CƠ SỞ LÝ THUYẾT
Cấu trúc thị trường
Cấu trúc thị trường được định nghĩa là tổng hợp các yếu tố như số lượng người mua và người bán tham gia, cùng với mối quan hệ tương tác giữa họ Điều này ảnh hưởng đến cách thức hoạt động của thị trường và quyết định giá cả cũng như sản lượng hàng hóa.
Cấu trúc thị trường được chia thành hai loại chính: thị trường cạnh tranh hoàn hảo và thị trường cạnh tranh không hoàn hảo Khi phân tích hành vi của các nhà sản xuất, chúng ta chủ yếu xem xét cấu trúc thị trường từ góc độ người bán.
Thị trường cạnh tranh hoàn hảo là loại hình thị trường trong đó từng người bán hoặc doanh nghiệp không có khả năng kiểm soát hay ảnh hưởng đến giá cả hàng hóa.
Thị trường cạnh tranh không hoàn hảo là loại thị trường mà mỗi doanh nghiệp có khả năng ảnh hưởng đến giá cả hàng hóa Trong bối cảnh này, các doanh nghiệp không chỉ đơn thuần là những người chấp nhận giá mà còn có thể điều chỉnh giá để tối ưu hóa lợi nhuận.
Có nhiều dạng thị trường cạnh tranh không hoàn hảo: thị trường độc quyền, thị trường độc quyền nhóm hay thị trường cạnh tranh có tính chất độc quyền.
Đo lường mức độ tập trung của thị trường
Đo lường tập trung thị trường phản ánh vị trí tương đối của các doanh nghiệp lớn trong ngành, thể hiện mức độ mà sản xuất tập trung vào một thị trường cụ thể Mức độ tập trung thị trường cho biết sức mạnh thị trường của các hãng lớn; ngành càng tập trung thì sức mạnh của các hãng này càng cao Việc đánh giá mức độ tập trung giúp mô tả cấu trúc cạnh tranh trong ngành, đồng thời đóng vai trò quan trọng trong phân tích các ngành kinh tế Nó không chỉ cho phép so sánh giữa các thị trường khác nhau mà còn hỗ trợ việc xây dựng quy định nhằm bảo vệ lợi ích của người tiêu dùng.
Việc lượng hóa các thước đo thành những chỉ số dễ tính toán và độc lập với kích cỡ thị trường là rất quan trọng cho việc diễn giải thực tế thị trường của doanh nghiệp và nhà hoạch định chính sách Trong hầu hết các thị trường, mức độ cạnh tranh nằm giữa cạnh tranh hoàn hảo và độc quyền Phương pháp đo mức độ tập trung cung cấp cách thức đơn giản để đánh giá mức độ cạnh tranh của thị trường.
Ta có hai chỉ số đo mức độ tập trung của thị trường là chỉ số HHI và tỉ lệ tập trung CR m
2.1 Chỉ số HHI (Hirchman- Herfindahl Index)
Chỉ số này, được giới thiệu đầu tiên bởi Hirschman và sau đó bởi Herfindahl, tính toán tổng bình phương thị phần của tất cả các doanh nghiệp trong ngành, phản ánh mức độ tập trung của thị trường.
Si= là các chỉ số thể hiện mức thị phần, tỷ lệ sản lượng sản xuất hoặc doanh thu mà mỗi doanh nghiệp nắm giữ trên thị trường Những chỉ số này bao gồm sản lượng bán ra, công suất và các chỉ số khác liên quan đến hoạt động kinh doanh.
n: là tổng số doanh nghiệp tham gia thị trường
HHI nằm trong khoảng từ 1/n đến 1
Khi chỉ số HHI (Chỉ số Herfindahl-Hirschman) tăng, mức độ tập trung của thị trường cũng gia tăng, cho thấy sự dominion của một hoặc vài doanh nghiệp lớn Ngược lại, chỉ số HHI thấp cho thấy không có doanh nghiệp nào chiếm ưu thế rõ rệt, tạo ra một môi trường cạnh tranh hơn trong thị trường.
Chỉ số HHI có một số ưu điểm và nhược điểm nhất định:
- Nó phản ánh nhạy bén sự tham gia hay thoát ra của doanh nghiệp khỏi ngành tính đến
Một nhược điểm của phương pháp so sánh ngành là không làm rõ được sự khác biệt giữa các ngành có mức độ tập trung tương đương, bởi vì quy mô doanh nghiệp giữa các ngành có thể không đồng nhất.
2.2 Tỷ lệ tập trung hóa (CR m ) Đây là chỉ số được sử dụng nhiều khi đo lường tập trung hóa của ngành, được xác định bằng tỉ lệ sản lượng của m doanh nghiệp lớn trong ngành với m là một số tùy ý
CRm đại diện cho tỷ lệ tập trung của thị trường, trong khi Si là thị phần của doanh nghiệp thứ i Mức độ tập trung của thị trường sẽ thay đổi tùy thuộc vào giá trị của m, dẫn đến những kết luận khác nhau về cấu trúc thị trường.
2.3 Doanh nghiệp và nhóm doanh nghiệp có vị trí thống lĩnh
Theo quy định tại điều 11, Luật Cạnh tranh về doanh nghiệp, nhóm doanh nghiệp có vị trí thống lĩnh trên thị trường:
Doanh nghiệp được xem là có vị trí thống lĩnh trên thị trường khi sở hữu thị phần từ 30% trở lên hoặc có khả năng gây ra sự hạn chế đáng kể đối với cạnh tranh trong lĩnh vực liên quan.
Nhóm doanh nghiệp được xem là có vị trí thống lĩnh thị trường khi họ cùng hành động nhằm hạn chế cạnh tranh và thuộc một trong các trường hợp quy định.
• Hai doanh nghiệp có tổng thị phần từ 50% trở lên trên thị trường liên quan
• Ba doanh nghiệp có tổng thị phần từ 65% trở lên trên thị trường liên quan
• Bốn doanh nghiệp có tổng thị phần từ 75% trở lên trên thị trường liên quan
Việc xác định sự tồn tại của doanh nghiệp hoặc nhóm doanh nghiệp chiếm lĩnh thị trường là rất quan trọng, giúp đánh giá nguy cơ lạm dụng vị trí thống lĩnh này Từ đó, có thể triển khai các biện pháp ngăn ngừa hiệu quả nhằm bảo vệ cạnh tranh lành mạnh trên thị trường.
Rào cản gia nhập thị trường
Rào cản gia nhập thị trường là những yếu tố ngăn chặn doanh nghiệp mới tham gia vào một ngành, bao gồm các yếu tố kinh tế và kỹ thuật Những rào cản này tạo điều kiện cho các doanh nghiệp hiện có duy trì sự ổn định với giá cao và lợi nhuận lớn Ngược lại, khi rào cản gia nhập thấp, cạnh tranh gia tăng, dẫn đến áp lực giảm giá và lợi nhuận cho các doanh nghiệp trong ngành.
Có nhiều loại rào cản gia nhập thị trường khác nhau, một số rào cản gia nhập điển hình như:
Lợi thế kinh tế nhờ qui mô
Đặc trưng hóa sản phẩm
Sự tiếp cận đến các kênh phân phối
Chính sách của chính phủ
CẤU TRÚC THỊ TRƯỜNG DỆT MAY Ở VIỆT NAM
Tổng quan về ngành dệt may Việt Nam
Ngành dệt may Việt Nam đã duy trì vị trí là một trong những ngành xuất khẩu chủ lực của đất nước, đứng thứ hai về kim ngạch xuất khẩu Ngành này không chỉ tạo ra hàng triệu việc làm, mà còn chiếm hơn 20% lực lượng lao động trong khu vực công nghiệp và gần 5% tổng số lao động cả nước Trong 5 năm qua, ngành dệt may liên tục đóng góp khoảng 15% vào GDP, khẳng định vai trò quan trọng trong nền kinh tế Việt Nam.
Hình 1: Sản lƣợng sản xuất các sản phẩm trong ngành công nghiệp may mặc tại Việt Nam giai đoạn 2015-2019
Nguồn: Tổng cục Hải quan, Tổng cục Thống kê
Theo báo cáo của Tổng cục Thống kê, sản lượng các mặt hàng chủ yếu của ngành dệt may như quần áo, giày dép da, vải dệt từ sợi tự nhiên và vải dệt từ sợi tổng hợp đều ghi nhận sự tăng trưởng mạnh mẽ trong năm 2019 so với năm 2018, dự báo một năm 2019 sẽ đạt tổng sản lượng kỷ lục mới.
Năm 2018, ngành dệt may Việt Nam đạt kim ngạch xuất khẩu 36 tỷ USD, tăng trưởng 16%, khẳng định vị thế trên thị trường quốc tế, vượt Bangladesh, đứng thứ 3 toàn cầu chỉ sau Trung Quốc và Ấn Độ Cụ thể, xuất khẩu hàng may mặc đạt 28,78 tỷ USD (tăng 14,45%), vải đạt 1,66 tỷ USD (tăng 25,5%), xơ sợi đạt 3,95 tỷ USD (tăng 9,9%), vải không dệt đạt 528 triệu USD (tăng 15,54%), và nguyên phụ liệu dệt may đạt 1,23 tỷ USD (tăng 14,59%).
2018 ước đạt 17,86 tỷ USD, tăng 14,39%
Hình 2: Kim ngạch xuất nhập khẩu hàng dệt may của Việt Nam qua các năm
Nguồn: Tổng cục Thống kê
Theo Tổng cục Thống kê, ngành dệt may Việt Nam năm 2018 đạt doanh thu hơn 63 tỷ đồng, trong đó xuất khẩu hàng may mặc chiếm 80%, vải 6% và xơ, sợi 11% Doanh thu của các doanh nghiệp niêm yết đạt 63,638 tỷ đồng, với lợi nhuận sau thuế là 3,111 tỷ đồng Tập đoàn Dệt may Việt Nam dẫn đầu về doanh thu và lợi nhuận, tiếp theo là Công ty May Việt Tiến và Dệt may Thành Công.
1.4 Tiềm năng phát triển 1.4.1 Cơ hội
Cuộc chiến thương mại giữa Mỹ và Trung Quốc đã tạo ra cơ hội cho việc chuyển dịch đơn hàng từ Trung Quốc sang Việt Nam Theo Hiệp hội dệt may Mỹ (OTEXA), Việt Nam hiện là nhà xuất khẩu hàng dệt may lớn thứ hai tại Mỹ, chiếm 13,2% tổng giá trị nhập khẩu, chỉ sau Trung Quốc với 36%.
Từ năm 2014 đến 2018, thị phần xuất khẩu của Trung Quốc tại thị trường Mỹ giảm dần, trong khi thị phần hàng dệt may Việt Nam tăng từ 9% lên 13% Việt Nam không chỉ duy trì tốc độ tăng trưởng ổn định trong giá trị xuất khẩu sang Mỹ mà còn được kỳ vọng sẽ hưởng lợi từ việc chuyển dịch đơn hàng, do hàng dệt may Trung Quốc đang chịu mức thuế 25%.
Xu hướng chuyển dịch sản xuất hàng dệt may từ các nước phát triển như Đài Loan, Hàn Quốc và Trung Quốc sang các nước đang phát triển ở Đông Nam Á, đặc biệt là Việt Nam, đang tạo ra cơ hội lớn để thu hút vốn, công nghệ và kinh nghiệm quản lý, từ đó phát triển mạnh mẽ ngành công nghiệp dệt may.
Các hiệp định thương mại tự do (FTA) như CPTPP và RCEP mang lại nhiều cơ hội cho ngành dệt may Việt Nam CPTPP, khi có hiệu lực, dự kiến sẽ tăng cường xuất khẩu, với các đối tác trong hiệp định này đóng góp khoảng 25% vào tổng giá trị xuất - nhập khẩu hàng dệt may của Việt Nam Đồng thời, RCEP, đang trong quá trình đàm phán, hứa hẹn sẽ tạo ra lợi thế không chỉ cho xuất khẩu mà còn cho nhập khẩu nguyên liệu, với sự tham gia của 6 quốc gia có thỏa thuận thương mại tự do với ASEAN, bao gồm Úc, Trung Quốc, Ấn Độ, Nhật Bản, Hàn Quốc và New Zealand.
Năm 2017, tỷ lệ xuất khẩu đạt 57% Nếu hiệp định được thông qua, điều này không chỉ thúc đẩy xuất khẩu mà còn tạo cơ hội cho các doanh nghiệp nhập khẩu nguyên phụ liệu với giá rẻ, đặc biệt từ hai nước hàng đầu là Trung Quốc và Hàn Quốc, vốn là những nhà cung cấp nguyên vật liệu dệt may chính cho Việt Nam.
Bên cạnh một số thuận lợi nêu trên, ngành dệt may Việt Nam cũng gặp phải không ít thách thức:
Nhiều rào cản thương mại và kỹ thuật, bao gồm các quy định về hóa chất và sản phẩm an toàn, đang tạo ra chi phí cao hơn cho các nhà cung cấp.
Cạnh tranh trong ngành dệt may đang trở nên khốc liệt hơn bao giờ hết, đặc biệt là từ các nhà cung cấp lớn như Trung Quốc, Ấn Độ và Bangladesh.
Ngành dệt may Việt Nam đối mặt với thách thức từ CPTPP do quy tắc xuất xứ nghiêm ngặt hơn, yêu cầu nguyên liệu phải được sản xuất từ sợi trở đi thay vì từ vải như trước Điều này buộc các doanh nghiệp xuất khẩu phải tự chủ về nguyên liệu hoặc nhập khẩu từ các nước thành viên trong hiệp định, trong khi thị trường nhập khẩu chính của Việt Nam vẫn là Trung Quốc và Hàn Quốc Mặc dù điều này tạo áp lực lớn cho ngành dệt may, nhưng cũng mở ra cơ hội cho những doanh nghiệp có khả năng tự chủ nguồn nguyên liệu, như Dệt may Thành Công và các công ty thuộc Tập đoàn Dệt may Việt Nam.
Cấu trúc thị trường ngành dệt may ở Việt Nam
2.1 Tổng quan về các doanh nghiệp tham gia vào ngành
Theo Hiệp hội dệt may Việt Nam, đến năm 2017, cả nước có 6,000 doanh nghiệp dệt may, trong đó 5,101 doanh nghiệp gia công hàng may mặc (chiếm 85%), 780 doanh nghiệp sản xuất vải và nhuộm (chiếm 13%), và 119 doanh nghiệp chế biến xơ, sợi (chiếm 2%).
Tập đoàn Dệt may Việt Nam hiện đang dẫn đầu về doanh thu và lợi nhuận sau thuế, tiếp theo là Công ty May Việt Tiến và Dệt may Thành Công Về quy mô sản xuất, Tập đoàn Dệt may Việt Nam cũng chiếm ưu thế nhờ sở hữu nhiều công ty con và liên kết Trong khi đó, Dệt may Thành Công và Dệt may Phong Phú là những doanh nghiệp hiếm hoi có khả năng dệt, nhuộm và đan.
Một số doanh nghiệp trong ngành dệt may phải kể đến:
Tập đoàn Dệt may Việt Nam là doanh nghiệp hàng đầu trong ngành dệt may, nổi bật với quy mô vốn hóa, doanh thu và lợi nhuận lớn nhất Hiện tại, Nhà Nước sở hữu 53.49% vốn tại Tập đoàn này Theo Quyết định số 1232/QĐ-TTg, danh mục doanh nghiệp có vốn Nhà Nước sẽ thực hiện thoái vốn trong giai đoạn 2017.
Năm 2020, Vinatex đã được chuyển giao về Tổng Công ty Đầu tư và Kinh doanh vốn Nhà nước (SCIC) và đang chờ đợi lộ trình thoái vốn trong năm nay Vinatex hoạt động theo mô hình mẹ - con, sở hữu 15 công ty con với hơn 50% vốn điều lệ và 19 công ty liên kết dưới 50% vốn điều lệ, tham gia vào tất cả các khâu trong chuỗi giá trị ngành dệt may từ sợi, vải đến may.
CTCP Dệt may – Đầu tư – Thương mại Thành Công là một trong những doanh nghiệp hiếm hoi sở hữu chuỗi sản xuất hoàn chỉnh từ Sợi, Dệt, Nhuộm đến May, khác biệt với các công ty khác phải mua nguyên liệu bên ngoài Doanh nghiệp này chủ yếu xuất khẩu sang các thị trường lớn như Hàn Quốc, Nhật Bản và Trung Quốc, trong đó, doanh thu từ xuất khẩu sang Hàn Quốc và Trung Quốc chủ yếu đến từ các đơn hàng của tập đoàn E-Land, chiếm từ 25% đến 29% tổng doanh thu.
CTCP Đầu tư và Thương mại TNG sở hữu lợi thế lớn với các hợp đồng gia công cho những thương hiệu nổi tiếng như ZARA, MANGO, GAP, CK, Decathlon và The Children’s Place Công ty đã phát triển thương hiệu TNG Fashion sau khi sáp nhập với CTCP Thời trang TNG, hiện có gần 40 cửa hàng trải rộng trên 20 tỉnh thành Với 11 chi nhánh may và 2 chi nhánh sản xuất hàng may mặc phụ trợ, TNG có tổng cộng 228 chuyền may, đạt công suất gần 80% Thị trường xuất khẩu chính của công ty là EU và Mỹ, chiếm gần 67% giá trị đơn hàng, nhờ vào mối quan hệ với hai đối tác lớn là Decathlon và The Children’s Place.
Công ty Lĩnh vực Vốn hóa
Tập đoàn Dệt may Việt Nam Sợi, Vải, May 6,250 19,101 729
Dệt may Thành Công Sợi, Vải, May 1,800 3,662 260
May Phong Phú Sợi, Vải, May 1,329 3,499 208
May Việt Thắng Sợi, Vải 230 2,357 102
Công ty cổ phần Everpia May 605 1,180 76 Đức Quân Sợi 930 1,153 29
Bảng 1: Kết quả kinh doanh của các doanh nghiệp lớn trong ngành dệt may năm 2018
(Nguồn: Textile Apparel Industry Report)
Doanh nghiệp tiêu biểu trong ngành: Công ty cổ phần dệt may – đầu tư – thương mại Thành Công
Vốn hóa (VND) 1.391.941.233.000 Cổ đông lớn Tỷ lệ sở hữu Giá đóng cửa gần nhất 27.000 E-land Asia Holdings
Công ty Liên doanh Quản lý quỹ đầu tƣ chứng khoán Vietcombank
KLĐLH hiện tại 51.553.379 Công ty TNHH Eland
P/E (4 quý gần nhất) 7,11 Đinh Thị Thu Hằng 0,12
Bảng 2: Thông tin doanh nghiệp Công ty cổ phần dệt may – đầu tư – thương mại Thành Công
Sản phẩm chính: T-shirt, Polo shirt, Trang phục thể thao, Trang phục trẻ em, Áo khoác, Đồng phục…
Phương thức sản xuất: FOB (chủ yếu) và CMT
Thị trường xuất khẩu chính: Hàn Quốc, Mỹ, Nhật
- Cung cấp sản phẩm dệt may toàn diện từ sợi đến vải đến sản phẩm may mặc
Dưới sự hỗ trợ quản lý từ Eland Hàn Quốc, trách nhiệm xã hội đối với người lao động và môi trường làm việc đã được cải thiện một cách đáng kể.
Điểm yếu: Hoạt động sản xuất sợi chưa được hiệu quả
Điểm nhấn đầu tư: Khai thác thị trường vải chất lượng cao, vải đồng phục xuất khẩu sang Nhật Bản
Các nhà máy tại Hồ Chí Minh sẽ được di dời trong tương lai, điều này có thể ảnh hưởng lớn đến hoạt động kinh doanh Nhiều doanh nghiệp đã lên kế hoạch chuyển sản xuất sang Vĩnh Long Tuy nhiên, họ đang phải đối mặt với vấn đề kỷ luật lao động do tình trạng đình công và biểu tình tại khu vực này.
Cổ đông lớn của TCM hiện nay là E-land Asia Holdings Pte., Ltd Singapore, thuộc tập đoàn Eland, nổi bật với mạng lưới phân phối sản phẩm may mặc rộng lớn tại Hàn Quốc và Trung Quốc Hiện tại, sản phẩm của TCM cung cấp cho công ty Eland chiếm khoảng 35 - 40% doanh thu hàng năm.
Là doanh nghiệp tiên phong tại Việt Nam trong lĩnh vực dệt may với chuỗi giá trị toàn diện từ sợi, vải đến may, doanh nghiệp này có khả năng tận dụng tối đa các cơ hội từ các hiệp định thương mại tự do như FTA với EU và CPTPP, nhờ vào yêu cầu xuất xứ "từ vải trở đi" hoặc "từ sợi trở đi".
2.2 Rào cản gia nhập ngành 2.2.1 Rào cản về tài chính, công nghệ:
Ngành dệt may là một lĩnh vực thâm dụng lao động, không yêu cầu đầu tư lớn vào công nghệ hiện đại, tạo điều kiện thuận lợi cho việc mở nhà máy sản xuất Đầu tư cho máy may và đào tạo công nhân ở mức trung bình thấp, giúp giảm rào cản gia nhập Tuy nhiên, ngành dệt cần vốn đầu tư cao hơn cho máy móc và công nghệ, trong khi nguyên liệu đầu vào như bông hoàn toàn phải nhập khẩu, làm cho việc tham gia vào sản xuất sợi trở nên khó khăn hơn.
Ngành Dệt may Việt Nam, mặc dù là một ngành công nghiệp thâm dụng lao động, đang phải đối mặt với nhiều thách thức từ cuộc Cách mạng công nghiệp 4.0 Sự phát triển của tự động hóa và robot trong nền kinh tế toàn cầu khiến ngành này dần mất đi lợi thế về nhân công giá thấp Không chỉ những lao động trình độ thấp, mà ngay cả những người có kỹ năng bậc trung cũng sẽ bị ảnh hưởng nếu họ không được trang bị kiến thức mới, đặc biệt là kỹ năng sáng tạo cần thiết trong bối cảnh mới.
Theo báo cáo của Viện Nghiên cứu chiến lược, chính sách của Bộ Công Thương, mặc dù công nghệ trong lĩnh vực may mặc đã có sự tiến bộ, nhưng vẫn còn ở mức thấp và chậm so với các quốc gia khác Hiện tại, tỷ lệ sử dụng thiết bị công nghệ tiên tiến, đặc biệt là phần mềm trong thiết kế sản phẩm và quản lý sản xuất, chỉ đạt khoảng 20%.
Hiện nay, 70% thiết bị trong ngành Dệt có công nghệ trung bình, trong khi 10% thuộc công nghệ thấp Đặc biệt, các thiết bị dệt thoi chủ yếu đạt trình độ trung bình khá, nhưng công nghệ trong dệt kim vẫn đang ở mức thấp.
Ngành Dệt may Việt Nam hiện đang đối mặt với nhiều thách thức khi công nhân giá rẻ không còn là lợi thế cạnh tranh so với các nước như Lào, Campuchia và Bangladesh Hơn nữa, công nghệ sản xuất của Việt Nam vẫn còn kém phát triển so với các quốc gia tiên tiến.