1. Trang chủ
  2. » Giáo Dục - Đào Tạo

(Tiểu luận FTU) khủng hoảng nợ công ở hy lạp và kinh nghiệm đối phó với khủng hoảng nợ công

43 3 0

Đang tải... (xem toàn văn)

Tài liệu hạn chế xem trước, để xem đầy đủ mời bạn chọn Tải xuống

THÔNG TIN TÀI LIỆU

Thông tin cơ bản

Tiêu đề Khủng Hoảng Nợ Công Ở Hy Lạp Và Kinh Nghiệm Đối Phó Với Khủng Hoảng Nợ Công
Tác giả Phan Thị Hiền, Bùi Thị Luyến, Đặng Hồng Nhung, Nguyễn Thị Ngọc Thanh, Chử Thị Phương Thảo
Người hướng dẫn PGS, TS Mai Thu Hiền
Trường học Trường Đại Học Ngoại Thương
Chuyên ngành Tài Chính Quốc Tế
Thể loại tiểu luận
Định dạng
Số trang 43
Dung lượng 0,9 MB

Cấu trúc

  • CHƯƠNG I: CƠ SỞ LÝ THUYẾT (7)
    • I. Nợ công (7)
      • 1. Khái niệm và phân loại nợ công (7)
      • 2. Các nhân tố ảnh hưởng đến nợ công (9)
      • 3. Các hình thức vay nợ và công cụ vay nợ công (9)
    • II. Khủng hoảng nợ công (10)
      • 1. Khủng hoảng nợ công là gì? (10)
      • 2. Đặc điểm của khủng hoảng nợ công (11)
      • 3. Một số cuộc khủng hoảng nợ công trên thế giới (12)
    • CHƯƠNG 2: KHỦNG HOẢNG NỢ CÔNG Ở HY LẠP (15)
      • I. Quá trình diễn ra khủng hoảng nợ công ở Hy Lạp (15)
        • 1. Nguyên nhân (15)
        • 2. Diễn biến khủng hoảng nợ công ở Hy Lạp (19)
      • II. Tác động của khủng hoảng nợ công tại Hy Lạp (25)
        • 1. Đối với Hy Lạp (25)
        • 2. Đối với các nước trong khu vực Eurozone (26)
        • 3. Đối với đồng EUR (27)
      • III. Các biện pháp đối phó khủng hoảng của Hy Lạp (28)
      • IV. Những kết quả đạt đƣợc (31)
  • Chương III. Kinh nghiệm xử lý khủng hoảng cho các quốc gia khác (0)
    • 1. Hợp tác với các chủ nợ (34)
    • 2. Các chính sách tài khóa (36)

Nội dung

CƠ SỞ LÝ THUYẾT

Nợ công

1 Khái niệm và phân loại nợ công a Khái niệm

Nợ công là một khái niệm phức tạp, thường được sử dụng đồng nghĩa với nợ nhà nước hoặc nợ chính phủ.

Nợ công và nợ quốc gia là hai khái niệm khác nhau Nợ quốc gia bao gồm toàn bộ khoản nợ của một quốc gia, chia thành nợ của nhà nước và nợ của tư nhân như doanh nghiệp, tổ chức và cá nhân Do đó, nợ công chỉ là một phần trong tổng thể nợ quốc gia Định nghĩa về nợ công còn đa dạng và chưa có sự thống nhất về nội hàm của khái niệm này.

Theo Ngân hàng Thế giới (WB), nợ công bao gồm tất cả các khoản nợ của Chính phủ cùng với những khoản nợ mà Chính phủ bảo lãnh.

Nợ của Chính phủ bao gồm nợ trong nước và nợ nước ngoài, liên quan đến Chính phủ, các đại lý của Chính phủ, các tỉnh, thành phố, tổ chức chính trị trực thuộc Chính phủ, cũng như các doanh nghiệp Nhà nước.

+ Nợ của Chính phủ bảo lãnh: gồm những khoản nợ trong nước và nợ nước ngoài của khu vực tƣ nhân do Chính phủ đứng ra bảo lãnh

Theo Quỹ Tiền tệ Quốc tế (IMF), nợ công được hiểu là nghĩa vụ nợ của khu vực công, bao gồm các nghĩa vụ của chính phủ trung ương, chính quyền địa phương, ngân hàng trung ương và các tổ chức độc lập có nguồn vốn hoạt động chủ yếu từ ngân sách nhà nước hoặc trên 50% vốn thuộc sở hữu nhà nước Trong trường hợp vỡ nợ, nhà nước sẽ phải chịu trách nhiệm trả nợ Nợ công còn được phân loại thành hai loại: nợ theo nghĩa rộng, bao gồm tất cả các nghĩa vụ nợ của khu vực công, và nợ theo nghĩa hẹp, chỉ bao gồm nghĩa vụ trả nợ của chính quyền trung ương, chính quyền địa phương và nợ của các tổ chức độc lập được chính phủ bảo lãnh.

Dựa vào các tiêu chí phân loại khác nhau, nợ công có thể được chia thành nhiều thành phần riêng biệt, với mối quan hệ tương tác và ảnh hưởng lẫn nhau.

* Phân loại theo nguồn vay nợ:

- Nợ trong nước: gồm các khoản vay từ nhà đầu tư trong nước

- Nợ nước ngoài: gồm các khoản vay từ nhà đầu tư nước ngoài

* Phân loại theo chủ thể nợ:

Nợ của Chính phủ là các khoản vay phát sinh từ nguồn vốn trong nước và nước ngoài, được ký kết hoặc phát hành dưới danh nghĩa Chính phủ Ngoài ra, các khoản vay khác do Bộ Tài chính ký kết, phát hành hoặc uỷ quyền phát hành theo quy định của pháp luật cũng được tính vào nợ của Chính phủ.

Nợ của chính quyền địa phương bao gồm các khoản nợ được ký kết, phát hành hoặc ủy quyền phát hành bởi ủy ban nhân dân cấp tỉnh và thành phố trực thuộc trung ương.

Nợ được chính phủ bảo lãnh là các khoản nợ của doanh nghiệp và tổ chức kinh tế, bao gồm cả nợ trong nước và nợ nước ngoài, mà chính phủ cam kết bảo lãnh Khái niệm này thuộc về nợ công, phản ánh sự hỗ trợ tài chính của chính phủ đối với các tổ chức kinh tế.

* Phân loại dựa vào thời hạn nợ:

- Nợ ngắn hạn: các khoản nợ có thời hạn từ 1 năm trở xuống

- Nợ dài hạn: các khoản nợ có thời hạn từ trên 10 năm

2 Các nhân tố ảnh hưởng đến nợ công

- Thứ nhất, nợ công phụ thuộc chặt chẽ vào cân bằng ngân sách cơ bản

Mức thâm hụt ngân sách phản ánh giá trị tuyệt đối của nợ công chính phủ; khi thâm hụt nhỏ, các khoản vay giảm, dẫn đến việc nợ công được hạn chế.

Lãi suất thực tế ảnh hưởng trực tiếp đến chi phí các khoản nợ vay của chính phủ, quyết định liệu các khoản nợ này sẽ trở nên đắt đỏ hơn khi lãi suất tăng hay rẻ hơn khi lãi suất giảm Sự gia tăng lãi suất cũng khiến cho việc vay mượn của chính phủ trở nên khó khăn hơn, gây rủi ro cho khả năng thanh toán nợ đúng hạn.

Tốc độ tăng trưởng thực tế có ảnh hưởng đáng kể đến nợ công thông qua hai cơ chế chính Thứ nhất, khi nền kinh tế phát triển, chính phủ có khả năng vay vốn dễ dàng hơn, từ đó làm gia tăng nợ công Thứ hai, tăng trưởng nhanh thường đi kèm với lạm phát, điều này dẫn đến việc cần cấp bù lạm phát cho các khoản nợ đến hạn thanh toán.

Lãi suất ngoại tệ ảnh hưởng đến các khoản vay nước ngoài của chính phủ, với cơ chế tác động tương tự như lãi suất thực tế, nhưng đối tượng hưởng lãi là khác nhau.

Tỷ giá hối đoái có ảnh hưởng lớn đến việc vay nợ nước ngoài, với sự biến động của tỷ giá tác động trực tiếp đến chi phí khoản nợ công; chi phí này có thể tăng lên khi tỷ giá tăng và giảm xuống khi tỷ giá giảm.

3 Các hình thức vay nợ và công cụ vay nợ công

Dựa vào đặc điểm và điều kiện cho vay của các khoản vay nợ, các hình thức vay nợ đƣợc chia vào hai nhóm chính là:

Chính phủ các quốc gia có thể sử dụng các công cụ nợ như tín phiếu, trái phiếu và chứng chỉ để vay mượn gián tiếp từ tổ chức và cá nhân, nhằm bù đắp thâm hụt ngân sách.

Khủng hoảng nợ công

1 Khủng hoảng nợ công là gì?

Khủng hoảng nợ xảy ra khi thâm hụt ngân sách lũy kế vượt quá khả năng kiểm soát và trả nợ của chính phủ, dẫn đến suy giảm kinh tế kéo dài và nghiêm trọng Qua thời gian, khái niệm về khủng hoảng nợ công đã có nhiều thay đổi, phản ánh sự phát triển của nền kinh tế thế giới và sự khác biệt giữa các tổ chức, khu vực độc lập.

Theo nghiên cứu của Detragiache và Spilimbergo (2001), cuộc khủng hoảng nợ sẽ xảy ra khi có một trong hai điều kiện sau: các khoản nợ không được trả đúng hạn hoặc sự gia tăng đáng kể trong khả năng không thanh toán.

Có những khoản nợ gốc hoặc lãi chưa hoàn trả hoặc đang trả dở dang, và việc xin khất lại nghĩa vụ trả nợ đối với chủ nợ như ngân hàng hoặc tổ chức sở hữu trái phiếu chiếm trên 5% tổng dư nợ.

+ Có một thỏa thuận gia hạn hoặc tái cơ cấu nợ với chủ nợ đƣợc liệt kê trong Báo cáo Phát triển Tài chính Toàn cầu (GDF) của WB

Theo IMF, một quốc gia được coi là lâm vào khủng hoảng nợ khi tổ chức Standard & Poor's xếp hạng nó vào danh sách các nước không có khả năng hoàn trả nợ hoặc phải xin vay từ IMF một khoản lớn để tài trợ cho khoản nợ đó Khủng hoảng nợ công xảy ra khi chính phủ không thể thanh toán nợ và phải tìm kiếm sự trợ giúp từ bên ngoài.

2 Đặc điểm của khủng hoảng nợ công

Khủng hoảng nợ công được xem như một loại khủng hoảng kinh tế, dẫn đến sự suy giảm kéo dài và nghiêm trọng hơn cả những đợt suy thoái trong chu kỳ kinh tế.

Khủng hoảng nợ công không chỉ xảy ra ở các quốc gia đang phát triển mà còn có khả năng tác động đến các quốc gia phát triển Điều này cho thấy rằng, bên cạnh tình trạng thiếu nợ thường xuyên ở các nước thuộc "Thế giới thứ ba", các nền kinh tế phát triển với mức tăng trưởng cao và ổn định cũng không nằm ngoài nguy cơ khủng hoảng nợ.

Khủng hoảng nợ công thường kéo dài và gây ra nhiều hệ lụy nghiêm trọng, ảnh hưởng không chỉ đến lĩnh vực kinh tế mà còn lan rộng đến chính trị, văn hóa và xã hội.

Khủng hoảng nợ công thường gắn liền với mức độ tín nhiệm của chính phủ quốc gia Khi nợ công tăng cao liên tục, nền kinh tế có thể bị hạ bậc tín nhiệm bởi các tổ chức đánh giá tín nhiệm uy tín, làm lung lay niềm tin của người dân và giới đầu tư Điều này khiến nền kinh tế dễ trở thành mục tiêu tấn công của các thế lực đầu cơ quốc tế, gây ra những hệ lụy nghiêm trọng cho sự phát triển kinh tế.

3 Một số cuộc khủng hoảng nợ công trên thế giới a Khủng hoảng nợ ở các nước Mỹ Latin và châu Phi năm 1982 Đến đầu thập niên 80, các nước Mỹ Latin bắt đầu gặp khó khăn trong việc trả nợ Kinh tế thế giới suy thoái những năm 1979-1980 đã tác động tiêu cực đến tăng trưởng và xuất khẩu của các nước này Một nguyên nhân khác là các khoản vay bị sử dụng thiếu thận trọng và có liên quan đến tham nhũng Cuộc khủng hoảng nợ tại đây bắt đầu vào tháng 8/1982 khi Mexico tuyên bố vỡ nợ Tiếp đó là Brazil, Venezuela, Argentina và Bolivia

Trong những năm đầu của khủng hoảng, tăng trưởng GDP của các nước trong khu vực chỉ đạt hơn 2%, buộc họ phải vay mượn từ các tổ chức quốc tế như IMF và WB Để đổi lấy sự hỗ trợ tài chính, các quốc gia này phải thực hiện các biện pháp thắt lưng buộc bụng, phá giá nội tệ và tự do hóa thương mại, dẫn đến tình trạng kinh tế trì trệ, thu nhập bình quân đầu người giảm và chênh lệch giàu nghèo gia tăng Khủng hoảng ở Mỹ Latin chỉ mới lắng dịu vào đầu thập niên 90.

Khủng hoảng tài chính Đông Á bắt đầu vào tháng 7/1997 khi đồng bath Thái Lan sụp đổ do dòng vốn ồ ạt rút khỏi quốc gia này Thái Lan, với gánh nặng nợ nước ngoài lớn, đã lâm vào tình trạng vỡ nợ trước khi đồng tiền của họ sụp đổ Hiệu ứng lan tỏa khiến nhà đầu tư phương Tây rút vốn mạnh mẽ, dẫn đến việc tiền tệ của nhiều quốc gia trong khu vực bị phá giá Nhiều tập đoàn, đặc biệt trong lĩnh vực bất động sản, đã vỡ nợ Indonesia, Hàn Quốc và Thái Lan là những quốc gia bị ảnh hưởng nặng nề nhất, với GDP của Indonesia giảm 15% trong một năm, trong khi Thái Lan và Malaysia giảm khoảng 10%, và Hàn Quốc giảm 3,8% trong quý đầu năm 1998.

IMF đã phải khởi động chương trình cứu trợ trị giá 36 tỷ USD cuối năm

Năm 1997, để ổn định đồng tiền của các quốc gia bị ảnh hưởng nặng nề bởi khủng hoảng, các nước đã thực hiện chính sách thắt chặt tiền tệ, tái cấu trúc hệ thống tài chính và giảm can thiệp vào kinh tế thị trường Đến đầu năm 1999, khu vực này mới bắt đầu hồi phục Khủng hoảng nợ công châu Âu cũng là một phần trong bối cảnh này.

Cuộc khủng hoảng nợ công châu Âu khởi đầu từ nửa sau năm 2009, với sự gia tăng nợ công ở nhóm PIIGS (Bồ Đào Nha, Ireland, Ý, Hy Lạp và Tây Ban Nha) Hy Lạp là quốc gia đầu tiên chịu ảnh hưởng nặng nề, với thâm hụt ngân sách lên tới 13,6% GDP Đến tháng 11/2010, Ireland trở thành nạn nhân thứ hai khi phải cầu viện từ EU và IMF Năm 2011, Bồ Đào Nha tuyên bố thâm hụt ngân sách đạt 8,5% GDP và nợ công vượt quá 90% GDP, trở thành quốc gia thứ ba rơi vào khủng hoảng Mặc dù Ý và Tây Ban Nha chưa chính thức rơi vào khủng hoảng, nhưng cũng đang đối mặt với nhiều rủi ro.

Vào năm 2011, thâm hụt ngân sách của Ý chỉ ở mức 5% GDP, nhưng nợ công đã lên tới khoảng 120% GDP Tây Ban Nha có nợ công ở mức 72% GDP, trong khi thâm hụt ngân sách gần 9% GDP Cuộc khủng hoảng nợ công châu Âu chủ yếu do chính sách tài khóa không bền vững và sự mất cân đối trong vay nợ của các quốc gia Hy Lạp là một ví dụ điển hình, khi gia nhập Eurozone vào năm 2001, mức thâm hụt ngân sách trung bình hàng năm của nước này đạt khoảng 5%, cao hơn mức 2% của toàn khối Eurozone Để bù đắp cho khoản thâm hụt này, Hy Lạp đã phải vay mượn từ thị trường vốn quốc tế trong suốt một thập kỷ.

Các chuyên gia kinh tế cảnh báo rằng, ngay cả khi Hy Lạp thực hiện kế hoạch "thắt lưng buộc bụng" trong 3 năm, nợ công của quốc gia này vẫn sẽ tăng lên 172% GDP vào năm 2012.

KHỦNG HOẢNG NỢ CÔNG Ở HY LẠP

I Quá trình diễn ra khủng hoảng nợ công ở Hy Lạp

1 Nguyên nhân a Nguyên nhân nội sinh

Tham nhũng, hối lộ, trốn thuế:

Tham nhũng là một vấn nạn phổ biến tại các cơ quan nhà nước và doanh nghiệp công ở Hy Lạp, gây thiệt hại khoảng 8% mỗi năm cho nền kinh tế.

Nói cách khác, khoảng hơn 50% thâm hụt ngân sách năm 2009 đến từ tham nhũng

Chi tiêu chính phủ quá lớn trong khi nguồn thu hạn chế:

+ Chi cho quỹ lương cao:

Sau khi gia nhập Liên minh châu Âu, quỹ lương của Hy Lạp đã tăng gấp đôi từ năm 2000 đến 2008, trong khi nguồn thu của chính phủ không cải thiện Các biện pháp cắt giảm thuế nhằm kích thích đầu tư đã dẫn đến thâm hụt ngân sách nghiêm trọng trong nhiều năm.

Hậu quả của bộ máy nhà nước cồng kềnh, kém hiệu quả là việc ngân sách Hy Lạp luôn bội chi qua các năm

+ Chi xây dựng cơ sở hạ tầng lãng phí và bất hợp lý:

Sau khi gia nhập EU, Hy Lạp đã thu hút vốn đầu tư nước ngoài một cách dễ dàng, với chính phủ liên tục bán trái phiếu và thu về hàng trăm tỷ EUR Họ mạnh tay chi cho các hoạt động xây dựng cơ sở hạ tầng mà không chú ý đến kế hoạch trả nợ, điển hình là công tác chuẩn bị cho Thế vận hội Athens.

Thế vận hội Athens 2004 là sự kiện thể thao hoành tráng nhưng cũng tốn kém nhất trong lịch sử, với chi phí lên tới 12 tỉ EUR, vượt xa dự kiến 10 tỉ EUR Chính phủ Hy Lạp đã ghi nhận thâm hụt ngân sách quốc gia lên tới 6.1% GDP trong năm 2004, cao hơn nhiều so với giới hạn 3% mà Ủy ban châu Âu cho phép.

Các con số thống kê sai lệch:

Sự sai lệch trong thống kê của Hy Lạp đã che giấu khoản nợ khổng lồ lên đến 365 tỷ USD và thâm hụt ngân sách đạt 12,7% GDP Kể từ năm 2004, Hy Lạp đã tinh chỉnh số liệu thống kê của mình để đáp ứng tiêu chuẩn gia nhập Eurozone.

Cơ cấu vốn vay bất hợp lý:

Một điều đáng chú ý là sự chi tiêu lãng phí của Hy Lạp lại dựa trên một cơ cấu nợ bất hợp lý, khi mà hầu hết các khoản nợ của nước này là nợ ngắn hạn Điều này đã tạo ra áp lực tài chính lớn cho nền kinh tế Hy Lạp, khiến cho việc quản lý nợ trở nên khó khăn hơn.

Đầu năm 2010, nợ phải trả của nước này chiếm 16% tổng nợ, với tỷ lệ nợ công trên GDP đạt 108.1 Đến tháng 5/2010, khoản nợ đến hạn thanh toán là 8.5 tỉ EUR trái phiếu chính phủ Việc các khoản vay ngắn hạn chưa mang lại hiệu quả khiến chính phủ phải đối mặt với áp lực gia tăng trong việc trả nợ.

Sự thiếu đồng bộ giữa chính sách tài khóa và chính sách tiền tệ trong Eurozone gây ra nhiều thách thức Đồng tiền chung được quản lý bởi Ngân hàng Trung ương châu Âu (ECB) cùng với 16 ngân hàng trung ương của các quốc gia thành viên ECB thực hiện chính sách tiền tệ với mục tiêu kiểm soát lạm phát, tuy nhiên, sự khác biệt trong chính sách tài khóa giữa các quốc gia có thể ảnh hưởng đến hiệu quả chung của hệ thống.

Quy định này là nền tảng cho sự hình thành và ổn định đồng EUR, tuy nhiên, nó cũng đặt ra nhiều thách thức cho các chính phủ khi họ không thể sử dụng chính sách tiền tệ để hỗ trợ sự phát triển kinh tế Các quốc gia thành viên khu vực đồng EUR đã đồng thuận về một ngân hàng trung ương và một chính sách tiền tệ chung, nhưng lại không thống nhất về một chính sách thuế chung.

Mỗi quốc gia đều có nhà nước và ngân sách riêng, điều này là hợp lý nhưng cũng tạo ra rào cản cho khu vực đồng tiền chung Bởi vì chính sách tiền tệ và chính sách tài khóa luôn có mối liên hệ chặt chẽ với nhau.

Lãi suất trên thị trường tiền tệ được xác định bởi chính sách lãi suất của ECB, trong khi lãi suất trái phiếu chính phủ do bộ tài chính từng quốc gia quyết định, phụ thuộc vào chính sách tài khóa của họ Những quốc gia có năng lực cạnh tranh kém và thâm hụt ngân sách lớn thường phát hành trái phiếu chính phủ với lãi suất cao để ổn định kinh tế, dẫn đến nguy cơ khủng hoảng nợ do mất khả năng chi trả chỉ còn là vấn đề thời gian.

Khoản chi phúc lợi và an sinh xã hội của EU cao hơn nhiều so với các quốc gia khác, với tỷ lệ chiếm từ 20% đến 38,2% GDP Trong khi Mỹ chỉ dành 19,4% GDP cho phúc lợi với thu nhập bình quân đầu người là 34,320 USD, Nhật Bản cũng chỉ chi 18,6% trên thu nhập 25,130 USD/người Để tài trợ cho các khoản chi này, các nước EU phải tăng thuế, dẫn đến tỷ lệ thu thuế trên GDP dao động từ 30% đến 50%, cao hơn so với Mỹ (28,2%), Nhật (27,4%) và Canada (33,4%) EU áp dụng biểu thuế suất cao hơn, với thuế giá trị gia tăng trung bình trên 20%.

Mỹ và Hàn Quốc có tỷ lệ đầu tư khoảng 10%, trong khi Nhật Bản và Canada chỉ đạt 5% Điều này đã khiến EU trở thành điểm đến hấp dẫn cho việc tiêu dùng hơn là một môi trường thu hút các nhà đầu tư Lợi thế trong việc thu hút nguồn vốn nước ngoài của EU cũng bị ảnh hưởng từ tình hình này.

Là một thành viên của EU, Hy Lạp đối mặt với nhiều khó khăn trong các hoạt động kinh tế đối ngoại, không chỉ do các yếu tố bên ngoài mà còn từ sự cạnh tranh nội khối Với tư cách là một quốc gia nhỏ và nghèo tài nguyên, năng lực cạnh tranh của Hy Lạp bị giảm sút Mặc dù đã thiết lập tỷ lệ thu thuế và chi phúc lợi ở mức trung bình của khu vực đồng euro, nhưng điều này đã dẫn đến mức thâm hụt ngân sách gia tăng và áp lực nợ công ngày càng lớn.

2 Diễn biến khủng hoảng nợ công ở Hy Lạp

Cuộc khủng hoảng tài chính toàn cầu năm 2008 và suy thoái kinh tế đã ảnh hưởng nghiêm trọng đến các quốc gia sử dụng đồng EUR, đặc biệt là Hy Lạp Năm 2009, hầu hết các quốc gia trong Eurozone đều ghi nhận thâm hụt ngân sách trên 3%, trừ Luxembourg và Phần Lan, do thu nhập chính phủ giảm và các gói chi tiêu công lớn nhằm hỗ trợ tiêu dùng và thị trường tài chính.

Hình 1: Thâm hụt ngân sách của Hy Lạp và trung bình các nước trong EU giai đoạn 2001-2017

Cuộc khủng hoảng nợ bắt đầu vào tháng 12/2009 khi thủ tướng mới của đảng xã hội Hy Lạp, ông George A Papandreou, thông báo rằng người tiền

General government deficit (% of GDP) 2001-2017

Kinh nghiệm xử lý khủng hoảng cho các quốc gia khác

Hợp tác với các chủ nợ

Hy Lạp đã nhận được sự hỗ trợ quan trọng từ bộ ba chủ nợ gồm Liên minh châu Âu (EU), Ngân hàng trung ương châu Âu (ECB) và Quỹ tiền tệ quốc tế (IMF) thông qua ba gói cứu trợ từ năm 2010 đến nay, với tổng giá trị khoảng 289 tỷ EUR Những gói cứu trợ này đã giúp Hy Lạp bù đắp các khoản thâm hụt ngân sách trước đó, góp phần quan trọng trong việc đưa đất nước thoát khỏi khủng hoảng.

Để giải quyết khủng hoảng nợ công, bước đầu tiên là tìm kiếm nguồn vốn vay phù hợp và ổn định Trong bối cảnh nợ công trong nước đang ở mức nghiêm trọng, việc vay vốn từ các chủ nợ nội địa trở nên khó khăn Do đó, các quốc gia cần xem xét khả năng vay vốn từ nước ngoài như một giải pháp khả thi.

Nguồn vốn vay nên ưu tiên từ các quốc gia có quan hệ kinh tế, chính trị chặt chẽ, vì sự hợp tác này mang lại lợi ích cho các bên Khi một quốc gia gặp khủng hoảng, các đối tác có thể sẵn sàng cho vay để bảo vệ lợi ích chung, như trường hợp Hy Lạp nhận cứu trợ từ EU để ngăn chặn khủng hoảng nợ công lan rộng Sự sâu sắc trong quan hệ giữa các quốc gia gia tăng khả năng vay nợ để giải quyết khủng hoảng Tuy nhiên, việc tham gia vào các hiệp định thương mại hay tổ chức kinh tế có thể trở thành con dao hai lưỡi, vì nếu một quốc gia khác gặp khủng hoảng, nguy cơ thiệt hại cho nền kinh tế của mình là rất lớn.

Việc đánh giá tiềm năng của các chủ nợ, bao gồm tiềm lực kinh tế và độ tin cậy, là rất quan trọng Chủ nợ có tiềm lực kinh tế mạnh mẽ có khả năng cho vay số lượng lớn trong thời gian cần thiết để khắc phục khủng hoảng Tuy nhiên, không phải tất cả các chủ nợ có tiềm lực kinh tế đều là lựa chọn lý tưởng, vì nhiều quốc gia cho vay không chỉ nhằm mục đích cứu trợ Một ví dụ điển hình là Trung Quốc, một trong những nền kinh tế hàng đầu thế giới với dự trữ vốn khổng lồ Các quốc gia muốn vay vốn từ Trung Quốc cần hiểu rõ về các điều kiện vay, tránh rơi vào tình trạng “ngoại giao bẫy nợ” mà các nhà kinh tế hiện nay cảnh báo, dẫn đến việc cho vay để chiếm dụng đất đai.

Để vượt qua khủng hoảng, một quốc gia cần thiết lập các chính sách khắt khe làm nền tảng cho hoạt động và động lực phát triển Tuy nhiên, nếu các chính sách này chỉ dựa vào sự tự thực hiện của quốc gia, chúng có thể dẫn đến tác động ngược lại, đặc biệt khi người dân không chấp nhận hoặc Chính phủ không muốn gây mâu thuẫn Do đó, việc hợp tác với các chủ nợ trở thành giải pháp hiệu quả, giúp tạo áp lực cho Chính phủ thực hiện các chính sách cần thiết và đồng thời giám sát các hoạt động này một cách khách quan.

Hy Lạp và EU đã thực hiện tốt vai trò của mình trong việc thiết lập các điều khoản nghiêm ngặt và giám sát Hy Lạp thực hiện các yêu cầu này để nhận gói cứu trợ hàng tỷ đô la Tác động mạnh mẽ từ bên ngoài đã tạo động lực cho Chính phủ Hy Lạp.

Hy Lạp thay đổi và từng bước thoát khỏi khủng hoảng như hiện nay.

Các chính sách tài khóa

Khủng hoảng nợ công xuất phát từ sự mất cân đối giữa thu chi của Chính phủ Để khắc phục tình trạng này và trả nợ, Chính phủ phải đối mặt với lãi suất trái phiếu kỳ hạn 10 năm cao hơn mức trung bình của các quốc gia khác, đạt 4,3%.

Để đáp ứng các điều khoản của chủ nợ quốc tế và Liên minh châu Âu, Chính phủ Hy Lạp đã thực hiện các chính sách "thắt lưng buộc bụng" nghiêm ngặt Những điều khoản này đã được cụ thể hóa thông qua chính sách tài khóa của Hy Lạp, và đây là một mô hình mà các quốc gia khác nên tham khảo.

Duy trì mức thuế cao:

Theo mô hình đơn giản thì tổng thu nhập quốc dân đƣợc tính: YC+I+G+NX

Chi tiêu Chính phủ có ảnh hưởng tích cực đến tăng trưởng kinh tế, với chi tiêu dương dẫn đến sự phát triển Nguồn thu chủ yếu của Chính phủ đến từ thuế, vì vậy việc duy trì chính sách thuế cao là rất quan trọng để ổn định khủng hoảng nợ công Chính sách thuế cao giúp đảm bảo thặng dư cho cán cân chi tiêu Hy Lạp đã áp dụng chính sách thuế cao trên nhiều lĩnh vực, với thuế hàng hóa và dịch vụ tăng lên 13% và nhiều mặt hàng đạt 23% Thuế thu nhập cá nhân gần 45% và thuế doanh nghiệp 29% trong giai đoạn 2015-2018 đã phần nào giúp giải quyết vấn đề nợ của Chính phủ.

Tăng thuế thường dẫn đến tình trạng trốn thuế nghiêm trọng, như Hy Lạp đã trải qua từ 2010-2016, với lượng thuế thất thoát lên tới 30 tỷ USD mỗi năm Nếu số tiền này được thu hồi, Hy Lạp có thể đã thoát khỏi khủng hoảng sớm hơn Để ngăn chặn trốn thuế, Hy Lạp đã áp dụng biện pháp tăng cường công khai chi tiêu và trả lương, yêu cầu mọi giao dịch phải diễn ra qua tài khoản ngân hàng Việc này giúp phát hiện và quản lý các khoản thu chi bất thường, từ đó kiểm soát chặt chẽ tình trạng trốn thuế.

Cắt giảm phúc lợi xã hội:

Khoản chi lớn nhất của Chính phủ chủ yếu đến từ phúc lợi xã hội, vì vậy việc cắt giảm phúc lợi xã hội có thể giúp tăng thặng dư cho cán cân chi tiêu Một số danh mục có thể được cắt giảm bao gồm các chương trình phúc lợi và hỗ trợ xã hội.

Cải cách lương hưu thông qua việc cắt giảm lương hưu và kéo dài tuổi nghỉ hưu không chỉ giúp giảm chi cho Ngân sách Chính phủ mà còn tận dụng sức lao động của người dân Người cao tuổi sẽ có cơ hội tham gia lao động để tăng thu nhập, từ đó tạo ra giá trị thặng dư cho nền kinh tế và thúc đẩy tăng trưởng Biện pháp này đã giúp Chính phủ Hy Lạp cắt giảm 3,5% GDP cho chi phí lương hưu, giảm bớt gánh nặng tài chính cho nhà nước.

Mặc dù biện pháp này rất nghiêm ngặt và gây khó khăn cho cuộc sống của người dân, nhưng nó đã đóng vai trò quan trọng trong việc giúp Hy Lạp vượt qua khủng hoảng.

Cải cách tiền lương và việc làm trong lĩnh vực công là một biện pháp quan trọng giúp Chính phủ giảm bớt gánh nặng chi tiêu trong bối cảnh khủng hoảng nghiêm trọng Mặc dù việc cắt giảm lương và việc làm có thể dẫn đến gia tăng tỷ lệ thất nghiệp và nghèo đói, nhưng đây là một bước cần thiết để cứu vãn tình hình tài chính của Nhà nước Chính sách cải cách cần được thực hiện theo từng giai đoạn để tránh gây áp lực lớn cho Chính phủ Đồng thời, cần tạo điều kiện cho lực lượng lao động trong lĩnh vực công chuyển dịch sang các lĩnh vực có khả năng tạo ra thặng dư cho xã hội.

Cắt giảm toàn bộ các nguồn chi cho hoạt động công cộng không mang lại thặng dư cho nền kinh tế là giải pháp tạm thời để ổn định kinh tế, mặc dù điều này có thể ảnh hưởng đến chất lượng đời sống của người dân Việc chi cho các dự án không có lợi ích kinh tế đã dẫn đến thâm hụt nghiêm trọng trong cán cân chi tiêu của Chính phủ Hy Lạp, do đó cần cân nhắc kỹ lưỡng mọi khoản chi cho các dự án này Đối với các nền kinh tế đang phát triển, ưu tiên đầu tư vào các dự án mang lại lợi ích kinh tế cao hơn là phúc lợi xã hội Chi cho phúc lợi sẽ tăng theo sự phát triển của nền kinh tế, qua đó khuyến khích người dân tích cực lao động.

3 Kêu gọi được sự chấp thuận và đồng lòng của người dân

Cuộc khủng hoảng chỉ có thể được giải quyết khi người dân đồng thuận với các quyết sách của Chính phủ Tại Hy Lạp, các biện pháp thắt lưng buộc bụng từ EU đã gặp phải sự phản đối mạnh mẽ từ người dân, dẫn đến việc Chính phủ phải thay đổi lãnh đạo để tìm kiếm giải pháp Tuy nhiên, nhận thấy tình hình kinh tế khó khăn và nguy cơ phá sản, người dân Hy Lạp đã chấp nhận những chính sách khắt khe, đánh đổi với tỷ lệ thất nghiệp 28%, giảm 40% lương hưu và nhiều loại thuế cao.

Do đó, khi một Chính phủ lâm vào tình trạng khủng hoảng nợ công nghiêm trọng, họ cần có những động thái kịp thời sau đây:

Việc che giấu thông tin có thể gây ra bất ổn chính trị, làm cho nền kinh tế suy yếu thêm khó khăn trong việc phục hồi Chính phủ cần nhanh chóng công bố một phần thông tin về tình hình ngân sách hiện tại, giúp người dân hiểu rõ hơn về hoàn cảnh của đất nước và bản thân họ.

Khi nhận cứu trợ kèm theo các chính sách nghiêm ngặt, cần thiết phải có một bộ phận trong Chính phủ đảm nhận việc phân tích và truyền đạt thông tin cho người dân, nhằm giúp họ hiểu rõ lợi ích của các chính sách này đối với sự phát triển của đất nước.

Cần công bố một cách rõ ràng và chi tiết dự thảo kế hoạch cho những năm tiếp theo, giúp người dân nắm bắt thông tin và chủ động điều chỉnh cuộc sống của mình cho phù hợp.

Để đảm bảo an toàn cuộc sống cho người dân, các chính sách khắt khe cần phải có sự ưu tiên cho các lĩnh vực cơ bản như y tế, giáo dục và an ninh Điều này giúp người dân an tâm hơn về cuộc sống của mình và tạo nền tảng vững chắc cho sự phát triển bền vững của xã hội.

Cuộc khủng hoảng nợ công của Hy Lạp đã chỉ ra rằng mọi quốc gia đều có nguy cơ đối mặt với khủng hoảng nợ công Để tránh tình trạng này, các nước cần thực hiện đánh giá sâu sắc về nợ công, nợ nước ngoài, nợ chính phủ bảo lãnh và nợ doanh nghiệp nhà nước Việc mất cân đối ngân sách, chi tiêu vượt quá thu nhập, dự toán ngân sách không chính xác, cùng với việc không tuân thủ kỷ luật tài khóa, đầu tư công kém hiệu quả, và gia tăng nợ nước ngoài của doanh nghiệp nhà nước sẽ dễ dẫn đến khủng hoảng nợ công trong tương lai.

Ngày đăng: 11/10/2022, 06:57

Nguồn tham khảo

Tài liệu tham khảo Loại Chi tiết
1. Nguyễn Chiến, 2013, Bài học đắt giá từ ba cuộc khủng hoảng nợ công, 31 July, Báo điện tử Chính phủ nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam http://baochinhphu.vn/Quoc-te/Bai-hoc-dat-gia-tu-3-cuoc-khung-hoang-no-cong/177840.vgp Sách, tạp chí
Tiêu đề: Bài học đắt giá từ ba cuộc khủng hoảng nợ công
Tác giả: Nguyễn Chiến
Nhà XB: Báo điện tử Chính phủ nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam
Năm: 2013
4. Arghyrou, MG, Tsoukalas, JD 2011, „The Greek Debt Crisis: Likely Causes, Mechanics and Outcomes‟, The World Economy, Volume 34, Issue 2, pp Sách, tạp chí
Tiêu đề: The Greek Debt Crisis: Likely Causes, Mechanics and Outcomes
Tác giả: MG Arghyrou, JD Tsoukalas
Nhà XB: The World Economy
Năm: 2011
5. Kaplanoglou, G & Rapanos, V 2011, „The Greek Fiscal Crisis and the Role of Fiscal Governnance’, GreeSE Paper, No. 48, pp.15-34, truy cập ngày 19/09/2018, Greece and Southeast Europe Sách, tạp chí
Tiêu đề: The Greek Fiscal Crisis and the Role of Fiscal Governance
Tác giả: Kaplanoglou, G, Rapanos, V
Nhà XB: GreeSE Paper
Năm: 2011
6. Mislav, B 2016, „Greek Sovereign Debt Crisis: Causes, Fiscal Adjustment Programs and Lessons for Croatia‟, Croatian Economic Survey, Vol.18, No.1, pp. 71-99, truy cập ngày 18/09/2018 Sách, tạp chí
Tiêu đề: Greek Sovereign Debt Crisis: Causes, Fiscal Adjustment Programs and Lessons for Croatia
Tác giả: Mislav, B
Nhà XB: Croatian Economic Survey
Năm: 2016
7. O'Brien, M 2015, „Greece crisis explained: 7 key points on what happens now the Greeks have voted 'No'‟, The Independent online, truy cập ngày 18/09/2018 Sách, tạp chí
Tiêu đề: Greece crisis explained: 7 key points on what happens now the Greeks have voted 'No'
Tác giả: O'Brien, M
Nhà XB: The Independent online
Năm: 2015
2. Timothy C. Irwin, 2015, Defining the Government‟s Debt and Deficit (summary), 20 November, IMF Working papers No.15/238, p.36, https://www.imf.org/en/Publications/WP/Issues/2016/12/31/Defining-the-Governments-Debt-and-Deficit-43408 Link
3. Timothy C. Irwin, 2015, Defining the Government‟s Debt and Deficit (full), 20 November, IMF Working paper No. 15/238,https://www.imf.org/external/pubs/ft/wp/2015/wp15238.pdf Link

HÌNH ẢNH LIÊN QUAN

Hình 1: Thâm hụt ngân sách của Hy Lạp và trung bình các nƣớc trong EU giai đoạn 2001-2017 - (Tiểu luận FTU) khủng hoảng nợ công ở hy lạp và kinh nghiệm đối phó với khủng hoảng nợ công
Hình 1 Thâm hụt ngân sách của Hy Lạp và trung bình các nƣớc trong EU giai đoạn 2001-2017 (Trang 19)
Hình 2 Nợ công của Hy Lạp (%GDP) giai đoạn 2001-2017 - (Tiểu luận FTU) khủng hoảng nợ công ở hy lạp và kinh nghiệm đối phó với khủng hoảng nợ công
Hình 2 Nợ công của Hy Lạp (%GDP) giai đoạn 2001-2017 (Trang 20)
Hình 3 Lãi suất trái phiếu chính phủ kì hạn 10 năm của Hy Lạp (%) giai đoạn 2001-2017 - (Tiểu luận FTU) khủng hoảng nợ công ở hy lạp và kinh nghiệm đối phó với khủng hoảng nợ công
Hình 3 Lãi suất trái phiếu chính phủ kì hạn 10 năm của Hy Lạp (%) giai đoạn 2001-2017 (Trang 21)
Hình 4 Thâm hụt ngân sách cơ bản của chính phủ Hy Lạp (%GDP) 2002- 2002-2006 - (Tiểu luận FTU) khủng hoảng nợ công ở hy lạp và kinh nghiệm đối phó với khủng hoảng nợ công
Hình 4 Thâm hụt ngân sách cơ bản của chính phủ Hy Lạp (%GDP) 2002- 2002-2006 (Trang 23)
Hình 5 Biến động tỷ giá USD/EUR 2004-2016 - (Tiểu luận FTU) khủng hoảng nợ công ở hy lạp và kinh nghiệm đối phó với khủng hoảng nợ công
Hình 5 Biến động tỷ giá USD/EUR 2004-2016 (Trang 27)
Hình 6 Tỷ lệ nợ trên tổng GDP của Hy Lạp và EU qua các năm - (Tiểu luận FTU) khủng hoảng nợ công ở hy lạp và kinh nghiệm đối phó với khủng hoảng nợ công
Hình 6 Tỷ lệ nợ trên tổng GDP của Hy Lạp và EU qua các năm (Trang 32)

TRÍCH ĐOẠN

TÀI LIỆU CÙNG NGƯỜI DÙNG

TÀI LIỆU LIÊN QUAN

w