CƠ SỞ LÝ THUYẾT
Mô hình phân tích theo Cấu trúc – Hành vi – Hiệu quả (SCP)
Mô hình này minh họa sự liên kết giữa cấu trúc tổ chức trong ngành, các hoạt động và chiến lược của doanh nghiệp, cũng như hiệu quả kinh doanh tổng thể của ngành.
Cấu trúc ngành bao gồm các yếu tố công nghệ, mức độ tập trung và điều kiện thị trường, tất cả đều ảnh hưởng đến tính cạnh tranh và hành vi giá cả trong ngành.
Mỗi doanh nghiệp tham gia vào thị trường với cấu trúc ngành khác nhau sẽ áp dụng các chiến lược kinh doanh đa dạng, bao gồm điều chỉnh giá cả, phát triển quảng cáo, đầu tư vào nghiên cứu và phát triển, cũng như tìm kiếm cơ hội liên kết với các doanh nghiệp khác.
Hiệu quả của các hãng trên thị trường phụ thuộc vào việc xác định mức giá hợp lý cho sản phẩm, phân bổ nguồn lực một cách hiệu quả và tối ưu hóa phúc lợi xã hội từ việc sử dụng sản phẩm của họ.
Mức độ tập trung thị trường
Trong bối cảnh toàn cầu hóa kinh tế và tự do hóa thương mại, các doanh nghiệp và quốc gia đều hưởng lợi từ những lợi ích kinh tế rõ rệt Tuy nhiên, điều này cũng làm cho các quyết định kinh tế trở nên phức tạp hơn Để đưa ra các quyết định đầu tư và chính sách hiệu quả, nhà đầu tư và nhà lập pháp cần chú ý đến nhiều chỉ số kinh tế, trong đó mức độ tập trung của ngành được xem là yếu tố quan trọng hàng đầu Mức độ tập trung của ngành phản ánh mức độ cạnh tranh trên thị trường và vị trí của các doanh nghiệp lớn Một ngành có mức độ tập trung thấp cho thấy các công ty lớn không chi phối đáng kể nguồn cung, dẫn đến cạnh tranh cao Ngược lại, mức độ tập trung cao chỉ ra rằng các doanh nghiệp lớn có sức mạnh thị trường, thường được gọi là “độc quyền” hoặc “độc quyền nhóm”.
Trước đây, mức độ tập trung ngành được xác định bằng cách cộng dồn thị phần của các doanh nghiệp lớn nhất Tuy nhiên, từ năm 1982, Luật thương mại Liên bang Mỹ đã áp dụng chỉ số Herfindahl-Hirschman (HHI) như một tiêu chuẩn để tính toán mức độ tập trung thị trường Hiện nay, hai chỉ số phổ biến nhất để đánh giá mức độ tập trung ngành là chỉ số Herfindahl-Hirschman (HHI) và tỷ lệ tập trung.
1.2.1 Tỷ lệ tập trung 4 công ty
Tỉ lệ tập trung bốn công ty (Four-firm concentration ratios) đo lường tỷ lệ doanh thu mà bốn công ty lớn nhất trong một ngành tạo ra so với tổng doanh thu của toàn ngành Thông qua chỉ số này, chúng ta có thể đánh giá mức độ tập trung thị trường và ảnh hưởng của các công ty lớn đối với cạnh tranh trong ngành.
Gọi 𝑆 1 , 𝑆 2 , 𝑆 3 , 𝑆 4 là doanh thu của bốn công ty lớn nhất trong một ngành, 𝑆 𝑡 là tổng doanh thu của ngành Tỷ lệ tập trung của 4 công ty là :
𝑆 𝑡 Khi đó, tỷ lệ tập trung 4 công ty chính là tổng thị phần của 4 công ty hàng đầu trong ngành
Khi một ngành có nhiều công ty hoạt động, thị phần của từng công ty sẽ rất nhỏ, dẫn đến tỷ lệ tập trung của bốn công ty hàng đầu gần như bằng 0.
- Khi tổng sản lượng của một ngành được đóng góp bởi ít hơn 4 công ty thì tỷ lệ tập trung của 4 công ty là 1
- Tỷ lệ này càng tiệm cận 1 thì độ tập trung ngành càng cao
- Tỷ lệ này càng tiệm cận 0 thì độ tập trung ngành càng thấp
1.2.2 Chỉ số Herfindahl-Hirschman (HHI)
Chỉ số này, được phát triển đầu tiên bởi Hirschman và sau đó là Herfindahl, tính toán mức độ tập trung của ngành bằng cách tổng hợp bình phương thị phần của tất cả các doanh nghiệp.
Giả sử: thị phần của công ty i trong ngành là 𝑤 𝑖 = 𝑆 𝑖
𝑆 𝑡 , 𝑆 𝑖 là doanh thu của công ty i, 𝑆 𝑡 là doanh thu của ngành Ta có công thức tính chỉ số HHI:
- Giá trị của HHI sẽ nằm trong khoảng (0, 10000)
- Nếu HHI = 10000 có nghĩa là chỉ tồn tại duy nhất một công ty trong ngành
- Nếu HHI = 0 có nghĩa là tồn tại vô số các công ty nhỏ trong ngành
Đo lường hiệu quả hoạt động kinh doanh
1.3.1 Hiệu quả kinh doanh thông qua các chỉ số về mặt lợi nhuận
1.3.1.1 Tỷ suất lợi nhuận trên tổng tài sản (ROA)
Tổng tài sản bình quân kì
Chỉ số này thể hiện khả năng sinh lợi từ tổng tài sản của doanh nghiệp, phản ánh hiệu quả của việc đầu tư và khai thác tài sản trong việc tạo ra lợi nhuận cao.
1.3.1.2 Tỷ suất lợi nhuận trên vốn chủ sở hữu
Chỉ số ROE (Return on Equity) thể hiện khả năng sinh lợi trên vốn chủ sở hữu, cho thấy mức độ hấp dẫn khi đầu tư vào cổ phiếu của doanh nghiệp Một doanh nghiệp có ROE từ 15% đến 20% thường được xem là đủ hấp dẫn để thu hút vốn đầu tư.
1.3.1.3 Chỉ số quay vòng tổng tài sản TAT:
Tổng tài sản bình quân
Chỉ số đo lường khả năng tạo ra doanh thu từ tổng tài sản cho biết mỗi đồng đầu tư vào tài sản mang lại bao nhiêu đồng doanh thu Tổng tài sản được tính bằng trung bình số dư đầu kỳ và số dư cuối kỳ Chỉ số này càng cao chứng tỏ hiệu quả sử dụng tài sản càng lớn Đặc biệt, các doanh nghiệp thâm dụng lao động thường có chỉ số vòng quay tổng tài sản cao hơn so với các ngành khác.
1.3.2 Hiệu quả kinh doanh về mặt phúc lợi xã hội
Thặng dư người tiêu dùng (CS) là sự chênh lệch giữa mức giá mà người tiêu dùng sẵn sàng chi trả cho hàng hóa và giá thực tế họ phải trả Người tiêu dùng thường thực hiện giao dịch khi cảm thấy lợi ích thu được lớn hơn chi phí cơ hội Điều này dẫn đến việc họ nhận được lợi ích ròng từ việc mua bán hàng hóa, khi giá trị mà họ nhận được vượt quá chi phí bỏ ra.
Thặng dư sản xuất (PS) là chênh lệch giữa số tiền mà nhà sản xuất mong muốn nhận cho hàng hóa và số tiền thực tế mà họ thu được từ giao dịch.
Nó chính là thước đo phúc lợi của nhà sản xuất
Trách nhiệm xã hội của doanh nghiệp (CSR) là cam kết của doanh nghiệp trong việc đóng góp vào sự phát triển kinh tế bền vững Điều này được thực hiện thông qua các hoạt động nhằm nâng cao chất lượng cuộc sống cho người lao động và gia đình họ, đồng thời mang lại lợi ích cho cộng đồng và xã hội CSR không chỉ mang lại lợi ích cho doanh nghiệp mà còn cho toàn thể xã hội.
TỔNG QUAN NGÀNH DỆT VIỆT NAM
Lịch sử hình thành và phát triển ngành dệt may
Ngành dệt may ở Việt Nam có lịch sử phát triển lâu đời, đặc biệt là ngành dệt sợi, đã hình thành từ thời kỳ thực dân Pháp đô hộ Trước khi bị xâm lược, Việt Nam đã có nhiều nhà sản xuất vải sử dụng sợi nhập khẩu Tuy nhiên, thực dân Pháp đã tăng thuế nhập khẩu sợi, gây khó khăn cho sản xuất vải trong nước Mặc dù vậy, nhiều nhà máy dệt hiện đại do Pháp đầu tư đã được thành lập, với nhà máy dệt đầu tiên xây dựng tại Nam Định vào năm 1889, tiếp theo là Hà Nội năm 1894 và Hải Phòng Đến năm 1912, ba nhà máy này đã được hợp nhất thành "Công ty dệt vải Đông Kinh".
Có thể nói, chính phủ Pháp đã thu được nhiều lợi nhuận nhờ việc kinh doanh độc quyền ngành dệt may
Sau đại chiến thứ hai, ngành dệt may Việt Nam đã có sự phát triển mạnh mẽ Các doanh nghiệp miền Bắc đã nhập khẩu máy móc dệt sợi từ Trung Quốc, Liên Xô và các nước Đông Âu, trong khi các doanh nghiệp miền Nam lại chọn máy móc từ các nước phương Tây để nâng cao năng lực sản xuất hàng dệt may.
Năm 1975, sau khi giải phóng miền Nam và thống nhất đất nước, Chính phủ đã tiếp quản nhiều nhà máy dệt may tại miền Nam, bao gồm Công ty dệt Thắng Lợi, Việt Thắng, Thành Công và Phong Phú Các doanh nghiệp quốc doanh trung ương như Công ty may Hà Nội, Công ty dệt may Nha Trang và Công ty dệt may Huế cũng được thành lập, giúp ngành công nghiệp dệt may nhanh chóng phát triển để đáp ứng nhu cầu thị trường trong nước Từ năm 1976, sản phẩm dệt may của Việt Nam bắt đầu được xuất khẩu sang các nước Đông Âu, với hợp đồng xuất khẩu đầu tiên sang Liên Xô cũ Trong khuôn khổ hợp tác này, Việt Nam nhận bông từ Liên Xô và chuyển trả thành phẩm Đến năm 1979, Việt Nam đã mở rộng hợp tác xuất khẩu sang các quốc gia khác như Hungary, Tiệp Khắc và Đông Đức.
Giai đoạn 1987 – 1990, ngành công nghiệp dệt may Việt Nam phát triển mạnh mẽ với sự ra đời của nhiều doanh nghiệp, thu hút lực lượng lao động lớn và đóng góp đáng kể vào ngân sách nhà nước Tuy nhiên, từ 1990 – 1992, sự tan rã của hệ thống các nước Xã hội chủ nghĩa đã ảnh hưởng nghiêm trọng đến thị trường xuất khẩu, khiến ngành dệt may phải đối mặt với nhiều thách thức Trong bối cảnh đó, Đảng và Nhà nước đã khởi xướng chính sách đổi mới kinh tế, chuyển từ kinh tế bao cấp sang cơ chế tự hạch toán kinh doanh xã hội chủ nghĩa.
Trong những năm gần đây, ngành dệt may Việt Nam đã có sự phát triển mạnh mẽ, trở thành một trong những ngành sản xuất công nghiệp chủ chốt của nền kinh tế quốc dân.
Trong số các doanh nghiệp sản xuất hàng đầu, Vinatex – một doanh nghiệp nhà nước đã chiếm tới 22% tỷ trọng xuất khẩu dệt may của nước ta trong năm 2006.
Vai trò của công nghiệp dệt may đối với việc phát triển kinh tế xã hội ở Việt Nam 10 1 Cung cấp hàng hóa tiêu dùng
2.2.1 Cung cấp hàng hóa tiêu dùng
Ngành dệt may có nhiệm vụ cung cấp sản phẩm cho thị trường nội địa, đáp ứng nhu cầu đa dạng từ quần áo, bít tất đến vải vóc, từ bình dân đến cao cấp Khi chất lượng cuộc sống tăng cao, nhu cầu về may mặc cũng gia tăng, đặc biệt ở một quốc gia với dân số hơn 90 triệu người Do đó, cần đầu tư phát triển ngành dệt may với định hướng vào thị trường nội địa, sản xuất nhiều mặt hàng phong phú về mẫu mã và kiểu dáng để kích thích tiêu dùng và hướng dẫn xu hướng thời trang Ngành dệt may được tổ chức trên toàn quốc, đảm bảo mối quan hệ chặt chẽ giữa sản xuất và lưu thông, từ đó kiểm soát thị trường nội địa hiệu quả trong mọi tình huống.
2.2.2 Cung cấp các sản phẩm xuất khẩu, mở rộng thương mại quốc tế
Trong giai đoạn đầu của công nghiệp hoá, ngành dệt may Việt Nam đóng vai trò quan trọng trong việc tích luỹ tư bản cho phát triển công nghiệp Ngành này đã đẩy mạnh xuất khẩu thông qua gia công và thương mại với các nước phát triển như Nhật Bản, Canada, Đài Loan, Hồng Kông, Hàn Quốc và Singapore Sau khi Mỹ bỏ cấm vận, thị trường dệt may Việt Nam đã mở rộng thêm sang Mỹ Để duy trì sự ổn định và mở rộng thị trường quốc tế, ngành dệt may chú trọng vào việc tạo niềm tin về chất lượng, số lượng, mẫu mã sản phẩm và thực hiện đúng hợp đồng Hiện nay, ngành đã thiết lập mối quan hệ buôn bán với nhiều quốc gia.
Ngành Dệt May Việt Nam đã phát triển mạnh mẽ từ năm 2002, với mức tăng trưởng trung bình hàng năm đạt 20% Mặc dù xuất khẩu dệt may gặp khó khăn sau cuộc khủng hoảng kinh tế 2008, nhưng đã hồi phục và duy trì mức tăng trưởng trung bình 15% cho đến nay Năm 2017, ngành này đạt thặng dư xuất khẩu kỷ lục 15.5 tỷ USD, và trong 8 tháng đầu năm 2018, kim ngạch xuất khẩu đã đạt 19.4 tỷ USD, tăng 15% so với cùng kỳ năm trước Hoạt động xuất khẩu không chỉ thúc đẩy sự hợp tác kinh tế giữa Việt Nam và các quốc gia khác mà còn giúp doanh nghiệp tiếp cận thông tin thị trường và thiết lập mối quan hệ kinh doanh hiệu quả trong hoạt động xuất nhập khẩu.
2.2.3 Góp phần giải quyết các vấn đề xã hội
Xuất khẩu và mở rộng thị trường sản phẩm dệt may không chỉ giúp Nhà nước giải quyết vấn đề việc làm mà còn nâng cao mức sống người dân, góp phần xóa đói giảm nghèo Hoạt động xuất khẩu thúc đẩy quy mô sản xuất và chất lượng sản phẩm, thu hút thêm lao động với thu nhập ổn định Người lao động được đào tạo bài bản, nâng cao tay nghề và tiếp cận công nghệ sản xuất dệt may hiện đại.
Tiềm năng của ngành dệt may Việt Nam
Hiện nay, dệt may Việt Nam đang đứng trước cơ hội lớn để trở thành trung tâm sản xuất toàn cầu Các chuyên gia quốc tế cho rằng, để đạt được vị trí này, ngành công nghiệp dệt may cần cung ứng ít nhất 10% nhu cầu của thế giới và phát triển bền vững trong 20 năm tới.
Việt Nam đã có 30 năm phát triển với chuỗi cung ứng hoàn chỉnh, có khả năng cung cấp 50-60% nguyên phụ liệu nội địa Thị trường trong nước đủ lớn cùng với hệ thống giao thông và cảng biển thuận tiện cho xuất khẩu, giúp giảm chi phí ngoài sản xuất và nâng cao tính cạnh tranh, đặc biệt là về thời gian giao hàng Những yếu tố này cho thấy Việt Nam hoàn toàn đủ điều kiện để trở thành trung tâm Dệt may của thế giới.
- Để sản xuất cung ứng trên 70 tỷ USD hàng Dệt may, Việt Nam cần có khoảng 7-
8 triệu lao động trong khu vực này, tăng thêm 5 triệu lao động so với hiện nay
Với dân số Việt Nam và khoảng 30 triệu lao động ở khu vực nông thôn, có thể thấy rằng hiện tại đang dư thừa khoảng 20% lao động, theo nghiên cứu của TS Phạm Đăng Quyết từ Viện Khoa học Thống kê năm 2012 tại tỉnh Hải Dương Do đó, việc thu hút thêm 5 triệu lao động trong 10-15 năm tới là hoàn toàn khả thi.
Chuỗi cung ứng trong nước hiện đang sử dụng 35% lượng nguyên liệu cần thiết, tạo nền tảng vững chắc để tăng lên trên 50% trong vòng 5 năm tới Đặc biệt, các hiệp định FTA, như YF trong TPP, sẽ là chất xúc tác quan trọng quy định nguồn gốc nguyên liệu từ Việt Nam.
- Vị trí địa kinh tế thuận lợi cho xuất khẩu đường biển, khoảng cách tới các cảng biển từ các điểm sản xuất trong nội địa dưới 200km.
PHÂN TÍCH HOẠT ĐỘNG CỦA NGÀNH
Cấu trúc thị trường ngành dệt
3.1.1 Mô tả và xử lí số liệu Để xử lí bộ số liệu năm 2011 và tính toán các chỉ số đo lường mức độ tập trung của ngành dệt may Việt Nam năm 2011 ta thực hiện như sau:
- Bước 1: Sử dụng phần mềm Excel mở bộ số liệu năm 2011 – chọn file DN2011
Ngành dệt Việt Nam, được phân loại theo mã VSIC 2007, có mã cấp 2 là 13, bao gồm hai nhánh chính: sản xuất sợi, dệt thoi và hoàn thiện sản phẩm dệt (mã cấp 3: 131) cùng với sản xuất hàng dệt khác (mã cấp 3: 132).
Để thu thập dữ liệu của các doanh nghiệp có mã ngành từ 13100 đến 13290, bước đầu tiên là lọc thông tin trên file Excel DN2011 Cần giữ lại các giá trị quan trọng như mã doanh nghiệp, loại hình doanh nghiệp, mã số thuế, ngành kinh doanh, tổng số lao động tại thời điểm 1/1/2011 và 31/12/2011, thu nhập của người lao động, tổng tài sản, vốn chủ sở hữu, doanh thu bán hàng và cung cấp dịch vụ, doanh thu thuần, doanh thu hoạt động tài chính, thu nhập khác, lợi nhuận sau thuế, tỷ số lợi nhuận trên tài sản và tỷ số lợi nhuận ròng trên vốn chủ sở hữu, cùng tổng kết quả kinh doanh của các doanh nghiệp trong ngành.
- Bước 3: Lưu bố dữ liệu vừa lọc thành file mới để dễ dàng quan sát, tính toán và đưa vào phần mềm STATA để phân tích
- Bước 4: Hoàn thành xử lí số liệu và bắt đầu tính toán
3.1.2 Cấu trúc thị trường ngành dệt
Cấu trúc thị trường đề cập đến hành vi của người bán và người mua trong một thị trường cụ thể Các nhà kinh tế phân loại thị trường thành nhiều loại khác nhau dựa trên mức độ cạnh tranh và mức độ độc quyền hiện có.
Cấu trúc thị trường được xác định bởi số lượng doanh nghiệp cạnh tranh, quy mô của các doanh nghiệp, đánh giá về công nghệ và chi phí, cũng như mức độ dễ dàng gia nhập và rời khỏi thị trường.
Theo thống kê, năm 2011, thị trường dệt may Việt Nam ghi nhận có 2.242 doanh nghiệp hoạt động Dữ liệu cho thấy số lượng doanh nghiệp trong ngành dệt được phân chia theo các lĩnh vực khác nhau.
Mã cấp 5 Tên Số lượng
131 Sản xuất sợi, vải dệt thoi và hoàn thiện sản phẩm dệt
1312 13120 Sản xuất vải dệt thoi 298
1313 13130 Hoàn thiện sản phẩm dệt 318
132 Sản xuất hàng dệt khác 1289
1321 13210 Sản xuất vải dệt kim, vải đan móc và vải không dệt khác
1322 13220 Sản xuất hàng may sẵn (trừ trang phục) 562
1323 13230 Sản xuất thảm, chăn đệm 83
1324 13240 Sản xuất các loại dây bện và lưới 107
1329 13290 Sản xuất các loại hàng dệt khác chưa được phân vào đâu
Bảng 1: Thống kê số doanh nghiệp trong ngành
Ta dựa vào số lượng lao động để phân loại quy mô doanh nghiệp với các quy ước như sau:
- Tổng số lao động thời điểm 31/12/2010 < 10 (ld13 300: doanh nghiệp lớn
Từ đó, số lượng các doanh nghiệp được sắp xếp vào các nhóm như sau:
- Có 745 doanh nghiệp siêu nhỏ với ít hơn 10 lao động
- Có 1292 doanh nghiệp nhỏ với số lượng lao động từ 10 đến 200
- Có 70 doanh nghiệp vừa với số lượng lao động từ 200 đến 300
- Có 134 doanh nghiệp lớn với nhiều hơn 300 lao động
Trong đó: có 2207 doanh nghiệp khai báo tổng số lao động thời điểm 1/1/2011 và
Tính đến thời điểm 31/12/2011, có 2.241 doanh nghiệp đã khai báo tổng số lao động với giá trị lớn nhất là 4.084 Đồng thời, giá trị lớn nhất ghi nhận là 4.555 cho các doanh nghiệp có mã số thuế.
600019436 có số lượng lao động lớn nhất
3.1.2.2 Mức độ tập trung của ngành
Mức độ tập trung của ngành phản ánh sự cạnh tranh giữa các doanh nghiệp, cho thấy liệu có sự cạnh tranh cao hay thấp, cũng như tình trạng độc quyền hay cạnh tranh hoàn hảo Điều này liên quan trực tiếp đến thị phần của các doanh nghiệp trong ngành Tỷ lệ tập trung của bốn công ty trong ngành là một yếu tố quan trọng để đánh giá mức độ cạnh tranh.
Ta có: Tổng doanh thu = Doanh thu bán hàng và cung cấp dịch vụ + Doanh thu hoạt động tài chính + Thu nhập khác
Hay : Tổng doanh thu doanh nghiệp = kqkd1 + kqkd9 + kqkd17
STT Tên doanh nghiệp Mã số thuế Doanh thu Thị phần
1 Công ty TNHH Hưng Nghiệp Formosa 3600517557 16056900 18.06%
3 Công Ty Cổ Phần Dệt Texhong Việt Nam 3600852146 8579241 9.65%
Bảng2: Doanh thu và thị phần của 4 công ty lớn trong ngành
Từ kết quả trên, tỷ lệ tập trung bốn công ty 𝐶 4 = 47.53 %
Bốn công ty dẫn đầu trong ngành dệt, thuộc nhóm sản xuất sợi, chiếm tới 47.53% doanh thu toàn ngành, cho thấy mức độ tập trung cao và cạnh tranh mạnh mẽ giữa các doanh nghiệp Chỉ số HHI cũng phản ánh điều này.
Dựa vào công thức phần lý thuyết nhóm tính được chỉ số HHI = 3382.8482>1000
Ngành dệt may đang đối mặt với mức độ cạnh tranh cao giữa các doanh nghiệp, điều này phản ánh thực tế khi có hàng trăm doanh nghiệp hoạt động trong cùng lĩnh vực và phải cạnh tranh với các sản phẩm nhập khẩu từ nước ngoài Để nâng cao thị phần, các doanh nghiệp cần cải thiện chất lượng sản phẩm, tối ưu giá cả và tìm kiếm các lợi thế cạnh tranh khác.
3.1.2.3 Cầu và điều kiện thị trường a Cầu và điều kiện thị trường trong nước
Thị trường nội địa đang trở thành mục tiêu chính cho các doanh nghiệp với mức tiêu thụ tăng trung bình từ 10-15% mỗi năm Tuy nhiên, tỷ lệ sản phẩm dệt may tiêu thụ có nguồn gốc nội địa vẫn còn thấp, chỉ đạt 23% vào năm 2010 và tăng lên 33% vào năm 2017.
Mặc dù tỷ trọng nội địa hóa có xu hướng tăng nhưng tăng với tốc độ tương đối chậm
Tỷ lệ sản phẩm Trung Quốc hiện chiếm hơn 50% thị trường tiêu thụ sản phẩm may mặc nội địa, cho thấy sự phụ thuộc của người tiêu dùng vào hàng hóa ngoại nhập Nhu cầu về sản phẩm cụ thể trong ngành công nghiệp dệt may thường bị ảnh hưởng bởi số lượng sản phẩm thay thế có sẵn Sự hiện diện của các sản phẩm thay thế từ Trung Quốc đã làm giảm cầu thị trường trong nước, khi người tiêu dùng có xu hướng lựa chọn những sản phẩm thay thế với chi phí hợp lý hơn.
Mỹ là đối tác lớn nhất trong việc nhập khẩu hàng dệt may của Việt Nam, theo số liệu thống kê hải quan trong những năm qua Thị trường Mỹ luôn dẫn đầu về nhập khẩu hàng dệt may từ Việt Nam, cho thấy tầm quan trọng của nhóm hàng này trong xuất khẩu của Việt Nam.
Mỹ chiếm khoảng 50% tổng kim ngạch xuất khẩu hàng dệt may của Việt Nam, nhưng việc thâm nhập vào thị trường này không hề dễ dàng Các doanh nghiệp phải đảm bảo giao hàng đúng hạn và đạt tiêu chuẩn chất lượng cao Ngoài ra, khách hàng Mỹ còn yêu cầu tuân thủ các tiêu chuẩn lao động nghiêm ngặt, bao gồm mức lương, điều kiện làm việc và môi trường sản xuất Việc tăng ca, trả lương thấp và môi trường lao động không đảm bảo được coi là cạnh tranh không lành mạnh Hiện nay, một trong những khó khăn lớn nhất của các doanh nghiệp dệt may là thiếu thông tin kịp thời về các quy định và tiêu chuẩn mới tại thị trường Mỹ.
Ngoài thị trường Mỹ, EU và Nhật Bản cũng là hai thị trường quan trọng nhập khẩu hàng dệt may của Việt Nam, chiếm tỷ trọng 18% và 11% trong tổng kim ngạch xuất khẩu năm 2009 Trong ba thị trường này, Mỹ dẫn đầu với tốc độ tăng trưởng xuất khẩu dệt may cao nhất, trung bình đạt 19% mỗi năm từ 2006 đến 2011, trong khi EU và Nhật Bản có tốc độ tăng trưởng lần lượt là 16.1% và 10.7%.
Kim ngạch xuất khẩu hàng dệt may Việt Nam sang Mỹ (triệu USD) 3045 4465 5106 4995 6000 6863
Kim ngạch xuất khẩu hàng dệt may cả nước (triệu USD) 5834 7750 9120 9066 11200 14037
Tỷ trọng trong tổng kim ngạch xuất khẩu dệt may cả nước 52.2 57.6 56.0 55.1 53.6 48.9
Bảng 3: Kim ngạch xuất khẩu hàng dệt may Việt Nam
Hành vi doanh nghiệp
3.2.1 Hoạt động nghiên cứu và phát triển
Ngành dệt Việt Nam hiện đang đối mặt với nhiều thách thức, bao gồm năng lực sản xuất kém và công nghệ lạc hậu, chủ yếu thực hiện gia công cho nước ngoài hoặc sản xuất sản phẩm đơn giản, trong khi các sản phẩm yêu cầu kỹ thuật cao vẫn chưa được đáp ứng Tuy nhiên, nếu được đầu tư đúng mức về công nghệ, ngành dệt có thể phát huy tiềm năng lao động và chất lượng Gần đây, nhiều doanh nghiệp tư nhân đã bắt đầu đầu tư vào thiết bị sản xuất nguyên liệu, với xu hướng sử dụng máy dệt cũ từ châu Âu hoặc máy dệt giá rẻ từ Trung Quốc để giảm chi phí sản xuất Kết quả khảo sát của Viện Nghiên cứu Quản lý Kinh tế Trung ương (CIEM) cho thấy 70% trong số 100 doanh nghiệp được khảo sát đang sử dụng dây chuyền công nghệ đồng bộ ở mức trung bình, trong đó 23% có tỷ lệ sử dụng dây chuyền công nghệ đồng bộ cao.
Mức độ tự động hóa trong các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài đang gia tăng, với 60% doanh nghiệp được khảo sát cho biết tỷ lệ thiết bị tự động hóa và bán tự động hóa trong dây chuyền công nghệ đạt từ 40% trở lên.
Các doanh nghiệp nhỏ cần liên kết chặt chẽ để tối ưu hóa quy trình sản xuất, từ đầu vào đến hoàn tất, nhằm nâng cao hiệu quả Dệt Phong Phú đã tiên phong trong việc ký kết liên doanh với Berlington Worldwide (BWW) thuộc Tập đoàn ITG (Mỹ), qua đó tiếp nhận công nghệ sản xuất vải đạt tiêu chuẩn quốc tế.
Doanh nghiệp có thể xây dựng thương hiệu sản phẩm dựa trên thị trường, mục tiêu chiến lược, vị thế cạnh tranh và yếu tố môi trường tiếp thị Nhiều doanh nghiệp trong ngành dệt may hiện nay đang đầu tư mạnh vào phát triển thương hiệu Chẳng hạn, Công ty Dệt Thái Tuấn đang hướng đến việc đưa sản phẩm gấm may áo dài vào thị trường Mỹ, nơi có đông đảo người Việt sinh sống, nhằm tạo dựng hình ảnh thương hiệu với người tiêu dùng Hoa Kỳ.
Hiệu suất của doanh nghiệp
Mã ngành Tên ngành ROA ROE TAT
13120 Sản xuất vải dệt thoi 0.035025 0.090992 1.180441
13130 Hoàn thiện sản phẩm dệt -0.0498 -0.01583 0.821437
13210 Sản xuất vải dệt kim, vải đan móc và vải không dệt khác -0.0603 -0.01723 1.327287
13220 Sản xuất hàng dệt sẵn (trừ trang phục) 0.021126 0.0711741 1.06434
13230 Sản xuất thảm, chăn, đệm 0.19518 0.06324 1.008315
13240 Sản xuất các loại dây bện và lưới 0.36277 0.083579 1.049377
13290 Sản xuất các loại hàng dệt khác chưa được phân vào đâu 0.05322 0.121741 1.110774
Bàng 4: Tổng hợp các chỉ số lợi nhuận của các nhóm ngành dệt may năm 2011
Trung bình toàn ngành dệt, mỗi đơn vị tài sản tạo ra khoảng 1.089 đơn vị doanh thu Tuy nhiên, các ngành như hoàn thiện sản phẩm dệt, sản xuất thảm, chăn, đệm và sản xuất các loại dây bện và lưới lại có hiệu quả sử dụng tài sản kém hơn, với chỉ số quay vòng tổng tài sản thấp hơn mức trung bình toàn ngành.
Chỉ số ROA trung bình trong ngành dệt đạt 1.43%, với ngành sản xuất thảm, chăn, đệm sợi có tỷ lệ cao nhất là 19.5% Ngược lại, ngành sản xuất vải dệt kim, vải đan móc và loại vải không dệt kim khác ghi nhận tỷ lệ thấp nhất, cho thấy mỗi 1 đồng tài sản đầu tư vào hoạt động kinh doanh sẽ dẫn đến việc giảm khoảng 6 đồng lợi nhuận sau thuế.
Chỉ số ROE trung bình của ngành dệt đạt 3.8%, với ngành sản xuất hàng dệt có ROE cao nhất là 12.2% Ngược lại, ngành sản xuất vải dệt kim, vải đan móc và các loại vải không dệt kim khác ghi nhận ROE thấp nhất ở mức -1.7%, cho thấy đây là lĩnh vực thiếu tiềm năng đầu tư.
3.3.2 Đánh giá năng suất lao động
Số Giá trị Độ lệch Giá trị Giá trị quan sát trung bình chuẩn nhỏ nhất lớn nhất
Nguồn: Nhóm tác giả tổng hợp từ STATA14
Mức năng suất lao động trung bình của toàn ngành đạt 626.2618 triệu đồng, cao hơn so với mức trung bình chung của các ngành kinh tế tại Việt Nam Trong đó, Công ty TNHH Hưng Nghiệp Formosa trong ngành 13110 có hiệu quả sử dụng lao động cao nhất với 12898.66 triệu đồng, trong khi Công ty TNHH Samil Vina thuộc ngành 13210 có mức thấp nhất chỉ đạt 0.022222 triệu đồng.
3.3.3 Đánh giá hoạt động của doanh nghiệp trong nước và doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài
Dựa vào bộ số liệu 2011, nhóm đã tổng hợp và thống kê được dưới bảng sau:
Mã thuế Nslđ ROA ROS Mã thuế Nslđ ROA ROS
Các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài thường đạt tỷ suất lợi nhuận trên doanh thu cao hơn so với doanh nghiệp trong nước, mặc dù mức năng suất lao động và hiệu quả sử dụng vốn tương đương Một số doanh nghiệp trong nước có năng suất lao động cao nhưng tỷ suất lợi nhuận lại không đáng kể, điều này có thể được lý giải bởi khả năng tiếp cận khoa học công nghệ, cải tiến kỹ thuật sản xuất và tối ưu hóa chi phí.
Một số doanh nghiệp nước ngoài có tỷ suất sinh lợi trên tài sản (ROA) tương đương với doanh nghiệp Việt Nam và hiệu quả sử dụng lao động cao hơn nhiều, nhưng lại chỉ đạt được tỷ suất lợi nhuận trên doanh thu ở mức khiêm tốn, thậm chí thấp hơn so với các doanh nghiệp nội địa.
3.3.4 Đánh giá hiệu quả hoạt động doanh nghiệp về mặt phúc lợi xã hội
Theo đánh giá của UNIDO, nhiều doanh nghiệp Việt Nam chưa đáp ứng được tiêu chí CSR, mặc dù đây là yếu tố quan trọng trong chiến lược kinh doanh Ngành dệt may Việt Nam hiện đang đối mặt với nhiều thách thức, dẫn đến biến động lao động và bất ổn trong sản xuất Ngành này chủ yếu sử dụng lao động phổ thông, phần lớn là lao động nhập cư với trình độ văn hóa không đồng đều và hiểu biết pháp luật hạn chế, gây ra tranh chấp, nghỉ việc và đình công.
Một trong những tiêu chí quan trọng của CSR là tuân thủ thời gian làm việc quy định cho người lao động Tuy nhiên, ngành dệt may Việt Nam hiện nay đang đối mặt với thực trạng nếu không tăng ca, sẽ không chỉ khó khăn trong việc đảm bảo tiến độ giao hàng mà còn không đáp ứng được nhu cầu của công nhân xa quê muốn kiếm thêm thu nhập.
Trong ngành dệt, chỉ khoảng 15-20% doanh nghiệp áp dụng công nghệ đồng bộ cao, trong khi 70% sử dụng công nghệ trung bình và 10-15% áp dụng công nghệ thấp Lượng hóa chất sử dụng trong các doanh nghiệp dệt và nhuộm dao động từ 500 đến 2.000 kg/tấn sản phẩm, bao gồm các hóa chất vô cơ như axit, kiềm, dung môi và muối Đặc biệt, phần lớn doanh nghiệp dệt may tại Việt Nam có quy mô vừa và nhỏ thường chỉ tập trung vào sản xuất và bán hàng, dẫn đến việc quản lý hóa chất bị thụ động Nhiều doanh nghiệp chỉ chú trọng đến vấn đề này khi xảy ra sự cố hoặc khi gặp vấn đề liên quan đến hóa chất trong quy trình sản xuất.
Việc thực hiện trách nhiệm xã hội doanh nghiệp (CSR) trong ngành dệt may tại Việt Nam đã có những bước tiến cơ bản, nhưng vẫn còn nhiều doanh nghiệp chỉ thực hiện theo phong trào và nhằm mục đích quảng bá thương hiệu Điều này cho thấy cần có những chiến lược triển khai CSR thực chất và bền vững hơn để nâng cao hiệu quả và ý nghĩa của các hoạt động này.
Mô hình SCP
Nhóm nghiên cứu đã lựa chọn các biến đại diện cho đầu vào và quy trình sản xuất để xây dựng mô hình kinh tế lượng, nhằm phân tích những yếu tố ảnh hưởng đến hiệu quả doanh nghiệp Mô hình được biểu diễn qua phương trình ln_kqkd1 = 𝜷 + 𝜷 *ln_ldbq + 𝜷 *ln_nsld + 𝜷 *ln_ts12 + 𝜷 *nophaitra + u.
- 𝛽 0 : hệ số chặn của mô hình ,
- 𝛽 1 ; 𝛽 2 ; 𝛽 3 ; 𝛽 4 : là các hệ số góc thể hiện tác động riêng phần của từng biến độc lập lên biến phụ thuộc
- u là nhiễu (Phần sai số ngẫu nhiên, đại diện cho các yếu tố không quan sát được
Biến tên và ý nghĩa trong phân tích kinh doanh bao gồm: ln_kqkd1, là logarit của doanh thu bán hàng và cung cấp dịch vụ của doanh nghiệp; ln_ldbq, là logarit của lao động bình quân, được tính bằng công thức (TSLD + LD11) / 2; và ln_nsld, logarit của năng suất lao động, cho biết lượng doanh thu mà một đơn vị lao động tạo ra Thêm vào đó, ln_ts12 cũng là một biến quan trọng trong nghiên cứu này.
Logarit của tổng tài sản của doanh nghiệp (Kỳ vọng tài sản tăng thì các nguồn lực cho sản xuất được củng cố lợi nhuận tăng)
+ nophaitra Nợ phải trả của doanh nghiệp +
Sau đây là kết quả ước lượng hệ số trong mô hình hồi quy: ln_kqkd1 Coef Std Err t P>t [95% Conf ln_ldbq 0.95506 0.0079 120.95 0 0.9395689 0.97055 ln_nsld 0.95936 0.00642 149.48 0 0.9467718 0.97195 ln_ts12 0.03716 0.0075 4.96 0 0.0224564 0.05187
Nguồn: nhóm tác giả tổng hợp từ STATA14
- Kiểm tra đa cộng tuyến trong mô hình
Variable VIF 1/VIF ln_ts12 4.56 0.21907 ln_ldbq 3.32 0.3008 ln_nsld 1.75 0.5725
Nguồn: nhóm tác giả tổng hợp từ STATA 14
Ta thấy, chỉ số VIF = 2.69 < 10 nên đa cộng tuyến thấp và có thể chấp nhận được
Sau khi thực hiện hồi quy, các biến độc lập đã thể hiện tác động như mong đợi đến doanh thu bán hàng và cung cấp dịch vụ của doanh nghiệp Trong số đó, tổng tài sản doanh nghiệp là yếu tố có ảnh hưởng lớn nhất Theo thứ tự giảm dần về mức độ tương quan, các nhân tố ảnh hưởng đến lợi nhuận sau thuế bao gồm: tổng tài sản cuối năm, lao động bình quân, năng suất lao động và cuối cùng là nợ phải trả của doanh nghiệp.
Sau đây là tương quan giữa các biến trong mô hình: ln_kqkd1 ln_ldbq ln_nsld ln_ts12 nophaitra ln_kqkd1 1 ln_ldbq 0.7958 1 ln_nsld 0.7304 0.1815 1 ln_ts12 0.869 0.7884 0.5294 1 nophaitra 0.2953 0.2847 0.1534 0.3324 1
Nguồn: Nhóm tác giả tổng hợp từ STATA14
Sau khi tiến hành kiểm định và chữa lỗi
Biến Mô hình1 Mô hình chữa lỗi
Nguồn: nhóm tác giả tổng hợp từ STATA14
Tóm lại, phương trình hồi quy mẫu thu được là: ln_kqkd1 = 0.023+ 0.955*ln_ldbq +0.959*ln_nsld +0.037*ln_ts12+(3.25e-08)*nophaitra+
- Giải thích ý nghĩa riêng phần của các hệ số hồi quy:
Kết quả Ý nghĩa của các hệ số hồi quy
Trong điều kiện các yếu tố khác không đổi, khi lao động bình quân tăng 1% thì doanh thu bán hàng và cung cấp dịch vụ tăng 0.955%
Khi các yếu tố khác giữ nguyên, việc tăng năng suất lao động lên 1% sẽ dẫn đến doanh thu bán hàng và cung cấp dịch vụ của doanh nghiệp tăng 0.959%.
Khi các yếu tố khác không thay đổi, sự gia tăng 1% tổng tài sản vào cuối năm sẽ dẫn đến doanh thu bán hàng và cung cấp dịch vụ của doanh nghiệp tăng 0.037%.
Trong bối cảnh các yếu tố khác không đổi, khi nợ phải trả của doanh nghiệp tăng 1%, doanh thu bán hàng chỉ tăng rất ít (3.25e-08)% Để tối đa hóa lợi nhuận, doanh nghiệp cần đầu tư vào tài sản và nâng cao năng lực lao động, vì lao động được xác định là yếu tố then chốt quyết định mức lợi nhuận Mặc dù vốn và công nghệ quan trọng, nhưng con người với tư duy và kỹ năng cao mới là yếu tố quyết định Trong ngành dệt thâm dụng lao động, doanh thu chủ yếu đến từ sản xuất, trong khi doanh thu từ hoạt động tài chính và thu nhập khác không đáng kể Trong bối cảnh hội nhập kinh tế, các doanh nghiệp Việt Nam phải cạnh tranh không chỉ với doanh nghiệp nội địa mà còn với doanh nghiệp nước ngoài và FDI, đòi hỏi sự cân nhắc kỹ lưỡng giữa lợi nhuận, vốn và lao động để giữ chân nguồn nhân lực trình độ cao và tối ưu hóa năng suất.
GIẢI PHÁP PHÁT TRIỂN NGÀNH DỆT MAY VIỆT NAM
Để thúc đẩy sự phát triển của ngành dệt may, việc đầu tư vào công nghệ và thiết bị hiện đại là yếu tố then chốt Sử dụng quy trình công nghệ tiên tiến và đồng bộ hóa thiết bị dệt may đạt tiêu chuẩn kỹ thuật cao sẽ giúp nâng cao hiệu suất máy móc, giảm chi phí lao động và tối đa hóa lợi nhuận Ngành dệt may có tính linh hoạt cao, chu kỳ sản phẩm ngắn và yêu cầu cập nhật theo xu hướng thời trang quốc tế Do đó, việc đổi mới công nghệ cần diễn ra nhanh chóng và hiện đại để đáp ứng yêu cầu về chất lượng và số lượng sản phẩm từ khách hàng.
Đổi mới công nghệ trong ngành dệt may giúp doanh nghiệp sản xuất các sản phẩm thời trang đa dạng và phong phú, đáp ứng nhu cầu của khách hàng từ nhiều thị trường khác nhau Khi sản phẩm đạt chất lượng cao và kiểu dáng thời thượng, Việt Nam sẽ dần xây dựng được thương hiệu dệt may riêng Công nghệ hiện đại trong các khâu kéo sợi, dệt, nhuộm và hoàn tất sẽ là yếu tố quyết định cho sự tồn tại và phát triển của ngành Ngoài việc rút ngắn thời gian sản xuất, phát triển công nghiệp dệt cần gắn liền với ngành may để nâng cao chất lượng nguyên liệu, giảm thiểu nhu cầu nhập khẩu, đảm bảo cung cấp vải sợi ổn định cho xuất khẩu, từ đó gia tăng giá trị gia tăng, đóng góp vào ngân sách quốc gia và tạo điều kiện cho tái đầu tư công nghệ mới.
Hiện nay, xu thế chuyển dịch sản xuất đang gia tăng, nhiều doanh nghiệp dệt may quốc tế đang lựa chọn Việt Nam làm điểm đến Do đó, các doanh nghiệp trong nước cần chú ý và chuẩn bị tốt để tiếp nhận cơ hội này, nhằm tận dụng lợi thế trong ngành dệt may.
Chúng ta cần tăng cường hợp tác với các tập đoàn phân phối và bán lẻ lớn trên toàn cầu để ổn định khách hàng và tham gia vào chuỗi liên kết của họ Sự liên kết này cũng bao gồm các nhà sản xuất, cung ứng nguyên liệu và hệ thống tiêu thụ sản phẩm Để phát triển ngành, cần chuyên môn hóa và đầu tư vào công nghệ mới nhằm nâng cao chất lượng và số lượng sản phẩm, từ đó tạo ra giá trị gia tăng Ứng dụng công nghệ thông tin trong quản lý và thanh toán hợp đồng gia công giúp doanh nghiệp may tối ưu hóa sản xuất, cắt giảm chi phí và quản lý hiệu quả thông tin sản phẩm, nhà cung cấp, đơn vị sản xuất, cũng như thương hiệu Đối với các dự án đầu tư trong nước, cần lựa chọn công nghệ một cách cẩn thận, và Tập đoàn Dệt May Việt Nam nên cung cấp thông tin về các nguồn cung cấp công nghệ hiện đại, tránh nhập khẩu công nghệ lạc hậu Cuối cùng, đầu tư vào cơ sở hạ tầng cho các khu công nghiệp chuyên ngành sợi, dệt, nhuộm – may là cần thiết, đặc biệt chú trọng đến xử lý nước thải trong các cơ sở in nhuộm.
Công nghệ xử lí chất thải cũng nên được quan tâm để xây dựng hình ảnh sản phẩm thân thiện, bảo vệ môi trường
4.2 Trở thành nhà cung ứng đạt tiêu chuẩn khách hàng
Trong chuỗi giá trị toàn cầu ngành Dệt may, các công ty Việt Nam chủ yếu hoạt động theo tiêu chuẩn OEM (Original Equipment Manufacture), nhưng vẫn gặp nhiều thách thức so với các nước Đông Á Một số doanh nghiệp có thể đáp ứng yêu cầu ban đầu của khách hàng, nhưng thường gặp phải tình trạng hàng hóa bị trả lại do không đạt tiêu chuẩn trong các đơn hàng sau, dẫn đến mất thời gian, chi phí và uy tín Điều này ảnh hưởng nghiêm trọng đến vị trí của họ trong chuỗi cung ứng toàn cầu Do đó, mục tiêu không chỉ dừng lại ở việc trở thành nhà cung ứng đạt tiêu chuẩn OEM, mà còn cần hướng đến sản xuất theo mô hình ODM (Original Design Manufacture) hoặc OBM (Own Brand Manufacture) Để đạt được điều này, các doanh nghiệp cần phải cải thiện chất lượng sản phẩm và dịch vụ, trước tiên là đảm bảo tiêu chuẩn khách hàng.
Muốn như vậy các Doanh nghiệp cần:
- Xây dựng hình ảnh ngành dệt may Việt Nam với chất lượng, thời trang, thân thiện với môi trường
- Tổ chức các lớp đào tạo để nâng cao trình độ cho người lao động
- Quán triệt tới các công nhân về chất lượng của sản phẩm
- Mỗi lô hàng xuất đi cần phải kiểm tra cẩn thận, kĩ lương hơn
- Quy trình thanh toán nhanh gọn, hiệu quả Hiện đại hoá quy trình giao hàng
Doanh nghiệp dệt may cần khẩn trương triển khai tiêu chuẩn SA8000 nhằm đáp ứng yêu cầu của khách hàng, đặc biệt là tại thị trường Hoa Kỳ.
- Uy tín của doanh nghiệp với khách hàng phải đặt lên hàng đầu…
4.3 Phát triển lĩnh vực thiết kế, bắt kịp xu hướng mới
Để nâng cao chất lượng sản phẩm, ngành dệt may Việt Nam cần chú trọng đến hình thức sản phẩm và thiết kế mẫu, bởi đây là khâu mang lại lợi nhuận cao nhất trong chuỗi giá trị toàn cầu Hiện nay, trình độ thiết kế thời trang tại Việt Nam còn hạn chế, thiếu các trường dạy chuyên nghiệp và đội ngũ nhà thiết kế trẻ chưa đáp ứng được nhu cầu thay đổi liên tục của thị trường Mặc dù có nhiều địa chỉ đào tạo nhà thiết kế, nhưng chưa có nơi nào chuyên đào tạo nhà tiếp thị thời trang Để nâng cao vị thế ngành dệt may Việt Nam trên thị trường quốc tế, cần ưu tiên đầu tư vào đào tạo thiết kế sản phẩm và xây dựng thương hiệu riêng Cần nghiên cứu các thiết kế mới mang đặc trưng riêng, sản xuất các sản phẩm độc đáo, hiện đại và nắm bắt xu hướng thời trang thế giới.
4.4 Phát triển thời trang Việt Nam ở khu đô thị và trung tâm lớn
Gửi người ra nước ngoài học tập và nghiên cứu tại các trung tâm thời trang nổi tiếng như Paris, New York và Tokyo là cần thiết để tiếp cận xu hướng mới Tuy nhiên, việc đào tạo các nhà thiết kế giỏi và chuyên nghiệp không thể thực hiện ngay lập tức Do đó, các doanh nghiệp cần tăng cường ký kết thỏa thuận hợp tác trong lĩnh vực dệt may, mời chuyên gia thiết kế nước ngoài đến hỗ trợ Việt Nam trong thiết kế và đào tạo.
Củng cố và mở rộng hệ thống đào tạo chuyên ngành Dệt May với chất lượng cao sẽ tạo điều kiện cho sinh viên phát huy khả năng của mình Việc xây dựng Trường Đại học Dệt May và Thời trang không chỉ tạo ra cơ sở vật chất hiện đại mà còn hỗ trợ triển khai các lớp đào tạo chuyên sâu, góp phần nâng cao năng lực nguồn nhân lực trong ngành.
- Đầu tư xây dựng các trung tâm đào tạo nhà thiết kế với chất lượng cao và hợp tác quốc tế
Tham gia tích cực vào mạng lưới sản xuất khu vực và chuỗi giá trị toàn cầu trong ngành dệt may, như Liên đoàn Dệt May ASEAN (AFTEX) và Uỷ ban Quốc tế về Dệt May, là một yếu tố quan trọng giúp nâng cao năng lực cạnh tranh và phát triển bền vững cho ngành dệt may.
Tổ chức các hoạt động xúc tiến thương mại và kêu gọi đầu tư trong nước và khu vực, bao gồm các hội nghị, hội thảo và diễn đàn về dệt may quốc tế, nhằm tạo cơ hội cho doanh nghiệp dệt may Việt Nam và các nước khác gặp gỡ, học hỏi và tăng cường hợp tác Những hoạt động này giúp định hướng phát triển, nâng cao sức mạnh của các nước sản xuất xuất khẩu dệt may toàn cầu, tiếp cận thị trường mục tiêu, nắm bắt nhu cầu khách hàng và đưa ra những thiết kế phù hợp.
4.5 Phát triển nguyên phụ liệu
Ngành Dệt May hiện đang đối mặt với áp lực lớn do thiếu nguồn nguyên liệu sản xuất, với 90% nguyên liệu phải nhập khẩu Dù kim ngạch xuất khẩu cao, tỷ lệ thu về chỉ đạt khoảng 35-38% tổng kim ngạch Để cải thiện tình hình, ngành cần quy vùng nguyên liệu, đặc biệt là trồng bông, và nâng cao chất lượng nguyên phụ liệu cũng như đa dạng hóa các loại vải Quan trọng là tập trung vào thiết kế vải, không chỉ thiết kế thời trang Nhiều quốc gia như Ấn Độ, Trung Quốc, Hàn Quốc và Thái Lan đã thành công trong việc phát triển các loại vải thân thiện với môi trường và các sản phẩm kỹ thuật mới, giúp họ cạnh tranh hiệu quả trên thị trường quốc tế Đây là hướng đi tiềm năng cho ngành Dệt nhằm nâng cao hiệu quả cho ngành May xuất khẩu.
4.6 Xây dựng mạng lưới phân phối Để có thể triển khai các hoạt động xúc tiến thương mại, các doanh nghiệp may Việt Nam cần phải liên kết với nhau về nhân lực và tài chính, với trung tâm là Hiệp hội Dệt – May Việt Nam Mục tiêu trước mắt là tham gia các hội chợ thương mại quốc tế với các mẫu mã chất lượng cao đã từng gia công cho khách nước ngoài, nhằm tìm kiếm các nhà buôn trực tiếp mà không cần qua khâu môi giới Khuyến khích các công ty lớn thiết lập mối quan hệ lâu dài với các nhà nhập khẩu và bán lẻ nước ngoài, tăng thêm giá trị gia tăng cho các sản phẩm bằng cách sử dụng công nghệ thời trang, chú trọng tới thị trường nội địa và cải thiện đời sống của công nhân
Xây dựng các tổ chức marketing và hệ thống liên kết với các hãng và tổ chức quốc tế nhằm phát triển tiêu chuẩn và hỗ trợ ngành dệt may Tích cực tham gia các triển lãm và hội chợ thương mại quốc tế để mở rộng khả năng tiếp cận với người mua tiềm năng Tìm kiếm cơ hội hợp tác trực tiếp với khách hàng cuối cùng và xây dựng thương hiệu mạnh cho ngành dệt may Việt Nam, từ đó thúc đẩy sự phát triển bền vững của ngành này.