1. Trang chủ
  2. » Giáo Dục - Đào Tạo

(Tiểu luận FTU) nghiên cứu một số cuộc khủng hoảng nợ công trên thế giới và bài học cho việt nam (1)

73 3 0

Đang tải... (xem toàn văn)

Tài liệu hạn chế xem trước, để xem đầy đủ mời bạn chọn Tải xuống

THÔNG TIN TÀI LIỆU

Thông tin cơ bản

Tiêu đề Nghiên Cứu Một Số Cuộc Khủng Hoảng Nợ Công Trên Thế Giới Và Bài Học Cho Việt Nam
Tác giả Nhóm 26
Người hướng dẫn TS Nguyễn Thị Lan
Trường học Trường Đại Học Ngoại Thương
Chuyên ngành Tài Chính Ngân Hàng
Thể loại tiểu luận
Năm xuất bản 2017
Thành phố Hà Nội
Định dạng
Số trang 73
Dung lượng 887,53 KB

Cấu trúc

  • CHƯƠNG 1: TỔNG QUAN NGHIÊN CỨU, CƠ SỞ LÝ THUYẾT VÀ PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU (6)
    • 1.1 Tổng quan nghiên cứu trong nước và ở nước ngoài (6)
    • 1.2 Cơ sở phân tích (8)
      • 1.2.1 Khái niệm về nợ công (8)
      • 1.2.2 Phân loại nợ công (10)
      • 1.2.3 Chỉ tiêu xác định tình trạng nợ công và ngưỡng an toàn của nợ công 11 (11)
      • 1.2.4 Tác động của nợ công đến nền kinh tế (11)
    • 1.3 Phương pháp nghiên cứu (19)
      • 1.3.1 Рhương рháр nghiên cứu lý thuyết (19)
      • 1.3.2 Рhương рháр thu thậр dữ liệu (19)
  • CHƯƠNG 2: KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU CÁC CUỘC KHỦNG HOẢNG NỢ CÔNG TRONG QUÁ KHỨ VÀ THẢO LUẬN (21)
    • 2.1 Cuộc khủng hoảng ở Mỹ Latinh những năm 1980 (21)
    • 2.2 Cuộc khủng hoảng tài chính Đông Á những năm 1990 (28)
      • 2.2.1 Nguyên nhân khủng hoảng (28)
      • 2.2.2 Tình hình kinh tế (34)
      • 2.2.3 Phản ứng chính sách (39)
    • 2.3 Cuộc khủng hoảng nợ công Hy Lạp (40)
      • 2.3.1 Nguyên nhân khủng hoảng (40)
      • 2.3.2 Diễn biến và biện pháp cho cuộc khủng hoảng tài chính công ở châu Âu (46)
      • 2.3.3 Tác động và hậu quả của cuộc khủng hoảng nợ công ở Hy Lạp. 48 (48)
    • 2.4 Thảo luận (51)
  • CHƯƠNG 3: TÌNH HÌNH NỢ CÔNG Ở VIỆT NAM VÀ KIẾN NGHỊ GIẢI PHÁP (54)
    • 3.1 Tình hình nợ công tại Việt Nam (54)
      • 3.1.1 Về quy mô nợ công (54)
      • 3.1.2 Cơ cấu nợ công (55)
      • 3.1.3 Tình hình sử dụng nợ công (57)
    • 3.2 Nguyên nhân nợ công Việt Nam gia tăng thời gian qua (57)
    • 3.3 Kiến nghị giải pháp (61)
      • 3.3.1 Nâng cao hiệu quả kinh tế (61)
      • 3.3.2 Phát triển thị trường nợ trong nước (63)
      • 3.3.3 Minh bạch trong việc công bố các khoản vay (64)
      • 3.3.4 Một số biện pháp khác (67)
  • KẾT LUẬN (70)
  • TÀI LIỆU THAM KHẢO (72)

Nội dung

TỔNG QUAN NGHIÊN CỨU, CƠ SỞ LÝ THUYẾT VÀ PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU

Tổng quan nghiên cứu trong nước và ở nước ngoài

Nợ công ở mức hợp lý có thể cải thiện phúc lợi xã hội và thúc đẩy tăng trưởng kinh tế Tuy nhiên, nợ quá nhiều sẽ làm giảm khả năng của chính phủ trong việc cung cấp dịch vụ thiết yếu cho người dân, dẫn đến khủng hoảng nợ công, điều mà các quốc gia đều muốn tránh.

Vấn đề nợ công và khủng hoảng nợ công đã thu hút sự chú ý của nhiều nhà khoa học trong và ngoài nước, với các cuộc khủng hoảng trong quá khứ cung cấp bài học quý giá cho cả các quốc gia bị ảnh hưởng lẫn những quốc gia tiềm ẩn nguy cơ Việc xem xét lại lịch sử và phân tích các dấu hiệu, nguyên nhân gây ra khủng hoảng nợ công là cần thiết trong bối cảnh kinh tế hiện tại và tương lai, khi mà sự biến động ngày càng khó lường Nhiều nghiên cứu đã được thực hiện để nhận diện các dấu hiệu và nguyên nhân của khủng hoảng nợ công Dưới đây là những phân tích khái quát về một số kết quả nghiên cứu nổi bật đã được công bố.

Theo Reihart và Rogoff (2010), ngưỡng nợ nguy hiểm là mức nợ công trên GDP vượt quá 90%, dẫn đến nguy cơ khủng hoảng nợ và bất ổn vĩ mô Nghiên cứu trên 44 nền kinh tế phát triển trong hai thế kỷ cho thấy, đối với các nền kinh tế đang phát triển, khi nợ nước ngoài chiếm hơn 60% GDP, quốc gia đó cũng rơi vào tình trạng nợ nguy hiểm.

Theo nghiên cứu của Caner, Grennes và Koehler-Geib (2011), ngưỡng nợ nguy hiểm được xác định là 77% GDP cho 101 quốc gia trong giai đoạn 1980-2008, bao gồm 75 quốc gia đang phát triển và 26 quốc gia phát triển Đặc biệt, đối với các quốc gia đang phát triển, ngưỡng nợ nguy hiểm trung bình là 64% GDP.

Theo nghiên cứu của Caner, Grennes và Koehler-Geib, mặc dù ngưỡng nợ nguy hiểm trung bình của các quốc gia có sự khác biệt so với các tính toán của Reinhart và Rogoff, nhưng ngưỡng nợ nguy hiểm trung bình ở các nước đang phát triển lại khá tương đồng.

Theo nghiên cứu của Kumar và Woo (2010) về 38 nền kinh tế trong 4 thập kỷ, nợ công vượt quá 90% GDP có thể ảnh hưởng tiêu cực đến tăng trưởng kinh tế Tác động này mạnh mẽ hơn ở các nền kinh tế đang phát triển, với mức giảm tăng trưởng từ 0,3 - 0,4% so với 0,15 - 0,2% ở các nền kinh tế phát triển khi nợ công tăng thêm 10% Hơn nữa, nợ công cao còn gia tăng rủi ro và có thể dẫn đến khủng hoảng nợ công.

Nghiên cứu của Presbitero (2010) cho thấy rằng, dựa trên số liệu thống kê tổng nợ công ở 92 quốc gia thu nhập thấp và trung bình từ 1990 đến 2007, khi nợ công đạt khoảng 90% GDP, nền kinh tế sẽ đối mặt với nhiều khó khăn trong tăng trưởng và có nguy cơ cao về khủng hoảng nợ công.

Theo công trình nghiên cứu năm 2010 của cơ quan nghiên cứu kinh tế quốc gia Mỹ (NBER) khảo sát 44 quốc gia, khi tỉ lệ nợ/ GDP vượt ngưỡng

90% thì sẽ tác động xấu đến tăng trưởng kinh tế, gây ra khủng hoảng nợ công và sẽ làm giảm 4% tăng trưởng kinh tế của quốc gia đó.

Cơ sở phân tích

Hiện nay, trên thế giới có nhiều định nghĩa khác nhau về nợ công, phản ánh mục đích và phạm vi sử dụng của từng tổ chức và quốc gia.

Theo Ngân hàng Thế giới (WB), nợ công bao gồm toàn bộ các khoản nợ của Chính phủ và những khoản nợ mà Chính phủ đứng ra bảo lãnh.

Nợ của Chính phủ bao gồm nợ trong nước và nợ nước ngoài, phát sinh từ Chính phủ và các đại lý của Chính phủ, cũng như từ các tỉnh, thành phố, tổ chức chính trị trực thuộc và các doanh nghiệp Nhà nước.

- Nợ của Chính phủ bảo lãnh: gồm những khoản nợ trong nước và nợ nước ngoài của khu vực tư nhân do Chính phủ đứng ra bảo lãnh.

Theo Quỹ Tiền tệ Quốc tế (IMF), nợ công bao gồm nợ của khu vực tài chính công và nợ của khu vực phi tài chính công.

Khu vực tài chính công bao gồm các tổ chức tiền tệ như ngân hàng trung ương và các tổ chức tín dụng nhà nước, cùng với các tổ chức phi tiền tệ, những đơn vị không cho vay mà chỉ thực hiện chức năng hỗ trợ phát triển.

Nợ công, theo quan điểm của các tổ chức quốc tế như WTO, IMF và Diễn đàn thương mại phát triển Liên hợp quốc, có phạm vi bao quát hơn so với quy định của Việt Nam, vì nó bao gồm cả nợ của Ngân hàng Trung ương và các tổ chức độc lập có vốn Nhà nước chiếm trên 50%.

Theo luật quản lý nợ công Việt Nam ban hành năm 2009, nợ công bao gồm nợ chính phủ, nợ được chính phủ bảo lãnh và nợ của chính quyền địa phương Nợ chính phủ phát sinh từ các khoản vay trong nước và nước ngoài được ký kết nhân danh nhà nước hoặc chính phủ, không bao gồm nợ do Ngân hàng Nhà nước phát hành nhằm thực hiện chính sách tiền tệ Nợ được chính phủ bảo lãnh là khoản nợ của doanh nghiệp và tổ chức kinh tế mà chính phủ đứng ra bảo lãnh Nợ chính quyền địa phương là khoản nợ do Ủy ban nhân dân cấp tỉnh hoặc thành phố phát hành Các khoản vay như ODA, trái phiếu chính phủ và vay nợ nước ngoài được chính phủ bảo lãnh đều được xem là nợ công.

Nợ chính phủ thường được sử dụng để tài trợ cho thâm hụt ngân sách, do đó, có thể hiểu nợ chính phủ là tổng thâm hụt ngân sách tích lũy đến một thời điểm nhất định Để đánh giá quy mô nợ chính phủ, người ta thường so sánh khoản nợ này với tổng sản phẩm quốc nội (GDP) theo tỷ lệ phần trăm.

Nợ chính phủ đóng vai trò quan trọng trong tổng nợ công của một quốc gia, ảnh hưởng sâu sắc đến nền kinh tế Ngược lại, nợ của chính quyền địa phương thường chiếm tỷ trọng nhỏ hơn, do ngân sách địa phương chủ yếu phụ thuộc vào hỗ trợ từ trung ương Hơn nữa, pháp luật quy định nghiêm ngặt tỷ lệ nợ mà chính quyền địa phương có thể vay so với ngân sách được cấp, cũng như nguồn vay và mục đích sử dụng.

Nợ công hình thành khi chi tiêu của chính phủ vượt quá thu nhập từ thuế và các khoản phí Để bù đắp cho thâm hụt ngân sách, Nhà nước phải vay mượn, cả trong nước lẫn quốc tế Những khoản vay này cần được hoàn trả cả gốc lẫn lãi, dẫn đến việc Nhà nước sẽ phải tăng thuế để đảm bảo khả năng chi trả.

Nợ công thực chất là một hình thức đánh thuế được hoãn lại, cho phép chính phủ tài trợ cho các hoạt động chi ngân sách hiện tại Điều này dẫn đến việc chuyển giao của cải từ thế hệ tương lai, những người sẽ phải chịu thuế cao hơn, sang thế hệ hiện tại, những người được hưởng lợi từ mức thuế thấp hơn Từ góc độ này, có hai quan điểm cơ bản về nợ công cần được xem xét.

Nợ công, hay còn gọi là nợ Chính phủ hoặc nợ quốc gia, là tổng giá trị các khoản vay của Chính phủ từ trung ương đến địa phương nhằm bù đắp cho thâm hụt ngân sách Nói cách khác, nợ Chính phủ phản ánh thâm hụt ngân sách lũy kế tại một thời điểm nhất định Để hiểu rõ hơn về quy mô nợ công, người ta thường so sánh nó với tổng sản phẩm quốc nội (GDP) và tính toán tỷ lệ phần trăm tương ứng.

Nợ nước ngoài bao gồm tổng các khoản nợ của Chính phủ, nợ được Chính phủ bảo lãnh, cũng như nợ của doanh nghiệp và tổ chức khác vay theo hình thức tự vay, tự trả theo quy định của pháp luật Việt Nam.

 Theo phương thức huy động của Chính phủ:

- Các khoản nợ huy động bằng phát hành trái phiếu: loại trái phiếu do

Bộ Tài chính phát hành nhằm huy động vốn cho ngân sách nhà nước hoặc huy động vốn cho công trình, dự án đầu tư cụ thể.

- Nợ do Chính phủ bảo lãnh: khoản nợ của doanh nghiệp, tổ chức tài chính, tín dụng vay trong nước, nước ngoài được Chính phủ bảo lãnh.

Nợ ODA là khoản vay do Nhà nước và Chính phủ Việt Nam nhận từ các nhà tài trợ nước ngoài, bao gồm chính phủ, tổ chức tài trợ song phương, tổ chức liên quốc gia hoặc tổ chức liên chính phủ Đặc điểm nổi bật của nợ ODA là có yếu tố không hoàn lại, với mức ưu đãi tối thiểu là 35% cho khoản vay có ràng buộc và 25% cho khoản vay không ràng buộc.

Theo tính chất ưu đãi của khoản nợ:

- Các khoản nợ thương mại: khoản vay theo điều kiện thị trường.

Các khoản nợ ưu đãi là những khoản vay có điều kiện tốt hơn so với vay thương mại, tuy nhiên, các yếu tố ưu đãi của chúng chưa đủ tiêu chuẩn để được xem là vay ODA.

1.2.3 Chỉ tiêu xác định tình trạng nợ công và ngưỡng an toàn của nợ công

Phương pháp nghiên cứu

Đề tài tổng hợр, рhân tích, khái quát hóa lí luận và những nghiên cứu liên quan để хác định khung lý thuyết cho đề tài.

1.3.2 Рhương рháр thu thậр dữ liệu

Nhóm nghiên cứu đã tiến hành thu thậр dữ liệu từ các nguồn chính thống và có tính хác thực cao Cụ thể là:

Bài viết sử dụng số liệu về thâm hụt ngân sách và nợ công tại Việt Nam, chủ yếu từ trang web của Bộ Tài chính, các Bản tin nợ công 1 – 5, Báo cáo tình hình thực hiện NSNN và Bản tin Nợ nước ngoài 1– 7 Ngoài ra, nhóm nghiên cứu còn tổng hợp dữ liệu từ Niên giám thống kê hàng năm, Sở giao dịch chứng khoán Hà Nội (HNX), Ngân hàng phát triển châu Á (ADB) và một số nguồn chính thống khác.

Nghiên cứu này sử dụng số liệu thứ cấp từ năm 2017 trở về trước, bao gồm các chỉ tiêu như tốc độ tăng trưởng GDP, nợ nước ngoài, tiết kiệm, cán cân tài khoản vãng lai, sự hình thành tổng vốn cố định, lãi suất thực, lạm phát và độ mở thương mại, được thu thập từ IMF và WB Đối tượng nghiên cứu là nhóm các nước mới nổi và đang phát triển, với trọng tâm là bốn quốc gia cụ thể Phương pháp phân tích số liệu kết hợp cả định tính và định lượng, nhằm cung cấp cái nhìn toàn diện về tình hình kinh tế của các quốc gia này.

Phương pháp đối chiếu và so sánh được áp dụng để phân tích thực trạng, xu hướng biến động và tính bền vững của nợ công tại Việt Nam Thông qua việc sử dụng bộ số liệu thu thập được, đề tài sẽ tiến hành so sánh với các quốc gia đã chọn, nhằm đánh giá một cách cụ thể và chi tiết hơn về tình hình nợ công của Việt Nam.

- Рhương рháр tổng kết kinh nghiệm: Đề tài tổng kết kinh nghiệm хử lý nợ công tại bốn quốc gia có nhiều nét tương đồng với Việt Nam.

KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU CÁC CUỘC KHỦNG HOẢNG NỢ CÔNG TRONG QUÁ KHỨ VÀ THẢO LUẬN

Cuộc khủng hoảng ở Mỹ Latinh những năm 1980

Cuộc khủng hoảng nợ công ở Mỹ Latinh trong những năm 1980 có nguồn gốc từ thập niên 1970 và được xem là thảm họa lớn nhất trong lịch sử khu vực này, đồng thời là cuộc khủng hoảng nợ công đầu tiên trong kinh tế thế giới hiện đại Trong giai đoạn này, các quốc gia lớn như Brazil, Argentina và Mexico đã phát triển mạnh mẽ nhờ vào việc vay nợ nước ngoài quy mô lớn, với nguồn vốn này được sử dụng để nâng cấp, phát triển công nghiệp và cải thiện cơ sở hạ tầng trong nước.

Mô hình công nghiệp hóa tại khu vực Mỹ Latinh đã phải đối mặt với nhiều chỉ trích từ các nhà kinh tế và chính trị gia trong những năm 1960 (Hirschman, 1971; Fishlow, 1988; Love, 1994).

Các nhà kinh tế chỉ ra rằng mô hình can thiệp của nhà nước quá nhiều và thiếu tự do thị trường dẫn đến sự không hiệu quả, thể hiện qua việc tăng thuế và áp dụng hàng rào mậu dịch hạn chế nhập khẩu Ngược lại, các chính trị gia chỉ trích nền kinh tế yếu kém trong việc giảm phụ thuộc vào bên ngoài và nhấn mạnh rằng sự mất cân bằng xã hội vẫn là di sản từ quá khứ Hirschman (1971) không đồng tình với quan điểm của chính trị gia, nhưng cũng cho rằng mô hình công nghiệp hóa ở Mỹ Latinh chỉ làm tăng sản xuất mà không thay đổi được trật tự xã hội.

Theo thời gian, sự yếu kém của mô hình kinh tế đã ảnh hưởng đến tất cả các lĩnh vực, đặc biệt là ở nhóm quốc gia Southern Cone (Argentina, Chile, Paraguay, Uruguay), nơi chứng kiến sự thay đổi xã hội đi kèm với tốc độ tăng trưởng chậm lại Fishlow (1988) chỉ ra rằng nguyên nhân chính là do các quốc gia này duy trì chế độ quân chủ độc tài trong quá trình chuyển dịch sang nền kinh tế thị trường, dẫn đến mâu thuẫn giữa tự do thị trường và sự can thiệp của chính phủ Trong khi đó, khu vực Trung Mỹ, trung tâm của cuộc khủng hoảng những năm 1980, đối mặt với vấn đề về sở hữu đất nông nghiệp và áp dụng mô hình tăng trưởng phụ thuộc vào xuất khẩu, thay vì mô hình công nghiệp hóa do nhà nước dẫn dắt (Bertola & Ocampo, 2012).

Colombia là một ví dụ điển hình về mâu thuẫn xã hội, bắt nguồn từ sự mất cân bằng trong sở hữu ruộng đất sau chiến tranh thế giới thứ hai Tình trạng này đã trở nên nghiêm trọng hơn vào thập niên 80 và 90 do sự can thiệp của giới buôn lậu.

Không phải tất cả các quốc gia Mỹ Latinh đều gặp khó khăn trong điều hành kinh tế vĩ mô, mà vấn đề này chủ yếu xảy ra ở Brazil và các quốc gia Southern Cone trước thập niên 70 Tuy nhiên, hầu hết các quốc gia Mỹ Latinh đã trải qua tình trạng thâm hụt ngân sách gia tăng trong giai đoạn cuối của mô hình công nghiệp hóa do nhà nước dẫn dắt Nguyên nhân chính là sự mất cân bằng trong cán cân thương mại và nhu cầu đầu tư tăng cao, điều này đã thúc đẩy các quốc gia này tích cực vay mượn từ nước ngoài.

Biểu đồ dưới đây cho thấy rõ ràng rằng từ đầu những năm 1960, trong suốt hai thập kỷ, mô hình công nghiệp hóa đã được áp dụng Mặc dù thường xuyên gặp phải thâm hụt thương mại, nhưng mức tăng trưởng trung bình hàng năm trong giai đoạn này vẫn đạt khoảng 5%.

Cuối thập niên 70 đến giữa thập niên 80, tăng trưởng kinh tế bắt đầu suy giảm, thậm chí có giai đoạn tăng trưởng âm Mặc dù trong thập niên 80 có thặng dư thương mại, nhưng sự phục hồi của tăng trưởng kinh tế vẫn không thể đạt được mức như hai thập niên trước.

Hình 4 Biểu đồ tăng trưởng GDP và cán cân thương mại tại Mỹ Latinh

Từ năm 1961 đến 2010, theo dữ liệu từ Ngân hàng Thế giới, tỷ lệ nhập siêu đã gia tăng đáng kể do các quốc gia tăng cường nhập khẩu nguyên vật liệu và công nghệ sản xuất từ nước ngoài nhằm đạt được mục tiêu công nghiệp hóa.

Sự gia tăng nhu cầu về nguồn vốn của chính phủ đã khiến nhiều quốc gia vay nợ từ các quốc gia phát triển và các tổ chức tài chính quốc tế.

Hình 5 Biểu đồ nợ nước ngoài tại các quốc gia Mỹ Latinh 1970-2010

(%GNI) (Nguồn: World Bank Database)

Việc vay nợ nước ngoài quy mô lớn tiềm ẩn nhiều rủi ro và không thể kéo dài mãi Năm 1979, Mỹ thực hiện chính sách thắt chặt, làm tăng lãi suất, và các quốc gia châu Âu cũng gặp tình trạng tương tự, dẫn đến dòng vốn đầu tư toàn cầu chảy ngược khỏi các quốc gia đang phát triển Lãi suất gia tăng khiến nghĩa vụ nợ tại các quốc gia Mỹ Latinh tăng lên, trong khi khả năng trả nợ của họ chủ yếu phụ thuộc vào xuất khẩu Suy thoái kinh tế đầu những năm 1980 đã thu hẹp thương mại quốc tế và làm giảm giá hàng hóa, đặc biệt là nguyên liệu thô, khiến nguồn thu từ xuất khẩu của các quốc gia này sụt giảm mạnh.

Từ năm 1975 đến 1982, nợ công của các nước Latinh đối với các tổ chức tài chính và ngân hàng thế giới tăng nhanh chóng, với tỉ lệ hàng năm đạt 20% Tổng số nợ đã tăng từ 75 tỉ USD vào năm 1975 lên hơn 315 tỉ USD vào năm 1983 Đặc biệt, việc thanh toán lãi suất và trả vốn gốc cũng tăng mạnh từ 12 tỉ USD lên 66 tỉ USD vào năm 1982 (The Berge 1999).

Nhiều tổ chức tài chính và ngân hàng toàn cầu đang từ chối hoặc cắt giảm cho vay đối với các quốc gia ở châu Mỹ Latinh Điều này dẫn đến việc chính phủ các nước này chủ yếu phải vay ngắn hạn, gây khó khăn trong việc thanh toán nợ khi các tổ chức cho vay không đồng ý gia hạn khoản vay.

Hàng tỉ USD đang đến hạn thanh toán, dẫn đến việc các dòng vốn nhanh chóng rút lui khỏi khu vực và khiến nhiều quốc gia không thể vay thêm.

Tăng trưởng kinh tế khu vực phụ thuộc nhiều vào đầu tư nước ngoài, với tỷ lệ đầu tư sau chiến tranh thế giới thứ hai chỉ khoảng 20% GDP, tăng lên gần 25% trong giai đoạn 1975-1980 Tuy nhiên, thập niên 80 chứng kiến khủng hoảng toàn khu vực, khiến tỷ lệ đầu tư giảm mạnh xuống gần 19% trong thập niên 90 và tiếp tục giảm còn khoảng 18% trong thập niên tiếp theo, cho thấy sự gia tăng của vốn vay nước ngoài trong bối cảnh khủng hoảng nợ.

Cuộc khủng hoảng tài chính Đông Á những năm 1990

Cuộc khủng hoảng tài chính Đông Á khởi đầu vào năm 1997, khi đồng Bath Thái Lan mất giá mạnh Sự kiện này được xem là cuộc khủng hoảng nghiêm trọng nhất tại các quốc gia đang phát triển kể từ cuộc khủng hoảng nợ trước đó.

Cuộc khủng hoảng kinh tế bắt đầu từ năm 1982 tại Mỹ Latinh đã lan rộng sang hầu hết các quốc gia Đông Á, ảnh hưởng từ Thái Lan đến Nhật Bản, Hàn Quốc, Hong Kong và các nước Đông Nam Á như Indonesia, Malaysia và Philippines Mặc dù các quốc gia như Trung Quốc, Ấn Độ, Đài Loan, Singapore và Việt Nam ít bị ảnh hưởng hơn, nhưng họ cũng phải đối mặt với nhiều tác động tiêu cực từ cuộc khủng hoảng này.

Nền tảng kinh tế vĩ mô yếu kém

Thái Lan và một số quốc gia Đông Nam Á đã nỗ lực áp dụng Bộ ba chính sách không thể đồng thời, bao gồm việc cố định giá trị đồng tiền vào Dollar Mỹ và cho phép tự do lưu chuyển vốn Sự kết hợp này đã góp phần thúc đẩy tăng trưởng kinh tế nhanh chóng trong khu vực Đông Nam Á trong thập niên qua.

Trong giai đoạn từ 1980 đến nửa đầu thập niên 1990, áp lực tăng giá nội tệ đã dẫn đến việc các ngân hàng trung ương Đông Nam Á thực hiện chính sách tiền tệ nới lỏng để bảo vệ tỷ giá cố định Hậu quả của chính sách này là cung tiền tăng, gây ra sức ép lạm phát Để đối phó với tình trạng này, chính sách vô hiệu hóa đã được áp dụng, mặc dù nó vô hình trung đã thúc đẩy dòng vốn chảy vào nền kinh tế.

Vào giữa thập niên 1990, Hàn Quốc có nền tảng kinh tế vĩ mô tương đối tốt, nhưng đồng Won Hàn Quốc liên tục tăng giá so với Dollar Mỹ từ sau năm 1987, dẫn đến suy yếu tài khoản vãng lai do giá hàng xuất khẩu tăng Trong bối cảnh này, Hàn Quốc áp dụng chế độ tỷ giá hối đoái neo lỏng lẻo và chính sách tự do hóa tài khoản vốn, khiến thâm hụt tài khoản vãng lai được bù đắp bằng việc các ngân hàng vay nợ nước ngoài, chủ yếu là nợ ngắn hạn và nợ không tự bảo hiểm rủi ro.

Năm 1994, nhà kinh tế Paul Krugman từ trường đại học Princeton đã chỉ trích ý tưởng về "thần kỳ kinh tế Đông Á" trong một bài báo, cho rằng sự tăng trưởng kinh tế của khu vực này chủ yếu xuất phát từ đầu tư tư bản, dẫn đến sự gia tăng năng suất lao động.

Năng suất tổng nhân tố chỉ được cải thiện ở mức độ rất nhỏ và hầu như không thay đổi Krugman cho rằng sự gia tăng năng suất tổng nhân tố mà không cần đầu tư vốn vẫn có thể mang lại thịnh vượng lâu dài Mặc dù nhiều người coi Krugman như một nhà tiên tri sau khủng hoảng tài chính, ông cũng thừa nhận rằng ông không dự đoán được cơn khủng hoảng hay mức độ nghiêm trọng của nó.

Các dòng vốn nước ngoài chảy vào

Cuối thập niên 1980, chính sách tiền tệ nới lỏng và tự do hóa tài chính tại Mỹ, châu Âu và Nhật Bản đã tạo ra sự gia tăng thanh khoản toàn cầu Các nhà đầu tư từ những trung tâm tài chính này đã chuyển vốn ra nước ngoài để điều chỉnh danh mục đầu tư Đồng thời, nhiều quốc gia châu Á áp dụng chính sách tự do hóa tài khoản vốn, với lãi suất cao hơn so với các nước phát triển, dẫn đến dòng vốn quốc tế đổ vào châu Á mạnh mẽ Cụ thể, vốn đầu tư gián tiếp nước ngoài vào Thái Lan đã tăng từ 924 triệu USD (0,8% GDP) lên khoảng 4,6 tỷ USD (3% GDP) theo số liệu của IMF.

Các chính sách đầu tư và bảo hộ của chính phủ đã khuyến khích các công ty châu Á chấp nhận rủi ro khi vay ngân hàng, trong khi các ngân hàng cũng mạo hiểm vay vốn từ nước ngoài, chủ yếu là nợ ngắn hạn và nợ không có bảo hiểm rủi ro Hiện tượng thông tin phi đối xứng đã dẫn đến lựa chọn nghịch và rủi ro đạo đức trong hệ thống tài chính.

Tấn công đầu cơ và rút vốn đồng loạt

Nguyên nhân trực tiếp của khủng hoảng tài chính Đông Á năm 1997 là những cuộc tấn công đầu cơ và việc rút vốn đồng loạt khỏi các nước châu Á.

Thị trường bất động sản Thái Lan sụp đổ đã dẫn đến sự phá sản của một số tổ chức tài chính, khiến niềm tin vào khả năng duy trì tỷ giá hối đoái cố định của chính phủ bị lung lay Khi phát hiện ra những điểm yếu nghiêm trọng trong nền kinh tế các nước châu Á, nhiều tổ chức đầu cơ vĩ mô đã tiến hành tấn công vào tiền tệ khu vực, dẫn đến tình trạng các nhà đầu tư nước ngoài đồng loạt rút vốn.

Một nguyên nhân trực tiếp dẫn đến khủng hoảng là khả năng xử lý khủng hoảng kém Nhiều nhà kinh tế cho rằng khi bị tấn công tiền tệ, các nước châu Á nên ngay lập tức thả nổi đồng tiền của mình thay vì cố gắng bảo vệ tỷ giá, điều này đã dẫn đến cạn kiệt dự trữ ngoại hối và kéo dài thêm cuộc tấn công đầu cơ.

Vào ngày 25 tháng 7 năm 1997, Hội nghị Ngoại trưởng ASEAN lần thứ 30 tại Subang Jaya, Malaysia đã thông qua một Tuyên bố chung, nhấn mạnh tầm quan trọng của việc liên kết các hệ thống tiền tệ để củng cố nền kinh tế các nước ASEAN Các Ngoại trưởng của 9 nước ASEAN (không bao gồm Campuchia) bày tỏ mối quan ngại sâu sắc và kêu gọi sự hợp tác chặt chẽ hơn giữa các quốc gia trong khu vực nhằm bảo vệ và tăng cường lợi ích chung Đồng thời, trong cùng ngày, các Ngân hàng Trung ương của nhiều nước bị ảnh hưởng bởi khủng hoảng đã tham gia Hội nghị EMEAP tại Thượng Hải nhưng không đạt được thỏa thuận về biện pháp Dàn xếp cho vay mới.

Vào ngày 17 tháng 3 năm 1996, Bộ trưởng Tài chính các nước đã tham dự Hội nghị Bộ trưởng Tài chính APEC lần thứ 3 tại Kyoto, Nhật Bản Tại đây, theo Tuyên bố chung, các bên không thể nhân đôi Quỹ tài chính phục vụ cho Hiệp định chung về cho vay và Cơ chế Tài chính trong tình trạng khẩn cấp Điều này cho thấy cuộc khủng hoảng là một thất bại trong việc xây dựng năng lực kịp thời và ngăn chặn sự lôi kéo tiền tệ.

Một số nhà kinh tế chỉ trích chính sách tài chính thắt chặt của IMF, cho rằng nó đã làm trầm trọng thêm tình hình khủng hoảng tại các quốc gia chịu ảnh hưởng.

Cuộc khủng hoảng tài chính Đông Á xuất phát từ dòng đầu tư nước ngoài ồ ạt vào khu vực trong thập niên 90, tạo ra một thời kỳ phát triển mạnh mẽ nhưng cũng tiềm ẩn nhiều rủi ro Sự gia tăng vốn nước ngoài đã làm tăng tỉ giá thực tế giữa đồng nội tệ và ngoại tệ, dẫn đến khó khăn cho các ngành xuất khẩu trong khi các ngành phi xuất khẩu phát triển Hệ thống tài chính yếu kém ở các quốc gia Đông Á gặp áp lực lớn từ dòng vốn này, khiến ngân hàng trung ương và ngân hàng thương mại khó khăn trong quản lý rủi ro Hơn nữa, dòng vốn tín dụng chủ yếu chảy vào thị trường bất động sản và chứng khoán, làm cho nền kinh tế trở nên dễ bị tổn thương khi dòng tín dụng bị ngắt quãng Những áp lực này dần dần tích tụ, gia tăng rủi ro tài chính cho toàn bộ nền kinh tế.

Cuộc khủng hoảng nợ công Hy Lạp

Hy Lạp, một mắt xích yếu trong Eurozone, đang đối mặt với rủi ro lớn do nợ công cao và nền kinh tế yếu kém sau khủng hoảng tài chính năm 2009 Sự thâm hụt ngân sách kéo dài và một phần lớn nợ công là các khoản vay nước ngoài đã dẫn đến tình trạng khó khăn hiện tại Điều này đặt ra câu hỏi về nguyên nhân khiến Hy Lạp, từng là quốc gia có tốc độ tăng trưởng kinh tế nhanh nhất châu Âu, lại rơi vào khủng hoảng như ngày hôm nay.

Có thể kể đến 06 nguyên nhân chính sau đây:

Tiết kiệm trong nước thấp dẫn tới phải vay nợ nước ngoài cho chi tiêu công

Trong thập niên 90, tỷ lệ tiết kiệm bình quân của Hy Lạp chỉ đạt 11%, thấp hơn nhiều so với mức 20% của các quốc gia như Bồ Đào Nha, Ý và Tây Ban Nha, và đang có xu hướng giảm nhanh chóng Khoảng 30% hoạt động kinh tế của Hy Lạp có dấu hiệu gian lận, với 90% người có thu nhập cao khai báo thu nhập dưới 30.000 Euro/năm để trốn thuế Do đó, đầu tư trong nước phụ thuộc nhiều vào dòng vốn từ bên ngoài Lợi tức trái phiếu liên tục giảm sau khi gia nhập Liên minh Châu Âu (EU) vào năm 1981, cùng với làn sóng bán tháo trái phiếu từ dân chúng, đã khiến Hy Lạp mất đi một kênh huy động vốn quan trọng, buộc chính phủ phải gia tăng vay nợ để tài trợ cho chi tiêu công.

Chi tiêu công tăng cao dẫn đến thâm hụt ngân sách

Tăng trưởng GDP của Hy Lạp trong giai đoạn 2001 – 2007 đạt trung bình hàng năm 4,3%, cao hơn mức trung bình 3,1% của khu vực Eurozone Tuy nhiên, trong cùng thời gian này, chi tiêu chính phủ tăng 87%, trong khi thu ngân sách chỉ tăng 31%, dẫn đến thâm hụt ngân sách vượt quá mức cho phép 3% GDP theo quy định của EU.

Cuộc khủng hoảng tài chính toàn cầu năm 2008-2009 đã tác động mạnh mẽ đến các ngành công nghiệp chủ chốt của Hy Lạp, đặc biệt là du lịch và vận tải biển, khi doanh thu giảm hơn 15% vào năm 2009 Kinh tế Hy Lạp rơi vào khó khăn, dẫn đến sự suy giảm nguồn thu từ thuế và phí, trong khi Chính phủ buộc phải tăng cường chi tiêu công để hỗ trợ nền kinh tế vượt qua khủng hoảng Hệ quả là nợ công gia tăng mạnh, và đến năm 2010, nợ công của Hy Lạp đã đạt 330 tỷ Euro, tạo ra một gánh nặng lớn cho nền kinh tế quốc gia.

Nợ công của Hy Lạp dự kiến sẽ đạt 172% GDP vào năm 2012, ngay cả khi nước này thực hiện kế hoạch thắt lưng buộc bụng kéo dài 3 năm, theo dự đoán của các chuyên gia kinh tế.

Hình 7 Nợ công của các quốc gia (Nguồn: Morgan Stanley)

Kinh tế Hy Lạp đang rơi vào suy thoái sâu sắc, với thâm hụt ngân sách trong 8 tháng đầu năm 2011 đạt 18,1 tỷ euro (24,67 tỷ USD), tăng đáng kể so với 14,813 tỷ euro cùng kỳ năm trước Biểu đồ cho thấy Hy Lạp và Ireland là hai quốc gia có mức thâm hụt ngân sách lớn nhất tại Châu Âu Trong khi Ireland phải đối mặt với thâm hụt do nợ chuyển từ khu vực tư nhân sang công do chính phủ cứu hệ thống ngân hàng, thâm hụt ngân sách của Hy Lạp chủ yếu xuất phát từ quản lý công yếu kém.

Hình 8 Thâm hụt ngân sách các quốc gia châu Âu (Nguồn: Morgan

Như vậy, Hy Lạp đang cùng lúc đối mặt với những vấn đề nan giải: nợ công quá cao (147,8%), thâm hụt ngân sách lớn (13,6% GDP năm

Tính đến năm 2010, Hy Lạp đã đối mặt với thâm hụt ngân sách và thâm hụt cán cân thanh toán vãng lai lớn, lần lượt đạt trung bình khoảng 9% GDP, cao hơn nhiều so với mức trung bình 1% của khu vực Eurozone Cả hai chỉ số này đều vượt quá giới hạn cho phép của Liên minh Tiền tệ và Kinh tế châu Âu (EMU), vi phạm nghiêm trọng Hiệp ước Bình ổn và Tăng trưởng của Liên minh châu Âu (EU), trong đó quy định mức thâm hụt ngân sách không được vượt quá 3% GDP.

Việc ngụy tạo số liệu kinh tế đã làm suy giảm nghiêm trọng uy tín của Chính phủ Hy Lạp Ba hãng xếp hạng tín nhiệm hàng đầu thế giới đã hạ mức tín nhiệm của quốc gia này xuống gần mức thấp nhất, đồng thời cảnh báo về nguy cơ vỡ nợ cao Lợi suất trái phiếu chính phủ Hy Lạp cũng đang gia tăng đáng kể.

Lãi suất trái phiếu kỳ hạn 2 năm của Hy Lạp đã vượt 60%, trong khi kỳ hạn 1 năm đã vượt 110% Điều này cho thấy Hy Lạp đang gặp khó khăn trong việc huy động vốn từ thị trường quốc tế, và chỉ có thể trông chờ vào sự hỗ trợ đặc biệt từ IMF, ECB hoặc một số quốc gia khác.

Hình 9 Lợi suất của Hy Lạp trong 1 năm (Nguồn: Morgan Stanley) Nguồn thu giảm sút.

Trốn thuế và hoạt động kinh tế ngầm tại Hy Lạp đã gây ảnh hưởng tiêu cực đến nguồn thu ngân sách quốc gia Theo đánh giá của Ngân hàng Thế giới (WB), kinh tế không chính thức ở Hy Lạp chiếm từ 25% đến 30% GDP, trong khi con số này ở Việt Nam chỉ là 15,6% GDP và 13,1% GDP ở các quốc gia khác.

GDP của Trung Quốc và Singapore đạt 11,3% GDP của Nhật Bản Tại Hy Lạp, hệ thống thuế phức tạp với nhiều mức thuế cao, cùng với sự quản lý dư thừa và thiếu hiệu quả, đã dẫn đến tình trạng trốn thuế và sự phát triển của kinh tế ngầm.

Theo Tổ chức Minh bạch quốc tế, Hy Lạp là một trong những quốc gia có tỷ lệ tham nhũng cao nhất trong EU, với hơn 13% người dân đã chi tới 750 triệu EUR cho các khoản phong bì cho lãnh đạo khu vực công và tư nhân vào năm 2008 Thủ tướng George Papandreou đã thừa nhận rằng "tham nhũng mang tính hệ thống" là nguyên nhân chính dẫn đến nợ công của đất nước Thiệt hại do tham nhũng gây ra ước tính chiếm khoảng 8% GDP, không chỉ dẫn đến trốn thuế mà còn làm tăng chi tiêu chính phủ, duy trì mức lương cao cho công chức và đầu tư vào các dự án lớn thay vì các dự án tạo việc làm và nâng cao năng suất lao động, từ đó làm suy yếu tính cạnh tranh của nền kinh tế Hy Lạp.

Từ năm 2000 đến 2008, lương cao và sự gia tăng giá trị đồng euro từ hơn 0,8 USD lên 1,6 USD đã làm giảm sức cạnh tranh của hàng hóa Hy Lạp, dẫn đến tình trạng thâm hụt cán cân thương mại kéo dài.

Sự tiếp cận dễ dãi với nguồn vốn đầu tư nước ngoài và việc sử dụng nguồn vốn không hiệu quả

Việc gia nhập Eurozone vào năm 2001 đã mở ra cơ hội lớn cho Hy Lạp tiếp cận thị trường vốn quốc tế, nhờ vào việc sử dụng đồng euro được đảm bảo bởi các nền kinh tế lớn như Đức và Pháp Sự quản lý chính sách tiền tệ của Ngân hàng Trung ương châu Âu (ECB) cũng góp phần tạo điều kiện thuận lợi cho nền kinh tế Hy Lạp.

Hy Lạp đã xây dựng được hình ảnh ổn định và đáng tin cậy trong mắt các nhà đầu tư, giúp quốc gia này dễ dàng thu hút vốn đầu tư nước ngoài với lãi suất thấp.

Thảo luận

Từ 3 cuộc khủng hoảng nợ công lớn trên thế giới vừa được phân tích, chúng ta có thể thấy có nhiều nguyên nhân dẫn đến nợ công Ở các nước vào từng thời kì, các nguyên nhân là khác nhau, tuy nhiên, tình trạng nợ công hiện nay ở nhiều nước đều có chung một số nguyên nhân cơ bản như, sự kiểm soát chi tiêu và quản lí nợ của nhà nước kém, không chặt chẽ, thậm chí buông lỏng, cộng thêm với tình trạng thất thoát, lãng phí trong đầu tư và chi tiêu, cùng với nạn tham nhũng gia tăng ở nhiều nước Bên cạnh đó, các nguồn thu (chủ yếu từ thuế) tăng không kịp với nhu cầu chi, một số loại thuế chịu áp lực phải cắt giảm, như thuế quan và phí hải quan phải cắt giảm hoặc loại bỏ để phù hợp với các quy định của WTO và các thỏa thuận thương mại mà các nước tham gia.

Vấn đề quản lý nguồn thu, đặc biệt là thuế, đang gặp nhiều khó khăn do tình trạng trốn thuế, tham nhũng và hối lộ, cùng với việc kiểm soát lỏng lẻo và xử lý chưa nghiêm Dựa trên dữ liệu quá khứ và các chỉ số kinh tế hiện đại, có thể xác định những nguyên nhân cơ bản dẫn đến nợ công.

Tiết kiệm trong nước thấp dẫn đến vay nợ nước ngoài cho chi tiêu công.

Tỉ lệ tiết kiệm của Mỹ đã giảm mạnh trong những năm gần đây, từ 10% vào những năm 1970 xuống chỉ còn 1 - 2% vào năm 2007, cho thấy người dân tiêu dùng hầu như toàn bộ thu nhập Sự sụt giảm này dẫn đến việc vay nợ chủ yếu dựa vào vốn nước ngoài, tăng từ 1,2 nghìn tỉ USD (1997) lên 4,45 nghìn tỉ USD (2011), chiếm khoảng 47% tổng nợ công Tình trạng tương tự cũng diễn ra ở các nước như Hy Lạp, Bồ Đào Nha, Tây Ban Nha và Ý, khi tỉ lệ tiết kiệm nội địa giảm nhanh chóng, khiến đầu tư trong nước phụ thuộc nhiều vào dòng vốn nước ngoài Việc tiết kiệm thấp kết hợp với bội chi ngân sách cao đã dẫn đến thâm hụt ngân sách và gia tăng nợ công, với Nhật Bản là ví dụ điển hình khi tỉ lệ tiết kiệm của hộ gia đình giảm từ 15% (những năm 1980) xuống 2% (2009), góp phần vào tình trạng nợ công của nước này.

Kiểm soát chi tiêu và quản lý nợ kém, cùng với tình trạng thất thoát và lãng phí trong đầu tư, đã dẫn đến những tác động nghiêm trọng Khoản thu không đủ đáp ứng nhu cầu chi tiêu, buộc chính phủ phải vay mượn để bù đắp, gây ra thâm hụt ngân sách và nợ công gia tăng Chính sách tài chính lỏng lẻo tại châu Âu không chỉ gây bất ổn kinh tế mà còn làm giảm niềm tin và tạo căng thẳng trên thị trường tài chính, dẫn đến các hệ lụy xã hội Khả năng quản trị công yếu kém và chi tiêu không hợp lý đã đẩy nợ công vượt quá khả năng kiểm soát.

Tình hình nợ công ngày càng trở thành gánh nặng cho nền kinh tế do bội chi ngân sách lớn và kéo dài, khiến vay nợ trở thành nguồn lực chính để bù đắp thâm hụt Sự sụt giảm nguồn thu ngân sách từ thuế, cùng với chi phí phúc lợi gia tăng và dân số già hóa, đã dẫn đến thâm hụt ngân sách nghiêm trọng Sự gia tăng liên tục của thâm hụt ngân sách không chỉ làm khó khăn cho nền kinh tế mà còn làm suy yếu thị trường chứng khoán, giảm hiệu quả kinh doanh và cản trở tăng trưởng kinh tế, từ đó tác động tiêu cực đến nợ công Hơn nữa, chi tiêu thiếu kế hoạch và sự thiếu minh bạch trong số liệu tài chính đã làm suy yếu hệ thống tài chính ngân hàng, gây mất lòng tin của người dân vào giới đầu tư và trầm trọng hóa các cuộc khủng hoảng nợ công.

Khủng hoảng nợ công gia tăng do chính phủ liên tục phát hành trái phiếu để trang trải chi phí an sinh xã hội và bù đắp thâm hụt ngân sách, trong khi nguồn thu từ thuế giảm mạnh do ảnh hưởng của cuộc khủng hoảng tài chính toàn cầu Sự gia tăng phát hành trái phiếu dẫn đến nợ công tăng nhanh, kết hợp với tình trạng giảm phát và nhu cầu tiêu thụ nội địa yếu ớt, đã cản trở đà phục hồi kinh tế, đặc biệt là ở Nhật Bản.

Việc vay vốn dễ dàng với lãi suất ưu đãi đã dẫn đến tình trạng các quốc gia vay nợ quá mức, gây ra khủng hoảng nợ công Điều này được thể hiện rõ nhất trong cuộc khủng hoảng nợ của Hy Lạp và tác động đến đồng euro.

Việc áp dụng chung một đồng tiền và mức cho vay mà không có sự phối hợp trong các chính sách kinh tế đã dẫn đến khủng hoảng nợ công và tạo ra sự căng thẳng giữa các thành viên trong khối.

TÌNH HÌNH NỢ CÔNG Ở VIỆT NAM VÀ KIẾN NGHỊ GIẢI PHÁP

Ngày đăng: 11/10/2022, 08:33

Nguồn tham khảo

Tài liệu tham khảo Loại Chi tiết
8. ThS. Lê Thị Minh Ngọc – “Nợ công – Sự tác động đến tăng trưởng kinh tế và gánh nặng cho tương lai”http://tapchi.hvnh.edu.vn/…/20130831/MinhNgoc-Nocong-sutacd… Sách, tạp chí
Tiêu đề: Nợ công – Sự tác động đến tăng trưởng kinh tế và gánh nặng cho tương lai
2. Featherstone, K. (2011). The Greek Sovereign Debt Crisis and EMU: A Failing State in a Skewed Regime, Journal of Common Market Studies, Vol.49, No. 2, pp. 193-217 Khác
3. FitzGerald E.V.K. (1978). The Fiscal Crisis of the Latin American State, Taxation and Economic Development (pp. 125-158), London: Frank Cass Khác
4. Fishlow A. (1988). The State of Latin American Economics, in Christopher Mitchell (ed.), Changing Perspectives in Latin American Studies: Insights from Six Disciplines (Ch.3, pp 87-119), Stanford: Stanford University Press Khác
7. The impact of high and growing government debt on economic growth- Working paper series- No 1237- August 2010- European central bank Khác
11. TS. Mai Thu Hiền và Nguyễn Thị Như Nguyệt. Tình hình nợ công và quản lý nợ công ở Việt Nam Khác

HÌNH ẢNH LIÊN QUAN

Hình 1 Tác động của nợ công đến lãi suất - (Tiểu luận FTU) nghiên cứu một số cuộc khủng hoảng nợ công trên thế giới và bài học cho việt nam (1)
Hình 1 Tác động của nợ công đến lãi suất (Trang 13)
Hình 2 Lãi suất trái phiếu Chính phủ Hy Lạp kỳ hạn 2 năm (Nguồn: Bloomberg.com) - (Tiểu luận FTU) nghiên cứu một số cuộc khủng hoảng nợ công trên thế giới và bài học cho việt nam (1)
Hình 2 Lãi suất trái phiếu Chính phủ Hy Lạp kỳ hạn 2 năm (Nguồn: Bloomberg.com) (Trang 14)
Hình 3 Tổng nợ cơng của Việt Nam tính đến thời điểm tháng 1/2017 (The global debt clock – conomist.com) - (Tiểu luận FTU) nghiên cứu một số cuộc khủng hoảng nợ công trên thế giới và bài học cho việt nam (1)
Hình 3 Tổng nợ cơng của Việt Nam tính đến thời điểm tháng 1/2017 (The global debt clock – conomist.com) (Trang 18)
Hình 4 Biểu đồ tăng trưởng GDP và cán cân thương mại tại Mỹ Latinh 1961-2010 (Nguồn: World Bank Database) - (Tiểu luận FTU) nghiên cứu một số cuộc khủng hoảng nợ công trên thế giới và bài học cho việt nam (1)
Hình 4 Biểu đồ tăng trưởng GDP và cán cân thương mại tại Mỹ Latinh 1961-2010 (Nguồn: World Bank Database) (Trang 23)
Hình 5 Biểu đồ nợ nước ngồi tại các quốc gia Mỹ Latinh 1970-2010 (%GNI) - (Tiểu luận FTU) nghiên cứu một số cuộc khủng hoảng nợ công trên thế giới và bài học cho việt nam (1)
Hình 5 Biểu đồ nợ nước ngồi tại các quốc gia Mỹ Latinh 1970-2010 (%GNI) (Trang 24)
Bảng 1 Tổng vốn đầu tư các quốc gia lớn, nhỏ và Mỹ Latinh qua nhiều giai đoạn (% GDP) (Nguồn: Bertola & Ocampo (2012)) - (Tiểu luận FTU) nghiên cứu một số cuộc khủng hoảng nợ công trên thế giới và bài học cho việt nam (1)
Bảng 1 Tổng vốn đầu tư các quốc gia lớn, nhỏ và Mỹ Latinh qua nhiều giai đoạn (% GDP) (Nguồn: Bertola & Ocampo (2012)) (Trang 26)
2.2.2 Tình hình kinh tế - (Tiểu luận FTU) nghiên cứu một số cuộc khủng hoảng nợ công trên thế giới và bài học cho việt nam (1)
2.2.2 Tình hình kinh tế (Trang 34)
Hình 7 Nợ công của các quốc gia (Nguồn: Morgan Stanley) - (Tiểu luận FTU) nghiên cứu một số cuộc khủng hoảng nợ công trên thế giới và bài học cho việt nam (1)
Hình 7 Nợ công của các quốc gia (Nguồn: Morgan Stanley) (Trang 42)
Hình 8 Thâm hụt ngân sách các quốc gia châu Âu (Nguồn: Morgan Stanley) - (Tiểu luận FTU) nghiên cứu một số cuộc khủng hoảng nợ công trên thế giới và bài học cho việt nam (1)
Hình 8 Thâm hụt ngân sách các quốc gia châu Âu (Nguồn: Morgan Stanley) (Trang 43)
Hình 9 Lợi suất của Hy Lạp trong 1 năm (Nguồn: Morgan Stanley) - (Tiểu luận FTU) nghiên cứu một số cuộc khủng hoảng nợ công trên thế giới và bài học cho việt nam (1)
Hình 9 Lợi suất của Hy Lạp trong 1 năm (Nguồn: Morgan Stanley) (Trang 44)
Hình 10 Nợ cơng bình qn đầu người của Việt Nam giai đoạn 2006-2015 (Nguồn: Economist Intelligence Unit, Vietdata tổng hợp) - (Tiểu luận FTU) nghiên cứu một số cuộc khủng hoảng nợ công trên thế giới và bài học cho việt nam (1)
Hình 10 Nợ cơng bình qn đầu người của Việt Nam giai đoạn 2006-2015 (Nguồn: Economist Intelligence Unit, Vietdata tổng hợp) (Trang 55)
Hình 11 Cơ cấu nợ cơng của Việt Nam (Nguồn: Bộ tàichín h) - (Tiểu luận FTU) nghiên cứu một số cuộc khủng hoảng nợ công trên thế giới và bài học cho việt nam (1)
Hình 11 Cơ cấu nợ cơng của Việt Nam (Nguồn: Bộ tàichín h) (Trang 56)

TỪ KHÓA LIÊN QUAN

TRÍCH ĐOẠN

TÀI LIỆU CÙNG NGƯỜI DÙNG

TÀI LIỆU LIÊN QUAN

w