọn áp dụng; thứ hai, nó nhằm mục đích bảo đảm cho việc thực hiện nghĩa vụ trả nợ phát sinh từ hợp đồng tín dụng; thứ ba, biện pháp này mang tính chất dự phòng; và cuối cùng, đối tượng được dùng để bảo đảm nghĩa vụ trả nợ chính là QTS.

Trong các văn bản điều chỉnh quan hệ bảo đảm nghĩa vụ, khái niệm “biện pháp bảo đảm” được liệt kê bao gồm nhiều hình thức như cầm cố tài sản, thế chấp tài sản, đặt cọc, ký cược, ký quỹ, bảo lãnh, tín chấp, và cầm giữ tài sản Theo Bộ luật Dân sự 2005, các biện pháp bảo đảm này được quy định cụ thể tại Điều 318 và Điều 292, nhằm đảm bảo thực hiện nghĩa vụ bảo đảm một cách hiệu quả và hợp pháp.

Khi so sánh hai khái niệm về biện pháp bảo đảm, sự khác biệt chủ yếu nằm ở số lượng các biện pháp được quy định Bộ luật Dân sự 2005 liệt kê 7 biện pháp bảo đảm, trong khi Bộ luật Dân sự 2015 mở rộng danh sách lên 9 biện pháp bảo đảm.

Bộ luật Dân sự 2005 đã bổ sung hai biện pháp bảo đảm mới là bảo lưu quyền sở hữu và cầm giữ tài sản Hai biện pháp này có những khác biệt đáng chú ý; cụ thể, cầm giữ tài sản không nhất thiết phải dựa trên giao dịch bảo đảm mà có thể được quy định bởi pháp luật (theo Điều 346 BLDS 2015) Hơn nữa, tài sản bảo đảm không luôn phải là tài sản thuộc sở hữu của bên bảo đảm, như trong trường hợp bảo lưu quyền sở hữu theo Điều 331 BLDS.

2015, cầm giữ tài sản tại Điều 346 BLDS 2015)

Theo quy định hiện hành, các biện pháp bảo đảm được chia thành hai nhóm chính: biện pháp bảo đảm đối vật bằng tài sản và biện pháp bảo đảm đối nhân Trong nhóm biện pháp bảo đảm bằng tài sản, có thể kể đến cầm cố tài sản, thế chấp tài sản, đặt cọc, ký cược, ký quỹ và bảo lưu quyền sở hữu Trong khi đó, biện pháp bảo đảm đối nhân bao gồm bảo lãnh và tín chấp Đặc biệt, trong hoạt động cho vay của ngân hàng thương mại, chỉ có cầm cố và thế chấp tài sản được áp dụng Cầm cố tài sản là việc bên cầm cố giao tài sản thuộc quyền sở hữu của mình cho bên nhận cầm cố để bảo đảm nghĩa vụ, trong khi thế chấp tài sản là việc bên thế chấp dùng tài sản của mình để bảo đảm nghĩa vụ mà không chuyển giao tài sản đó cho bên nhận thế chấp Sự khác biệt cơ bản giữa hai biện pháp này là việc chuyển giao tài sản bảo đảm, trong đó cầm cố yêu cầu chuyển giao vật chất, còn thế chấp không yêu cầu điều này Do hầu hết các quyền tài sản (QTS) đều vô hình, việc áp dụng biện pháp thế chấp QTS là hợp lý hơn.

Bảo đảm bằng quyền sử dụng đất (QSDĐ) là một biện pháp pháp lý được quy định trong Điều 167 Luật Đất đai 2013 Tại Việt Nam, do đất đai thuộc sở hữu toàn dân, người sử dụng đất có thể thực tế chiếm hữu và chuyển giao QSDĐ cho bên nhận bảo đảm Mặc dù Luật Đất đai 2013 chưa quy định cụ thể về quyền cầm cố QSDĐ, nhưng theo nguyên tắc chung, công dân có thể thực hiện những hành vi không bị cấm, do đó, chủ sở hữu QSDĐ vẫn có khả năng cầm cố QSDĐ để bảo đảm nghĩa vụ vay tiền tại các ngân hàng thương mại.

Cầm cố quyền sử dụng đất (QSDĐ) ngày càng trở nên phổ biến trong xã hội Việt Nam, đặc biệt từ khi Bộ luật Dân sự (BLDS) 2005 có hiệu lực, các tòa án đã thừa nhận nhiều giao dịch cầm cố đất (như trong các bản án của TAND thành phố Cam Ranh và TAND tỉnh Long An) Mặc dù Luật Đất đai năm 2003 không quy định rõ về việc cầm cố QSDĐ, nhưng BLDS 2005 cho phép cầm cố cả động sản và bất động sản Điều này tiếp tục được duy trì trong BLDS 2015 và Luật Đất đai năm 2013 Việc cầm cố QSDĐ là phù hợp, mặc dù có khó khăn trong việc khai thác giá trị, nhưng không thể loại trừ quyền này của ngân hàng Hiện nay, các ngân hàng thương mại chủ yếu áp dụng biện pháp thế chấp đối với QSDĐ, và nếu pháp luật công nhận việc cầm cố QSDĐ, sẽ mở ra nhiều khả năng hơn cho việc sử dụng tài sản đảm bảo nghĩa vụ.

Bảo đảm bằng quyền đòi nợ là một hình thức đảm bảo tài sản đặc biệt, thể hiện yếu tố vô hình và không thể chuyển giao vật chất Quyền đòi nợ chỉ có thể được áp dụng thông qua biện pháp thế chấp, như được quy định rõ trong các văn bản pháp luật.

Theo Nghị định 163/2006/NĐ-CP và Nghị định 21/2021/NĐ-CP, các bên thường áp dụng biện pháp thế chấp để bảo đảm nghĩa vụ bằng quyền đòi nợ Khi sử dụng quyền đòi nợ để bảo đảm nghĩa vụ, bên nhận bảo đảm chỉ có thể giữ giấy tờ chứng minh quyền đòi nợ của bên bảo đảm Khác với Việt Nam, Bộ luật Dân sự của Cộng Hòa Pháp quy định rằng biện pháp bảo đảm cho nghĩa vụ bằng quyền đòi nợ là cầm cố, và quyền đòi nợ được coi là động sản vô hình Đồng thời, pháp luật Pháp chỉ cho phép áp dụng biện pháp thế chấp đối với bất động sản.

Bảo đảm quyền sở hữu trí tuệ (QTS) hiện chưa có quy định pháp luật cụ thể về biện pháp áp dụng Tuy nhiên, giống như quyền đòi nợ, quyền này có tính vô hình và chỉ có thể được bảo đảm bằng hình thức thế chấp Trong thực tiễn, ngân hàng chỉ nhận thế chấp qua việc chiếm hữu giấy tờ chứng minh quyền sở hữu trí tuệ hoặc hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng, nhằm xác định bên bảo đảm sở hữu QTS.

Mối quan hệ giữa hợp đồng tín dụng và hợp đồng bảo đảm bằng quyền tài sản

Trong hoạt động cấp tín dụng, các tổ chức tín dụng (TCTD) yêu cầu khách hàng thiết lập các biện pháp bảo đảm để đảm bảo khả năng thu hồi nợ Điều này dẫn đến sự tồn tại của hai hợp đồng: hợp đồng cấp tín dụng và hợp đồng bảo đảm Giao dịch bảo đảm phát sinh từ hợp đồng tín dụng, nghĩa là nghĩa vụ bảo đảm chỉ hình thành khi có hợp đồng tín dụng Nếu không có hợp đồng tín dụng với các quyền và nghĩa vụ đi kèm, thì hợp đồng bảo đảm sẽ không được hình thành Do đó, giao dịch bảo đảm luôn liên quan chặt chẽ đến hợp đồng tín dụng có nghĩa vụ được bảo đảm.

Mối quan hệ giữa hợp đồng tín dụng và hợp đồng bảo đảm thể hiện sự tương tác giữa hợp đồng chính và hợp đồng phụ, nhưng không tuân theo quy định như các hợp đồng mua bán hay dịch vụ thông thường Thay vào đó, chúng được điều chỉnh bởi các quy định pháp luật chuyên ngành về bảo đảm nghĩa vụ Đặc biệt, Bộ luật Dân sự 1995 không đưa ra quy định cụ thể nào về nội dung này.

219 Eva-Maria Kieninger et al, tlđd (49)

220 Điều 860 Luật Công ty của Vương quốc Anh năm 2006

Theo Điều 298 BLDS 2015, sự vô hiệu của hợp đồng chính sẽ chấm dứt hợp đồng phụ, tuy nhiên, Điều 410 BLDS 2005 đã được BLDS 2015 kế thừa và quy định tại Điều 407 rằng quy định này không áp dụng đối với biện pháp bảo đảm thực hiện nghĩa vụ Điều này được chi tiết hóa tại Điều 29 NĐ 21/2021/NĐ-CP, làm rõ mối quan hệ hiệu lực giữa hợp đồng bảo đảm và hợp đồng tín dụng.

Hợp đồng tín dụng có hiệu lực ngay từ thời điểm ký kết, không bị ảnh hưởng bởi hiệu lực của hợp đồng bảo đảm Điều này có nghĩa là nếu hợp đồng bảo đảm bị vô hiệu, hủy bỏ hoặc chấm dứt đơn phương, thì hợp đồng tín dụng vẫn tiếp tục có hiệu lực.

Hợp đồng bảo đảm không tồn tại độc lập mà phụ thuộc vào hợp đồng tín dụng Nếu hợp đồng tín dụng bị vô hiệu, hủy bỏ hoặc chấm dứt mà các bên chưa thực hiện, hợp đồng bảo đảm sẽ chấm dứt Tuy nhiên, nếu các bên đã thực hiện một phần hoặc toàn bộ hợp đồng tín dụng, hợp đồng bảo đảm vẫn có hiệu lực Bên nhận bảo đảm có quyền xử lý tài sản bảo đảm để thu hồi nghĩa vụ hoàn trả từ bên có nghĩa vụ.

Hợp đồng bảo đảm đóng vai trò quan trọng trong việc thực hiện hợp đồng tín dụng, với việc tuân thủ các cam kết của nó là điều kiện cần thiết để duy trì hiệu lực của hợp đồng tín dụng Nếu có sự thay đổi nội dung trong hợp đồng bảo đảm, điều này có thể được coi là vi phạm, dẫn đến khả năng ngân hàng thu hồi nợ trước hạn và chấm dứt hợp đồng tín dụng.

Mối quan hệ giữa hợp đồng tín dụng và hợp đồng bảo đảm không tuân theo nguyên tắc chung của hợp đồng chính và phụ, mà được quy định bởi pháp luật chuyên ngành về bảo đảm nghĩa vụ Hiệu lực của hợp đồng bảo đảm không chỉ phụ thuộc vào hiệu lực của hợp đồng tín dụng mà còn vào mức độ thực hiện các nội dung trong hợp đồng tín dụng Hơn nữa, trong một số trường hợp, vi phạm hợp đồng bảo đảm có thể dẫn đến việc chấm dứt hợp đồng tín dụng nếu hợp đồng bảo đảm là điều kiện để thực hiện hợp đồng tín dụng.

2.7 Các nguyên tắc bảo đảm nghĩa vụ bằng quyền tài sản trong hoạt động cho vay tại ngân hàng thương mại

2.7.1 Nguyên tắc bảo đảm an toàn, hạn chế rủi ro tín dụng ngân hàng

NHTM hoạt động như những doanh nghiệp kinh doanh tiền tệ thông qua việc vay mượn để cho vay, do đó, hoạt động này tiềm ẩn rủi ro cao và liên quan đến ba bên: người gửi tiền, NHTM và người vay Đặc điểm này quyết định tính chất phức tạp trong hoạt động của các ngân hàng thương mại.

Theo Điều 21 của Thông tư số 39/2016/TT-NHNN, hoạt động cho vay của tổ chức tín dụng và chi nhánh ngân hàng nước ngoài phải bảo đảm an toàn cho nguồn vốn vay Việc bảo đảm nghĩa vụ bằng tài sản trong cấp tín dụng là biện pháp hiệu quả để các bên thực hiện đúng cam kết hợp đồng Do đó, quy định về các biện pháp bảo đảm trong cho vay được xem là bắt buộc, trừ một số trường hợp ngoại lệ theo pháp luật Hoạt động cho vay tiềm ẩn nhiều rủi ro, vì vậy việc bảo đảm an toàn và hạn chế rủi ro tín dụng là nguyên tắc cơ bản trong hoạt động này.

Bảo đảm nghĩa vụ bằng quyền tài sản (QTS) được thể hiện qua hợp đồng bảo đảm, trong đó nguyên tắc tự do thỏa thuận của pháp luật hợp đồng được áp dụng Tuy nhiên, tự do này có những giới hạn nhất định, liên quan đến an toàn tín dụng Sự cân bằng giữa tự do thỏa thuận và an toàn tín dụng được thể hiện qua quy định pháp luật về hợp đồng bảo đảm bằng QTS, từ yêu cầu về điều kiện đối với QTS đến quy trình xử lý quyền tài sản bảo đảm.

Bảo đảm an toàn và hạn chế rủi ro tín dụng là nguyên tắc cơ bản trong việc xây dựng và thực thi pháp luật về bảo đảm nghĩa vụ bằng quyền tài sản (QTS) trong hoạt động cho vay của ngân hàng thương mại (NHTM) Nếu bảo đảm nghĩa vụ không phát huy được vai trò bù đắp và dự phòng rủi ro tín dụng, các khoản cho vay có thể biến thành nợ xấu, đe dọa hoạt động bình thường của NHTM và gây mất ổn định cho toàn hệ thống.

Ngân hàng Nhà nước (NH) đóng vai trò quan trọng trong nền tài chính tiền tệ quốc gia Nghiệp vụ của các ngân hàng thương mại (NHTM) với tư cách là trung gian tài chính có thể dẫn đến rủi ro tín dụng, từ đó ảnh hưởng tiêu cực đến quyền lợi của đông đảo người gửi tiền và tác động đến đời sống của người dân.

2.7.2 Nguyên tắc dung hòa lợi ích giữa bên bảo đảm và bên nhận bảo đảm

Khi quan hệ bảo đảm được thiết lập, bên có quyền tài sản (QTS) sẽ chuyển giao cho bên nhận bảo đảm vật quyền đối với QTSBĐ, nhằm giúp ngân hàng thu hồi nợ khi xảy ra sự kiện bảo đảm Việc sử dụng QTS để bảo đảm nghĩa vụ không làm mất quyền sở hữu của bên bảo đảm, và do đó, quyền lợi của họ được pháp luật bảo vệ Trong mối quan hệ bảo đảm này, ngân hàng thương mại giữ vật quyền trên QTSBĐ để đảm bảo quyền lợi của mình.

Theo quy định tại Điều 256 BLDS 2015, chủ sở hữu hoặc bên chiếm hữu hợp pháp có quyền yêu cầu người chiếm hữu, sử dụng tài sản không có căn cứ pháp luật trả lại tài sản thuộc quyền sở hữu hoặc quyền chiếm hữu hợp pháp của mình Pháp luật đảm bảo nghĩa vụ bảo hộ quyền lợi của các bên, do đó, việc dung hòa lợi ích giữa bên bảo đảm và bên được bảo đảm là nguyên tắc thiết yếu trong pháp luật về bảo đảm nghĩa vụ.

Sự đồng tồn tại của hai chủ thể có vật quyền trên quyền sử dụng đất (QTSBĐ) yêu cầu pháp luật cần thiết phải có sự điều chỉnh hợp lý, nhằm bảo vệ quyền lợi chính đáng của các bên liên quan Trong quá trình thiết lập quan hệ này, cả hai bên đều phải đối mặt với những rủi ro nhất định, không chỉ từ các yếu tố khách quan mà còn có thể xuất phát từ đối tác của mình.

Một số nội dung cụ thể trong bảo đảm nghĩa vụ bằng quyền tài sản tại các ngân hàng thương mại

2.8.1 Điều kiện chung của quyền tài sản được dùng bảo đảm nghĩa vụ

“Điều kiện” được hiểu là yếu tố cần thiết để một sự vật tồn tại hoặc để đạt được một mục đích cụ thể Trong bối cảnh của quyền tài sản (QTS), những yếu tố cần thiết để QTS trở thành tài sản bảo đảm (TSBĐ) và để các bên có thể thiết lập giao dịch bảo đảm bằng QTS theo quy định của pháp luật được gọi là điều kiện pháp lý của QTS.

Pháp luật hiện hành không cung cấp định nghĩa cụ thể về điều kiện pháp lý của tài sản bảo đảm (TSBĐ) và quyền tài sản (QTS) được sử dụng để bảo đảm nghĩa vụ Tuy nhiên, theo Điều 297 Bộ luật Dân sự 2015 và các quy định liên quan, có thể xác định rằng một tài sản, bao gồm QTS, phải đáp ứng những điều kiện nhất định để trở thành TSBĐ Điều này có vai trò quan trọng trong việc thiết lập biện pháp bảo đảm và đảm bảo an toàn tín dụng tại các ngân hàng thương mại Do đó, để QTS có thể được công nhận là TSBĐ, cần phân tích kỹ lưỡng các điều kiện pháp lý liên quan.

224 Trung tâm Khoa học xã hội và Nhân văn quốc gia (2005), Từ điển Tiếng Việt, NXB Văn hoá Sài Gòn, Tp.Hồ Chí Minh, tr 921

225 Nguyễn Lân (2004), Từ điển và từ ngữ Việt Nam, NXB Tp.HCM, Tp Hồ Chí Minh, tr 629

2.6.1.1 Điều kiện quyền tài sản được dùng bảo đảm phải thuộc sở hữu của bên bảo đảm

QTS được sử dụng để đảm bảo quyền sở hữu của bên bảo đảm, chỉ có chủ sở hữu hoặc người được ủy quyền mới có quyền sử dụng tài sản để đảm bảo nghĩa vụ, trừ khi pháp luật có quy định khác Điều 295 Bộ luật Dân sự 2015 khẳng định nguyên tắc này, nêu rõ rằng tài sản bảo đảm phải thuộc quyền sở hữu của bên bảo đảm, trừ trường hợp cầm giữ tài sản hoặc bảo lưu quyền sở hữu.

Do tính chất vô hình của quyền tài sản (QTS), việc nhận diện quyền sở hữu thường không thể thực hiện qua việc chiếm hữu vật chất, mà thường thể hiện qua việc đăng ký quyền sở hữu hoặc các tài liệu chứng minh Chẳng hạn, quyền sở hữu đối với tài sản trí tuệ chỉ được xác lập khi đăng ký tại cơ quan nhà nước có thẩm quyền, hoặc quyền đòi nợ cần có chứng từ minh chứng Ngoài ra, quyền sở hữu QTS có thể bị thay đổi khi có tranh chấp, do đó, cần hiểu rằng QTS thuộc quyền sở hữu của bên bảo đảm không có tranh chấp.

QTSBĐ liên quan chặt chẽ đến quyền sở hữu, vì quyền sở hữu là cơ sở để hình thành quyền sử dụng tài sản nhằm đảm bảo nghĩa vụ Chỉ có chủ sở hữu mới có quyền sử dụng tài sản của mình để bảo đảm thực hiện nghĩa vụ cho bản thân hoặc cho người khác Chủ sở hữu nắm giữ quyền năng tuyệt đối đối với tài sản, và khi tài sản được dùng để bảo đảm nghĩa vụ, họ cam kết trao quyền xử lý tài sản cho bên nhận bảo đảm khi xảy ra sự kiện bảo đảm, tức là khi bên bảo đảm không thực hiện hoặc thực hiện không đầy đủ nghĩa vụ.

Quy định về tài sản bảo đảm (TSBĐ) phải thuộc quyền sở hữu của bên bảo đảm nhằm đảm bảo quyền tự định đoạt của chủ sở hữu tài sản Chỉ có chủ sở hữu đích thực mới có quyền quyết định về tài sản, bao gồm việc bán, chuyển nhượng hoặc sử dụng tài sản để bảo đảm nghĩa vụ Điều này tạo cơ sở cho việc chuyển nhượng quyền sở hữu khi xử lý TSBĐ Nếu TSBĐ không thuộc quyền sở hữu của bên bảo đảm, sẽ không đảm bảo tính hợp pháp trong việc chuyển giao quyền, và thực tiễn sẽ không có người mua TSBĐ do thiếu bảo đảm về quyền sở hữu, dễ dẫn đến tranh chấp Đặc điểm này phản ánh bản chất của bảo đảm nghĩa vụ, trong đó, nếu nghĩa vụ không được thực hiện, chủ nợ có quyền xử lý TSBĐ, đặc biệt là chuyển nhượng hoặc bán tài sản để thu hồi nợ.

Về mặt lý luận, việc thừa nhận tài sản được hình thành trong tương lai được sử

226 Xem thêm Vũ Thị Hồng Yến, tlđd (9), tr 27-31

Khi xác lập giao dịch bảo đảm, tài sản phải thuộc quyền sở hữu của bên bảo đảm; tuy nhiên, nếu tài sản chưa hình thành hoặc chủ thể bảo đảm chưa có quyền sở hữu qua đăng ký, thì không thể xác định chủ sở hữu và đối tượng sở hữu cụ thể Điều này dẫn đến việc không thể khẳng định tư cách pháp lý của bên bảo đảm trong quá trình ký kết và đăng ký biện pháp bảo đảm Theo Bộ luật Dân sự 2015, tài sản bảo đảm có thể là tài sản hiện có hoặc tài sản hình thành trong tương lai, điều này làm rõ hơn mối quan hệ giữa người có nghĩa vụ và người bảo đảm.

Theo quy định tại Điều 295 và các văn bản hướng dẫn dưới luật, tài sản bảo đảm (TSBĐ) được định nghĩa là tài sản hình thành trong tương lai khi thực hiện đăng ký biện pháp bảo đảm Tuy nhiên, Bộ luật Dân sự (BLDS) chưa công nhận trường hợp ngoại lệ về điều kiện pháp lý rằng TSBĐ phải thuộc quyền sở hữu của bên bảo đảm, điều này dẫn đến sự thiếu nhất quán trong lý luận Do đó, bên cạnh quy định chung, cần khẳng định rằng trong trường hợp TSBĐ hình thành trong tương lai, bên bảo đảm cần có cơ sở chứng minh quyền sở hữu đối với tài sản đó.

QTSBĐ cần phải được đảm bảo thuộc quyền sở hữu của bên bảo đảm và không có tranh chấp để giảm thiểu rủi ro Do đó, QTS phải xác định rõ ràng về chủ sở hữu và tình trạng pháp lý của tài sản, đảm bảo rằng tài sản không đang có tranh chấp, không bị kê biên, và không có quyết định thu hồi từ cơ quan nhà nước có thẩm quyền.

2.6.1.2 Điều kiện quyền tài sản được dùng bảo đảm nghĩa vụ có thể chuyển giao trong giao dịch dân sự

QTSBĐ là một phần quan trọng trong hợp đồng bảo đảm, do đó cần tuân thủ các điều kiện chung của hợp đồng này, bao gồm khả năng chuyển giao trong các giao dịch dân sự.

Yếu tố có thể chuyển giao trong giao dịch dân sự đề cập đến quyền tài sản sử dụng để đảm bảo nghĩa vụ, cho phép chuyển nhượng quyền sở hữu cho người khác nhằm khấu trừ nghĩa vụ được bảo đảm.

Pháp luật quy định rằng bên cạnh việc ghi nhận và điều chỉnh các quyền tài sản (QTS) có thể sử dụng để bảo đảm nghĩa vụ, còn có các QTS không được phép chuyển giao trong giao dịch và do đó không thể sử dụng để bảo đảm nghĩa vụ Điều này nhấn mạnh rằng pháp luật không cho phép chuyển nhượng các QTS nhất định.

Một số tác giả, như Trương Thanh Đức (2009) trong bài viết "Những điều không thể về giao dịch bảo đảm" trên Tạp chí Nghiên cứu lập pháp, đã cho rằng tài sản hình thành trong tương lai không thể được sử dụng làm bảo đảm cho nghĩa vụ.

229 Điểm b khoản 2 Điều 10 TT 08/2018/TT-BTP

Theo Nguyễn Văn Vân trong bài viết của mình, quyền được cấp dưỡng và quyền yêu cầu bồi thường thiệt h

2.6.1.3 Điều kiện quyền tài sản được dùng bảo đảm phải có tính xác định

Tính xác định của QTSBĐ được thể hiện qua hai khía cạnh: vật lý và pháp lý Đối với tài sản hữu hình, việc xác định tài sản liên quan đến việc xác định ai đang chiếm giữ tài sản về mặt vật chất Trong khi đó, đối với tài sản vô hình, việc xác định QTS cần dựa vào các giấy tờ chứng nhận quyền, như giấy đăng ký độc quyền cho quyền sở hữu trí tuệ hoặc giấy chứng nhận phần góp vốn trong doanh nghiệp Ngoài ra, TSBĐ cần đảm bảo tính xác định về chủ sở hữu và tình trạng pháp lý của tài sản, không thuộc vào tài sản đang tranh chấp, bị kê biên hoặc có quyết định thu hồi từ cơ quan nhà nước có thẩm quyền.

Về tính xác định QTS hình thành trong tương lai được dùng bảo đảm nghĩa vụ

ĐIỀU KIỆN ĐỂ QUYỀN TÀI SẢN ĐƯỢC DÙNG BẢO ĐẢM TẠI CÁC NGÂN HÀNG THƯƠNG MẠI 106 3.1 Thực trạng pháp luật về điều kiện của quyền tài sản dùng để bảo đảm tại các

Về điều kiện quyền tài sản được dùng bảo đảm nghĩa vụ có thể chuyển giao trong

Trước đây, Bộ luật Dân sự 2005 không quy định rõ ràng về điều kiện tài sản bảo đảm (TSBĐ) phải là tài sản được phép giao dịch Tuy nhiên, Điều 4 Nghị định số 63/2006/NĐ-CP đã hướng dẫn cụ thể về vấn đề này.

Theo Điều 16 Nghị định số 126/2014/NĐ-CP, khi vợ chồng áp dụng chế độ tài sản theo thỏa thuận, họ có trách nhiệm thông báo cho bên thứ ba về các thông tin liên quan khi thực hiện giao dịch Nếu vợ hoặc chồng không thực hiện nghĩa vụ này, bên thứ ba sẽ được coi là ngay tình và được bảo vệ quyền lợi theo quy định của Bộ luật Dân sự.

Điều 8 Nghị định số 126/2014/NĐ-CP, ban hành ngày 31/12/2014, quy định chi tiết một số điều và biện pháp thi hành Luật Hôn nhân và Gia đình, nhằm hướng dẫn thực hiện các quy định pháp luật liên quan đến hôn nhân và gia đình tại Việt Nam.

BLDS 2005 quy định rằng tài sản bảo đảm có thể bao gồm tài sản hiện có, tài sản hình thành trong tương lai và phải được phép giao dịch Điều này nhấn mạnh tính linh hoạt trong việc sử dụng tài sản bảo đảm trong các giao dịch.

Theo Nghị định 163/2006/NĐ-CP, tài sản bảo đảm (TSBĐ) phải là tài sản “được phép giao dịch” Mặc dù quy định này không được nhắc lại trong Bộ luật Dân sự 2015 và Nghị định 21/2021/NĐ-CP về bảo đảm thực hiện nghĩa vụ, điều này không có nghĩa là TSBĐ không cần đáp ứng điều kiện này Đây là yêu cầu chung đối với tài sản khi tham gia giao dịch, bao gồm cả giao dịch bảo đảm Do đó, quyền tài sản (QTS) được sử dụng làm bảo đảm phải thỏa mãn điều kiện được phép giao dịch và có thể chuyển nhượng trong các giao dịch dân sự.

Khi thiết lập giao dịch bảo đảm, bên bảo đảm cần đảm bảo rằng quyền tài sản bảo đảm (QTSBĐ) thuộc sở hữu của mình và kiểm tra khả năng chuyển giao QTSBĐ.

Để khẳng định một quyền tài sản (QTS) có thể chuyển giao trong giao dịch dân sự, cần chú ý hai yếu tố cơ bản: Thứ nhất, QTS không gắn liền với yếu tố nhân thân, ngoại trừ những trường hợp pháp luật có quy định khác Thứ hai, QTS không thuộc các trường hợp cấm giao dịch hoặc bị thu giữ bởi cơ quan nhà nước có thẩm quyền Mặc dù Bộ luật Dân sự 2015 chưa hướng dẫn rõ ràng về vấn đề này, nhưng các văn bản hướng dẫn thi hành đã xác định rằng tài sản bảo đảm (TSBĐ) phải không thuộc trường hợp pháp luật cấm chuyển nhượng tại thời điểm lập hợp đồng bảo đảm Điều này có thể dẫn đến việc không cho phép chuyển giao QTS, gây khó khăn trong việc sử dụng tài sản để bảo đảm nghĩa vụ.

3.1.2.1 Về tài sản được dùng bảo đảm là quyền sử dụng đất

Quyền sử dụng đất (QSDĐ) có thể được chuyển giao và sử dụng để bảo đảm nghĩa vụ, nhưng có những quy định đặc biệt liên quan đến QSDĐ do nhà nước giao đất hoặc cho thuê Theo Luật đất đai năm 2013, người sử dụng đất có quyền thế chấp QSDĐ, bao gồm cả QSDĐ thuê, nhưng đối với QSDĐ trả tiền thuê hàng năm, pháp luật chỉ cho phép quyền cho thuê lại mà không công nhận quyền chuyển nhượng Điều này có nghĩa là QSDĐ thuê trả tiền hàng năm không thể được dùng để bảo đảm nghĩa vụ, và pháp luật không ghi nhận chủ thể sử dụng đất có quyền thế chấp QSDĐ thuê này.

Trong thực tiễn, nhiều người sử dụng đất và ngân hàng đã nhầm lẫn về việc nhận bảo đảm bằng quyền sử dụng đất (QSDĐ) trong trường hợp trả tiền thuê đất hàng năm, dẫn đến việc hợp đồng thế chấp trở nên vô hiệu.

3.1.2.2 Về tài sản được dùng bảo đảm là quyền đòi nợ

Quyền đòi nợ chỉ có thể trở thành đối tượng bảo đảm nghĩa vụ khi được phép chuyển giao Theo quy định hiện hành, chủ thể có quyền yêu cầu có thể chuyển nhượng quyền này cho bên khác mà không cần sự đồng ý của bên có nghĩa vụ Pháp luật không chỉ thừa nhận việc chuyển nhượng quyền đòi nợ mà còn quy định về mua bán nợ, tạo ra tính thanh khoản cao hơn cho quyền đòi nợ Điều này mở ra tiềm năng lớn cho các ngân hàng thương mại trong việc nhận quyền đòi nợ làm bảo đảm nghĩa vụ, giúp thuận lợi hơn trong việc xử lý quyền đòi nợ khi xảy ra vi phạm nghĩa vụ.

Một số quyền yêu cầu gắn liền với nhân thân pháp luật, như quyền yêu cầu cấp dưỡng và yêu cầu bồi thường thiệt hại do xâm phạm đến tính mạng, sức khoẻ, danh dự, nhân phẩm, uy tín, không được phép chuyển giao và không thể dùng để bảo đảm nghĩa vụ Quy định này hợp lý, vì quyền được cấp dưỡng nhằm đáp ứng nhu cầu thiết yếu của người không sống chung, đảm bảo điều kiện vật chất tối thiểu cho họ Nếu chấp nhận quyền cấp dưỡng làm bảo đảm nghĩa vụ, sẽ ảnh hưởng nghiêm trọng đến đời sống của người được cấp dưỡng khi xảy ra vi phạm nghĩa vụ Tương tự, quyền yêu cầu bồi thường thiệt hại liên quan đến giá trị nhân thân của cá nhân cũng không phù hợp cho giao dịch.

3.1.2.3 Về tài sản được dùng bảo đảm là quyền tài sản đối với đối tượng quyền sở hữu trí tuệ Để bảo đảm khả năng xử lý TSBĐ khi vi phạm nghĩa vụ xảy ra, QTS đối với đối tượng quyền SHTT cũng phải đảm bảo điều kiện thuộc quyền sở hữu của bên bảo đảm Tuy nhiên, trong quan hệ bảo đảm, không nên xem bên bảo đảm phải là chủ sở hữu của TSBĐ là nguyên tắc cứng nhắc, bất di bất dịch khi xác định TSBĐ Xã hội hiện đại cần có cách nhìn cởi mở hơn về yếu tố sở hữu đối với QTSBĐ Uncitral đã nhấn mạnh để khuyến khích và thúc đẩy các biện pháp bảo đảm, pháp luật cần phải cho phép bên bảo đảm được sử dụng cả những tài sản mà mình không có quyền sở hữu trọn vẹn, nhưng

Quyết định giám đốc thẩm số 07/2020/KDTM, ban hành ngày 26 tháng 2 năm 2020 bởi TAND cấp cao TP Hồ Chí Minh, liên quan đến tranh chấp hợp đồng tín dụng, đã được xem xét trong vụ việc số 2 Quyết định này nhấn mạnh tính hợp pháp và các điều khoản liên quan đến hợp đồng tín dụng, đồng thời giải quyết các vấn đề phát sinh giữa các bên liên quan.

Theo Điều 24, Khoản 3, Luật Hôn nhân và Gia đình 2014, các quyền và lợi ích nhất định có thể được đưa vào giao dịch bảo đảm Trong lĩnh vực bảo đảm liên quan đến tài sản trí tuệ, pháp luật Việt Nam đã có xu hướng ghi nhận không chỉ quyền sở hữu trí tuệ (SHTT) mà còn cả quyền sử dụng đối tượng của quyền SHTT, cùng các quyền khác phát sinh từ quyền SHTT được sử dụng để bảo đảm nghĩa vụ, theo Nghị định 21/2021/NĐ-CP.

Một số quy định của luật chuyên ngành ảnh hưởng đến khả năng chuyển giao quyền sử dụng đối tượng sở hữu trí tuệ (SHTT) Cụ thể, theo Luật SHTT, bên nhận chuyển nhượng quyền sử dụng không được chuyển giao quyền này trừ khi chuyển nhượng cùng với cơ sở sản xuất kinh doanh Đối với quyền sử dụng trước sáng chế và kiểu dáng công nghiệp, người sở hữu quyền này cũng không được chuyển giao cho người khác, ngoại trừ trường hợp chuyển nhượng kèm theo cơ sở sản xuất, kinh doanh liên quan Do đó, chủ thể quyền sử dụng trước các đối tượng SHTT không thể chuyển giao quyền cho chủ thể khác nếu không kèm theo cơ sở sản xuất kinh doanh.

Điều kiện về tính xác định của quyền tài sản được dùng bảo đảm nghĩa vụ tại các ngân hàng thương mại

Mô tả QTSBĐ khi giao kết hợp đồng bảo đảm là yếu tố quan trọng giúp xác định tài sản và nhận diện đúng đối tượng của hợp đồng Việc mô tả này không chỉ cần thiết cho các bên tham gia mà còn quan trọng trong việc xử lý QTSBĐ khi sự kiện bảo đảm xảy ra Các chủ thể có thể lựa chọn mô tả cụ thể hoặc chung, nhưng cần đảm bảo tính chính xác và khả năng xác định tài sản Đặc biệt, đối với QTSBĐ là tài sản vô hình, việc mô tả chi tiết thường gặp khó khăn, nhất là với các QTS hình thành trong tương lai Theo quy định hiện hành, mô tả QTSBĐ cần bao gồm tên cụ thể của QTS, căn cứ pháp lý phát sinh quyền, giá trị thành tiền (nếu có) và các thông tin liên quan Nghị định số 99/2022/NĐ-CP đã quy định rõ hơn về thông tin mô tả QTS, yêu cầu nêu rõ tên quyền, căn cứ phát sinh, và nếu căn cứ là hợp đồng, cần cung cấp tên hợp đồng, số hợp đồng, thời điểm có hiệu lực và các bên tham gia.

Việc mô tả tài sản bảo đảm (TSBĐ) trong hợp đồng bảo đảm giúp các bên xác định tài sản cần xử lý khi xảy ra sự kiện bảo đảm So với quy định trước đây, Bộ luật Dân sự 2015 đã mở rộng cách mô tả tài sản, cho phép mô tả chung, tạo điều kiện thuận lợi cho việc xác định các quyền tài sản bảo đảm cũng như các quyền tài sản hình thành trong tương lai.

Tính xác định của QTSBĐ được thể hiện qua hai khía cạnh: đầu tiên, là việc xác định QTS cần xử lý, bao gồm việc nhận diện sự tồn tại của QTS hiện hữu hoặc khả năng hình thành trong tương lai.

Theo Khoản 3 Điều 120 của Luật Doanh Nghiệp 2020, trong vòng 03 năm kể từ khi công ty nhận Giấy chứng nhận đăng ký doanh nghiệp, cổ phần phổ thông của cổ đông sáng lập có thể tự do chuyển nhượng cho các cổ đông sáng lập khác Việc chuyển nhượng cho người không phải là cổ đông sáng lập chỉ được thực hiện khi có sự chấp thuận của Đại Hội đồng cổ đông.

294 Điểm c Khoản 2 Điều 10 TT 08/2018/TT-BTP

295 NĐ 99/2022/NĐ-CP lai); hai là, xác định được phạm vi cụ thể của QTSBĐ trong mối tương quan với các tài sản khác

3.1.3.1 Về tài sản được dùng bảo đảm là quyền sử dụng đất

Pháp luật hiện hành đã công nhận quyền hưởng dụng và quyền bề mặt là các quyền riêng biệt đối với tài sản, do đó, trong hướng dẫn mô tả tài sản bảo đảm (TSBĐ) là quyền sử dụng đất (QSDĐ), cần phải đề cập rõ ràng đến nội dung này Việc này không chỉ giúp hạn chế tranh chấp mà còn bảo vệ quyền lợi hợp pháp của các bên, đặc biệt trong quá trình xử lý QSDĐ Do vậy, cần quy định rõ ràng về thủ tục đăng ký TSBĐ là QSDĐ, yêu cầu xuất trình hợp đồng liên quan khi quyền hưởng dụng hoặc quyền bề mặt được sử dụng để bảo đảm nghĩa vụ thuộc về chủ thể khác không phải bên thế chấp Bên cạnh đó, cũng cần làm rõ khả năng bên thế chấp có quyền chuyển nhượng quyền hưởng dụng và quyền bề mặt cho các chủ thể khác sau khi đã thế chấp QSDĐ.

Pháp luật không công nhận tài sản hình thành trong tương lai bao gồm quyền sử dụng đất (QSDĐ), dẫn đến việc người sử dụng đất không thể xác định quyền sở hữu QSDĐ trong tương lai Thay vào đó, họ thường lựa chọn thỏa thuận quyền tài sản phát sinh từ hợp đồng Trong thực tiễn, việc xác định đối tượng bảo đảm nghĩa vụ vẫn chưa rõ ràng, điều này có thể tạo ra rủi ro cho ngân hàng thương mại khi nhận bảo đảm, ảnh hưởng đến hiệu lực của hợp đồng bảo đảm.

Bản án số 841/2020/KDTM-ST ngày 01/09/2020 của TAND Thành phố Hồ Chí Minh về tranh chấp hợp đồng tín dụng giữa nguyên đơn là Ngân hàng Thương mại Cổ

Đất đai được xác định dựa trên cơ sở địa giới và đã tồn tại, vì vậy không thể hình thành trong tương lai về mặt vật chất Theo quy định tại điểm a khoản 1 Điều 188 Luật Đất đai năm 2013, quyền sử dụng đất (QSDĐ) chỉ trở thành đối tượng giao dịch khi được cấp giấy chứng nhận Điều này nhấn mạnh tính pháp lý của đất đai trong các giao dịch.

“Tài sản hình thành trong tương lai không bao gồm QSDĐ.”

Trong một số trường hợp, “quyền tài sản phát sinh từ hợp đồng” và “tài sản hình thành trong tương lai” có những điểm tương đồng nhất định Dưới cùng một điều kiện về lợi ích, các bên có thể lựa chọn cách thức sử dụng phù hợp.

QTS có thể phát sinh từ hợp đồng hoặc tài sản hình thành trong tương lai để làm tài sản bảo đảm (TSBĐ) Ví dụ, khi một người ký hợp đồng mua bán nhà ở hình thành trong tương lai, họ có thể dùng lợi ích từ hợp đồng này để bảo đảm nghĩa vụ bằng cách thế chấp QTS phát sinh từ hợp đồng hoặc tài sản hình thành trong tương lai Nếu thế chấp là một vật hữu hình (nhà ở), các bên sẽ thế chấp nhà ở hình thành trong tương lai; nếu là quyền, thì sẽ thế chấp QTS phát sinh từ hợp đồng Lợi ích mà bên thế chấp nhận được từ hợp đồng chính là giá trị bảo đảm mà các bên hướng tới Do đó, nếu đã chọn thế chấp QTS phát sinh từ hợp đồng thì không thể cùng lúc thế chấp tài sản hình thành trong tương lai và ngược lại Trong thực tế, các bên thường chọn đối tượng thế chấp dựa trên sự thuận tiện trong việc ký kết hợp đồng bảo đảm và đăng ký biện pháp bảo đảm Tuy nhiên, về mặt pháp lý, “quyền tài sản phát sinh từ hợp đồng” và “tài sản hình thành trong tương lai” là hai chế định hoàn toàn khác nhau, đòi hỏi phải có quy định riêng cho mỗi đối tượng bảo đảm phù hợp với bản chất của từng quan hệ trong giao dịch bảo đảm.

58 phần C và bị đơn là Công ty TNHH Thương mại và Dịch vụ ĐH 298 là một ví dụ Ngày 10/8/2012, NH TMCP C đã ký hợp đồng tín dụng số 12.39.0018A/HĐTDHM với Công ty TNHH Thương mại và dịch vụ ĐH (sau đây gọi tắt là Công ty ĐH) để cho vay số tiền 27.600.000.000 đồng (Hai mươi bảy tỷ sáu trăm triệu đồng) Trong số các tài sản dùng để đảm bảo cho nghĩa vụ trả nợ cho Công ty ĐH gồm có: QTS phát sinh từ hợp đồng góp vốn nhận nền nhà xây dựng nhà ở số 31/HĐGV ngày 26/9/2002 giữa bà Dương Thị

Công ty Cổ phần Đầu tư và Kinh doanh Vật liệu Xây dựng F đã bị kiện bởi ngân hàng do vi phạm nghĩa vụ trả nợ, dẫn đến việc Tòa án cấp sơ thẩm xác định quyền xử lý tài sản thế chấp nếu công ty không thanh toán đầy đủ Ông K và bà Dương Thị PH, bên thế chấp, đã kháng cáo, cho rằng hợp đồng thế chấp vô hiệu vì không tuân thủ quy định pháp luật về công chứng và chứng thực Tuy nhiên, Tòa án cấp phúc thẩm đã khẳng định rằng quyết định của tòa sơ thẩm là có căn cứ pháp luật dựa trên Điều 181 và Điều 132 Bộ luật Dân sự 2005.

Quyết định của tòa sơ thẩm và tòa phúc thẩm là hợp lý khi căn cứ vào khoản 1 Điều 322 BLDS 2005 xác định “quyền tài sản phát sinh từ hợp đồng” là một loại QTS dùng để bảo đảm thực hiện nghĩa vụ dân sự Tuy nhiên, tòa án chưa giải thích rõ ràng về đối tượng bảo đảm trong hợp đồng, khi các bên không thỏa thuận TSBĐ là QSDĐ Việc lựa chọn QTS làm đối tượng bảo đảm là hợp pháp và không yêu cầu đăng ký biện pháp bảo đảm Mối quan hệ giữa QTS phát sinh từ hợp đồng góp vốn và QSDĐ rất chặt chẽ, dễ gây nhầm lẫn cho các bên tham gia Hiện tại, BLDS 2015 và các văn bản hướng dẫn chưa có hướng dẫn cụ thể cho vấn đề này, do đó cần thiết có hướng dẫn chi tiết Bản án này có thể được xem xét làm án lệ để hỗ trợ Tòa án trong quá trình xét xử, đồng thời giúp cơ quan lập pháp điều chỉnh mối quan hệ giữa tài sản hình thành trong tương lai và QTS phát sinh từ hợp đồng trong những trường hợp nhất định.

298 Xem phụ lục, vụ việc số 3

Thế chấp quyền sử dụng đất (QTS) từ hợp đồng mua bán nhà không cần đăng ký, trong khi thế chấp nhà ở hình thành trong tương lai thì cần phải đăng ký Pháp luật cho phép các bên lựa chọn giữa hai hình thức này khi ký kết hợp đồng, nhằm bảo vệ quyền định đoạt tài sản của chủ thể Hiện hành quy định cho phép chuyển đổi từ hợp đồng thế chấp QTS phát sinh từ hợp đồng mua bán nhà ở hình thành trong tương lai sang hợp đồng thế chấp nhà ở hình thành trong tương lai thông qua việc đăng ký lại thế chấp Các bên trong quan hệ bảo đảm cần nắm rõ quy định pháp luật để chủ động lựa chọn giữa việc bảo đảm bằng QTS phát sinh từ hợp đồng hay tài sản hình thành trong tương lai trong các trường hợp cụ thể.

3.1.3.2 Về tài sản được dùng bảo đảm quyền đòi nợ

Nghị định 21/2021/NĐ-CP đã điều chỉnh hướng dẫn về giao dịch bảo đảm theo tinh thần của Bộ luật Dân sự 2015, yêu cầu mô tả thông tin tài sản bảo đảm là quyền tài sản phải bao gồm tên và căn cứ pháp lý phát sinh quyền tài sản So với Thông tư 08/2018/TT-BTP, Nghị định 21/2021/NĐ-CP không yêu cầu mô tả giá trị quyền tài sản, quy định này cũng được kế thừa trong Nghị định 99/2022/NĐ-CP Mặc dù vẫn tuân theo nguyên tắc "mô tả chung" của Bộ luật Dân sự, nhưng việc mô tả quyền đòi nợ cần đảm bảo thông tin như tên quyền đòi nợ và căn cứ pháp lý phát sinh quyền này Nếu quyền đòi nợ phát sinh từ hợp đồng, cần cung cấp thông tin về hợp đồng đó như tên, số hợp đồng, thời điểm có hiệu lực và thông tin bên nợ cùng bên có quyền đòi nợ Trên thực tế, các bên đã mô tả tài sản mà không cần xác định giá trị cụ thể và vẫn được cơ quan công chứng và Tòa án chấp nhận, cho thấy tính xác định được Quy định hiện nay về mô tả quyền tài sản không chỉ phù hợp với xu hướng chung mà còn đáp ứng yêu cầu thực tiễn.

Về xác định quyền đòi nợ hình thành trong tương lai được dùng bảo đảm

Trong nghiên cứu về quy định liên quan đến quyền tài sản hình thành trong tương lai, tác giả nhận thấy rằng trước đây, pháp luật đã ghi nhận rõ ràng quyền đòi nợ hình thành trong tương lai có thể được sử dụng để đảm bảo nghĩa vụ theo Điều 301, nhưng hiện nay không còn quy định riêng cho vấn đề này Đối với một số quyền tài sản đặc thù khác như quyền đòi nợ, việc xác định quyền tài sản hình thành trong tương lai đã được đề cập nhưng chưa có sự giải thích cụ thể Quyền đòi nợ vốn đã mang yếu tố tương lai, vì nó phụ thuộc vào chủ thể chỉ có thể yêu cầu trong tương lai.

Kiến nghị hoàn thiện pháp luật về điều kiện để quyền tài sản được dùng bảo đảm tại các ngân hàng thương mại

Việc xác định loại QTS phù hợp để đảm bảo nghĩa vụ là điều kiện cần thiết, trong khi điều kiện pháp lý của QTSBĐ là điều kiện đủ để QTS trở thành TSBĐ Các yếu tố này đóng vai trò quan trọng trong việc xử lý QTSBĐ hiệu quả Do đó, pháp luật quy định chặt chẽ về điều kiện pháp lý của QTSBĐ nhằm đảm bảo khả năng xử lý khi cần thiết, giúp ngân hàng thu hồi nợ và hạn chế rủi ro tín dụng, đồng thời không gây khó khăn cho QTS trong việc tham gia đảm bảo nghĩa vụ.

Thực tiễn giao dịch bảo đảm bằng quyền tài sản (QTS) cho thấy nhiều vấn đề cần giải quyết Đầu tiên, quy định về quyền sở hữu QTS vẫn còn vướng mắc, dẫn đến tranh chấp khi QTSBĐ không thuộc sở hữu của bên bảo đảm hoặc khó xác định chủ sở hữu Thứ hai, một số quy định hạn chế khả năng chuyển giao của QTS, ảnh hưởng đến việc trở thành tài sản bảo đảm (TSBD) Cuối cùng, các quy định về tính cụ thể của QTS, đặc biệt là QTS hình thành trong tương lai, gặp khó khăn về lý luận và thiếu hướng dẫn cụ thể để xác định.

Dựa trên nhu cầu cải thiện quy định về điều kiện để QTS trở thành TSBĐ, tác giả đã phân tích những bất cập hiện tại và đề xuất các giải pháp cụ thể nhằm khắc phục vấn đề này.

3.2.1 Hoàn thiện quy định về điều kiện quyền tài sản phải thuộc quyền sở hữu của bên bảo đảm

Thứ nhất , cần bổ sung quy định trong Luật đất đai như sau:

Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất (QSDĐ) của hộ gia đình cần ghi rõ số lượng và tên các thành viên trong hộ Điều này theo Luật Đất đai sẽ giúp bên nhận bảo đảm, cơ quan công chứng và Tòa án dễ dàng xác định chủ sở hữu QSDĐ khi có hợp đồng bảo đảm, trong quá trình công chứng, và khi giải quyết tranh chấp liên quan đến nghĩa vụ bảo đảm bằng QSDĐ của hộ gia đình.

Quy định rõ ràng về căn cứ xác định các thành viên trong hộ gia đình có quan hệ tài sản và là chủ thể của giao dịch dân sự giúp cơ quan cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất (QSDĐ) xác định chính xác ai là chủ sở hữu Điều này không chỉ đảm bảo tính minh bạch trong việc ghi nhận quyền sở hữu vào Giấy chứng nhận QSDĐ mà còn phân loại những người có tên trong sổ hộ khẩu nhưng không có quyền lợi và nghĩa vụ liên quan đến QSDĐ, từ đó giúp loại trừ các thành viên không phải là chủ sở hữu thực sự của hộ gia đình.

Kiến nghị này được đưa ra dựa trên thực tiễn hiện tại, trong đó việc công chứng và chứng thực hợp đồng thế chấp quyền sử dụng đất (QSDĐ) của hộ gia đình gặp khó khăn do cơ quan công chứng chưa có sự thống nhất trong việc hiểu và áp dụng quy định pháp luật liên quan đến hộ gia đình.

Việc xác định thành viên của "hộ gia đình" gắn liền với "sổ hộ khẩu" thường gặp khó khăn trong trường hợp tranh chấp, khi Tòa án phải nhờ Ủy ban nhân dân xác minh Điều này không chỉ tốn kém chi phí và công sức cho cơ quan chức năng mà còn khiến tiêu chí xác định thành viên của hộ gia đình, đặc biệt là chủ sở hữu quyền sử dụng đất (QSDĐ), trở nên mơ hồ Thực tế cho thấy, Ủy ban nhân dân thường căn cứ vào thời điểm cấp giấy chứng nhận QSDĐ để xác định thành viên, nhưng điều này có thể không chính xác, vì không phải tất cả thành viên trong hộ đều là chủ thể QSDĐ Việc xác định không chính xác và đầy đủ các thành viên của hộ gia đình có thể dẫn đến giao dịch không đáp ứng yêu cầu về quyền sở hữu, làm cho hợp đồng bảo đảm trở nên vô hiệu, ảnh hưởng đến quyền lợi của các bên, đặc biệt là ngân hàng thương mại khi giá trị bảo đảm bị suy giảm.

Tòa án nhân dân tối cao cần ban hành Nghị quyết nhằm hướng dẫn thống nhất việc xác định hiệu lực của hợp đồng bảo đảm liên quan đến quyền sử dụng đất (QSDĐ) thuộc sở hữu của hộ gia đình Việc này sẽ giúp đảm bảo tính nhất quán và rõ ràng trong việc áp dụng pháp luật về hợp đồng bảo đảm, tạo điều kiện thuận lợi cho các bên liên quan.

Trong trường hợp hợp đồng thế chấp quyền sử dụng đất vi phạm do không đủ thành viên hộ gia đình tham gia, cần xác định hợp đồng vô hiệu một phần Ngân hàng nhận bảo đảm có quyền xử lý tài sản bảo đảm tương ứng với giá trị tài sản của các bên Việc này xuất phát từ thực tiễn khi Tòa án đã có những phán quyết khác nhau liên quan đến chủ sở hữu là hộ gia đình, có nơi tuyên vô hiệu một phần, có nơi tuyên vô hiệu toàn bộ Để bảo đảm quyền lợi của ngân hàng và các bên liên quan, bên bảo đảm phải chịu trách nhiệm đối với hành vi của mình Đề xuất này nhằm tạo cơ sở cho các Tòa án áp dụng thống nhất việc tuyên hợp đồng vô hiệu một phần do thiếu thành viên hộ gia đình, đồng thời phù hợp với quy định pháp luật về sở hữu chung theo phần của hộ gia đình.

Trong trường hợp hợp đồng thế chấp đã được công chứng và đăng ký đúng quy định, ngân hàng có quyền xử lý quyền sử dụng đất để thu hồi nợ nếu việc không ký vào hợp đồng thế chấp là do lỗi của thành viên trong hộ Đồng thời, Tòa án tối cao cần quy định rõ các trường hợp mà ngân hàng được coi là ngay tình.

Kiến nghị này nhằm bảo vệ quyền lợi của ngân hàng trong trường hợp hợp đồng bảo đảm không đáp ứng điều kiện về chủ sở hữu tài sản bảo đảm, phù hợp với Điều 133 BLDS 2015 và nguyên tắc tự chịu trách nhiệm theo Điều 3 BLDS 2015 Thực tế đã ghi nhận nhiều trường hợp do hành vi của thành viên trong hộ dẫn đến hợp đồng không có hiệu lực, và ngân hàng không thể nhận biết điều này Việc thực hiện kiến nghị sẽ giúp các Tòa án áp dụng pháp luật một cách thống nhất, tạo cơ sở quan trọng trong bối cảnh hiện nay chưa có quy định chi tiết về vấn đề này, từ đó giảm thiểu khả năng tuyên hợp đồng vô hiệu và đảm bảo sự đồng nhất trong áp dụng pháp luật giữa các Tòa án.

Cần sửa đổi, bổ sung Luật Sở hữu trí tuệ với các nội dung sau: (i) Quy định hướng dẫn xác định chủ sở hữu tài sản trí tuệ được tạo ra từ trí tuệ nhân tạo khi có sự tham gia của nhiều chủ thể; (ii) Quy định xác định giá trị quyền sở hữu trí tuệ phát triển từ tài sản trí tuệ, như phần mềm, trong mối quan hệ giữa bên phát triển phần mềm và bên nhận chuyển nhượng, sử dụng dịch vụ phát triển phần mềm.

Đề xuất này nhằm giải quyết khoảng trống pháp lý trong việc xác định chủ sở hữu tài sản trí tuệ (QTS) mới xuất hiện trong xã hội công nghệ, đặc biệt là khi quyền sở hữu được sử dụng để bảo đảm nghĩa vụ Việc xác định quyền sở hữu QTS, như sản phẩm trí tuệ do robot tạo ra, có thể gây khó khăn cho Tòa án trong việc giải quyết tranh chấp Tài sản trí tuệ có thể gia tăng giá trị trong quá trình đầu tư, ví dụ như trong phát triển phần mềm, nơi bên sử dụng dịch vụ có thể trở thành chủ sở hữu tài sản phát triển Do đó, cần nghiên cứu và xây dựng quy định để xác định quyền sở hữu, nhằm đáp ứng yêu cầu điều chỉnh các quan hệ mới do công nghệ phát triển, đồng thời tạo thuận lợi cho việc xác định quyền sở hữu của QTS và hạn chế tranh chấp, cung cấp cơ sở pháp lý cho việc giải quyết khi có tranh chấp xảy ra.

3.2.2 Hoàn thiện quy định về điều kiện quyền tài sản được dùng bảo đảm phải có thể chuyển giao

Cần bổ sung quy định trong Luật SHTT, cho phép bên nhận chuyển nhượng quyền sử dụng đối tượng quyền SHTT được chuyển giao quyền này cho bên thứ ba, trừ khi có thỏa thuận khác Đồng thời, cần quy định về quyền sử dụng đối với đối tượng được dùng bảo đảm tại NĐ 21/2021/NĐ-CP, cho phép bên nhận li-xăng quyền sở hữu công nghiệp tự động được sử dụng quyền này để bảo đảm nghĩa vụ và cấp quyền thứ cấp cho bên thứ ba mà không cần sự đồng ý của chủ sở hữu quyền SHTT, trừ khi có thỏa thuận khác Nếu hợp đồng li-xăng không cấm bên nhận cấp quyền thứ cấp hoặc thế chấp quyền sử dụng, thì bên nhận có thể tự do cấp quyền cho bên thứ ba và sử dụng quyền đã cấp để bảo đảm nghĩa vụ mà không phụ thuộc vào ý chí của bên cấp quyền.

Đề xuất này nhằm tôn trọng quyền định đoạt của chủ sở hữu, mở rộng khả năng chuyển nhượng quyền sử dụng tài sản trí tuệ (QSTT) cho các chủ thể quyền Điều này không chỉ bảo vệ quyền lợi chính đáng của chủ thể mà còn tạo điều kiện cho QSTT trở thành tài sản bảo đảm (TSBĐ) mà không bị cản trở bởi yếu tố không thể chuyển giao Hơn nữa, việc này cũng cung cấp cơ sở pháp lý cho Tòa án trong việc giải quyết tranh chấp khi hợp đồng li-xăng không quy định rõ ràng về vấn đề chuyển nhượng.

3.2.3 Hoàn thiện các quy định liên quan đến tính xác định của quyền tài sản được dùng bảo đảm

XỬ LÝ QUYỀN TÀI SẢN ĐƯỢC DÙNG BẢO ĐẢM TẠI CÁC NGÂN HÀNG THƯƠNG MẠI

Thực trạng pháp luật về xử lý quyền tài sản bảo đảm tại các ngân hàng thương mại

4.1.1 Căn cứ xử lý quyền tài sản bảo đảm

Căn cứ xử lý quyền tài sản bảo đảm (QTSBĐ) không được quy định cụ thể trong pháp luật về bảo đảm nghĩa vụ Theo Điều 299 Bộ luật Dân sự 2015, có ba căn cứ chính để xử lý tài sản bảo đảm: (i) Khi đến hạn thực hiện nghĩa vụ mà bên có nghĩa vụ không thực hiện hoặc thực hiện không đúng; (ii) Bên có nghĩa vụ phải thực hiện trước hạn do vi phạm nghĩa vụ theo thỏa thuận hoặc quy định của pháp luật; (iii) Các trường hợp khác do các bên thỏa thuận hoặc theo quy định của luật Ngoài ra, Nghị định 21/2021/NĐ-CP hướng dẫn về bảo đảm nghĩa vụ cũng không quy định riêng về căn cứ xử lý QTSBĐ.

Căn cứ xử lý QTSBĐ được quy định theo các quy định chung, cho phép các bên tự thỏa thuận các trường hợp xử lý QTS trên nguyên tắc tự do, tự nguyện Pháp luật Việt Nam hiện nay không giới hạn thỏa thuận, miễn là không vi phạm điều cấm của luật và không trái đạo đức xã hội Điều 9 UCC cho phép các bên tự do thỏa thuận về căn cứ xử lý động sản bảo đảm, nhưng cần tuân thủ nguyên tắc thiện chí và phù hợp với thông lệ thương mại Sự giới hạn này nhằm bảo vệ lợi ích của bên bảo đảm, vì họ thường ở vị thế yếu hơn bên nhận bảo đảm, nhất là khi bên bảo đảm có thể bị áp lực chấp nhận các thỏa thuận không công bằng để được cấp tín dụng.

4.1.2 Thẩm quyền xử lý quyền tài sản bảo đảm

Về quyền xử lý tài sản bảo đảm tiền vay, chủ thể thực hiện quyền xử lý tài sản bảo đảm được pháp luật công nhận cho ngân hàng nhận bảo đảm Các quyền này được quy định bởi pháp luật nhằm đáp ứng nhu cầu thu hồi vốn nhanh chóng của ngân hàng thương mại.

Trong lĩnh vực tín dụng ngân hàng, pháp luật đã trao nhiều quyền cho các ngân hàng thương mại (NHTM) trong việc xử lý quyền tài sản bảo đảm (QTSBĐ), bao gồm quyền yêu cầu giao tài sản, quyền truy đòi QTS, quyền thực hiện phương thức xử lý tài sản, và quyền xác định giá trị QTSBĐ Mặc dù các quyền này đã được thực hiện trong quá trình xử lý QTSBĐ, nhưng vẫn tồn tại một số bất cập như quyền xử lý tài sản phái sinh, quyền xử lý QTS là quyền sử dụng đất có tài sản gắn liền, và việc xác định giá trị QTSBĐ trong việc thu hồi nợ Những vấn đề này sẽ được phân tích chi tiết trong quy trình xử lý QTSBĐ.

4.1.3 Quyền tài sản được xử lý

QTSBĐ được xác định trong hợp đồng bảo đảm, nhưng những biến động trong quá trình bảo đảm đã đặt ra câu hỏi về cách xác định QTSBĐ tại thời điểm xử lý và phạm vi cụ thể của nó Đặc biệt, sự xuất hiện của các tài sản phái sinh càng làm tăng tính phức tạp trong việc xác định QTSBĐ.

Trong quá trình bảo đảm, tài sản phái sinh có thể hình thành từ QTSBĐ gốc ban đầu thông qua việc sử dụng và định đoạt QTS Một số hệ thống pháp luật công nhận quyền tự động của chủ nợ có bảo đảm đối với tài sản phái sinh, bao gồm hoa lợi, lợi tức, doanh thu, sản phẩm trong sản xuất và tiền thu được từ việc định đoạt Quyền tự động này cho phép các tài sản phái sinh được xem là TSBĐ mà không cần thỏa thuận giữa các bên, giúp bên nhận bảo đảm có khả năng xử lý để thu hồi nợ Mặc dù các quốc gia đều ghi nhận tài sản phái sinh, phạm vi công nhận lại khác nhau Theo Uncitral, cần mở rộng phạm vi này, vì chủ nợ có bảo đảm thường mong muốn quyền bảo đảm không chỉ đối với tài sản gốc mà còn đối với tất cả những gì tài sản tạo ra Hơn nữa, chủ nợ có bảo đảm thường yêu cầu bên cấp bảo đảm không được xử lý TSBĐ mà không có sự cho phép của họ, nhằm bảo vệ khả năng dựa vào tài sản đó để đảm bảo khoản nợ.

Theo hướng dẫn của Uncitral năm 2010, phạm vi của quyền tài sản phái sinh rất đa dạng, bao gồm tất cả các tài sản phát sinh từ quyền tài sản như: khoản thu từ việc bán hoặc định đoạt quyền tài sản bằng các phương thức khác, cũng như từ cho thuê hoặc cấp phép quyền tài sản bất động sản.

According to the United Nations Commission on International Trade Law (UNCITRAL) Legislative Guide on Secured Transactions (2010), derivatives, including income and revenue from secured transactions, dividends, and claims arising from defects or losses, are recognized as derivative assets This concept was further upheld in the 2016 UNCITRAL Model Law on Secured Transactions, specifically in Article 2 (bb), which defines derivative assets as any asset, in any form, derived from or received in relation to the original secured asset.

Pháp luật Việt Nam chưa định nghĩa rõ ràng về tài sản phái sinh liên quan đến tài sản bảo đảm (TSBĐ), nhưng có một số quy định điều chỉnh như việc bên nhận bảo đảm có quyền tự động đối với số tiền thu được từ việc bán tài sản thế chấp trong một số trường hợp Theo Điều 321 BLDS 2015, hoa lợi, lợi tức chỉ được xem là tài sản thế chấp khi có thỏa thuận Ngoài ra, Điều 21 NĐ 21/2021/NĐ-CP không quy định về tài sản phái sinh mà tập trung vào "biến động của TSBĐ", xác định TSBĐ trong trường hợp tài sản bị chia, tách, sáp nhập hoặc tạo thành tài sản mới.

QTS (quyền tài sản) là một loại tài sản vô hình với nhiều tài sản cụ thể đặc thù, tuy nhiên, quy định hiện hành về tài sản bảo đảm (TSBĐ) tại Việt Nam chưa đủ để áp dụng cho QTS Khi các bên không có thỏa thuận rõ ràng về phạm vi QTSBĐ, quy định hiện tại không thể xác định một cách chính xác Điều này liên quan đến nhiều quy định về tài sản hữu hình trong Bộ luật dân sự 2015, chủ yếu tập trung vào vật chất và không áp dụng cho QTS vô hình Đặc biệt, trong trường hợp thế chấp quyền đòi nợ, việc xác định phần lãi của quyền đòi nợ là TSBĐ vẫn còn nhiều tranh cãi, do đó, cần có giải pháp rõ ràng hơn cho vấn đề này.

310 United Nations Commission on International Trade Law (2010), Uncitral Legislative Guide on Secured

311 Điều này có khác so với UCC, Điều 9 UCC (mục 9-102(64)) quy định về tài sản phái sinh, theo đó không bao gồm hoa lợi, lợi tức

312 United Nations Commission on International Trade Law, Uncitral Model Law On Secured Transactions 2016, Điều 2 (bb)

313 United Nations Commission on International Trade Law (2020), Uncitral Legislative Guide on Secured Transactions, section II.A.7, tr 25

Theo Khoản 4 Điều 321 BLDS 2015, bên bảo đảm có quyền bán, thay thế, hoặc trao đổi tài sản thế chấp nếu tài sản đó là hàng hóa luân chuyển trong quá trình sản xuất, kinh doanh Trong tình huống này, quyền yêu cầu bên mua thanh toán tiền, số tiền thu được, tài sản hình thành từ số tiền thu được, và tài sản được thay thế hoặc trao đổi sẽ trở thành tài sản thế chấp Việc mô tả chi tiết các quyền và trách nhiệm trong trường hợp này là cần thiết để tránh tranh chấp, đặc biệt khi có những quan điểm khác nhau về phần lãi trong quyền đòi nợ, liệu lãi có được xem là vật phụ hay lợi tức Nếu lãi được coi là vật phụ, thì nó sẽ tự động thuộc về tài sản thế chấp theo quy định tại Khoản 1 Điều 315.

Theo Điều 318 BLDS 2015, lãi được xem là lợi tức chỉ thuộc tài sản bảo đảm khi có thỏa thuận, và theo một số quan điểm, nếu không có thỏa thuận khác, lãi nên thuộc tài sản thế chấp Tuy nhiên, điều này không hoàn toàn phù hợp với quyền đòi nợ từ hợp đồng tín dụng, nơi việc trả lãi có thể diễn ra định kỳ Do đó, phần lãi mà bên bảo đảm chưa nhận do chưa đến hạn trả lãi nên được xác định là quyền đòi nợ thuộc tài sản bảo đảm Thực tế cho thấy, quyền đòi nợ bảo đảm nghĩa vụ chủ yếu là từ hợp đồng mua bán, trong khi quyền đòi nợ từ hợp đồng tín dụng ít được sử dụng và thỏa thuận về lãi cũng không thường xuyên được đề cập.

Nhằm tăng tính chắc chắn và an toàn trong bối cảnh thiếu hành lang pháp lý về tài sản phái sinh, các ngân hàng thường có xu hướng thỏa thuận bao trùm, chẳng hạn như thỏa thuận rằng "tài sản thế chấp là quyền đòi nợ; toàn bộ quyền, quyền lợi và lợi ích của bên thế chấp phát sinh và gắn liền với quyền đòi nợ" Điều này có nghĩa là nếu quyền đòi nợ phát sinh lãi, nó cũng sẽ thuộc về tài sản bảo đảm Thực tiễn cho thấy, Tòa án đã chấp nhận cách thỏa thuận này, khác với trước đây khi các bên trong quan hệ bảo đảm thường chỉ đơn thuần thỏa thuận rằng "tài sản bảo đảm nợ vay là quyền đòi nợ từ công ty".

Tòa án đã chấp nhận thỏa thuận giữa các bên về tài sản phái sinh liên quan đến quyền đòi nợ, thể hiện sự tôn trọng nguyên tắc thỏa thuận Tuy nhiên, pháp luật Việt Nam hiện chưa có quy định cụ thể cho tài sản phái sinh trong bối cảnh này Điều này đặt ra câu hỏi liệu các tài sản phái sinh này có thể trở thành tài sản bảo đảm (TSBĐ) tự động nếu không có thỏa thuận giữa các bên hay không, một vấn đề vẫn cần được phân tích sâu hơn Đối với cổ phần và phần vốn góp, theo Bộ luật Dân sự, bên thế chấp có quyền khai thác công dụng và hưởng lợi tức từ tài sản thế chấp, trừ những trường hợp đặc biệt.

Theo Khoản 2 Điều 110 BLDS 2015, vật phụ được định nghĩa là những vật trực tiếp hỗ trợ cho việc khai thác công dụng của vật chính Vật phụ không chỉ là một bộ phận của vật chính mà còn có khả năng tách rời khỏi vật chính.

316 Khoản 2 Điều 109 BLDS 2015: “Lợi tức là khoản lợi thu được từ việc khai thác tài sản”

Kiến nghị hoàn thiện pháp luật về xử lý quyền tài sản bảo đảm tại các ngân hàng thương mại

Xử lý quyền tài sản bảo đảm (QTSBĐ) trong hoạt động ngân hàng (NH) là việc NH thực hiện quyền định đoạt của mình để thu hồi nợ khi bên vay vi phạm nghĩa vụ Quyền truy đòi và quyền ưu tiên là hai quyền cơ bản của NH trong việc nhận bảo đảm đối với QTSBĐ Quá trình xử lý không chỉ liên quan đến NH, bên bảo đảm và bên vay, mà còn có sự tham gia của bên thứ ba có lợi ích liên quan Với tính chất vô hình của QTSBĐ, bên thứ ba thường tồn tại, do đó, hệ thống pháp luật cần quy định rõ ràng để bên nhận bảo đảm có thể thuận lợi xử lý quyền truy đòi, quyền ưu tiên và quyền định đoạt, nhằm hạn chế rủi ro tín dụng nhưng vẫn đảm bảo cân bằng lợi ích giữa các bên liên quan.

Phân tích thực trạng pháp luật và thực tiễn xử lý QTSBĐ cho thấy còn nhiều bất cập trong quy định hiện hành Thứ nhất, ngân hàng gặp khó khăn trong việc nắm giữ quyền sử dụng đất (QSDĐ) do pháp luật chưa ghi nhận mạnh mẽ quyền thu giữ tài sản bảo đảm (TSBĐ) Thứ hai, việc thiếu quy định về nghĩa vụ và trách nhiệm của bên thứ ba trong phối hợp xử lý khiến ngân hàng khó kiểm soát quyền tài sản (QTS) Thứ ba, sự dè dặt trong quy định quyền bán QTSBĐ của ngân hàng làm chậm tiến trình xử lý và tăng chi phí Thứ tư, sự thiếu hụt các quy định liên quan đến QTS phái sinh đe dọa quyền truy đòi của bên bảo đảm Cuối cùng, hệ thống xác lập thứ tự ưu tiên còn chung chung, chưa đầy đủ các trường hợp đặc quyền ưu tiên liên quan đến bên thứ ba.

Trên cơ sở những vướng mắc trong thực tiễn áp dụng, tác giả đề xuất một số giải pháp hoàn thiện cụ thể như sau:

4.2.1 Hoàn thiện pháp luật về xác định phạm vi quyền tài sản bảo đảm để xử lý

Theo quy định về tài sản phái sinh từ tài sản bảo đảm (TSBĐ), việc xác định các tài sản phái sinh thuộc phạm vi TSBĐ là rất quan trọng Định nghĩa tài sản phái sinh theo Điều 9 UCC (mục 9-102(64)) có thể được áp dụng cho Việt Nam, do tính rõ ràng và đầy đủ của nó Cụ thể, tài sản phái sinh bao gồm: (a) bất kỳ tài sản nào thu được từ việc bán, cho thuê, nhượng quyền hoặc trao đổi tài sản bảo đảm; (b) khoản thu từ việc phân chia tài sản bảo đảm; (c) các quyền phát sinh từ tài sản bảo đảm; (d) quyền yêu cầu liên quan đến tài sản bảo đảm trong trường hợp tài sản bị mất, không đạt yêu cầu chất lượng hoặc quyền đối với tài sản bị xâm phạm; và (e) quyền nhận số tiền bảo hiểm liên quan đến tài sản, trong phạm vi giá trị của tài sản bảo đảm.

Tác giả nêu kiến nghị trên xuất phát từ các lý do sau:

Pháp luật hiện hành chưa có khái niệm rõ ràng về tài sản phái sinh, mà chỉ quy định rải rác trong nhiều văn bản như Bộ luật Dân sự 2015 và Nghị định 21/2021/NĐ-CP Những quy định này không tạo thành một hệ thống logic và chỉ phản ánh một số khía cạnh nhất định, mang tính chất riêng lẻ trong các trường hợp cụ thể.

Thực trạng pháp luật hiện nay cho thấy rằng chưa có quy định cụ thể nào xác định các tài sản phái sinh từ quyền tài sản (QTS) thuộc quyền tài sản bảo đảm (QTSBĐ) Điều này bao gồm các loại tài sản như lãi từ quyền đòi nợ, lợi tức, cổ tức, quyền mua cổ phần phát sinh từ cổ phần, cũng như lợi tức và quyền mua phần vốn góp từ phần vốn góp, cùng với các tài sản phái sinh khác.

Thực tiễn cho thấy các ngân hàng thường thỏa thuận rằng tất cả tài sản phái sinh phát sinh từ tài sản ban đầu đều thuộc tài sản bảo đảm Sự lựa chọn này có thể xuất phát từ việc thiếu quy định rõ ràng về tài sản phái sinh, do đó, để đảm bảo an toàn và hạn chế rủi ro tín dụng, các ngân hàng đã áp dụng phương án thỏa thuận này.

Tài sản phái sinh được định nghĩa là có vật quyền rõ ràng và cố định, tồn tại tự động mà không cần sự thỏa thuận giữa các bên Điều này giúp hạn chế tranh chấp liên quan đến tài sản phái sinh và đóng vai trò quan trọng trong việc xác định thứ tự ưu tiên khi xảy ra xung đột lợi ích liên quan đến Quyền sử dụng đất.

Thứ hai, trên cơ sở phân tích thực trạng pháp luật, tác giả đề xuất phạm vi TSBĐ đối với một số QTS cụ thể như sau:

Về quyền đòi nợ, theo quy định hiện hành về tài sản phái sinh, quyền đòi nợ được xác định trong văn bản pháp luật về bảo đảm nghĩa vụ, bao gồm quyền đòi nợ ban đầu và các tài sản phái sinh từ quyền đòi nợ Tài sản phái sinh này bao gồm các khoản tiền thu được từ việc chuyển nhượng quyền đòi nợ, lợi tức từ quyền đòi nợ, cũng như tài sản được chia và số tiền liên quan.

Bài viết đề cập đến bảo hiểm và các quyền yêu cầu phát sinh từ giao dịch liên quan đến quyền đòi nợ, cùng với tài sản thu được từ tài sản phái sinh.

Tài sản thế chấp cần được quy định bao gồm phần vốn góp ban đầu và các tài sản phái sinh từ phần vốn góp Các tài sản phái sinh này bao gồm khoản tiền thu được từ chuyển nhượng hoặc định đoạt phần vốn góp, lợi tức và cổ tức phát sinh từ vốn góp và cổ phần, cùng với quyền mua phần vốn góp và cổ phần phát sinh từ việc sở hữu Ngoài ra, các tài sản phát sinh từ tài sản phái sinh cũng thuộc phạm vi này.

Tuy nhiên, đối với quyền và lợi ích phát sinh từ phần vốn góp trong QTS, cần lưu ý rằng mặc dù bên thế chấp vẫn là chủ sở hữu phần vốn góp, các quyền nhận thông báo và quyền biểu quyết vẫn thuộc về bên góp vốn Do đó, việc quy định rõ ràng trong hợp đồng là rất cần thiết.

Tương tự như cách tiếp cận trước đó, khi xem xét tài sản thế chấp là quyền tài sản (QTS) đối với đối tượng quyền sở hữu trí tuệ (SHTT), cần xác định phạm vi bao gồm cả QTS ban đầu và các tài sản phái sinh từ QTS ban đầu Việc xác định các tài sản phái sinh này không chỉ cần được quy định trong Luật SHTT mà còn trong Luật về giao dịch bảo đảm, nếu được xây dựng Cụ thể, các QTS phái sinh từ QTS đối với đối tượng quyền SHTT gốc cũng sẽ được xem là tài sản bảo đảm (TSBĐ).

Quyền sử dụng đất (QSDĐ) là một dạng tài sản đặc biệt trong các quyền tài sản (QTS), với thực tiễn cho thấy rằng việc sử dụng QTS này thường gặp vướng mắc liên quan đến tài sản gắn liền với đất Theo phân tích về thực trạng pháp luật, trường hợp bên thế chấp là chủ sở hữu QSDĐ và tài sản gắn liền với đất nhưng chỉ thế chấp QSDĐ mà không thế chấp tài sản gắn liền với đất, dẫn đến sự không rõ ràng trong việc xử lý tài sản khi sự kiện bảo đảm xảy ra Pháp luật hiện hành cho phép xử lý tài sản gắn liền với đất, nhưng không xác định rõ phạm vi tài sản bảo đảm (TSBĐ) có bao gồm tài sản gắn liền với đất hay không, tạo ra khả năng tranh chấp về thứ tự ưu tiên giữa các bên liên quan, bao gồm cả bên thứ ba Do đó, cần thiết phải giải thích rõ Điều 325 Bộ luật Dân sự 2015 để tránh những tranh chấp này.

Tại thời điểm ký hợp đồng bảo đảm, nếu tài sản gắn liền với đất đã tồn tại thì tài sản này không được xem là tài sản bảo đảm Điều này dựa trên nguyên tắc tôn trọng sự tự do và tự nguyện thỏa thuận của các bên, khi các bên đã nắm rõ hiện trạng và đồng ý với phạm vi đó.

Trong trường hợp tài sản gắn liền với đất xuất hiện sau khi hợp đồng thế chấp đã được xác lập, pháp luật nên quy định tài sản bảo đảm (TSBĐ) bao gồm quyền sử dụng đất (QSDĐ) và tài sản gắn liền với đất, trừ khi có thỏa thuận khác giữa các bên Đề xuất này nhằm đảm bảo tính thống nhất giữa QSDĐ và tài sản gắn liền với đất, từ đó tạo điều kiện thuận lợi cho việc xử lý TSBĐ.

4.2.2 Hoàn thiện pháp luật về quy trình xử lý quyền tài sản bảo đảm

Ngày đăng: 28/12/2024, 08:43

Nguồn tham khảo

Tài liệu tham khảo Loại Chi tiết
1. Bộ dân luật thi hành tại các toà Nam án Bắc Kỳ ngày 30 tháng 3 năm 1931 Khác
2. Bộ luật Dân sự số 33/2005/ QH11 ngày 14 tháng 11 năm 2005 của Quốc hội Khác
3. Bộ luật dân sự số 44/1995/QH9 ngày 28 tháng 10 năm 1995 của Quốc hội Khác
4. Bộ luật Dân sự số 91/2015/ QH13 ngày 24 tháng 11 năm 2015 của Quốc hội Khác
5. Luật Các tổ chức tín dụng số 47/2010/QH12 ngày 16 tháng 6 năm 2010 của Quốc hội Khác
6. Luật Cư trú số 81/2006/QH11 ngày 29 tháng 11 năm 2006 của Quốc hội Khác
7. Luật Doanh nghiệp số 59/2020/QH14 ngày 17 tháng 6 năm 2014 của Quốc hội Khác
8. Luật Đất đai số 13/2003/QH11 ngày 26 tháng 11 năm 2003 của Quốc hội Khác
9. Luật Đất đai số 45/2013/QH13 ngày 29 tháng 11 năm 2013 của Quốc hội Khác
10. Luật Hôn nhân và gia đình số 52/2014/QH13 ngày 19 tháng 6 năm 2014 của Quốc hội Khác
11. Luật Lâm nghiệp 2017 số 16/2017/QH14 ngày 15 tháng 11 năm 2017 của Quốc hội Khác
12. Luật Ngân hàng nhà nước số 46/2010/QH12 ngày 16 tháng 6 năm 2010 của Quốc hội Khác
13. Luật Nhà ở số 65/2014/QH13 ngày 25 tháng 11 năm 2014 của Quốc hội Khác
14. Luật Sở hữu trí tuệ số 50/2005/QH11 ngày 29 tháng 11 năm 2005 của Quốc hội Khác
15. Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Sở hữu trí tuệ số 07/2022/QH15 ngày 16 tháng 6 năm 2022 của Quốc hội Khác
16. Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Sở hữu trí tuệ số 36/2009/QH12 ngày 19 tháng 6 năm 2009 của Quốc hội Khác
17. Luật Tài nguyên nước số 17/2012/QH13 ngày 21 tháng 6 năm 2012 của Quốc hội Khác
18. Luật Thủy sản số 18/2017/QH14 ngày 21 tháng 11 năm 2017 của Quốc hội Khác
19. Nghị quyết số 42/2017/QH14 của Quốc hội ngày 21 tháng 6 năm 2017 về thí điểm xử lý nợ xấu của các tổ chức tín dụng Khác
20. Nghị định số 165/1999/NĐ-CP ngày 19 tháng 11 năm 1999 về giao dịch bảo đảm Khác

TÀI LIỆU CÙNG NGƯỜI DÙNG

TÀI LIỆU LIÊN QUAN

w