1. Trang chủ
  2. » Luận Văn - Báo Cáo

Luận văn thạc sỹ - Đa dạng hoá nguồn thu của các trường đại học tự chủ hoàn toàn trực thuộc Bộ Giáo dục và Đào tạo

97 0 0

Đang tải... (xem toàn văn)

Tài liệu hạn chế xem trước, để xem đầy đủ mời bạn chọn Tải xuống

THÔNG TIN TÀI LIỆU

Thông tin cơ bản

Tiêu đề Đa Dạng Hoá Nguồn Thu Của Các Trường Đại Học Tự Chủ Hoàn Toàn Trực Thuộc Bộ Giáo Dục Và Đào Tạo
Tác giả Vũ Hải Nam
Người hướng dẫn TS. Nguyễn Quỳnh Hoa
Trường học Trường Đại Học Kinh Tế Quốc Dân
Chuyên ngành Kinh Tế Phát Triển
Thể loại luận văn thạc sĩ
Năm xuất bản 2020
Thành phố Hà Nội
Định dạng
Số trang 97
Dung lượng 351,86 KB

Cấu trúc

  • CHƯƠNG 1: CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ ĐA DẠNG HÓA CÁC NGUỒN THU CỦA CÁC TRƯỜNG ĐẠI HỌC (13)
    • 1.1. Khái niệm, vai trò, chức năng của các trường đại học (13)
      • 1.1.1. Khái niệm trường đại học (13)
      • 1.1.2. Chức năng hoạt động của các trường đại học (13)
      • 1.1.3. Vai trò của các trường đại học trong nền kinh tế (14)
    • 1.2. Nguồn thu và cơ cấu nguồn thu của các trường đại học trên thế giới (15)
    • 1.3. Cơ cấu nguồn thu của các trường đại học ở Việt Nam (19)
    • 1.4. Đa dạng hoá nguồn thu của các trường đại học (22)
      • 1.4.1. Quan niệm về đa dạng hoá nguồn thu của các trường đại học (22)
      • 1.4.2. Vai trò của đa dạng hoá nguồn thu đối với các trường đại học (24)
      • 1.4.3. Điều kiện để đa dạng hoá nguồn thu tại các trường đại học (26)
      • 1.4.4. Chỉ tiêu đánh giá kết quả đa dạng hoá nguồn thu của các trường đại học (27)
      • 1.4.5. Các yếu tố ảnh hưởng tới đa dạng hóa nguồn thu của các trường đại học (29)
    • 1.5. Kinh nghiệm đa dạng hoá nguồn thu của các trường đại học trên thế giới (33)
      • 1.5.1. Kinh nghiệm các trường đại học tại Hoa Kỳ (33)
      • 1.5.2. Kinh nghiệm các trường đại học tại Trung Quốc (34)
      • 1.5.3. Kinh nghiệm các trường đại học tại Nhật Bản (35)
      • 1.5.4. Kinh nghiệm các trường đại học tại Châu Âu (36)
    • 1.6. Bài học kinh nghiệm cho Việt Nam (37)
  • CHƯƠNG 2: THỰC TRẠNG ĐA DẠNG HÓA NGUỒN THU CỦA CÁC TRƯỜNG ĐẠI HỌC THỰC HIỆN CƠ CHẾ TỰ CHỦ Ở VIỆT NAM (40)
    • 2.1. Bối cảnh của các trường đại học ở Việt Nam trong xu hướng tự chủ (40)
      • 2.1.1. Cơ sở pháp lý, cơ chế chính sách về cơ chế tự chủ đại học ở Việt Nam. 34 2.2. Thực trạng đa dạng hóa nguồn thu của các trường đại học ở Việt Nam (40)
      • 2.2.1 Giới thiệu chung về các trường đại học tự chủ hoàn toàn Việt Nam (46)
    • 2.4. Đánh giá chung những mặt đạt được và hạn chế về đa dạng hóa nguồn thu tại các trường đại học (72)
      • 2.4.1. Những mặt đạt được (72)
      • 2.4.2. Những mặt hạn chế (73)
      • 2.4.3. Nguyên nhân hạn chế (75)
  • CHƯƠNG 3: GIẢI PHÁP ĐA DẠNG HÓA NGUỒN THU CỦA CÁC TRƯỜNG ĐẠI HỌC TRỰC THUỘC BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO TRONG BỐI CẢNH TỰ CHỦ HÓA CÁC TRƯỜNG ĐẠI HỌC Ở VIỆT NAM (77)
    • 3.1. Định hướng trong đa dạng hóa nguồn thu của các trường đại học trong bối cảnh tự chủ (77)
    • 3.2. Giải pháp về đa dạng hoá nguồn thu tại các trường Đại học tự chủ trực thuộc Bộ giáo dục và Đào tạo (78)
      • 3.2.1. Giải pháp phát triển các nguồn thu dựa trên lợi thế, uy tín của trường (78)
      • 3.2.2. Nhóm giải pháp về quản lý sử dụng nguồn thu hiệu quả và tiết kiệm (83)
    • 3.3. Một số kiến nghị (87)
      • 3.3.1. Kiến nghị với nhà nước (87)
      • 3.3.2. Kiến nghị với Bộ Giáo dục và Đào tạo (90)

Nội dung

LỜI MỞ ĐẦU 1. Lý do chọn đề tài: Sự tăng trưởng kinh tế và Giáo dục đại học có mối quan hệ tương quan. Có thể nói Giáo dục đại học đóng một vai trò quan trọng, là một trong những nhân tố chìa khoá, là động lực thúc đẩy nền kinh tế phát triển. Việc quản lý hoạt động có hiệu quả của các trường đại học là vấn đề được Chính phủ các nước trên thế giới quan tâm, trong đó có Việt Nam. Trong bối cảnh hiện nay của Việt Nam, để tạo động lực phát triển sáng tạo, nâng cao năng lực nghiên cứu và giáo dục đào tạo của các trường Đại học, Đảng và Chính phủ đã và đang thúc đẩy quá trình tự chủ hoàn toàn của các trường đại học. Gần đây nhất là trong Luật Giáo dục đại học sửa đổi 2018, công tác quản lý tài chính của trường đại học được xây dựng cũng quan tâm rất nhiều đến vấn đề tự chủ của cơ sở GDĐH. Đây cũng là cơ sở pháp lý giúp các trường Đại học đa dạng hóa các nguồn thu trong cơ chế tự chủ. Để tăng cường cơ chế tự chủ tài chính tại các trường Đại học, chính phủ đã ban hành Nghị Quyết số 77/NQ-CP ngày 24/10/2014 về thí điểm đổi mới cơ chế hoạt động đối với các cơ sở Giáo dục đại học công lập giai đoạn 2014 - 2017, theo đó, các trường đại học công lập đã triển khai thí điểm tự chủ về tài chính bao gồm cả chi thường xuyên và chi đầu tư, trong đó 23 cơ sở giáo dục Đại học công lập trực thuộc Bộ Giáo dục và Đào tạo thực hiện thí điểm. Đến ngày 01/7/2019, Luật giáo dục Đại học sửa đổi 2018 chính thức có hiệu đã hoàn thiện khung pháp lý về giáo dục đại học để tạo điều kiện cho các cơ sở giáo dục đại học tự chủ cạnh tranh bình đẳng, phát huy nội lực, linh hoạt, sáng tạo để nâng cao chất lượng giáo dục đại học. Kết quả thực hiện tự chủ tài chính của các trường đã có một số hiệu quả nhất định. Các trường vẫn đảm bảo hiệu quản tương đối tốt về các hoạt động chi thường xuyên trong khi vẫn thực hiện trách nhiệm xã hội đối với người học như miễn giảm học phí đối với các đối tượng chính sách, trích học bổng khuyến khích theo quy định. Tổng nguồn thu của các trường có xu hướng tăng lên qua các năm. Tuy nhiên, cơ cấu nguồn thu của các trường chưa có sự thay đổi nhiều so với giai đoạn trước khi tự chủ. Trong 3 nguồn thu chủ yếu của các trường đại học là: Đào tạo; Nghiên cứu, tư vấn khoa học và Chuyển giao công nghệ, thì thu từ sự nghiệp giáo dục và đào tạo (chủ yếu từ học phí và lệ phí) vẫn chiếm tỷ trọng lớn (Khoảng 70%). Các nguồn thu từ dịch vụ nghiên cứu, tư vấn khoa học và chuyển giao công nghệ vẫn còn chiếm tỷ trọng nhỏ và có xu hướng giảm trong cơ cấu nguồn thu (do nguồn kinh phí nghiên cứu nghiên cứu khoa học ở giai đoạn trước phần lớn đến từ các ngồn chi thường xuyên của Ngân sách Nhà nước, đến nay bị giảm do cơ chế tự chủ). Có thể nói Tổng nguồn thu của các trường Đại học vẫn còn phụ thuộc lớn vào quy mô đào tạo và mức tăng học phí. Điều này khiến cho Giáo dục đại học của Việt Nam đang phải đối mặt với nhiều khó khăn, thách thức từ chất lượng đào tạo, chất lượng giảng viên, sinh viên, nguồn kinh phí hoạt động,… Nguồn thu phụ thuộc nhiều vào việc tăng mức học phí cũng có tác động tiêu cực tới hoạt động hiệu quả bền vững của các trường Đại học trong bối cảnh tự chủ hoàn toàn. Để có thể quản lý hoạt động của các trường đại học một các hiệu quả và bền vững cần có một cái nhìn tổng quan về tình hình hoạt động tài chính của các trường đã thực hiện theo cơ chế tự chủ, đồng thời định hướng đề xuất một vài kiến nghị về đa dạng hoá các nguồn thu. Từ đó góp phần giúp các trường giải quyết khó khăn và nguồn kinh phí hoạt động trong xu thế tự chủ hoá các trường đại học ở Việt Nam hiện nay. Từ những lý do trên, tác giả lựa chọn vẫn đề “ Đa dạng hoá nguồn thu của các trường đại học tự chủ hoàn toàn trực thuộc Bộ Giáo dục và Đào tạo” làm đề tài luận văn Thạc sỹ, chuyên ngành Kinh tế Phát triển. 2. Tổng quan tình hình nghiên cứu liên quan đề tài Nghiên cứu về đa dạng hóa nguồn thu tại các trường đại học hầu như rất ít mà chủ yếu là nghiên cứu liên quan đến công tác quản lý tài chính tại đơn vị sự nghiệp nói chung và các trường đại học nói riêng. Một số đề tài nghiên cứu liên quan làm đề tài tham khảo cho luận văn như sau: - Nghiên cứu về cơ chế tự chủ tài chính của trường đại học công lập Các nghiên cứu về cơ chế tự chủ tài chính đã đánh giá được thực trạng cơ chế tự chủ, những tồn tại, hạn chế, nguyên nhân và đưa ra những khuyến nghị về đổi mới cơ chế tự chủ. Phan Huy Hùng (năm 2009), đề tài: Quản lý Nhà nước theo hướng đảm bảo tự chủ, tự chịu trách nhiệm của các trường đại học ở Việt Nam”. Trần Đức Cân (2012), đề tài: “Hoàn thiện cơ chế tự chủ tài chính các trường đại học công lập ở Việt Nam”. Nguyễn Minh Tuấn (2015), đề tài: “Tác động của quản lý tài chính đến chất lượng giáo dục đại học - Nghiên cứu điển hình tại các trường đại học thuộc Bộ Công Thương”. - Nghiên cứu về chính sách Nhà nước về thu hút nguồn TC ngoài NSNN cho các trường ĐHCL Các chính sách Nhà nước thu hút nguồn TC ngoài NSNN cho các trường ĐHCL tại Việt Nam hiện nay gắn liền với chủ trương xã hội hoá giáo dục ĐH và nâng cao tính tự chủ của các trường ĐH (Phạm Thị Ly, 2012; Đặng Quốc Bảo, 2014; Phạm Đỗ Nhật Tiến (2014a). Chủ trương xã hội hoá giáo dục ĐH nhấn mạnh trách nhiệm đóng góp tài chính của người học và của xã hội, và trách nhiệm giải trình của trường ĐH và của Nhà nước trước công chúng. Việc nâng cao tính tự chủ của các trường ĐH nhằm nâng cao mức độ độc lập về quản trị và tổ chức nội bộ, phân bổ các nguồn lực tài chính trong nhà trường, thu hút các nguồn tài chính bên ngoài. Tự chủ phải đi đôi với trách nhiệm giảm trình, bảo đảm các trường ĐH thực hiện được trách nhiệm xã hội của mình một cách cao nhất (Phạm Thị Ly, 2012; Phạm Đỗ Nhật Tiến, 2014b). Để việc thu hút các nguồn TC ngoài NSNN của các trường ĐHCL có hiệu quả hơn, Nhà nước cần có những chính sách vỹ mô nhằm tạo sự cạnh tranh giữa các cơ sở giáo dục ĐH, cũng như định hướng hợp tác giữa doanh nghiệp và các trường ĐH, tạo cơ chế hình thành các tổ chức chuyển giao trong các trường ĐH nhằm phát triển hoạt động xúc tiến, thương mại hoá các kết quả nghiên cứu khoa học của đội ngũ giảng viên, nhân viên và sinh viên trong nhà trường, hỗ trợ đăng ký và khai thác bằng sáng chế (Nguyễn Trường Giang, 2012). Nhà nước cũng nên tạo điều kiện cho các thành phần kinh tế trong và ngoài nước thực hiện việc tài trợ cho cơ sở giáo dục ĐH nhằm hỗ trợ các hoạt động nghiên cứu triển khai, hợp tác đào tạo và ứng dụng. Để thực hiện điều này, nhà nước cần cho phep doanh nghiệp được tính vào chi phí được trừ khoảng thực chi tài trợ, kể cả các khoản tài trợ kết hợp với quản bá thương hiệu, hình ảnh của DN, bảo đảm phù hợp với quy định của pháp luật hiện hành có liên quan (Nguyễn Văn Phụng, 2012) - Nghiên cứu về phân bổ NSNN cho giáo dục đại học Các nghiên cứu đã phân tích rõ về thực trạng cơ chế cấp NSNN hiện nay là chưa phù hợp, mang tính bình quân, chưa khuyến khích được các đơn vị phát triển nguồn thu và đề xuất giải pháp phân bổ NSNN, chủ yếu là theo hướng phân bổ NSNN gắn với đầu ra: Phạm Chí Thanh (2011), đề tài “Đổi mới chính sách tài chính đối với khu vực sự nghiệp công ở Việt Nam”. Vũ Thị Thanh Thủy (2012), đề tài: “Quản lý tài chính các trường đại học công lập ở Việt Nam”. Phan Công Nghĩa và các cộng sự (2015); đề tài: “Xây dựng mô hình quản trị tài chính đối với các trường đại học công lập”. Nguyễn Thị Lan Hương (2015); Luận án tiến sỹ về đề tài: “Chính sách chia sẻ chi phí đào tạo Giáo dục đại học Việt Nam đến năm 2020, tầm nhìn năm 2030”. - Nghiên cứu về chính sách học phí đại học công lập Các nghiên cứu nêu trên đã phân tích và làm rõ những hạn chế của chính sách học phí là mức học phí thấp, chưa dựa trên cơ sở chi phí và chất lượng đào tạo, chưa đảm bảo cơ chế cạnh tranh giữa các trường. Qua đó các nghiên cứu khuyến nghị giải pháp tăng học phí theo hướng chia sẻ chi phí giữa Nhà nước và người học, tiêu biểu như: Phạm Chí Thanh (2011), đề tài “Đổi mới chính sách tài chính đối với khu vực sự nghiệp công ở Việt Nam”.. Nguyễn Thị Lan Hương (2015); đề tài: “Chính sách chia sẻ chi phí đào tạo Giáo dục đại học Việt Nam đến năm 2020, tầm nhìn năm 2030”. Phan Công Nghĩa và các cộng sự (2015); đề tài: “Xây dựng mô hình quản trị tài chính đối với các trường đại học công lập”. Trần Quang Hùng (2016); đề tài: “Chính sách học phí đại học của Việt Nam”.   3. Mục tiêu của đề tài: Trên cơ sở tổng quan một số vấn đề lý luận về nguồn thu và cách thức đa dạng hoá nguồn thu của các trường đại học trong bối cảnh tự chủ các trường đại học hiện nay, từ đó đề xuất một số định hướng nhằm đa dạng hoá nguồn thu của các trường đại học Việt Nam trong bối cảnh tự chủ hoá hiện nay. 4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu: - Đối tượng nghiên cứu: Nguồn thu của các trường đại học trực thuộc Bộ Giáo dục và Đào tạo thực hiện cơ chế tự chủ theo Nghị quyết 77/NQ-CP ngày 24/10/2014 về cơ chế hoạt động đối với các cơ sở Giáo dục đào tạo công lập. - Phạm vi nghiên cứu: Luận văn tập trung nghiên cứu các trường Đại học trực thuộc Bộ Giáo dục và Đào tạo thực hiện cơ chế tự chủ theo Nghị Quyết 77/NQ-CP ngày 24/10/2014 về cơ chế hoạt động đối với các cơ sở Giáo dục đào tạo công lập - Về thời gian: Giai đoạn 2014 đến nay (Giai đoạn các một số trường bắt đầu thí điểm thưc thiện cơ chế tự chủ theo Nghị Quyết 77/NQ-CP ngày 24/10/2014). 5. Phương pháp Nghiên cứu: 5.1. Phương pháp thu thập dữ liệu - Đối với dữ liệu thứ cấp: Dữ liệu thứ cấp thu thập được lấy thông tin tại các trường Đại học tự chủ hoàn toàn trực thuộc bộ giáo dục bao gồm: Số liệu về các khoản thu của các trường bao gồm nguồn ngân sách cấp và các nguồn thu tự có của nhà trường như nguồn thu từ sự nghiệp; nguồn thu từ dịch vụ nhà trường. Ngoài ra, đề tài thu thập các dữ liệu từ các nghiên cứu trước, các văn bản, số liệu thống kê từ Bộ giáo dục và đào tạo. - Đối với dữ liệu sơ cấp: Tác giả thu thập thông qua việc khảo sát các trường Đại học tự chủ hoàn toàn trực thuộc bộ giáo dục những nội dung liên quan đến các nguồn thu của các trường Đại học. 5.2. Phương pháp phân tích, xử lý dữ liệu Luận văn sử dụng các văn bản pháp luật, các quyết định, thông tư, nghị định của chính phủ về giáo dục, quản lý tài chính đối với các chủ thể kinh tế, các đơn vị sự nghiệp, các trường đại học. Luận văn mang tính ứng dụng nên đề tài bám sát khuôn khổ pháp luật về tài chính của Nhà nước trong đó đặc biệt quan trọng là Luật giáo dục Đại học, Nghị quyết 77/NQ-CP ngày 24/10/2014 về cơ chế hoạt động đối với các cơ sở Giáo dục đào tạo công lập. - Phương pháp so sánh, phân tích, tổng hợp: Phân tích các số liệu, so sánh qua các năm và tổng hợp đề đưa ra nhận xét. - Phương pháp thống kê: thống kê các bảng biểu, từ đó rút ra các kết luận, các xu hướng để đánh giá tình hình nguồn thu tài chính của các trường Đại học tự chủ hoàn toàn trực thuộc bộ giáo dục và đào tạo. 6. Kết cấu của Đề tài: Đề tài ngoài phần mở đầu, kết luận và danh mục tài liệu tham khảo, đề tài sẽ có 3 nội dụng chính như sau: Chương 1: Cơ sở lý luận về đa dạng hoá các Nguồn thu của các trường đại học. Chương 2: Thực trạng đa dạng hoá nguồn thu của các trường đại học tự chủ hoàn toàn trực thuộc Bộ Giáo dục và Đào tạo ở Việt Nam. Chương 3: Giải pháp đa dạng hoá nguồn thu của các trường đại học trong bối cảnh tự chủ hoá các trường đại học ở Việt Nam.

CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ ĐA DẠNG HÓA CÁC NGUỒN THU CỦA CÁC TRƯỜNG ĐẠI HỌC

Khái niệm, vai trò, chức năng của các trường đại học

1.1.1 Khái niệm trường đại học

Theo điều 4, Luật giáo dục đại học số 34/2018/QH14 ban hành ngày 19 tháng 11 năm 2018 có nêu rõ:

Cơ sở giáo dục đại học là một phần của hệ thống giáo dục quốc dân, có nhiệm vụ đào tạo các trình độ giáo dục đại học, tiến hành các hoạt động khoa học và công nghệ, đồng thời phục vụ nhu cầu của cộng đồng.

Trường đại học, hay học viện, là cơ sở giáo dục đại học có chức năng đào tạo và nghiên cứu đa ngành, được tổ chức theo quy định của Luật giáo dục đại học.

Theo Điều 14 của Luật Giáo dục Đại học số 34/2018/QH14, cơ cấu tổ chức của trường đại học bao gồm các thành phần chính như sau: Hội đồng trường đại học, hiệu trưởng và phó hiệu trưởng trường đại học, cùng với Hội đồng khoa học và đào tạo Ngoài ra, còn có các khoa, phòng chức năng, thư viện, và tổ chức khoa học công nghệ Trường đại học cũng có thể bao gồm các đơn vị như trường, phân hiệu, viện nghiên cứu, và các cơ sở dịch vụ, doanh nghiệp tùy theo nhu cầu phát triển của trường.

1.1.2 Chức năng hoạt động của các trường đại học

Dựa theo điều 39, luật Giáo dục 2019 số 43/2019/QH14 được ban hành ngày

14 tháng 6 năm 2019 thì chức năng hoạt động của các trường đại học như sau:

Đào tạo nguồn nhân lực chất lượng cao và nâng cao dân trí là mục tiêu quan trọng nhằm bồi dưỡng nhân tài Đồng thời, nghiên cứu khoa học và công nghệ đóng vai trò then chốt trong việc tạo ra tri thức và sản phẩm mới, phục vụ cho sự phát triển kinh tế - xã hội Những nỗ lực này cũng góp phần đảm bảo quốc phòng, an ninh và thúc đẩy hội nhập quốc tế.

Đào tạo người học nhằm phát triển toàn diện về đức, trí, thể, mỹ, trang bị tri thức và kỹ năng cần thiết, đồng thời nâng cao trách nhiệm nghề nghiệp Học viên sẽ được trang bị khả năng nắm bắt tiến bộ khoa học và công nghệ phù hợp với trình độ đào tạo, khuyến khích tinh thần tự học, sáng tạo và khả năng thích nghi với môi trường làm việc Bên cạnh đó, chương trình còn chú trọng phát triển tinh thần khởi nghiệp và ý thức phục vụ cộng đồng.

Thông qua giáo dục đại học, các trường cung cấp nhân lực được đào tạo chuyên sâu trong các lĩnh vực như nông nghiệp, nghệ thuật, y dược, khoa học và công nghệ Những cá nhân này không chỉ có năng lực mà còn có ý thức trách nhiệm cao đối với cộng đồng Việc nuôi dưỡng và khích lệ giảng viên cùng sinh viên phát triển các thái độ và giá trị cần thiết sẽ góp phần vào sự phát triển bền vững của cả cá nhân và xã hội, từ đó lan tỏa những giá trị tích cực này ra toàn cộng đồng.

1.1.3 Vai trò của các trường đại học trong nền kinh tế

Giáo dục đại học bao gồm giảng dạy, nghiên cứu khoa học, chuyển giao công nghệ và phục vụ cộng đồng Vai trò của các trường đại học rất quan trọng, thể hiện qua nhiều khía cạnh khác nhau.

Các trường đại học đóng vai trò quan trọng trong việc đào tạo các trình độ giáo dục đại học, bao gồm giảng dạy, nghiên cứu và chuyển giao ứng dụng Giáo dục đại học không chỉ đơn thuần là việc truyền đạt kiến thức mà còn là một quá trình phát triển toàn diện, góp phần vào sự tiến bộ của xã hội Thực tế, có nhiều quan điểm khác nhau về vai trò của giáo dục đại học, nhưng điều này cho thấy sự đa dạng và giá trị của các trường đại học trong việc đáp ứng nhu cầu phát triển nhân lực và thúc đẩy đổi mới sáng tạo trong cộng đồng.

Giáo dục đại học tại các trường đại học đóng vai trò như một dây chuyền sản xuất, cung cấp nguồn nhân lực đạt chuẩn cho thị trường lao động Trong quá trình này, người học được xem như sản phẩm, góp phần vào sự phát triển và tăng trưởng của các ngành nghề cũng như nền kinh tế Do đó, giáo dục đại học không chỉ là một quá trình đào tạo mà còn là “đầu vào” quan trọng cho sự phát triển bền vững.

Giáo dục đại học đóng vai trò quan trọng trong việc đào tạo nhà nghiên cứu, giúp sinh viên chuẩn bị trở thành những nhà khoa học thực thụ Thời gian học tập tại các trường đại học không chỉ là cơ hội để tiếp thu kiến thức mà còn là nền tảng để phát triển tinh thần nghiên cứu và khám phá những chân trời mới Chất lượng giáo dục ở đây được đánh giá qua khả năng tạo ra các công bố khoa học và cam kết thực hiện các nghiên cứu chất lượng cao.

Giáo dục đại học đóng vai trò quan trọng như một hệ thống nuôi dưỡng, cung cấp nhân lực thiết yếu cho các lĩnh vực quản lý, quy hoạch, thiết kế, giảng dạy và nghiên cứu Để phát triển khoa học công nghệ và kinh tế, một quốc gia cần có hệ thống giáo dục đại học chất lượng và lực lượng lao động đạt chuẩn Sự phát triển của các ngành công nghệ bản địa, nông nghiệp, an toàn thực phẩm và các ngành công nghiệp khác phụ thuộc vào hạ tầng giáo dục đại học đẳng cấp quốc tế Đồng thời, giáo dục đại học cũng góp phần nâng cao chất lượng sống và công bằng xã hội, giảm thiểu khác biệt văn hóa thông qua việc phổ cập giáo dục.

Giáo dục đại học đóng vai trò quan trọng trong việc phát triển xã hội, vì nó trang bị cho con người kiến thức nền tảng cần thiết để tham gia vào cộng đồng Những người được đào tạo bài bản sẽ góp phần tạo ra nguồn nhân lực chất lượng, thúc đẩy sự tiến bộ văn hóa, kinh tế và xã hội Sự phát triển của từng cá nhân và gia đình cũng như toàn xã hội phụ thuộc vào việc đầu tư vào giáo dục đại học, từ đó tạo ra những tài năng giúp ích cho sự phát triển chung.

Nguồn thu và cơ cấu nguồn thu của các trường đại học trên thế giới

Nguồn lực tài chính đóng vai trò quan trọng trong việc thúc đẩy sự phát triển giáo dục đại học và các hoạt động của trường Để đảm bảo sự ổn định tài chính, các trường đại học cần thiết lập các nguồn thu vững chắc, từ đó tạo điều kiện cho sự phát triển bền vững và nâng cao chất lượng giáo dục.

Các trường Đại học trên thế giới có nhiều nguồn thu khác nhau, bao gồm: (i) ngân sách nhà nước; (ii) thu từ hoạt động sự nghiệp công; (iii) phí theo quy định pháp luật; (iv) nguồn thu khác theo pháp luật; (v) tài chính từ giao dịch tài chính hợp pháp như vốn vay và lãi tiền gửi; và (vi) nguồn viện trợ, tài trợ theo quy định pháp luật.

Theo thống kê của Ngân hàng Thế giới, nguồn thu của các trường đại học toàn cầu chủ yếu được chia thành hai loại: (1) Hỗ trợ từ Chính phủ và tài trợ từ các quỹ nghiên cứu của Chính phủ; (2) Nguồn thu từ các tổ chức tư nhân.

(1) Hỗ trợ của Chính phủ, tài trợ của các quỹ nghiên cứu Chính phủ:

Nguồn thu từ Ngân sách Nhà nước cho các trường Đại học chủ yếu thông qua trợ cấp, hợp đồng đào tạo, nghiên cứu, mua dịch vụ và chuyển giao công nghệ Nhiều trường đại học toàn cầu hoạt động theo cơ chế tự chủ, trong đó nguồn thu từ ngân sách nhà nước chỉ chiếm tỷ lệ nhỏ Chẳng hạn, tại Harvard, mức tài trợ từ chính phủ, bao gồm cả hợp đồng nghiên cứu, chỉ chiếm 15% tổng thu của trường, cho thấy vai trò tài chính của nhà nước Hoa Kỳ đối với Harvard là không đáng kể.

(2) Các nguồn khác từ chính phủ, tư nhân, quốc tế:

Nguồn thu từ các tổ chức mua và sử dụng dịch vụ của trường Đại học là một yếu tố quan trọng tại các trường ĐH ở Châu Âu Các tổ chức này tạo ra doanh thu thông qua việc ký kết các hợp đồng nghiên cứu và phát triển (R&D), hợp đồng tư vấn, và hợp đồng đào tạo cho các tổ chức khác.

Các trường đại học đang tích cực chuyển giao kết quả nghiên cứu và thương mại hóa chúng cho doanh nghiệp, với dự án nghiên cứu là hình thức hợp tác phổ biến nhất giữa trường đại học và các tổ chức khác Đây cũng là nguồn tài chính quan trọng từ doanh nghiệp đến các trường đại học Ở mức độ cao của mối liên kết này, các trường đại học và doanh nghiệp chia sẻ cơ sở hạ tầng như phòng thí nghiệm và khu công viên công nghệ, đồng thời thực hiện các hợp đồng nghiên cứu công nghệ theo yêu cầu của doanh nghiệp, bao gồm nghiên cứu, tư vấn, thử nghiệm, giám sát chất lượng và phát triển sản phẩm mới.

Các trường đại học đã nhận thấy giá trị gia tăng từ hoạt động nghiên cứu và thương mại hóa sản phẩm nghiên cứu thông qua việc bán bằng sáng chế và quyền tác giả Nhiều trường đại học có chất lượng cao (ĐHCL) có lợi thế hơn nhờ vào việc đầu tư nhiều hơn cho nghiên cứu từ ngân sách, cùng với khả năng dễ dàng ký kết hợp đồng với doanh nghiệp.

Nguồn thu từ học phí và các khoản phí, lệ phí là một yếu tố tài chính quan trọng cho hoạt động giảng dạy tại các trường Đại học Học phí, do sinh viên hoặc phụ huynh chi trả, là khoản tiền cho dịch vụ giáo dục, trong khi các khoản lệ phí liên quan đến cơ sở vật chất, hoạt động thể dục thể thao, và các dịch vụ hỗ trợ sinh viên như ký túc xá Tỷ trọng nguồn thu này đang ngày càng gia tăng trong cơ cấu tài chính của các trường Đại học (Eurydice, 2008).

Trong bối cảnh yêu cầu về chất lượng đào tạo và nhu cầu theo học đại học ngày càng gia tăng, nguồn ngân sách nhà nước lại trở nên hạn chế, vai trò của học phí trở nên quan trọng hơn bao giờ hết Học phí không chỉ giúp các trường đại học tạo ra nguồn tài chính cần thiết mà còn giảm bớt áp lực lên ngân sách nhà nước.

Học phí ảnh hưởng đến cả các cơ sở đào tạo đại học và sinh viên Đây là một yếu tố quan trọng mà các cơ sở giáo dục cần xem xét để điều chỉnh chính sách học phí, nhằm thu hút và đáp ứng nhu cầu của sinh viên.

Việc tăng học phí nhằm bù đắp cho sự cắt giảm hỗ trợ trực tiếp từ ngân sách nhà nước đã mang lại nguồn tài chính cần thiết cho các cơ sở đào tạo Tuy nhiên, điều này cũng tạo ra gánh nặng tài chính cho sinh viên, đặc biệt là những người đến từ gia đình có thu nhập thấp, làm giảm khả năng tiếp cận giáo dục đại học của họ.

Nguồn thu từ học phí tại các trường đại học trên thế giới chỉ chiếm khoảng 20% tổng nguồn thu, như trường hợp của Đại học Harvard, nơi học phí trung bình năm 2008 là 31.456 USD, trong khi chi phí đơn vị trên mỗi sinh viên lên tới 106.041 USD/năm.

Các trường đại học hiện nay không chỉ dựa vào học phí từ các chương trình đào tạo chính quy mà còn mở rộng các hình thức đào tạo phi chính quy như khoa học liên kết, khóa ngắn hạn và khóa bồi dưỡng nghiệp vụ để tăng nguồn thu Xu hướng đa dạng hóa chương trình đào tạo đang trở thành một phương thức phát triển quan trọng Mặc dù học phí là nguồn thu cơ bản, cấu trúc nguồn thu của các trường đại học khác nhau, như Harvard, cho thấy sự khác biệt rõ rệt; trong đó, học phí chỉ chiếm 20%, trong khi Quỹ Hiến tặng đóng góp 34%, và các nguồn thu khác như tài trợ nghiên cứu và quà tặng cũng chiếm tỷ lệ đáng kể Hoa Kỳ, với hệ thống giáo dục phát triển theo cơ chế phi tập trung, là một ví dụ điển hình cho sự đa dạng trong nguồn thu của các trường đại học.

- Nguồn thu từ các đối tượng khác

Nguồn thu từ các cá nhân và tổ chức tài trợ đóng vai trò quan trọng trong việc phát triển cơ sở hạ tầng cho các trường đại học Sự chú trọng vào các nguồn tài chính này ngày càng gia tăng, với danh tiếng và chất lượng đào tạo của nhà trường là những yếu tố quyết định Các trường đại học tại Mỹ và Anh đã xây dựng mạng lưới mối quan hệ vững chắc với cựu sinh viên và phụ huynh thông qua việc thành lập các tổ chức và tổ chức sự kiện, từ đó tạo ra kênh thông tin hiệu quả để hợp tác và duy trì kết nối.

Nguồn thu của các trường đại học chủ yếu đến từ các hoạt động giảng dạy, đào tạo, nghiên cứu và tư vấn, phản ánh những đặc điểm riêng trong chức năng và nhiệm vụ của nhà trường Để tăng cường nguồn thu, các trường cần đẩy mạnh liên kết với doanh nghiệp, thương mại hóa các hoạt động nghiên cứu và triển khai, cũng như các hoạt động phụ trợ và giảng dạy Bên cạnh đó, việc tăng cường mối liên hệ với các tổ chức, cá nhân và quỹ phát triển cũng là những hình thức hiệu quả để gia tăng nguồn thu cho các trường đại học.

Cơ cấu nguồn thu của các trường đại học ở Việt Nam

Tại Việt Nam, nguồn thu của các cơ sở giáo dục đại học công lập được xác định rõ ràng trong các văn bản pháp luật liên quan đến giáo dục, đặc biệt là Luật Giáo dục.

Các trường đại học ở Việt Nam, giống như nhiều trường đại học trên thế giới, có nguồn thu từ nhiều nguồn khác nhau Theo Điều 64 và Điều 65 của Luật giáo dục đại học số 34/2018/QH14, ban hành ngày 19 tháng 11 năm 2018, quy định rõ về nguồn tài chính của các cơ sở giáo dục đại học Cụ thể, các cơ sở GDĐH tại Việt Nam có khả năng huy động vốn từ nhiều nguồn thu khác nhau.

Nguồn thu từ NSNN Nguồn thu ngoài NSNN

Nguồn ngân sách nhà nước chi cho các hoạt động thường xuyên

Nguồn thu từ học phí

Nguồn ngân sách nhà nước chi mua sắm, cải tạo cơ sở vật chất

Nguồn thu từ đặt hàng đào tạo, nghiên cứu của các Tổ chức và cá nhân Nguồn thu từ đặt hàng đào tạo, nghiên cứu từ nguồn NSNN

Nguồn thu từ đầu tư của tổ chức, cá nhân trong nước và nước ngoài

Khoản thu từ hoạt động kinh doanh, sản xuất dịch vụ và đầu tư tài chính, cùng với việc khai thác cơ sở vật chất và các nguồn thu hợp pháp khác, đóng vai trò quan trọng Bên cạnh đó, nguồn tài trợ, viện trợ, quà biếu và tặng từ cựu sinh viên, tổ chức và cá nhân trong nước cũng như quốc tế góp phần đáng kể vào ngân sách.

 Nguồn thu từ ngân sách nhà nước:

Nguồn thu từ ngân sách nhà nước là nguồn tài chính mà các trường đại học Việt Nam nhận được từ sự hỗ trợ của Nhà nước cho các hoạt động giáo dục Mức ngân sách nhà nước cấp cho các trường đại học, đặc biệt là các trường công lập, có sự khác biệt tùy theo từng trường Các nguồn thu từ ngân sách nhà nước bao gồm nhiều hình thức hỗ trợ tài chính khác nhau.

- Nguồn thu từ NSNN cấp kinh phí cấp cho chi thường xuyên: Đối với các trường Đại học tự chủ hoàn toàn,

- Nguồn thu từ NSNN đặt hàng đào tạo, nghiên cứu khoa học công nghệ

- Nguồn thu từ NSNN cấp đầu tư phát triển cơ sở hạ tầng

Trong bối cảnh các trường đại học ngày càng nâng cao khả năng tự chủ, nguồn ngân sách nhà nước dành cho các trường này đang có xu hướng giảm Đặc biệt, đối với những trường đại học hoàn toàn tự chủ, việc quản lý tài chính và tìm kiếm nguồn thu nhập bổ sung trở nên cấp thiết hơn bao giờ hết.

 Nguồn thu ngoài ngân sách nhà nước:

Nguồn thu không cố định là những khoản thu có sự biến đổi hàng năm, phụ thuộc vào quy mô đào tạo, nghiên cứu khoa học, đầu tư và hoạt động kinh doanh của các trường đại học.

Học phí là khoản tiền mà sinh viên nộp cho trường đại học nhằm bù đắp chi phí đào tạo, bao gồm cả các khoản thu từ hoạt động đào tạo, khoa học và công nghệ, cũng như dịch vụ hỗ trợ khác Các trường đại học công lập có quy định cụ thể về mức thu học phí để đảm bảo nguồn thu cho hoạt động giáo dục.

+ Các trường đại học tự bảo đảm toàn bộ kinh phí chi thường xuyên được tự chủ xác định mức thu học phí theo quy định của chính phủ.

+ Việc xác định mức thu học phí phải căn cứ vào định mức kinh tế-kỹ thuật theo lộ trình tính đúng, tính đủ chi phí đào tạo.

+ Các trường đại học tư thục được tự chủ quyết định mức thu học phí.

+ Mức thu dịch vụ tuyển sinh và khoản thu dịch vụ khác được xác định trên nguyên tắc tính đủ chi phí hợp lý thực tế phát sinh.

Các trường đại học cần công khai chi phí đào tạo, học phí, phí tuyển sinh và các khoản thu khác cho toàn bộ khóa học và từng năm học, đồng thời thông báo tuyển sinh trên trang thông tin điện tử Ngoài ra, các trường cũng phải trích một phần học phí để hỗ trợ sinh viên có hoàn cảnh khó khăn.

- Nguồn thu từ nhận đặt hàng đào tạo, nghiên cứu của các cá nhân, tổ chức tư nhân;

Nguồn thu từ đầu tư của các tổ chức và cá nhân trong nước cũng như nước ngoài, cùng với nguồn tài chính bổ sung từ kết quả hoạt động hàng năm của các trường đại học, đóng vai trò quan trọng trong việc phát triển và nâng cao chất lượng giáo dục.

- Khoản thu từ hoạt động kinh doanh, dịch vụ phục vụ cộng đồng, đầu tư tài chính (nếu có) và nguồn thu hợp pháp khác;

- Các nguồn tài trợ, viện trợ, quà biếu, tặng, cho của cựu sinh viên, tổ chức, cá nhân trong nước và nước ngoài.

Cơ cấu nguồn thu của các trường đại học Việt Nam chủ yếu đến từ tài trợ của Nhà nước và học phí, trong khi các nguồn thu khác chỉ chiếm tỷ lệ không đáng kể Đặc biệt, nguồn thu từ học phí chiếm đến 54,4%, cho thấy sự lệ thuộc lớn vào khoản thu này trong hoạt động tài chính của các trường.

Nguồn thu từ ngân sách nhà nước chi thường xuyên

Nguồn thu từ ngân sách nhà nước chi mua sắm cải tạo cơ sở vật chất

Nguồn thu học phí Nguồn thu sự nghiệp khác

Hình 1.1: Cơ cấu nguồn thu của 99 trường đại học công lập tại Việt Nam, tính trung bình giai đoạn 2015-2017

Nguồn: Nhóm tác giả: Nguyễn Thùy Linh, Nguyễn Mai Hương, Phạm Hiệp,

Đa dạng hoá nguồn thu của các trường đại học

1.4.1 Quan niệm về đa dạng hoá nguồn thu của các trường đại học

Đa dạng hoá nguồn thu ngày càng trở nên quan trọng đối với các tổ chức giáo dục đại học toàn cầu, đặc biệt khi họ phải đối mặt với sự gia tăng quy định, cạnh tranh khốc liệt, thách thức trong tuyển sinh và áp lực tài chính.

Đa dạng hóa nguồn thu là một khái niệm quan trọng trong quản lý giáo dục đại học toàn cầu, mặc dù vẫn chưa có định nghĩa thống nhất cho thuật ngữ này.

Đa dạng hoá, theo định nghĩa trong từ điển kinh tế học, là quá trình mà một địa phương, công ty, tổ chức hoặc cá nhân mở rộng lĩnh vực hoạt động hoặc sản phẩm kinh doanh nhằm giảm thiểu rủi ro do chuyên môn hoá quá mức.

Đa dạng hóa thu nhập, theo Ebrahim & Hasan (2008), là quá trình gia tăng các nguồn thu mới thông qua các sản phẩm và dịch vụ tài chính khác, thay vì chỉ dựa vào các sản phẩm và dịch vụ truyền thống.

Theo Estermann, Bennetot & Laeys (2013), đa dạng hóa nguồn thu là việc tạo ra thêm thu nhập từ các nguồn tài chính mới hoặc hiện có, nhằm cân bằng cơ cấu thu nhập của tổ chức.

Đa dạng hoá nguồn thu có thể được định nghĩa là việc tăng cường số lượng các nguồn thu hoặc tạo ra sự cân bằng giữa các nguồn thu khác nhau.

Đa dạng hoá nguồn thu của các trường đại học được hiểu là tạo thêm thu nhập để đáp ứng nhu cầu hoạt động ngày càng tăng cao Điều này bao gồm việc gia tăng số lượng các nguồn thu mới hoặc tăng thu nhập từ những nguồn hiện có.

Tăng cường nguồn thu từ hoạt động nghiên cứu khoa học là một trong những giải pháp hiệu quả cho các trường đại học, bên cạnh nguồn thu từ giáo dục đào tạo Mặc dù hiện nay nhiều trường vẫn chưa tận dụng tối đa tiềm năng này, nhưng việc khuyến khích cán bộ giáo viên và nhân viên tham gia vào các hoạt động nghiên cứu ở nhiều cấp độ khác nhau sẽ không chỉ giúp phát triển kỹ năng cá nhân mà còn tạo ra nguồn thu đáng kể cho các cơ sở giáo dục Mỗi trường nên xác định lĩnh vực nghiên cứu phù hợp với đặc điểm và hoạt động của mình để tối ưu hóa kết quả.

Để tăng thu từ hoạt động sản xuất dịch vụ, các trường đại học cần điều chỉnh mức học phí và mức thu dịch vụ tuyển sinh theo lộ trình của nhà nước, nhằm đảm bảo nguồn thu lớn và khả năng chấp nhận của người học Đồng thời, các trường cũng nên tăng cường nguồn thu từ các hoạt động kinh doanh, đầu tư và phục vụ cộng đồng, nhằm tiến tới tự chủ tài chính hoàn toàn.

Giảm ngân sách nhà nước cho các trường đại học là một bước tiến hướng tới cơ chế tự chủ hoàn toàn Tuy nhiên, cần thiết lập một lộ trình hợp lý để đảm bảo các trường vẫn duy trì được nguồn thu và hoạt động hiệu quả trong quá trình chuyển đổi này.

Để tăng cường nguồn thu cho các trường đại học, cần khai thác các nguồn tài trợ, viện trợ và quà biếu từ cựu sinh viên, tổ chức và cá nhân trong và ngoài nước Mặc dù các nguồn thu này có thể không lớn, nhưng nếu được mở rộng quy mô, chúng sẽ đóng góp đáng kể vào ngân sách của các trường.

1.4.2 Vai trò của đa dạng hoá nguồn thu đối với các trường đại học Đa dạng hóa nguồn thu tại các trường Đại học là điều cần thiết và hoàn toàn phù hợp với xu hướng giáo dục trên thế giới và tại Việt Nam và có vai trò quan trọng đối với các trường Đại học Cụ thể:

- Đa dạng hóa các nguồn thu nhằm tạo điều kiện cho các trường đại học đảm bảo nguồn lực tài chính cho hoạt động của nhà trường:

Trong bối cảnh các trường Đại học đang chuyển đổi sang cơ chế tự chủ tài chính, nguồn thu từ ngân sách nhà nước ngày càng hạn chế và tiến tới tự chủ hoàn toàn, điều này ảnh hưởng đến nguồn lực tài chính của các trường Mặc dù hoạt động giáo dục vẫn tiếp diễn và quy mô đào tạo ngày càng nâng cao, nhưng yêu cầu cạnh tranh ngày càng gay gắt đòi hỏi các trường phải có đủ nguồn lực tài chính cho giáo dục, nghiên cứu khoa học và xây dựng cơ sở vật chất Do đó, việc đa dạng hóa nguồn thu trở nên cần thiết để đảm bảo đủ nguồn lực tài chính, từ đó cung cấp dịch vụ đào tạo đại học chất lượng cao.

Đa dạng hóa nguồn thu giúp các trường Đại học quản lý rủi ro hiệu quả bằng cách gia tăng nguồn lực tài chính từ nhiều nguồn khác nhau Khi một hoặc vài nguồn thu chính gặp sự cố, việc đa dạng hóa sẽ hạn chế rủi ro và giảm sự biến động tài chính Nhiều nguồn thu không chỉ tăng cường sự ổn định tài chính mà còn giúp duy trì nguồn lực tài chính bền vững Nếu nguồn lực tập trung vào một vài nguồn, sự suy giảm doanh thu tại một nguồn có thể dẫn đến thiếu hụt ngân sách nghiêm trọng Do đó, cân đối nguồn thu từ nhiều nguồn khác nhau cho phép các khoản thu bù đắp lẫn nhau, đảm bảo sự ổn định tài chính cho các trường.

Đa dạng hóa nguồn thu là một giải pháp quan trọng giúp gia tăng tổng thu nhập cho các trường Đại học, từ đó nâng cao nguồn lực tài chính Trong bối cảnh cạnh tranh ngày càng gay gắt trong lĩnh vực giáo dục, các trường đại học tư thục có lợi thế về tự chủ tài chính, trong khi các trường công lập phụ thuộc vào ngân sách nhà nước và thiếu sự chủ động Việc mở rộng các nguồn thu sẽ giúp các trường đại học cải thiện tình hình tài chính và đảm bảo nguồn lực cho mọi hoạt động.

- Đa dạng hóa nguồn thu giúp tăng tính chủ động sáng tạo.

Kinh nghiệm đa dạng hoá nguồn thu của các trường đại học trên thế giới

1.5.1 Kinh nghiệm các trường đại học tại Hoa Kỳ

Hệ thống giáo dục đại học của Hoa Kỳ nổi bật với các trường đại học hàng đầu và chương trình đào tạo chất lượng cao Các trường đại học ở Mỹ đang gia tăng nguồn thu từ các chương trình hợp tác giáo dục và nghiên cứu với doanh nghiệp, thông qua các hoạt động thương mại như công viên nghiên cứu và các công ty khởi nghiệp Để nâng cao doanh thu, các trường đại học công lập liên kết với doanh nghiệp thông qua chuyển giao công nghệ và bán bằng sáng chế, với sự hỗ trợ từ chính phủ Năm 1980, Đạo luật Bayh-Dole được ban hành nhằm thúc đẩy chuyển giao công nghệ từ các trường đại học đến ngành công nghiệp Các văn phòng chuyển giao công nghệ (TTOs) đã được thành lập để kết nối và chuyển giao tri thức giữa các trường đại học và doanh nghiệp.

Các trường đại học ở Mỹ đã chủ động tăng cường nguồn thu từ các hoạt động kinh doanh phụ trợ, bao gồm việc xuất bản giáo trình và công trình nghiên cứu của giảng viên Ví dụ, vào năm 2006, Đại học Cornell đã thu về 3,6 triệu USD từ hoạt động xuất bản, chiếm 14% tổng thu nhập Đại học Kinh doanh Harvard (HBS) cũng đã thành lập tạp chí Harvard Business Review, từ đó công bố các nghiên cứu chuyên sâu trong lĩnh vực kinh doanh Doanh thu từ xuất bản của HBS đạt 165 triệu USD vào năm 2012, chiếm 30,22% tổng thu nhập và trở thành nguồn thu chính của trường.

1.5.2 Kinh nghiệm các trường đại học tại Trung Quốc

Năm 1985, giáo dục đại học Trung Quốc trải qua một cuộc cải cách quan trọng, đánh dấu sự chuyển biến căn bản trong quyền tự chủ tài chính của các trường đại học Sự thay đổi này thể hiện rõ rệt qua nhiều khía cạnh khác nhau.

NSNN tiếp tục đầu tư cho các trường đại học, nhưng ngân sách hỗ trợ chi thường xuyên đang giảm và có sự khác biệt giữa các trường Chính phủ Trung Quốc ưu tiên đầu tư vào những trường có tiềm năng đạt đẳng cấp quốc tế Hiện tại, ngân sách được phân bổ cho các hoạt động cải thiện trường đại học, cải cách phương pháp giảng dạy, phát triển nghiên cứu khoa học, thúc đẩy trường đạt đẳng cấp quốc tế, khuyến khích tài trợ từ khu vực tư nhân và nâng cao hoạt động quản trị nhà trường.

Các trường đại học hiện nay được tự chủ trong việc quyết định mức học phí, dựa trên nguyên tắc chia sẻ chi phí giữa Nhà nước, nhà trường và người học Mức học phí này không đồng nhất giữa các vùng, các trường và các ngành học Đồng thời, ngân sách của Chính phủ hoặc địa phương cũng hỗ trợ học phí cho các đối tượng chính sách.

Chính phủ Trung Quốc đang đầu tư vào việc xây dựng các phòng thí nghiệm trọng điểm tại các trường đại học danh tiếng, nhằm thúc đẩy sự hình thành và phát triển doanh nghiệp trong trường để tăng cường nguồn thu từ nghiên cứu khoa học Đồng thời, các trường đại học cũng được phép sử dụng đất làm tài sản đảm bảo để vay vốn từ ngân hàng thương mại, hoặc nhận hỗ trợ lãi suất cho các khoản vay phục vụ đầu tư xây dựng.

1.5.3 Kinh nghiệm các trường đại học tại Nhật Bản

Hệ thống giáo dục đại học Nhật Bản là một trong những hệ thống hàng đầu thế giới, nổi bật với việc thực hiện tự chủ đại học Để khuyến khích các trường đại học đa dạng hóa nguồn thu, Nhật Bản đã triển khai nhiều cơ chế chính sách hiệu quả.

Nhật Bản đã tăng cường quốc tế hóa giáo dục bằng cách cho phép các trường đại học nước ngoài mở chi nhánh và chương trình liên kết tại nước này, giúp sinh viên Nhật Bản trải nghiệm hệ thống giáo dục quốc tế mà không cần ra nước ngoài Kể từ năm 2004, Chính phủ Nhật Bản đã công nhận bằng cấp từ các chi nhánh trường đại học nước ngoài, tạo điều kiện thuận lợi cho nhiều sinh viên lựa chọn theo học các chương trình này.

Nhật Bản đã nhận thức rõ tầm quan trọng của mối liên kết giữa các trường đại học và doanh nghiệp, và từ những năm 90, Chính phủ nước này đã triển khai nhiều chính sách nhằm tăng cường sự kết nối này Các chính sách chủ yếu bao gồm việc thúc đẩy sự liên kết và đổi mới vùng, phát triển các công ty khởi nghiệp từ các trường đại học, hỗ trợ chuyển giao công nghệ, và thành lập các trung tâm sáng tạo Những chính sách này không chỉ giúp tăng cường mối quan hệ giữa nghiên cứu và nhu cầu doanh nghiệp mà còn tạo ra sự phù hợp giữa các nghiên cứu của trường đại học và yêu cầu thực tiễn của thị trường.

Bộ Giáo dục Nhật Bản khuyến khích các trường đại học cao đẳng (ĐHCL) sáng tạo cơ hội học tập cho sinh viên, đồng thời đóng vai trò quan trọng trong việc kết nối tri thức và văn hóa với cộng đồng địa phương Các trường ĐH ở Nhật Bản góp phần thúc đẩy phát triển kinh tế - xã hội và văn hóa khu vực, đồng thời chủ động xây dựng chính sách thu hút tài trợ từ các tổ chức và cá nhân cả trong nước lẫn quốc tế Để tăng cường sự hỗ trợ tài chính, nhiều viện nghiên cứu được đặt tên theo nhà tài trợ, như Viện vật lý và toán học Kavli tại Đại học Tokyo.

Chính phủ Nhật Bản hỗ trợ các trường đại học thực hiện hoạt động kinh doanh theo cơ chế thị trường, bao gồm cho vay tín dụng, tham gia thị trường cổ phiếu và cho thuê mặt bằng trường học.

1.5.4 Kinh nghiệm các trường đại học tại Châu Âu:

Sau khi áp dụng cơ chế tự chủ tài chính, các trường đại học ở Châu Âu được khuyến khích đa dạng hóa nguồn thu từ nhiều nguồn khác nhau, bao gồm hỗ trợ của chính phủ, nguồn từ tư nhân, quốc tế và doanh thu tự tạo Chính phủ các quốc gia phát triển Châu Âu đã triển khai các chính sách đa dạng hóa nguồn thu một cách hệ thống nhằm nâng cao khả năng tài chính cho các trường đại học.

Chính phủ đã thiết lập một khung chính sách nhằm hỗ trợ các trường đại học phát triển theo bản sắc doanh nghiệp, cho phép họ xác định mục tiêu cung cấp dịch vụ cho thị trường bên cạnh các mục tiêu học thuật Điều này giúp các trường đại học không chỉ tập trung vào giáo dục mà còn gắn kết với nhu cầu thực tiễn của xã hội.

Nếu không có khung chính sách khuyến khích các trường đại học phát triển theo hướng thị trường và hoạt động với bản sắc doanh nghiệp, hệ thống giáo dục sẽ gặp khó khăn trong việc khai thác các thế mạnh học thuật và chia sẻ lợi nhuận nội bộ Để giải quyết vấn đề này, các chính sách của Nhà nước cần tập trung vào việc khuyến khích các trường đại học mở rộng hoạt động ra ngoài khuôn khổ quy định, nhận thức rằng trường đại học không chỉ có sứ mệnh cung cấp kiến thức mà còn phải cung cấp các dịch vụ gắn liền với thị trường.

Nhà nước đã nới lỏng các quy định về hoạt động học thuật đối với các trường đại học, cho phép linh hoạt hơn trong việc thiết kế giáo trình và giới thiệu các chủ đề học thuật phù hợp với nhu cầu thị trường Việc này bao gồm việc áp dụng các phương pháp kiểm định mới và mô đun hoá các loại bằng cấp chính quy, giúp các mô đun học có thể được sử dụng cho cả chương trình chính quy và các chương trình được thiết kế theo yêu cầu của thị trường.

Bài học kinh nghiệm cho Việt Nam

Dựa trên kinh nghiệm từ các quốc gia đã nêu, Việt Nam có thể học hỏi cách đa dạng hóa nguồn thu cho các trường đại học tự chủ hoàn toàn Việc áp dụng các mô hình tài chính linh hoạt, phát triển các chương trình đào tạo phù hợp với nhu cầu thị trường và tăng cường hợp tác với doanh nghiệp sẽ giúp các trường nâng cao hiệu quả tài chính và đảm bảo tính bền vững trong hoạt động giáo dục.

(i) Đối với việc thu hút nguồn thu từ người học

Thứ nhất, Nhà nước cần đẩy mạnh việc quốc tế hoá các trường ĐH và tập trung thu hút các sinh viên quốc tế

Nhà nước cần tăng cường công tác kiểm tra và giám sát chất lượng các chương trình đào tạo tại các trường đại học Một phương pháp hiệu quả để thực hiện việc này là tiến hành khảo sát ý kiến của sinh viên về chương trình đào tạo và các hoạt động của nhà trường.

Nhà nước cần triển khai chính sách khuyến khích các hoạt động kinh doanh hỗ trợ cho sinh viên trong các trường đại học Những hoạt động này không chỉ tạo ra nguồn thu cho trường mà còn nâng cao chất lượng học tập, từ đó thu hút nhiều sinh viên hơn đến với trường.

Để tăng nguồn thu từ hoạt động nghiên cứu khoa học công nghệ, Nhà nước cần đảm bảo lợi ích cho các trường và nhóm nghiên cứu liên quan đến sở hữu trí tuệ và phân chia lợi nhuận Điều này sẽ khuyến khích các trường mạnh dạn đăng ký quyền sở hữu trí tuệ, đầu tư chiều sâu và thương mại hoá sản phẩm nghiên cứu của mình Việt Nam có thể tham khảo và ban hành chính sách bảo vệ trí tuệ cho các trường đại học tương tự như Đạo luật Bayh-Dole của Mỹ hoặc các luật đặc biệt cho đổi mới kinh tế của Nhật Bản.

Nhà nước cần khuyến khích thành lập các văn phòng chuyển giao công nghệ để thúc đẩy mối liên kết giữa các trường đại học và doanh nghiệp Chính phủ các nước như Mỹ, Nhật Bản, và Trung Quốc đã có những chính sách hỗ trợ việc thành lập các trung tâm nghiên cứu và phòng chuyển giao công nghệ (TTOs), nhằm tăng cường chuyển giao tri thức và công nghệ cho doanh nghiệp Cụ thể, Nhật Bản đã ban hành Luật Tăng cường chuyển giao công nghệ từ đại học đến doanh nghiệp vào năm 1996, cùng với các chính sách cải cách giáo dục đại học năm 2004, cho phép đầu tư vào nghiên cứu và sở hữu trí tuệ của các trường.

Nhà nước nên cho phép các trường đại học kinh doanh thương hiệu, tương tự như ở Mỹ, nơi các trường có thể cho phép các công ty thương mại sử dụng tên trường để in lên sản phẩm Các công ty này sẽ chia sẻ lợi nhuận từ sản phẩm với trường, tạo ra nguồn thu nhập bổ sung cho các cơ sở giáo dục.

Nhà nước cần xem xét bổ sung các hình thức miễn thuế cho thu nhập từ hoạt động hợp tác giữa doanh nghiệp và nhà trường, đặc biệt trong lĩnh vực nghiên cứu khoa học Ví dụ, Ấn Độ đã áp dụng chính sách miễn giảm thuế cho tất cả các khoản chi cho các dự án hợp tác giữa các trường đại học và doanh nghiệp, giúp khuyến khích sự phát triển và thương mại hóa công nghệ chuyển giao từ trường đại học sang doanh nghiệp, đồng thời miễn thuế dịch vụ cho thu nhập từ tiền bản quyền.

Để thu hút nguồn thu từ các cá nhân và tổ chức hảo tâm, Nhà nước cần thiết lập cơ chế khuyến khích như lập quỹ Phát triển giáo dục tương tự như ở Trung Quốc, hoặc thực hiện chính sách miễn giảm thuế thu nhập cho những người quyên góp cho các trường đại học như ở Mỹ và Trung Quốc Ngoài ra, Nhà nước nên cho phép các trường đại học được đặt tên các công trình theo tên của nhà tài trợ, dựa trên kinh nghiệm của Nhật Bản, nhằm tạo điều kiện thuận lợi hơn trong việc thu hút tài chính từ các nhà tài trợ.

THỰC TRẠNG ĐA DẠNG HÓA NGUỒN THU CỦA CÁC TRƯỜNG ĐẠI HỌC THỰC HIỆN CƠ CHẾ TỰ CHỦ Ở VIỆT NAM

Bối cảnh của các trường đại học ở Việt Nam trong xu hướng tự chủ

2.1.1 Cơ sở pháp lý, cơ chế chính sách về cơ chế tự chủ đại học ở Việt Nam

- Về cơ sở pháp lý giáo dục đại học tại Việt nam

Trong gần một thập kỷ qua, giáo dục đại học Việt Nam đã có nhiều chuyển biến tích cực về tự chủ Các trường đại học không còn hoạt động như một bộ phận của một trường lớn duy nhất dưới sự quản lý chặt chẽ của Bộ GD&ĐT, mà đã dần được trao quyền tự chủ thông qua các văn bản pháp quy của Nhà nước Sự thay đổi này không chỉ phản ánh những yêu cầu khách quan và xu hướng toàn cầu mà còn được thúc đẩy bởi các quy định và chính sách của Đảng và Chính phủ qua từng giai đoạn.

Theo Điều lệ trường đại học ban hành theo Quyết định số 153/2003/QĐ-TTg của Thủ tướng Chính phủ, Điều 10 quy định rõ rằng các trường đại học có quyền tự chủ và tự chịu trách nhiệm theo pháp luật Điều này bao gồm việc quy hoạch, phát triển kế hoạch nhà trường, tổ chức hoạt động đào tạo, nghiên cứu khoa học, công nghệ, quản lý tài chính, quan hệ quốc tế, cũng như tổ chức và nhân sự.

Luật Giáo dục được ban hành vào tháng 7 năm 2005 đã quy định tại Điều 14 về việc phân công và phân cấp quản lý trong lĩnh vực giáo dục, nhằm nâng cao quyền tự chủ và trách nhiệm của các cơ sở giáo dục.

Nghị quyết 14 của Chính phủ (14/2005/NQ-CP ban hành ngày 2 tháng 11 năm 2005) về đổi mới cơ bản và toàn diện giáo dục đại học Việt Nam giai đoạn

Giai đoạn 2006 – 2020 đã nhấn mạnh tầm quan trọng của việc hoàn thiện chính sách phát triển giáo dục đại học, nhằm đảm bảo quyền tự chủ và trách nhiệm xã hội của các cơ sở giáo dục Cần có sự đổi mới trong cơ chế quản lý, chuyển các cơ sở giáo dục đại học công lập sang hoạt động theo cơ chế tự chủ, với tư cách pháp nhân đầy đủ Điều này cho phép các cơ sở giáo dục có quyền quyết định và chịu trách nhiệm về các lĩnh vực như đào tạo, nghiên cứu, tổ chức, nhân sự và tài chính, đồng thời xóa bỏ cơ chế bộ chủ quản và thiết lập cơ chế đại diện sở hữu nhà nước đối với các cơ sở này.

Thông tư liên tịch 07/2009/TTLT-BGDĐT-BNV của Bộ GD&ĐT và Bộ Nội vụ quy định quyền tự chủ của các đơn vị sự nghiệp công lập giáo dục trong việc xác định nhiệm vụ, tổ chức bộ máy, biên chế, và quản lý cán bộ Nghị quyết 05-NQ/BCSĐ về đổi mới giáo dục đại học giai đoạn 2010-2012 chỉ ra rằng công tác quản lý giáo dục đại học chưa đổi mới đáng kể, chưa phân cấp cho chính quyền địa phương và thiếu quy chế phối hợp giữa các bộ, ngành Điều này dẫn đến việc không đủ khả năng đánh giá thực chất hoạt động và chất lượng giáo dục của hệ thống Nghị quyết đề xuất giải pháp nâng cao tính tự chủ và trách nhiệm của các trường, đồng thời tăng cường giám sát của nhà nước và xã hội Ngoài ra, cơ chế cho phép hiệu trưởng quyết định bậc lương của giảng viên dựa trên sự cống hiến và tổ chức đánh giá hoạt động giảng dạy hàng năm cũng được nhấn mạnh.

Chỉ thị 296 của Thủ tướng Chính phủ về đổi mới quản lý giáo dục giai đoạn 2010-2012 nhấn mạnh sự cần thiết phải cải cách quản lý giáo dục đại học, bao gồm cả quản lý nhà nước và quản lý của các cơ sở đào tạo Nhiệm vụ quan trọng được giao cho Bộ GD&ĐT là rà soát và điều chỉnh các văn bản pháp luật hiện hành, đồng thời xây dựng các quy định mới liên quan đến thành lập trường, tuyển sinh, tổ chức đào tạo, quản lý tài chính và chất lượng, cũng như trách nhiệm của nhà giáo trong giảng dạy và nghiên cứu Điều này nhằm đảm bảo mối quan hệ rõ ràng giữa Ban giám hiệu, Hội đồng trường và các tổ chức đoàn thể, từ đó tạo điều kiện cho các trường đại học, cao đẳng thực hiện quyền tự chủ và trách nhiệm xã hội theo quy định của Luật Giáo dục.

Luật giáo dục đại học sửa đổi 2018 đã chú trọng đến quyền tự chủ của các cơ sở giáo dục đại học Quyền tự chủ này được thể hiện qua nhiều điều khoản trong Dự luật, bao gồm các quy định về Hội đồng trường, Hội đồng quản trị, Hiệu trưởng, nhiệm vụ và quyền hạn của cơ sở giáo dục, cũng như các vấn đề liên quan đến tuyển sinh, chương trình giáo dục, văn bằng, học phí và lệ phí tuyển sinh.

Mặc dù Nhà nước và Bộ GD & ĐT đã chú trọng đến quyền tự chủ của các cơ sở giáo dục đại học và cố gắng tạo hành lang pháp lý cho vấn đề này, nhưng quyền tự chủ vẫn chưa phát huy hiệu quả tối đa do tính chất chưa triệt để và sự thiếu nhất quán trong các chính sách Các cơ sở giáo dục đại học vẫn mong muốn được mở rộng quyền tự chủ, đặc biệt trong quản lý tài chính, nhân sự, tuyển sinh, trang thiết bị và cơ sở vật chất.

- Về quyền tự chủ của các trường đại học ở Việt Nam trong cơ chế tự chủ

Cơ chế tài chính giáo dục đại học được quy định tại Nghị định số 43/2006/NĐ-CP, cho phép các trường đại học công lập tự chủ tài chính theo khả năng tự đảm bảo chi thường xuyên, chia thành ba loại: (i) tự đảm bảo 100% kinh phí, (ii) tự đảm bảo một phần kinh phí, và (iii) được đảm bảo chi thường xuyên Các đơn vị tự chủ loại (1) và (2) không có sự khác biệt về quyền tự chủ trong việc thu và mức thu Tuy nhiên, cơ chế tự chủ tài chính theo Nghị định này chưa tạo ra động lực mạnh mẽ để khuyến khích tăng thu và phát triển các hoạt động đào tạo.

Các trường đại học công lập được phân loại theo khả năng tự đảm bảo chi thường xuyên, bao gồm ba loại: (i) Đơn vị tự đảm bảo 100% kinh phí, tức là các khoản chi từ ngân sách nhà nước cho các cơ sở giáo dục đại học công lập Bên cạnh đó, một phần ngân sách nhà nước cũng được chi cho giáo dục đại học nhằm thực hiện các chính sách, chế độ của Nhà nước đối với sinh viên học tập tại các cơ sở giáo dục đại học ngoài công lập, chủ yếu là các chính sách hỗ trợ cho học sinh, sinh viên thuộc gia đình có công với cách mạng, gia đình thuộc diện chính sách, cũng như học sinh, sinh viên là người dân tộc thiểu số thuộc hộ nghèo, hộ cận nghèo, và các nhóm dân tộc thiểu số rất ít người.

Cơ chế tự chủ tại các trường đại học cũng được đề cập và quy định tại Khoản

Điều 32 của Luật Giáo dục đại học năm 2012 quy định rằng các cơ sở giáo dục đại học có quyền tự chủ trong nhiều lĩnh vực quan trọng như tổ chức và nhân sự, tài chính và tài sản, đào tạo, khoa học và công nghệ, hợp tác quốc tế, và đảm bảo chất lượng giáo dục Quyền tự chủ này được thực hiện ở mức độ cao hơn, tùy thuộc vào năng lực, kết quả xếp hạng và kết quả kiểm định chất lượng của từng cơ sở.

Để nâng cao tự chủ tài chính cho các trường đại học, chính phủ đã ban hành Nghị quyết số 77/NQ-CP vào ngày 24/10/2014, cho phép các cơ sở giáo dục đại học công lập thí điểm đổi mới cơ chế hoạt động giai đoạn 2014-2017 Theo nghị quyết, các trường đại học được quyền tự chủ cao hơn về tài chính, bao gồm quyền quyết định mức học phí, tự chủ trong giao dịch với ngân hàng thương mại và tự chủ về đầu tư, mua sắm Tuy nhiên, thực tế cho thấy việc thực hiện thí điểm tự chủ theo Nghị quyết số 77/NQ-CP chưa mang lại cải thiện đáng kể trong việc nâng cao chất lượng nguồn thu, hướng tới sự phát triển đa dạng và bền vững cho các trường đại học.

Nghị định số 16/2015/NĐ-CP ngày 14/02/2015 của Chính phủ quy định về cơ chế tự chủ của đơn vị sự nghiệp công lập, bao gồm cả cơ sở giáo dục đại học công lập Cơ chế quản lý chi ngân sách nhà nước cho giáo dục đại học, bao gồm chi đầu tư và chi thường xuyên, được thực hiện theo các quy định của Luật ngân sách nhà nước và Luật đầu tư công Các cơ sở giáo dục đại học, cả công lập và ngoài công lập, có nguồn thu hợp pháp từ học phí, các khoản thu hợp pháp khác, và nguồn vốn vay, viện trợ, tài trợ theo quy định.

Tiếp theo, nghị định số 16/2015/ND-CP của Chính phủ ngày 14 tháng 02 năm

Năm 2015 đã xác định rõ ràng rằng cơ chế tự chủ của các đơn vị sự nghiệp công bao gồm quyền tự chủ và tự chịu trách nhiệm trong việc thực hiện nhiệm vụ, tổ chức bộ máy, nhân sự và tài chính Điều này có nghĩa là các trường đại học công lập (ĐHCL) cũng được hưởng quyền tự chủ và tự chịu trách nhiệm trong các lĩnh vực này.

Tự chủ bao gồm tự chủ trong học thuật, trong quản lý nguồn thu tài chính của các trường đại học có thể hiểu ở những khía cạnh như sau:

Tự chủ về tổ chức trong giáo dục đại học là khả năng chủ động quản lý các nguồn lực nhằm phát triển trường Điều này cho phép các trường đại học tự quyết định về cơ cấu tổ chức, thành lập hoặc giải thể các đơn vị trực thuộc, và thực hiện công tác tuyển dụng, bổ nhiệm, đãi ngộ Ngoài ra, các trường còn có thể xây dựng chiến lược phát triển theo tầm nhìn và định hướng riêng, từ đó nâng cao chất lượng giáo dục và đáp ứng nhu cầu xã hội.

Đánh giá chung những mặt đạt được và hạn chế về đa dạng hóa nguồn thu tại các trường đại học

Yêu cầu về tự chủ của các trường đại học nhằm nâng cao khả năng đáp ứng với môi trường xã hội và kinh tế, đồng thời thích ứng với sự thay đổi của công nghệ Theo Nghị quyết số 77/2014, các trường đại học công lập thực hiện thí điểm sẽ có quyền tự chủ tài chính cao hơn, tiến tới tự chủ hoàn toàn Để gia tăng tiềm lực tài chính, các trường cần mở rộng và đa dạng hóa nguồn thu ngoài ngân sách nhà nước, đảm bảo hoạt động đào tạo không bị ảnh hưởng khi ngân sách nhà nước giảm Phân tích tại 23 trường đại học tự chủ theo Nghị quyết 77/2014 cho thấy quá trình đa dạng hóa nguồn thu đã đạt được nhiều kết quả tích cực.

Tổng nguồn thu của các trường Đại học đã ghi nhận mức tăng trưởng ấn tượng, với tốc độ tăng trưởng bình quân hàng năm đạt 11,07% Trong giai đoạn thí điểm tự chủ từ năm 2015-2016, tổng thu đạt 8.262 tỷ đồng, cho thấy sự cải thiện rõ rệt so với giai đoạn trước khi tự chủ vào năm 2013.

Năm 2014, tổng nguồn thu của các trường Đại học đạt 6.890 tỷ đồng, tăng 19,9% Mặc dù nguồn thu từ ngân sách nhà nước giảm dần với tốc độ 11,92%/năm do cơ chế tự chủ, nhưng các nguồn thu khác đều có xu hướng tăng Tổng nguồn thu ngoài ngân sách nhà nước của các trường Đại học tăng trưởng trung bình 12,60%/năm trong giai đoạn 2015-2019, cho thấy các trường vẫn duy trì sự phát triển nguồn thu trong quá trình thực hiện tự chủ hoàn toàn.

Các trường Đại học đã hiệu quả trong việc quản lý nguồn tài chính, đảm bảo đủ kinh phí cho các hoạt động của nhà trường Kinh phí chi thường xuyên không chỉ được duy trì mà còn tăng trưởng qua các năm, với mức tăng 1,29 lần trước khi tự chủ và 1,36 lần sau khi tự chủ Điều này đáp ứng nhu cầu hoạt động ngày càng tăng của các trường Đại học.

Kết quả cho thấy, các trường đại học có thể tự đảm bảo nguồn thu để chi trả cho các khoản chi thường xuyên mà không cần hỗ trợ từ ngân sách nhà nước Mức độ tự chủ tài chính này cho phép các trường chủ động trích lập các quỹ theo quy định, bao gồm quỹ khen thưởng, quỹ phúc lợi, quỹ ổn định thu nhập và quỹ đầu tư phát triển.

Trong quản lý kết quả tài chính năm và các quỹ, phân tích thu chi cho thấy thu luôn lớn hơn chi, với mức chênh lệch trước tự chủ là 1.674 tỷ đồng và sau tự chủ là 2.333 tỷ đồng, tăng 89 tỷ đồng Sự gia tăng trong các khoản thu chi ngân sách nhà nước, thu sự nghiệp và thu dịch vụ cho thấy hiệu quả phân phối kết quả tài chính của các trường Đại học vẫn được duy trì sau khi tự chủ.

Mặc dù đã đạt được nhiều thành tựu trong việc đa dạng hóa nguồn thu tại các trường Đại học thuộc Bộ Giáo dục và Đào tạo, nhưng vẫn còn một số hạn chế cần khắc phục.

Trong giai đoạn 2015-2019, sau khi tự chủ, các trường Đại học đã ghi nhận sự tăng trưởng dần về nguồn thu ngoài ngân sách nhà nước, tuy nhiên mức tăng trưởng không đồng đều Sự gia tăng chủ yếu phụ thuộc vào học phí và lệ phí, trong khi các nguồn thu khác tăng trưởng chậm và chiếm tỷ lệ nhỏ Đặc biệt, nguồn thu từ hoạt động sản xuất dịch vụ không những không tăng mà còn có xu hướng giảm Kết quả này cho thấy các trường Đại học chưa khai thác hết tiềm năng của các nguồn thu để đa dạng hóa nguồn thu của mình.

Sau khi tự chủ, nguồn thu của các trường Đại học chủ yếu đến từ học phí và lệ phí, trong đó học phí chiếm phần lớn Sự phụ thuộc này vào nhu cầu xã hội tạo ra rủi ro cho các trường, đặc biệt khi xu hướng du học gia tăng trong các gia đình có điều kiện Việc nguồn thu không được tạo ra từ nội lực mà phụ thuộc vào yếu tố bên ngoài dẫn đến tính bền vững kém, có thể ảnh hưởng tiêu cực đến chất lượng đào tạo trong tương lai, đặc biệt khi gặp khó khăn trong tuyển sinh hoặc khi nhà nước cắt giảm chỉ tiêu.

Nguồn thu từ hoạt động nghiên cứu khoa học và chuyển giao công nghệ tại các trường đại học là một trong những hoạt động quan trọng, tuy nhiên, tỷ trọng của nó vẫn còn nhỏ Sự phụ thuộc vào số lượng đề tài khoa học dẫn đến việc chưa khai thác tối đa tiềm năng thu nhập từ các kết quả nghiên cứu.

Nguồn thu từ tài trợ và viện trợ của các tổ chức, cá nhân hiện vẫn còn hạn chế, đặc biệt đối với nhiều trường đại học tự chủ.

Các lĩnh vực hoạt động của trường đại học chưa được khai thác triệt để, dẫn đến nguồn thu chủ yếu từ học phí các chương trình đào tạo chính quy và sau đại học Nguồn thu từ nghiên cứu khoa học phụ thuộc vào số lượng đề tài, trong khi hoạt động sản xuất dịch vụ chủ yếu đến từ các dịch vụ liên kết đào tạo quốc tế, đào tạo ngắn hạn, và các dịch vụ hỗ trợ như tập huấn và xét nghiệm.

Cơ chế phân bổ ngân sách nhà nước (NSNN) hiện tại vẫn mang tính bình quân, chủ yếu dựa vào khả năng tài chính và các yếu tố đầu vào như số lượng trường đại học chất lượng cao, quy mô sinh viên, số lượng nhân viên, và lịch sử phân bổ trong các năm trước, mà chưa gắn liền với tiêu chí chất lượng và kết quả đầu ra Việc phân bổ NSNN cho các trường đại học chất lượng cao thông qua các cơ quan chủ quản khác nhau dẫn đến sự không thống nhất trong tiêu chí phân bổ và thiếu công bằng trong việc thụ hưởng ngân sách Hơn nữa, việc xã hội hóa và liên doanh, liên kết trong giáo dục vẫn thiếu hướng dẫn cụ thể, trong khi nhiều văn bản pháp lý chưa được cập nhật kịp thời để hỗ trợ các trường trong việc thực hiện quyền tự chủ.

Các trường Đại học trực thuộc Bộ Giáo dục và Đào tạo tại Việt Nam chủ yếu phụ thuộc vào nguồn ngân sách nhà nước (NSNN) Điều này dẫn đến việc hoạt động kinh doanh dịch vụ của các trường chưa được phát triển một cách chủ động Hơn nữa, hiện tại, Nhà nước cũng chưa ban hành các quy định cụ thể liên quan đến vấn đề này.

Các trường Đại học hiện chưa chủ động trong việc thu hút nguồn tài trợ, dẫn đến khả năng thương mại hóa kết quả nghiên cứu chưa hiệu quả Nền tảng đào tạo và nghiên cứu khoa học của các trường chưa thực sự phù hợp với nhu cầu thị trường, do đó việc tiếp cận và thu hút nguồn tài chính từ cá nhân và tổ chức tư nhân vẫn còn hạn chế.

GIẢI PHÁP ĐA DẠNG HÓA NGUỒN THU CỦA CÁC TRƯỜNG ĐẠI HỌC TRỰC THUỘC BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO TRONG BỐI CẢNH TỰ CHỦ HÓA CÁC TRƯỜNG ĐẠI HỌC Ở VIỆT NAM

Định hướng trong đa dạng hóa nguồn thu của các trường đại học trong bối cảnh tự chủ

Trong bối cảnh giáo dục đại học Việt Nam, vấn đề tự chủ đã có nhiều tiến bộ tích cực, với các trường đại học nỗ lực đa dạng hóa nguồn thu theo quy định pháp luật Điều này được thực hiện dựa trên Nghị định số 43/2006/NĐ-CP và Nghị định số 16/2015/NĐ-CP, nhằm đảm bảo quyền tự chủ và trách nhiệm của các cơ sở giáo dục đại học công lập Ngoài ra, Nghị quyết số 77/NQ-CP cũng đã khuyến khích đổi mới cơ chế hoạt động cho các cơ sở giáo dục đại học công lập trong giai đoạn 2014-2017.

Nguồn thu chính của các Trường Đại học trong cơ chế tự chủ chủ yếu đến từ học phí, lệ phí và dịch vụ đào tạo, bao gồm cả các lớp liên kết đào tạo sau đại học với nước ngoài và các khóa bồi dưỡng ngắn hạn trong nước Để đối phó với việc ngân sách nhà nước ngày càng hạn chế, các trường cần đa dạng hóa nguồn thu nhằm đảm bảo tính bền vững và phù hợp trong cơ cấu tài chính Các định hướng cụ thể cho việc đa dạng hóa nguồn thu là rất cần thiết để phát triển các hoạt động giáo dục và nâng cao chất lượng đào tạo.

- tăng cường nguồn thu từ sự nghiệp nghiên cứu khao học công nghệ, xác định định hướng thương mại hoá các kết quả nghiên cứu

Chúng tôi định hướng mở rộng các chương trình đào tạo bằng cách tăng cường tuyển sinh vào hệ sau đại học, lớp chất lượng cao và liên kết đào tạo quốc tế Đồng thời, chúng tôi sẽ phát triển các chương trình đào tạo chất lượng và dịch vụ cao, phù hợp với nhu cầu thị trường Mục tiêu là nâng cao tiềm năng thu học phí với sự chấp nhận và ủng hộ từ phía người học.

Để nâng cao nguồn tài chính cho các hoạt động đào tạo và nghiên cứu khoa học, cần khuyến khích doanh nghiệp, tổ chức và cá nhân tham gia tích cực Việc tìm kiếm và thu hút nguồn lực tài chính từ các dự án và viện trợ nước ngoài cũng rất quan trọng để đầu tư vào cơ sở vật chất.

Đa dạng hóa các hoạt động chuyên môn phù hợp với năng lực của các trường Đại học là một yếu tố quan trọng trong việc nâng cao chất lượng giáo dục Đồng thời, việc khai thác nguồn thu dịch vụ một cách tích cực sẽ tạo ra sự cạnh tranh lành mạnh giữa các trường, từ đó thúc đẩy sự phát triển bền vững trong lĩnh vực giáo dục đại học.

Để tăng thêm thu nhập, cần đa dạng hóa các hoạt động dịch vụ phụ trợ và tăng cường huy động nguồn lực tài chính từ đầu tư nước ngoài Đồng thời, nghiên cứu thí điểm hình thành quỹ hiến tặng cũng là một giải pháp hiệu quả.

Mục tiêu đa dạng hoá nguồn thu của các trường ĐH tự chủ hoàn toàn

- Gia tăng nguồn thu từ học phí một cách bền vững

Tăng cường quy mô nguồn thu từ hoạt động nghiên cứu khoa học và chuyển giao công nghệ là cần thiết để phát triển nguồn thu chính cho các trường đại học Việc này không chỉ giúp nâng cao chất lượng nghiên cứu mà còn tạo ra động lực cho sự phát triển bền vững của các cơ sở giáo dục.

Để tăng cường phát triển nguồn thu cho các trường đại học, cần mở rộng kinh doanh đa dạng các loại hình dịch vụ từ hoạt động của nhà trường Qua đó, nguồn thu từ sản xuất kinh doanh dịch vụ, nghiên cứu khoa học và học phí sẽ trở thành ba nguồn thu chính, góp phần thúc đẩy sự phát triển bền vững của các cơ sở giáo dục.

Tăng cường huy động nguồn tài chính từ các tổ chức để đầu tư vào cơ sở vật chất là cần thiết, đồng thời cần mở rộng các nguồn tài trợ và viện trợ từ doanh nghiệp, tổ chức và cá nhân để nâng cao hiệu quả đầu tư.

Giải pháp về đa dạng hoá nguồn thu tại các trường Đại học tự chủ trực thuộc Bộ giáo dục và Đào tạo

3.2.1 Giải pháp phát triển các nguồn thu dựa trên lợi thế, uy tín của trường

Theo phân tích chương 2, tổng nguồn thu của các trường Đại học đã tăng trưởng đáng kể, với mức tăng trên 20% cả từ ngân sách nhà nước và thu sự nghiệp Tuy nhiên, cơ cấu nguồn thu vẫn phụ thuộc nhiều vào ngân sách nhà nước, trong khi nguồn thu chủ yếu đến từ học phí và dịch vụ chưa được khai thác triệt để Nguồn lực tài chính là yếu tố quan trọng trong quá trình cải cách và thực hiện tự chủ tài chính Mục tiêu quản lý huy động nguồn lực tài chính là tận dụng quy định của Nghị định 16/2015/NĐ-CP để tối đa hóa nguồn lực tài chính Các trường cần đa dạng hóa kênh huy động, đặc biệt từ hoạt động đào tạo và nghiên cứu khoa học, nhằm bù đắp sự giảm sút nguồn ngân sách nhà nước Để nâng cao năng lực tài chính, các trường Đại học cần gia tăng nguồn thu trong cơ chế tự chủ tài chính.

Thứ nhất: Gia tăng nguồn thu học phí một cách bền vững

- Phát triển ngành nghề mới đáp ứng nhu cầu xã hội:

Xu hướng toàn cầu hóa và sự phát triển nhanh chóng của khoa học công nghệ đang tạo ra những thay đổi lớn trong thị trường lao động Do đó, bên cạnh các ngành nghề truyền thống, các trường học cần nghiên cứu và dự báo nhu cầu của thị trường để phát triển các ngành nghề đào tạo mới, nhằm đáp ứng kịp thời nhu cầu của người học và xã hội.

Khuyến khích các cơ sở giáo dục đại học xây dựng chương trình thạc sĩ giảng dạy bằng tiếng Anh để mở rộng lựa chọn cho người học trong và ngoài nước Cần đổi mới phương thức tuyển sinh, thông tin đến nhiều địa chỉ quốc tế, đặc biệt là các nước lân cận như Lào và Campuchia Đồng thời, xem xét cơ chế phối hợp trong xây dựng chương trình đào tạo và công nhận tín chỉ giữa các cơ sở giáo dục đại học trong nước và nước ngoài Điều này sẽ tạo điều kiện thuận lợi để thu hút người học, hỗ trợ các cơ sở hoàn thành chỉ tiêu tuyển sinh, nâng cao chất lượng đào tạo và ổn định nguồn tài chính từ học phí.

- Nâng cao chất lượng đào tạo:

Nâng cao chất lượng đào tạo bằng cách cam kết đạt chuẩn đầu ra cao hơn sẽ khuyến khích người học sẵn sàng chi trả mức học phí cao hơn, từ đó giúp các trường tăng nguồn thu mà không cần mở rộng quy mô đào tạo liên tục.

- Phát triển các chương trình đào tạo mới :

Để thúc đẩy hợp tác giáo dục quốc tế, cần triển khai các chương trình liên kết đào tạo và phát triển chương trình đào tạo song bằng, cho phép các trường thành viên trao đổi sinh viên và công nhận tín chỉ lẫn nhau Đồng thời, xây dựng chương trình đào tạo theo yêu cầu của nhà nước và nhu cầu doanh nghiệp là rất quan trọng, đặc biệt khi các doanh nghiệp đang mở rộng thị trường ra nước ngoài Việc này không chỉ giúp đảm bảo chất lượng đào tạo mà còn hỗ trợ bù đắp chi phí và tạo tích lũy cho các cơ sở giáo dục.

Các trường đại học cần hợp tác chặt chẽ với doanh nghiệp để phát triển chương trình đào tạo đáp ứng nhu cầu thực tế Việc tận dụng mạng lưới cựu học viên, đặc biệt là những người đang giữ vị trí quản lý hoặc lãnh đạo tại doanh nghiệp, sẽ giúp thiết lập hệ thống hỗ trợ sinh viên thực tập Đồng thời, các trường cũng nên thu thập phản hồi từ doanh nghiệp về hiệu quả thực tập của sinh viên để điều chỉnh chương trình đào tạo một cách phù hợp hơn.

- Về xác định mức thu học phí:

Học phí các trường Đại học cần được điều chỉnh theo lộ trình giá dịch vụ sự nghiệp công theo Nghị định số 16/2015/NĐ-CP, nhằm bù đắp chi phí đào tạo cần thiết và đảm bảo chất lượng Các trường nên căn cứ vào kinh nghiệm hoạt động và dự báo nhu cầu xã hội để xác định quy mô tuyển sinh và ngành nghề đào tạo phù hợp, đồng thời xác định mức học phí hợp lý, đảm bảo lợi ích cho nhà trường và khả năng đóng góp của xã hội.

Thứ Hai: Gia tăng nguồn thu từ hoạt động nghiên cứu khoa học và chuyển giao công nghệ

Các trường cần chủ động thiết lập mối quan hệ với doanh nghiệp, đặc biệt là các doanh nghiệp lớn và nước ngoài, nhằm thu hút nguồn vốn đầu tư cho việc xây dựng phòng thí nghiệm, phòng mô hình thực hành, và trung tâm nghiên cứu phát triển Điều này sẽ giúp nâng cao năng lực nghiên cứu của cán bộ và giảng viên Ngoài ra, việc ký kết các bản ghi nhớ hoặc liên kết về ứng dụng kết quả nghiên cứu khoa học tại doanh nghiệp cũng rất quan trọng, đặc biệt trong các dự án có tính ứng dụng cao, hoặc thông qua việc đặt hàng từ doanh nghiệp để thực hiện các nghiên cứu cụ thể.

Các trường đại học cần nhanh chóng xây dựng kế hoạch thương mại hóa kết quả nghiên cứu bằng cách hợp tác với doanh nghiệp ngay từ giai đoạn hình thành ý tưởng Việc này giúp đánh giá tổng quan về thị trường và tính khả thi thương mại Đồng thời, hội đồng xét duyệt đầu vào của các nhiệm vụ nghiên cứu cũng nên bổ sung chuyên gia về thị trường để đánh giá khả năng thương mại hóa các kết quả nghiên cứu.

Các trường đại học nên chủ động nghiên cứu và thành lập các trung tâm hoặc bộ phận chuyên về đăng ký sở hữu trí tuệ, bản quyền tác giả và thương mại hóa kết quả nghiên cứu Bộ phận này có nhiệm vụ kết nối với doanh nghiệp và cơ quan có thẩm quyền để xây dựng quy trình thương mại hóa hiệu quả Đồng thời, cần thường xuyên cập nhật thông tin về nhu cầu thị trường, từ đó đưa ra gợi ý cho các nhà khoa học thực hiện những nghiên cứu thiết thực, tránh tình trạng nhiều nghiên cứu chỉ được lưu trữ mà không được triển khai.

Các trường đại học cần cải thiện năng lực và thiết lập mạng lưới liên kết với các tổ chức trung gian để hỗ trợ hiệu quả cho hoạt động thương mại hóa kết quả nghiên cứu Điều này đặc biệt quan trọng đối với các nhà xuất bản, tạp chí khoa học công nghệ, cũng như các trung tâm và văn phòng chuyển giao khoa học công nghệ.

Thứ ba: Gia tăng nguồn thu từ hoạt động sản xuất dịch vụ của nhà trường

Mỗi trường đại học hiện nay đều có khả năng và lợi thế riêng để đa dạng hóa nguồn thu từ nghiên cứu khoa học (NCKH), phù hợp với chuyên môn của mình Chẳng hạn, Trường Đại học Luật có thể tạo nguồn thu từ tư vấn pháp luật và đào tạo ngắn hạn, trong khi Trường Đại học Ngoại ngữ có thể khai thác nguồn thu từ dịch thuật và các chương trình đào tạo ngoại ngữ Trường Đại học Nghệ thuật có thể phát triển nguồn thu thông qua các hoạt động nghệ thuật, còn Trường Đại học Y dược có thể thu hút nguồn thu từ dịch vụ khám và chữa bệnh.

Các trường đại học cần mở rộng dịch vụ hỗ trợ sinh viên, bao gồm tư vấn tìm nhà, hướng dẫn chọn khóa học, hỗ trợ thủ tục hành chính, cung cấp dịch vụ tài chính, thể thao và y tế Ngoài ra, cần phát triển các dịch vụ nghiên cứu, thực hành và truy cập vào kho dữ liệu mở kết nối với nguồn dữ liệu toàn cầu, cùng với tư vấn về cơ hội việc làm bán thời gian cho sinh viên.

Các trường đại học không chỉ cung cấp dịch vụ cho sinh viên mà còn hỗ trợ các nhà nghiên cứu thông qua việc đăng ký quyền truy cập kho dữ liệu, tổ chức diễn đàn nghiên cứu quốc tế có thu phí, đăng bìa nghiên cứu trên tạp chí khoa học của trường và hỗ trợ gửi bài đăng quốc tế Những hoạt động này nhằm tạo ra môi trường nghiên cứu khoa học cho các nhà nghiên cứu trong và ngoài nước, từ đó nâng cao chất lượng nghiên cứu tại các trường đại học.

Thứ tư, tăng cường tìm kiếm nguồn thu từ hoạt động tài trợ, viện trợ

Để tăng cường nguồn thu cho giáo dục đại học, các trường có thể tổ chức các hoạt động gây quỹ nhằm kêu gọi sự đóng góp từ cá nhân, tổ chức và doanh nghiệp dưới hình thức quà tặng và quỹ từ thiện Hiện nay, nguồn tài chính này chưa được các trường đại học khai thác hiệu quả, dẫn đến khả năng huy động còn hạn chế, mặc dù tiềm năng là rất lớn.

Một số kiến nghị

Để đảm bảo cơ chế tự chủ tài chính tại các trường Đại học và quá trình đa dạng hóa nguồn thu của các trường tự chủ thuộc Bộ Giáo dục và Đào tạo, vai trò của nhà nước và Bộ Giáo dục và Đào tạo là rất quan trọng Tác giả đề xuất một số kiến nghị liên quan để nâng cao hiệu quả quản lý tài chính và hỗ trợ các trường trong việc phát triển nguồn thu.

3.3.1 Kiến nghị với nhà nước

Để nâng cao hiệu quả quyền sở hữu trí tuệ và thương mại hóa tài sản trí tuệ, cần khuyến khích việc thành lập các Văn phòng chuyển giao công nghệ tại các trường Đại học.

Nhà nước đã cho phép các trường đại học thương mại hóa tài sản trí tuệ và thu lợi nhuận từ các sáng chế, đồng thời bảo đảm quyền sở hữu trí tuệ Các trường đại học có quyền sở hữu kết quả nghiên cứu và có thể chia sẻ tiền bản quyền với các nhà sáng chế, tạo cơ hội hợp tác với các nhà đầu tư.

Nhà nước nên khuyến khích các trường đại học công lập (ĐHCL) thành lập và phát triển các văn phòng cấp phép công nghệ (TLO) hoặc văn phòng chuyển giao công nghệ (TTO), cùng với các bộ phận phụ trách sở hữu trí tuệ để tư vấn và bảo đảm quyền sở hữu trí tuệ cho các sản phẩm nghiên cứu Kinh nghiệm từ các quốc gia như Mỹ và Nhật Bản cho thấy mô hình này rất phổ biến và hiệu quả trong việc thương mại hóa và chuyển giao công nghệ tại các trường đại học Các cơ quan này đóng vai trò là cầu nối giữa nhà trường và doanh nghiệp, hỗ trợ trong việc thương mại hóa các sản phẩm khoa học và nghiên cứu phát triển (R&D).

Cần hoàn thiện hành lang pháp lý cho việc hình thành doanh nghiệp khoa học và công nghệ tại các trường đại học, nhằm ứng dụng kết quả nghiên cứu khoa học (NCKH) và đánh giá giá trị thực tiễn của các công trình NCKH Điều này cũng giúp chuyển giao công nghệ, bảo đảm lợi ích lâu dài cho trường và cá nhân nhà nghiên cứu Hơn nữa, cần xây dựng quy định rõ ràng về quyền hạn và trách nhiệm trong hoạt động kinh doanh tài chính, sở hữu tài sản tài chính của các trường đại học công lập, để chính thức hóa các hoạt động này trong cơ chế tự chủ hiện nay.

Thứ hai: Khuyến khích và tạo điều kiện cơ chế hỗ trợ các trường ĐH đăng ký và kinh doanh, quản bá thương hiệu ra nước ngoài.

Tại nước ngoài, thương hiệu của doanh nghiệp và trường ĐH được xem là tài sản có giá trị, nhưng tại Việt Nam, chưa có cơ chế đăng ký thương hiệu cho các trường ĐH Mặc dù chương trình Thương hiệu quốc gia hiện chỉ áp dụng cho doanh nghiệp, giáo dục cũng có thể được coi là một sản phẩm dịch vụ Nếu các trường ĐH được công nhận là doanh nghiệp xã hội, họ cũng cần được bảo vệ thương hiệu và có cơ hội kinh doanh Nhà nước nên hỗ trợ marketing cho các trường ĐH, chẳng hạn như tăng cường trao đổi sinh viên quốc tế và đẩy mạnh truyền thông về chính sách giáo dục và đãi ngộ tại Việt Nam qua các phương tiện truyền thông và internet.

Thứ ba: Tăng tính chủ động cho các trường trong việc sử dụng tài sản nhằm thực hiện các hoạt động kinh daonh

Nhà nước cho phép các trường tự do sử dụng tài sản, bao gồm quyền sử dụng đất, để thực hiện các hoạt động kinh doanh như cho thuê đất Điều này nhằm hỗ trợ các doanh nghiệp thành lập trung tâm nghiên cứu và cung cấp dịch vụ đào tạo.

Theo nghị định 16/NĐ-CP năm 2015, các trường ĐH chưa có quy định rõ ràng về sở hữu tài sản như bất động sản và tài sản tài chính Do đó, khi chuyển sang cơ chế tự chủ, cần có quy định cụ thể về việc sử dụng tài sản Nhà nước, bao gồm đất đai và cơ sở hạ tầng dịch vụ Bên cạnh đó, việc thực hiện các chính sách thuế cho doanh nghiệp và tổ chức tài trợ cho trường ĐH cũng cần được chú trọng.

Nhà nước cần thể chế hoá việc huy động nguồn lực tài chính từ cá nhân và doanh nghiệp đầu tư cho giáo dục đại học Các chính sách không chỉ dừng lại ở việc vinh danh nhà tài trợ mà cần tạo ra lợi ích tài chính, chẳng hạn như miễn giảm thuế thu nhập cho những người đóng góp cho giáo dục Ví dụ, tại Mỹ, các nhà hảo tâm khi quyên tặng cho các trường đại học sẽ được miễn giảm thuế thu nhập tương ứng với số tiền tài trợ nhân với thuế suất cận biên.

Việc miễn giảm thuế cần được kết hợp với việc đơn giản hóa thủ tục hành chính để thuận lợi hóa hoạt động quyên góp của nhà tài trợ Nhiều cá nhân muốn hiến tặng đất hoặc tiền cho việc xây dựng trường đại học nhưng gặp khó khăn do quy trình phức tạp và tốn thời gian trong việc giải trình với cơ quan thuế Điều này có thể cản trở và làm giảm động lực quyên góp của các nhà tài trợ.

Giải pháp này không chỉ mang lại lợi ích tài chính mà còn cho phép cá nhân và tổ chức tài trợ ghi tên mình trên các công trình, chương trình hoặc nội dung mà họ hỗ trợ, từ đó ghi nhận sự đóng góp của họ đối với nhà trường.

Thứ năm: Đẩy mạnh hỗ trợ thông qua các chương trình sáng kiến và tăng cương hợp tác Nhà nước – trường ĐH – Doanh nghiệp

Bộ Giáo dục và Đào tạo phối hợp với Bộ Khoa học và Công nghệ hướng dẫn các trường đại học đăng ký quyền sở hữu trí tuệ cho các sáng kiến và phát minh Đồng thời, bộ cũng tư vấn kết nối với doanh nghiệp để ứng dụng và thương mại hóa các kết quả nghiên cứu khoa học tại các trường đại học.

Khuyến khích các trường đại học thiết lập và triển khai mô hình vườn ươm doanh nghiệp, nhằm tạo cơ hội cho việc hình thành các doanh nghiệp khởi nghiệp Những mô hình này không chỉ hỗ trợ sinh viên mà còn tạo ra sự kết nối ban đầu với các doanh nghiệp trong tương lai.

3.3.2 Kiến nghị với Bộ Giáo dục và Đào tạo

Trong giai đoạn đầu của cơ chế tự chủ, ngân sách nhà nước vẫn đóng vai trò quan trọng trong nguồn thu của các trường Đại học Để tiến tới tự chủ hoàn toàn, cần đảm bảo hiệu quả chi tiêu ngân sách Bộ Giáo dục và Đào tạo cần chủ trì phối hợp với các bộ và địa phương thực hiện Nghị quyết số 19-NQ/TW ngày 25/10/2017, nhằm sáp nhập, hợp nhất hoặc giải thể các trường đại học hoạt động không hiệu quả, đồng thời tổ chức lại và xây dựng một số trường sư phạm trọng điểm để đào tạo đội ngũ giáo viên và quản lý giáo dục.

Thực hiện tốt nhiệm vụ này sẽ giúp cơ cấu lại chi ngân sách nhà nước (NSNN) cho giáo dục đại học (GDĐH), đặc biệt là cho các trường đại học trực thuộc Bộ Giáo dục và Đào tạo NSNN sẽ được phân bổ cho các trường đã được cơ cấu lại, tập trung vào những cơ sở giáo dục có chất lượng cao và một số trường đặc thù Việc áp dụng các phương thức chi mới như đặt hàng và đấu thầu sẽ giúp tránh lãng phí ngân sách cho những trường hoạt động không hiệu quả hoặc không cần thiết duy trì.

Ngày đăng: 01/11/2022, 17:30

Nguồn tham khảo

Tài liệu tham khảo Loại Chi tiết
12. Chính phủ (2015), Nghị định số 86/2015/NĐ-CP ngày 02/10/2015 của Chính phủ quy định cơ chế thu, sử dụng học phí đối với cơ sở giáo dục thuộc hệ thống giáo dục quốc dân và chính sách miễn, giảm học phí, hỗ trợ chi phí học tập từ năm học 2015-2016 đến năm học 2020-202, Hà Nội Sách, tạp chí
Tiêu đề: Nghị định số 86/2015/NĐ-CP ngày 02/10/2015 củaChính phủ quy định cơ chế thu, sử dụng học phí đối với cơ sở giáo dục thuộc hệthống giáo dục quốc dân và chính sách miễn, giảm học phí, hỗ trợ chi phí học tậptừ năm học 2015-2016 đến năm học 2020-202
Tác giả: Chính phủ
Năm: 2015
14. Estermann T., and T.Nokkala (2009), University autonomy in Europe I.Brussels: EUA Sách, tạp chí
Tiêu đề: University autonomy in Europe I
Tác giả: Estermann T., and T.Nokkala
Năm: 2009
19. Nguyễn Thị Yến Nam (2013), Bước đầu tìm hiểu về quản lý tài chính trong giáo dục đại học theo hướng tự chủ, Tạp chí khoa học Đại học Sư phạm TP.Hồ Chí Minh, Số 54, trang 155- 164 Sách, tạp chí
Tiêu đề: Tạp chí khoa học Đại học Sư phạm TP."Hồ Chí Minh
Tác giả: Nguyễn Thị Yến Nam
Năm: 2013
13. Estermamn, T. and Pruvot, E. B. (2011), Financially Sustainable Universities II – European universities diversifying income streams, European University Association Khác
15. Estermann T., Bennetot Pruvot E., Laeys-Kulik A-L. C. (2013) Designing strategies for efficient funding of higer education in European University Association (EUA) Khác
16. Estermann, T., Nokkala, T. and Steinel, M. (2012), University Autonomy in ẺuopE II. The Scorecard. Ẻuopean University Association Khác
17. Eurydice (2008), Higher Education Governance in Europe: Policies, structures, funding and academic staff Khác
18. Getz, M. (2007), Investing in college. A guide for the perplexed, Harvard University Press, Cambridge, MA, London, England Khác

HÌNH ẢNH LIÊN QUAN

Hình 1.1: Cơ cấu nguồn thu của 99 trường đại học công lập tại Việt Nam, tính - Luận văn thạc sỹ - Đa dạng hoá nguồn thu của các trường đại học tự chủ hoàn toàn trực thuộc Bộ Giáo dục và Đào tạo
Hình 1.1 Cơ cấu nguồn thu của 99 trường đại học công lập tại Việt Nam, tính (Trang 22)
Bảng 2.1. Danh sách các trường đại học trực thuộc Bộ giáo dục và đào tạo - Luận văn thạc sỹ - Đa dạng hoá nguồn thu của các trường đại học tự chủ hoàn toàn trực thuộc Bộ Giáo dục và Đào tạo
Bảng 2.1. Danh sách các trường đại học trực thuộc Bộ giáo dục và đào tạo (Trang 47)
Bảng 2.5. Cơ cấu nguồn thu các trường Đại học tự chủ hoàn toàn - Luận văn thạc sỹ - Đa dạng hoá nguồn thu của các trường đại học tự chủ hoàn toàn trực thuộc Bộ Giáo dục và Đào tạo
Bảng 2.5. Cơ cấu nguồn thu các trường Đại học tự chủ hoàn toàn (Trang 61)
Hình 2.1: Cơ cấu nguồn thu của 31 đại học nghiên cứu tại Mỹ năm 2012 - Luận văn thạc sỹ - Đa dạng hoá nguồn thu của các trường đại học tự chủ hoàn toàn trực thuộc Bộ Giáo dục và Đào tạo
Hình 2.1 Cơ cấu nguồn thu của 31 đại học nghiên cứu tại Mỹ năm 2012 (Trang 62)
Bảng 2.6 Mức độ đảm bảo chi thường xuyên tại các trường Đại học - Luận văn thạc sỹ - Đa dạng hoá nguồn thu của các trường đại học tự chủ hoàn toàn trực thuộc Bộ Giáo dục và Đào tạo
Bảng 2.6 Mức độ đảm bảo chi thường xuyên tại các trường Đại học (Trang 64)
Bảng 2.7: Các nguồn thu của các trường đại học tự chủ hoàn toàn thuộc khối - Luận văn thạc sỹ - Đa dạng hoá nguồn thu của các trường đại học tự chủ hoàn toàn trực thuộc Bộ Giáo dục và Đào tạo
Bảng 2.7 Các nguồn thu của các trường đại học tự chủ hoàn toàn thuộc khối (Trang 66)

TÀI LIỆU CÙNG NGƯỜI DÙNG

TÀI LIỆU LIÊN QUAN

w