1. Trang chủ
  2. » Giáo Dục - Đào Tạo

NGHIÊN CỨU VÀ XÂY DỰNG CHƯƠNG TRÌNH TÁI HIỆN LỄ HỘI CẦU NGƯ TỈNH KHÁNH HÒA

83 16 0

Đang tải... (xem toàn văn)

Tài liệu hạn chế xem trước, để xem đầy đủ mời bạn chọn Tải xuống

THÔNG TIN TÀI LIỆU

Thông tin cơ bản

Tiêu đề Nghiên Cứu Và Xây Dựng Chương Trình Tái Hiện Lễ Hội Cầu Ngư Tỉnh Khánh Hòa
Tác giả Hoàng Đức Dương, Nguyễn Phúc Thọ, Đặng Thị Kim Tiên, Lữ Thị Như Ý, Trương Quốc Nguyên
Người hướng dẫn ThS. Hà Kim Hồng
Trường học Trường Đại Học Tài Chính – Marketing
Chuyên ngành Quản Trị Dịch Vụ Du Lịch Và Lữ Hành
Thể loại báo cáo tiểu luận
Năm xuất bản 2021
Thành phố TP Hồ Chí Minh
Định dạng
Số trang 83
Dung lượng 1,87 MB

Cấu trúc

  • CHƯƠNG 1: CƠ SỞ LÝ THUYẾT (13)
    • 1.1 KHÁI QUÁT VỀ DI SẢN VĂN HÓA (13)
      • 1.1.1 Khái niệm về văn hóa (13)
      • 1.1.2 Khái niệm di sản văn hóa (14)
      • 1.1.3 Phân loại di sản văn hóa (14)
        • 1.1.3.1 Di sản văn hóa phi vật thể (14)
        • 1.1.3.2 Di sản văn hóa vật thể (15)
      • 1.1.4 Giá trị của di sản văn hóa Việt Nam (16)
    • 1.2 KHÁI QUÁT VỀ LỄ HỘI (18)
      • 1.2.1 Khái niệm và mối quan hệ “lễ” và “hội” (18)
        • 1.2.1.1 Khái niệm về “Lễ” (18)
        • 1.2.1.2 Khái niệm về “Hội” (19)
        • 1.2.1.3 Mối quan hệ giữa “Lễ” và “Hội” (19)
      • 1.2.2 Phân loại lễ hội (20)
      • 1.2.3 Đặc điểm lễ hội truyền thống ở Việt Nam (24)
      • 1.2.4 Mục đích và tính chất của lễ hội (24)
  • CHƯƠNG 2: LỄ HỘI CẦU NGƯ TỈNH KHÁNH HÒA – DI SẢN VĂN HÓA PHI VẬT THỂ QUỐC GIA (27)
    • 2.1 SƠ LƯỢC VỀ TỈNH KHÁNH HÒA (27)
    • 2.2 YẾU TỐ VĂN HÓA TẠI KHÁNH HÒA (28)
      • 2.2.1 Kinh nghiệm, phong tục tập quán trong lao động biển (28)
      • 2.2.2 Tôn giáo, tín ngưỡng (30)
    • 2.3 GIỚI THIỆU KHÁI QUÁT VỀ LỄ HỘI CẦU NGƯ KHÁNH HÒA (33)
    • 2.4 GIỚI THIỆU CHI TIẾT VỀ LỄ HỘI CẦU NGƯ KHÁNH HÒA (34)
      • 2.4.1 Lịch sử hình thành lễ hội (34)
      • 2.4.2 Thời gian, địa điểm và không gian tổ chức (35)
      • 2.4.3 Đối tượng thờ phùng (36)
      • 2.4.4 Các hoạt động của lễ hội (37)
        • 2.4.4.1 Các hoạt động diễn ra trước lễ hội (37)
        • 2.4.4.2 Các nghi thức diễn ra trong lễ hội (39)
        • 2.4.4.3 Các hoạt động vui chơi, giải trí (43)
    • 2.5 NHỮNG NÉT VĂN HÓA ĐẶC SẮC TRONG LỄ HỘI CẦU NGƯ KHÁNH HÒA (45)
      • 2.5.1 Tục thờ Cá Ông – tín ngưỡng cổ xưa của cư dân ven biển (46)
        • 2.5.1.1 Nguồn gốc thờ cúng (46)
        • 2.5.1.2 Đặc điểm thờ cúng (48)
      • 2.5.2 Hát Bả Trạo – Di sản văn hóa phi vật thể của người dân vùng biển (50)
        • 2.5.2.1 Về tên gọi “Bả Trạo” (50)
        • 2.5.2.2 Đặc điểm diễn xướng (51)
    • 2.6 THỰC TRẠNG CỦA LỄ HỘI CẦU NGƯ KHÁNH HÒA (55)
    • 2.7 XÂY DỰNG CHƯƠNG TRÌNH TÁI HIỆN LỄ HỖI (59)
      • 2.7.1 Cách thức tổ chức (59)
      • 2.7.2 Kịch bản tái hiện lễ hội (59)
    • 2.8 GIÁ TRỊ DI SẢN VĂN HÓA LỄ HỘI CẦU NGƯ Ở KHÁNH HÒA (63)
  • CHƯƠNG 3: ĐỀ XUẤT GIẢI PHÁP BẢO TỒN VÀ PHÁT HUY GIÁ TRỊ DI SẢN VĂN HÓA CỦA LỄ HỘI CẦU NGƯ KHÁNH HÒA (66)
    • 3.1 ƯU NHƯỢC ĐIỂM CỦA LỄ HỘI CẦU NGƯ KHÁNH HÒA (66)
    • 3.2 GIẢI PHÁP BẢO TỒN VÀ PHÁT HUY GIÁ TRỊ DI SẢN VĂN HÓA CỦA LỄ HỘI CẦU NGƯ KHÁNH HÒA (67)
  • KẾT LUẬN (75)
  • TÀI LIỆU THAM KHẢO (76)
  • PHỤ LỤC (78)

Nội dung

CƠ SỞ LÝ THUYẾT

KHÁI QUÁT VỀ DI SẢN VĂN HÓA

1.1.1 Khái niệm về văn hóa

Văn hóa được định nghĩa bởi UNESCO là tổng thể các hoạt động và sáng tạo của con người, phản ánh quá trình phát triển lịch sử và hình thành các giá trị, truyền thống, và bản sắc riêng của mỗi dân tộc Định nghĩa này nhấn mạnh tính sáng tạo và nhân văn trong văn hóa, nhưng nếu chỉ dựa vào đó, quản lý văn hóa có thể bị hiểu sai là chỉ quản lý các hoạt động sáng tạo hoặc sáng tác nghệ thuật Thực tế, quản lý văn hóa, đặc biệt ở cấp xã, bao gồm nhiều khía cạnh hơn là chỉ những hoạt động sáng tạo đơn thuần.

Theo Hồ Chí Minh, văn hóa là tổng hòa những sáng tạo và phát minh của con người nhằm phục vụ cho sự sinh tồn và mục đích cuộc sống Những hoạt động này, qua thời gian, trở thành thói quen, tập quán và hình thành các chuẩn mực, giá trị vật chất và tinh thần, được lưu truyền qua các thế hệ, tạo nên di sản văn hóa độc đáo của mỗi cộng đồng Văn hóa không chỉ là hệ thống các giá trị do con người sáng tạo mà còn là sản phẩm của quá trình tương tác giữa con người với tự nhiên và xã hội Nó được gìn giữ và truyền lại để phục vụ đời sống con người, khẳng định vai trò quan trọng của văn hóa trong việc kết nối và phát triển nhân loại.

1.1.2 Khái niệm di sản văn hóa

Di sản là tất cả những gì chúng ta muốn bảo tồn từ tự nhiên và xã hội, bao gồm cả môi trường thiên nhiên và văn hóa Nó bao hàm cảnh quan, di tích lịch sử, di sản tự nhiên và nhân tạo, cũng như đa dạng sinh học, truyền thống, tri thức và kinh nghiệm sống Di sản phản ánh quá trình phát triển lịch sử, tạo nên bản sắc của các thực thể quốc gia, khu vực và địa phương, đồng thời là phần không thể tách rời trong đời sống hiện đại Nó đóng vai trò là điểm quy chiếu và công cụ quan trọng cho sự phát triển và giao lưu văn hóa.

Di sản riêng và ký túc tập thể của mỗi khu vực hay cộng đồng đóng vai trò không thể thay thế, là nền tảng thiết yếu cho sự phát triển bền vững, không chỉ cho hiện tại mà còn cho tương lai.

Di sản văn hóa, theo Luật Di sản văn hóa năm 2001, được định nghĩa bao gồm di sản văn hóa phi vật thể và di sản văn hóa vật thể Đây là những sản phẩm có giá trị lịch sử, văn hóa và khoa học, được truyền lại từ thế hệ này sang thế hệ khác tại nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam.

1.1.3 Phân loại di sản văn hóa

Theo Luật Di sản văn hóa, di sản văn hóa được chia thành hai loại chính: di sản văn hóa vật thể và di sản văn hóa phi vật thể.

1.1.3.1 Di sản văn hóa phi vật thể

Di sản văn hóa phi vật thể là những sản phẩm tinh thần gắn liền với cộng đồng, thể hiện giá trị lịch sử, văn hóa và khoa học, đồng thời phản ánh bản sắc của từng cộng đồng Theo UNESCO, di sản này bao gồm các tập quán, hình thức thể hiện, tri thức và kỹ năng, cùng với các công cụ và không gian văn hóa liên quan, được công nhận bởi các cộng đồng và nhóm người Di sản văn hóa phi vật thể được truyền từ thế hệ này sang thế hệ khác, không ngừng được tái tạo và thích nghi với môi trường, góp phần hình thành ý thức về bản sắc văn hóa của cộng đồng.

Công ước này nhấn mạnh tầm quan trọng của việc kế tục di sản văn hóa phi vật thể, nhằm khích lệ sự tôn trọng đối với đa dạng văn hóa và tính sáng tạo của con người Nó chỉ xem xét những di sản phù hợp với các văn kiện Quốc tế về quyền con người, đồng thời thúc đẩy sự tôn trọng lẫn nhau giữa các cộng đồng, nhóm người và cá nhân, góp phần vào phát triển bền vững.

Di sản văn hóa phi vật thể được thể hiện ở những hình thức sau:

- Tiếng nói, chữ viết của các dân tộc Việt Nam

Ngữ văn dân gian bao gồm nhiều thể loại phong phú như sử thi, ca dao, dân ca, tục ngữ, hò, vè, câu đố, truyền cổ tích, truyện trạng, truyện cười, truyện ngụ ngôn, và hát ru Những hình thức này được truyền tải qua lời nói hoặc ghi chép bằng chữ viết, thể hiện sự đa dạng và độc đáo của văn hóa dân gian.

- Nghệ thuật trình diễn dân gian, bao gồm âm nhạc, múa, hát, sân khấu và các hình thức trình diễn dân gian khác

- Tập quán xã hội, bao gồm luật tục, hương ước, chuẩn mực đạo đức, nghi lễ và các phong tục khác

- Nghề thủ công truyền thống

Tri thức dân gian bao gồm những hiểu biết phong phú về thiên nhiên, đời sống con người, lao động sản xuất, y dược học cổ truyền, ẩm thực, trang phục và nhiều lĩnh vực khác Những tri thức này không chỉ phản ánh văn hóa và lịch sử của một cộng đồng mà còn góp phần quan trọng vào việc bảo tồn và phát huy bản sắc văn hóa dân tộc.

1.1.3.2 Di sản văn hóa vật thể

Di sản văn hoá vật thể là những sản phẩm vật chất có giá trị lịch sử, văn hoá và khoa học, bao gồm di tích lịch sử - văn hoá, danh lam thắng cảnh, di vật, cổ vật và bảo vật quốc gia Hội đồng Tổ chức Giáo dục, Khoa học và Văn hoá của Liên Hợp Quốc (UNESCO) đã họp tại Paris từ ngày 17/10 đến 21/11/1972, trong kỳ họp lần thứ 17, đã thông qua Công ước về Di sản văn hoá Theo Công ước này, các loại hình như di tích và danh lam thắng cảnh sẽ được công nhận là "di sản văn hoá".

Di tích kiến trúc bao gồm các công trình kiến trúc, điêu khắc và hội họa, cùng với các bộ phận hoặc kết cấu có giá trị khảo cổ học Những di sản này, bao gồm bia ký và hang động cư trú, được công nhận là có giá trị nổi bật về lịch sử, nghệ thuật và khoa học trên toàn cầu.

Nhóm công trình xây dựng là các nhóm công trình riêng lẻ hoặc liên kết với nhau, được xác định bởi tính chất kiến trúc, sự đồng nhất và vị trí của chúng trong cảnh quan.

6 quan, xét theo quan điểm lịch sử, nghệ thuật hoặc khoa học là có giá trị nổi tiếng toàn cầu

Các di chỉ là những công trình do con người tạo ra hoặc những công trình kết hợp giữa con người và thiên nhiên Những khu vực này bao gồm các di chỉ khảo cổ học có giá trị nổi tiếng toàn cầu, được đánh giá dựa trên các tiêu chí lịch sử, thẩm mỹ, dân tộc học và nhận thức.

Di sản thiên nhiên: Theo Công ước 1972 những loại hình sau đây được coi là di sản thiên nhiên:

Các cấu tạo tự nhiên bao gồm những thành tạo vật lý và sinh học, hoặc các nhóm thành tạo tương tự, được công nhận có giá trị nổi bật toàn cầu từ cả góc độ thẩm mỹ và khoa học.

KHÁI QUÁT VỀ LỄ HỘI

1.2.1 Khái niệm và mối quan hệ “lễ” và “hội”

Trong tiếng Hán Việt, Lễ là những quy tắc và phép tắc mà người xưa đã thiết lập, đóng vai trò là nền tảng cho mọi mối quan hệ xã hội Lễ không chỉ là những quy định về "quan – hôn – tang – tế" mà còn bao gồm cách đi đứng, nói năng và cư xử hàng ngày của mọi người Những quy tắc này được hình thành và củng cố theo thời gian, yêu cầu mỗi cá nhân phải tôn trọng và tuân theo trong các mối quan hệ ứng xử của mình.

Lễ hay nghi lễ trong thờ cúng là những nghi thức mang tính biểu trưng, được thực hiện theo quy tắc nhất định nhằm kỷ niệm sự kiện hoặc nhân vật, với mục đích cảm tạ và tôn vinh, đồng thời mong muốn nhận được sự giúp đỡ từ các đối tượng siêu hình Lễ có thể được xem như “bức thông điệp” của hiện tại gửi đến quá khứ, thể hiện sự kết nối giữa thế giới hiện thực và thế giới siêu hình Qua thời gian, lễ còn phản ánh “phong hóa” của quốc gia và dân tộc, thể hiện thuần phong mỹ tục, tập tục truyền thống và lối sống của cộng đồng.

9 nếp sống và tập quán sinh hoạt của một cộng đồng dân cư được hình thành và củng cố theo thời gian

Trong tiếng Việt, "hội" được định nghĩa là sự tập hợp cá nhân trong một tổ chức cụ thể, diễn ra trong không gian và thời gian nhất định Hội cũng có thể được hiểu là một cuộc vui lớn, thu hút đông đảo người tham gia theo phong tục, tập quán hoặc các trào lưu xã hội tại một thời điểm nhất định Điểm nổi bật của phần hội trong lễ hội là sự tham gia đông đảo của mọi người, tạo điều kiện cho họ vui chơi thoải mái Tính chất công cộng của hội thể hiện rõ ở cả tư cách tổ chức lẫn mục đích mà những người tổ chức và người tham gia hướng tới.

Hội là nơi lưu giữ kho tàng di sản văn hóa đặc sắc của địa phương và dân tộc, đồng thời cũng tổ chức các chương trình vui chơi giải trí hiện đại, phản ánh trình độ phát triển của cộng đồng Các hoạt động trong hội bao gồm trò chơi dân gian, diễn xướng truyền thống do người dân tham gia, cùng với các hoạt động văn hóa nghệ thuật và hiện đại, tạo nên sự đa dạng và phong phú cho không gian văn hóa của hội.

Trong các hội, ta thấy rõ những biểu tượng đặc trưng của tâm lý cộng đồng và văn hóa dân tộc Các quan niệm và cách ứng xử của cá nhân cũng như cộng đồng đối với môi trường tự nhiên và xã hội được thể hiện rõ nét Những hoạt động diễn ra trong hội không chỉ phản ánh mà còn lưu giữ một phần lịch sử của địa phương và đất nước.

Hội là sự kết hợp của các hoạt động kinh tế và văn hóa - xã hội trong một cộng đồng, thường được tổ chức vào những dịp đặc biệt hoặc theo phong tục truyền thống Những hoạt động này không chỉ mang tính giải trí mà còn phản ánh điều kiện, khả năng và trình độ phát triển của địa phương và đất nước tại thời điểm diễn ra hội.

1.2.1.3 Mối quan hệ giữa “Lễ” và “Hội”

Lễ hội bao gồm hai phần chính là Lễ và Hội, mỗi phần chứa đựng nhiều hoạt động liên quan chặt chẽ với nhau.

Lễ hội là một cấu trúc đa dạng, thể hiện sự kết hợp linh hoạt giữa lễ và hội, giữa các yếu tố đóng và mở, tĩnh và động, tạo nên sự hài hòa phức tạp.

Hệ thống 10 là một nghi lễ tĩnh và quy phạm nghiêm ngặt diễn ra tại Đình trung, trong khi Hội lại mang tính chất dân dã, phóng khoáng với nhiều trò chơi và phong tục hấp dẫn.

Lễ hội là một hoạt động văn hóa linh hoạt, cho phép điều chỉnh các trò chơi và hoạt động theo điều kiện thời tiết, cơ sở vật chất và nhân lực mà vẫn giữ nguyên giá trị tổng thể Nhờ vào tính chất này, lễ hội đã trở thành một sinh hoạt tinh thần phong phú, đáp ứng nhu cầu của mọi tầng lớp xã hội.

Lễ và Hội là hai yếu tố chính trong văn hóa, đôi khi tách rời nhưng cũng thường thâm nhập vào nhau một cách chặt chẽ Trong Lễ có Hội và trong Hội cũng có Lễ, cho thấy mối liên hệ mật thiết giữa hai khái niệm này Do đó, việc gọi chúng là Lễ hay Hội đều hợp lý.

Lễ hội là một phần quan trọng trong di sản văn hóa dân tộc, thể hiện sự phong phú về nội dung và hình thức Do đó, có nhiều cách tiếp cận và phân loại khác nhau đối với các lễ hội Dưới đây là một số phương pháp phân loại lễ hội tiêu biểu.

Lễ hội có thể được phân loại theo không gian lãnh thổ, dựa trên qui mô, mức độ và phạm vi ảnh hưởng của chúng Không gian lễ hội không chỉ bao gồm khía cạnh hành chính mà còn phản ánh sự tác động của sự kiện văn hóa đối với cộng đồng cư dân Đây là không gian lịch sử và văn hóa, nơi lễ hội không chỉ lưu giữ và tưởng niệm quá khứ mà còn thể hiện biểu trưng văn hóa của tộc người trong khu vực Dựa vào không gian, lễ hội có thể được chia thành nhiều hình thức khác nhau.

Các lễ hội mang tính quốc tế là những sự kiện được du nhập từ nước ngoài vào đời sống chính trị, văn hóa và xã hội của người Việt Nam, được tổ chức bởi cả người Việt Nam và cộng đồng quốc tế Những lễ hội này chủ yếu liên quan đến các tôn giáo như Kitô giáo, Phật giáo, Hồi giáo và Tin lành.

Các lễ hội mang tính quốc gia là những sự kiện tôn vinh các nhân vật hoặc sự kiện có ảnh hưởng sâu sắc đến dân tộc và đất nước, thường được gọi là “quốc hội”, “quốc tế”, “quốc lễ” hoặc “quốc tự” Những lễ hội này không chỉ phản ánh các sự kiện lịch sử quan trọng mà còn góp phần vào tiến trình phát triển của lịch sử dân tộc, như lễ hội chào mừng Quốc khánh 2/9, lễ hội mừng sinh nhật Chủ tịch Hồ Chí Minh 19/5, và lễ hội mừng Chiến thắng 30/4.

LỄ HỘI CẦU NGƯ TỈNH KHÁNH HÒA – DI SẢN VĂN HÓA PHI VẬT THỂ QUỐC GIA

SƠ LƯỢC VỀ TỈNH KHÁNH HÒA

Khánh Hòa là tỉnh ven biển thuộc vùng Nam Trung Bộ Việt Nam, nằm giáp với tỉnh Phú Yên ở phía Bắc, Đắk Lắk ở Tây Bắc, Lâm Đồng ở Tây Nam, Ninh Thuận ở phía Nam và Biển Đông ở phía Đông Tỉnh này nổi bật với mũi Hòn Đôi trên đảo Hòn Gốm, được xem là điểm cực Đông trên đất liền của Việt Nam.

Tính đến ngày 1-4-2011, tỉnh Khánh Hòa có dân số 1.174.848 người, bao gồm 32 dân tộc khác nhau như Kinh, Raglai, Hoa, Ê-đê, Cơ-ho, cùng với một số ít dân tộc Tày, Nùng, Mường, Thái, Chăm, Khmer và Thổ.

Khánh Hòa có tổng diện tích tự nhiên là 5.197 km2, bao gồm cả đất liền và hơn 200 đảo, quần đảo Với bờ biển dài 385 km, khu vực này sở hữu nhiều cửa lạch, đầm, vịnh và vùng biển rộng lớn Đặc biệt, huyện đảo Trường Sa của Khánh Hòa đóng vai trò quan trọng trong kinh tế, an ninh và quốc phòng.

Khánh Hòa hiện nay bao gồm 2 thành phố trực thuộc tỉnh (Nha Trang và Cam Ranh),

1 thị xã (Ninh Hòa) và 6 huyện (Vạn Ninh, Diên Khánh, Khánh Vĩnh, Khánh Sơn, Cam Lâm và huyện đảo Trường Sa) với tổng diện tích 5217,6 km²

Tỉnh Khánh Hòa có vị trí giao thông thuận lợi với các phương tiện đường bộ, đường sắt, đường biển và hàng không Sự kết nối kinh tế và văn hóa giữa Khánh Hòa và các tỉnh lân cận được hỗ trợ bởi hệ thống đường sắt và Quốc lộ 1A chạy dọc theo tỉnh.

Vị trí địa lý của tỉnh Khánh Hòa mang ý nghĩa chiến lược quan trọng về quốc phòng, nhờ vào sự gần gũi với các tuyến đường hàng hải quốc tế, sự hiện diện của huyện đảo Trường Sa, cảng Cam Ranh và vai trò là cửa ngõ ra Biển Đông.

Khánh Hòa nổi bật với bờ biển dài và gần 200 hòn đảo lớn nhỏ, cùng nhiều vịnh biển đẹp như Vân Phong, Nha Trang, Cam Ranh Khí hậu nơi đây ôn hòa với nhiệt độ trung bình 26⁰C và hơn 300 ngày nắng mỗi năm, tạo điều kiện thuận lợi cho du lịch Ngoài ra, Khánh Hòa còn sở hữu nguồn tài nguyên thiên nhiên phong phú, đặc biệt là tài nguyên biển với nhiều loại hải sản quý hiếm, có khả năng khai thác, nuôi trồng và chế biến xuất khẩu Yến sào cũng là một trong những sản phẩm đặc trưng, cung cấp nguyên liệu quý giá cho các sản phẩm bổ dưỡng.

Tỉnh Khánh Hòa sở hữu nhiều điều kiện tự nhiên, vị trí địa lý và lịch sử văn hóa phong phú, tạo ra tiềm năng lớn cho phát triển du lịch và dịch vụ Nha Trang, thuộc Khánh Hòa, đã được xác định là một trong 10 trung tâm du lịch - dịch vụ hàng đầu của Việt Nam Đặc biệt, vào tháng 5-2003, vịnh Nha Trang đã được công nhận là thành viên chính thức của Câu lạc bộ các vịnh đẹp nhất thế giới.

YẾU TỐ VĂN HÓA TẠI KHÁNH HÒA

2.2.1 Kinh nghiệm, phong tục tập quán trong lao động biển

Biển Khánh Hòa không chỉ là nguồn thực phẩm dồi dào cho ngư dân mà còn tiềm ẩn nhiều nguy hiểm Ngư dân thường xuyên đối mặt với tai nạn, bão tố, sóng lớn, và sự tấn công của động vật biển Họ cũng phải chịu đựng dịch bệnh và những ngày đói khổ khi không thể ra khơi Trong bối cảnh đó, ngư dân cảm thấy bất lực trước những rủi ro không thể dự đoán và thường dựa vào kinh nghiệm dân gian Họ tin rằng những bất hạnh xảy ra là do các thế lực siêu nhiên, do đó, họ thường cúng kiến và lập miếu thờ các thần linh mà tổ tiên họ từng tôn kính Những vị thần này bao gồm Thành Hoàng, linh vật biển, và các hung thần ác quỷ Ngoài ra, ngư dân cũng phải kiêng kỵ một số điều được truyền lại, tin rằng điều này sẽ giúp họ tránh khỏi xui xẻo và bất hạnh trong cuộc sống và nghề nghiệp.

Ngư dân vùng biển Nam Trung Bộ tôn thờ cá voi như một vị thần, do đó họ không coi cá voi là đối tượng đánh bắt, đây là một luật tục mà họ luôn tuân thủ Họ gọi cá voi theo cách kính trọng: cá voi đực già là Ông, cá voi cái già là Bà, cá voi đực nhỏ là Cậu, và cá voi cái nhỏ là Cô Tùy thuộc vào vị trí, cá voi ở ngoài khơi được gọi là Ông Khơi, còn cá voi gần bờ là Ông Lộng Ngoài ra, ngư dân cũng tôn kính các loài khác như rùa lớn (Bà Tím) và loại đẻn (Bà Lạch) Khi cá voi chết, họ gọi là Ông lỵ hoặc lụy Trong lễ Cầu Ngư, ngư dân phải giữ gìn sự tôn trọng, không được nói bất kính, cãi lộn, hay say rượu quấy phá.

Trong việc tổ chức 19 tế lễ, cần chọn lọc kỹ lưỡng các yếu tố như không có tang, gia đình hòa thuận, vợ chồng đủ đầy, và không có mang thai hay khuyết tật Đặc biệt, người tham gia lễ phải giữ gìn giới tính trong ít nhất ba ngày trước lễ Khi thu thập ngọc cốt, ngư dân cần chú ý không có hành động khó chịu như nhổ nước bọt, nhăn mặt hay phàn nàn, để duy trì sự trang nghiêm của buổi lễ.

Trong tác phẩm "Tục thờ cúng của ngư phủ Khánh Hòa," tác giả Lê Quang Nghiêm ghi lại nhiều điều kiêng kỵ của ngư dân Trước khi ra khơi, họ tránh nói và nghe những từ như khỉ, cọp, rái cá, cũng như tên các loài cá và đẻn dữ Khi bưng thúng lưới hay dây câu, không được chui qua võng hay để ai bước qua thúng nhằm tránh ô uế Ngư dân cũng kiêng gặp phụ nữ, đặc biệt là phụ nữ mang thai, khi mới ra ngõ Trong hành trình ra khơi, họ tránh va chạm với ghe khác trong khoảng 1km Họ không thăm phụ nữ đang mang thai non tháng và không cho phụ nữ có kinh nguyệt bước lên thuyền Ngoài ra, họ không gọi tên các thần linh biển cả Nếu gặp xui xẻo do vi phạm những điều kiêng kỵ này, họ thường nhuộm lại lưới, làm phép xông hơi, dọn dẹp ghe thuyền và bày lễ vật để giải trừ.

Võ Khoa Châu, tác giả cuốn sách “Vạn Ninh, Đất & Người”, đã chỉ ra một số điều cấm kỵ trong nghề đánh bắt cá của ngư dân Bên cạnh những kiêng kỵ đã đề cập, tác giả còn ghi chép thêm nhiều điều kiêng kỵ khác mà ngư dân cần lưu ý.

- Ngư dân gọi cá bằng rau, các loại cá như cá thu gọi là rau dài, cá bông cá bò, cá dưa gang gọi là rau tròn

Không được để dao làm cá rơi xuống biển Nếu không may xảy ra sự cố, hãy chế tạo một con dao giả bằng cây hoặc giấy bìa, sơn vẽ giống như dao thật Sau đó, tiến hành lễ vái tạ và ném con dao giả xuống nước, rồi lặn xuống tìm lại con dao đã rơi.

- Khi dùng cây ghim đan lưới không được nói “luồn qua luồn lại” mà phải nói “bỏ qua bỏ lại, bỏ lên bỏ xuống”

- Không ngồi khoanh tay trên thuyền

- Người có tang hay có vợ đang mang thai không bao giờ được là người đầu tiên vịn tay đẩy thuyền hoặc sương lưới

- Kiêng cữ nói tiếng cọp, khi phải gọi thì gọi ông Hổ, ông Hầu

- Nấu cơm không để được khê, khét hoặc cháy

- Không những không được lật nửa phần bên con cá đã ăn, mà còn không bao giờ được nói tiếng lật, ngụ ý kiêng cữ sự lật thuyền

- Không được ăn các loại rùa biển

Theo truyền thuyết, việc ăn mít trên thuyền là điều cấm kỵ, vì có thể gây ra những tai họa như nước biển chảy làm rách lưới hoặc làm bít đường cá chạ Hơn nữa, nếu trên thuyền có phụ nữ mang thai và xảy ra chuyện sinh nở, đó sẽ được coi là điềm xui xẻo.

Ngày nay, mặc dù khoa học công nghệ phát triển và cuộc sống ngày càng văn minh, vẫn có nhiều ngư dân giữ gìn các kiêng kỵ truyền thống Họ sống gần gũi với biển, hiểu rõ cách ứng xử với biển cả, các vị thần linh, và tuân thủ luật lệ làng chài cũng như pháp luật nhà nước Ngư dân không chỉ tuân theo các hướng dẫn của cơ quan chức năng để bảo vệ an toàn trên biển và bảo vệ môi trường, mà còn thực hiện những kiêng kỵ từ xa xưa Điều này thể hiện mong muốn của họ về sự an lành, thu hoạch nhiều sản vật từ biển, cung cấp nguồn tôm cá dồi dào cho thị trường, từ đó đảm bảo cuộc sống ấm no cho gia đình và góp phần làm giàu cho đất nước.

Trải qua hơn 360 năm hình thành và phát triển, trên địa bàn tỉnh Khánh Hòa hiện có

Tỉnh Khánh Hòa có 465 cơ sở tín ngưỡng, bao gồm 258 đình, 7 đền, 153 miếu, 2 điện thờ tư gia và 45 loại hình khác như tháp, văn, chỉ, lăng, nhà thờ họ, mộ tướng quân Trong số này, có 6 di tích được xếp hạng cấp quốc gia, 152 di tích cấp tỉnh và 108 di tích chưa được xếp hạng nhưng nằm trong danh mục kiểm kê Dân số tỉnh hiện có hơn 1,269 triệu người, đại diện cho 32 dân tộc khác nhau như Kinh, Raglai, Hoa, Ê-đê, Cơ-hơ, cùng một số ít dân tộc Tày, Nùng, Mường, Thái, Chăm, Khmer và Thổ.

Khánh Hòa, vùng đất gắn liền với công cuộc khai hoang của người Việt từ thế kỷ XVII, đã thu hút lưu dân đến từ năm 1653 khi chúa Hiền Nguyễn Phúc Tần và Cai cơ Hùng Lộc hầu lập ra hai phủ Thái Khang và Diên Ninh Tại đây, người Chămpa bản địa đã có tín ngưỡng và tôn giáo riêng, và trong quá trình khai hoang lập làng, người Việt đã xây dựng các thiết chế văn hóa truyền thống như đình và chùa, góp phần tạo nên bản sắc văn hóa đặc trưng cho vùng đất này.

Khánh Hòa là vùng đất đa dạng với nhiều cộng đồng dân cư và dân tộc khác nhau, tạo nên một bức tranh phong phú về đời sống tâm linh và tôn giáo Sự đa dạng này không chỉ phản ánh các loại hình kinh tế mà còn thể hiện sự giao thoa văn hóa độc đáo trong khu vực.

Tôn giáo và tín ngưỡng đóng vai trò quan trọng trong đời sống tinh thần của người dân, bên cạnh sự hiện diện của các tôn giáo lớn, nhiều người vẫn duy trì các loại hình tín ngưỡng dân gian và lễ hội truyền thống Những yếu tố này không chỉ ảnh hưởng đến văn hóa và tập quán mà còn chi phối lối sống của cộng đồng.

Khánh Hòa hiện nay có nhiều loại hình tín ngưỡng phong phú, phản ánh quá trình tiếp biến và hội nhập của các dân tộc, tạo ra giá trị văn hóa đồng nhất Trong sự đồng nhất này, mỗi dân tộc và nền văn hóa đều khẳng định được đặc tính tâm linh riêng biệt Dựa trên đặc điểm thờ cúng và sinh hoạt tín ngưỡng, tỉnh Khánh Hòa hiện có nhiều loại hình tín ngưỡng đa dạng.

Tín ngưỡng thờ cúng tại gia đình ở Việt Nam bao gồm việc thờ cúng ông bà, tổ tiên và các vị thần bảo gia như Quan Công, Thiên Hậu, Cửu Thiên Huyền Nữ, Quan Âm, Linh Sơn Thánh Mẫu Đặc biệt, người Raglai và một số dân tộc thiểu số ở Khánh Hòa còn thờ các vị thần như Thần Trời, Thần Mặt Trăng, thần các Vì sao, ông thần Sấm, bà thần Sét, ông thần Bão, bà thần Gió Lốc, và thần Rẫy Ngoài ra, họ cũng thờ cúng tổ nghề nghiệp như Lê Hữu Trác - tổ sư ngành y học, Nguyễn Minh Không - tổ nghề đúc đồng, và Nguyễn Diệu - tổ nghề dệt, cùng với các danh nhân, anh hùng lịch sử và liệt sĩ cách mạng Thêm vào đó, trong mỗi gia đình còn có nhiều bàn thờ khác như thờ ông Địa, thần Tài, ông Táo, và bàn Thiên để thể hiện tín ngưỡng thời trời đất.

Tín ngưỡng thờ cúng tại các đình, đền, miếu ở Khánh Hòa chủ yếu tập trung vào việc thờ các anh hùng dân tộc, danh nhân văn hóa và tổ nghề Các đình làng thường tôn vinh những vị tổ nghề, thánh sư, tiên sư và những nhân vật lịch sử được nhân dân kính trọng như Hùng Vương, Hai Bà Trưng, Trần Hưng Đạo Hàng năm, vào mùa xuân hoặc mùa thu, lễ cúng đình trở thành ngày hội của các làng, xã, với các nghi thức cúng tế nhằm cầu mong “quốc thái dân an - mưa thuận gió hòa - dân cư an lạc”, thể hiện ước nguyện cho sức khỏe, bình an của dân làng, sự phát triển kinh tế và sự thịnh vượng của đất nước.

GIỚI THIỆU KHÁI QUÁT VỀ LỄ HỘI CẦU NGƯ KHÁNH HÒA

Lễ hội Cầu Ngư Khánh Hòa là một sự kiện văn hóa độc đáo của người dân miền biển, nhằm tưởng nhớ công ơn của thần biển và cầu nguyện cho mùa cá bội thu cũng như sự thuận lợi cho ngư dân Lễ hội này không chỉ mang tính chất thờ phụng mà còn thể hiện nguyện vọng cầu bình an và bảo vệ loài cá voi Trong khi nhiều quốc gia trên thế giới đang ban hành các công ước để bảo vệ loài cá này, thì tại Việt Nam, truyền thống tôn thờ và bảo vệ cá voi đã tồn tại từ hàng thế kỷ, gắn liền với đời sống của người dân ven biển.

Lễ hội Cầu Ngư, xuất phát từ tín ngưỡng thờ Ông Nam Hải, là một phong tục lâu đời của cư dân vùng biển từ Bắc Trung Bộ đến Nam Bộ, nổi bật nhất là khu vực Nam Trung Bộ, đặc biệt là tỉnh Khánh Hòa.

Cá Voi, được tôn thờ như một vị Phúc thần của biển cả, mang trong mình những truyền thuyết huyền bí và niềm tin sâu sắc của ngư dân vùng ven biển Họ sử dụng những danh từ đầy tôn kính như Đức Ông, Cá Ông hay Ông Nam Hải để thể hiện sự kính trọng đối với loài cá này.

Tín ngưỡng thờ cúng Ông Nam Hải là một truyền thống lâu đời, được duy trì và phát triển qua nhiều thế hệ Các tài liệu lịch sử từ triều Nguyễn như Gia Định thành thông chí, Đại Nam nhất thống chí, và Đại Nam thực lục chính biên đã ghi nhận sự tồn tại của tục thờ Ông Nam Hải, khẳng định giá trị văn hóa và tâm linh của tín ngưỡng này trong đời sống cộng đồng.

Vị “Phúc thần” này đã được chính quyền phong kiến trung ương công nhận thông qua việc ban tặng Sắc phong cho “Cá Voi”, với các mỹ hiệu mang giá trị nhân văn sâu sắc như Ngọc Lân, Nhân Ngư và Đức Ngư.

Lễ hội Cầu Ngư Khánh Hòa là sự kết hợp độc đáo của các giá trị văn hóa cổ truyền, ảnh hưởng sâu sắc đến đời sống tinh thần của cư dân vùng biển đảo Sự kiện này không chỉ bao gồm các hình thức nghệ thuật truyền thống và diễn xướng dân gian mà còn có nhiều trò chơi dân gian, tạo nên một bức tranh sinh động và đa sắc màu cho ngày hội làng biển.

Lễ hội Cầu Ngư là sự kiện văn hóa đặc sắc của cộng đồng ngư dân Khánh Hòa, nhằm giáo dục lòng yêu quê hương và tôn vinh cội nguồn Sự kiện này không chỉ thể hiện tình yêu đất nước mà còn góp phần tạo nên sự gắn kết bền chặt giữa cư dân vùng biển qua các thế hệ.

Lễ hội Cầu Ngư tại Khánh Hòa là biểu tượng cho niềm tin và ý chí vượt khó, nhằm xây dựng cuộc sống tốt đẹp hơn Đây không chỉ là một hoạt động văn hóa mà còn là bài ca lao động của cộng đồng cư dân, góp phần hình thành bản sắc văn hóa dân tộc độc đáo của vùng đất Khánh Hòa.

Lễ hội Cầu Ngư ở Khánh Hòa, với những giá trị văn hóa, tinh thần và truyền thống lâu đời, đã được công nhận là di sản văn hóa phi vật thể quốc gia theo quyết định 5079/QĐ-BVHTTDL vào ngày 27/12/2012 Đây là một trong những lễ hội truyền thống quan trọng tại tỉnh Khánh Hòa.

GIỚI THIỆU CHI TIẾT VỀ LỄ HỘI CẦU NGƯ KHÁNH HÒA

2.4.1 Lịch sử hình thành lễ hội

Lễ hội Cầu Ngư là một lễ hội dân gian đặc sắc của ngư dân miền ven biển Trung và Nam Bộ, phản ánh đời sống văn hóa và tâm linh của họ Lễ hội này gắn liền với tín ngưỡng thờ cá Ông (cá Voi), thể hiện sự tôn kính và cầu mong cho sự bình an, thuận lợi trong nghề cá.

Lễ hội Cầu Ngư xuất phát từ tục thờ Ông Nam Hải, một phong tục lâu đời của cư dân vùng biển từ Quảng Bình trở vào, đặc biệt phổ biến ở Nam Trung Bộ Ông Nam Hải, thực chất là loài cá Voi hiền hòa, thường cứu giúp ngư dân trong những lúc hoạn nạn Khi cá Ông chết và trôi dạt vào bờ làng biển nào, làng ấy sẽ tổ chức lễ tang trang trọng và lập Lăng thờ cúng Hiện nay, lễ tế Ông Nam Hải được gọi là Lễ hội Cầu Ngư.

Theo truyền thuyết, Nguyễn Ánh đã được một con cá voi cứu sống khi bị đắm thuyền Sau khi lên ngôi vua với hiệu Gia Long, ông đã phong tặng cá voi này danh hiệu “Nam hải cự tộc ngọc lân Thượng đẳng Thần” Các vua triều Nguyễn sau đó cũng sắc phong cho loài cá to lớn này danh hiệu “Đại càng quốc gia Nam Hải”.

Cá Voi được người dân gắn bó và tôn kính, với cá sống được coi là thiêng liêng và cá chết trở thành Thánh, được ngư dân tôn thờ như thượng đẳng thần qua việc xây lăng tẩm Hàng năm, lễ hội thờ cá Ông được tổ chức nhằm cầu nguyện cho quốc thái dân an, bình an trên biển và mùa màng bội thu Qua lễ cầu Ngư, ngư dân thể hiện lòng kính tín và ước nguyện cho một mùa cá tôm dồi dào, thời tiết thuận lợi, giúp họ có cuộc sống ấm no và khỏe mạnh.

Tục thờ cá Ông và hát Bả Trạo trong Lễ hội Cầu Ngư hàng năm tại miền Trung Việt Nam thể hiện sâu sắc nét văn hóa cội nguồn của ngư dân Giữa thời tiết khắc nghiệt và những mối đe dọa từ thiên nhiên, ngư dân luôn cầu nguyện Thần linh phù hộ cho sự an lành và mùa màng bội thu Họ mong muốn được bình an trước những cơn bão tố, đồng thời cầu xin sức khỏe và hạnh phúc cho gia đình Với lòng thành kính, ngư dân đã xây dựng nhiều miếu, đình thờ và lăng mộ cá Ông, tổ chức các lễ hội trang trọng để tôn vinh và tri ân các vị Thần ngư, thể hiện niềm tin mãnh liệt vào sự che chở của các đấng Thần linh nơi sông nước.

2.4.2 Thời gian, địa điểm và không gian tổ chức

Mùa xuân tại Việt Nam không chỉ là thời điểm đón Tết Nguyên Đán mà còn là mùa của những lễ hội phong phú, thể hiện sâu sắc văn hóa truyền thống và đời sống tâm linh của người dân Các lễ hội như Lễ đâm trâu, Lễ bỏ mả, và Hội Cồng chiêng của đồng bào Tây Nguyên, cùng với các lễ như Lễ cơm mới, Lễ xuống đồng, và Lễ Cầu ngư của ngư dân miền biển, đều tỏa sáng vẻ đẹp văn hóa độc đáo Từ Thanh Hóa đến Bình Thuận, ngay sau Tết, người dân các làng chài đã nhanh chóng chuẩn bị cho Lễ hội Cầu Ngư, thể hiện sự kết nối giữa con người và biển cả.

Lễ hội Cầu Ngư được tổ chức ở từng địa phương sau Tết Nguyên Đán, tùy thuộc vào ngày tháng, thời tiết và mùa cá Một số nơi chọn ngày phát hiện cá Ông lụy, trong khi những nơi khác lại dựa vào ngày cá Ông được triều đình sắc phong hoặc kết hợp với lễ xuống mùa đi biển và các lễ nông nghiệp như lễ cầu mưa, lễ cầu an Lễ hội này được coi như một hình thức “ngày giỗ ông” và có thể diễn ra hàng năm, 2-3 năm một lần hoặc khi có điều kiện thuận lợi.

Thời gian tổ chức Lễ Cầu Ngư tại Khánh Hòa thay đổi tùy theo từng địa phương, phường, xã, thường diễn ra từ tháng Giêng đến tháng Ba âm lịch Cụ thể, Nha Trang tổ chức lễ hội này vào tháng 2 và tháng 3 âm lịch.

Trong năm, có nhiều lịch quan trọng mà người dân cần lưu ý, bao gồm Trí Nguyên vào ngày 12 tháng 5 âm lịch, Khánh Cam vào ngày 16 tháng 4 âm lịch, Cam Linh vào ngày 16 tháng 7 âm lịch, Bà Hà 1 vào ngày 16 tháng 2 âm lịch, Xương Huân vào ngày 23 tháng 6 âm lịch, Cù Lao vào ngày 16 tháng 6 âm lịch, Trường Tây vào ngày 16 và 17 tháng 7 âm lịch, và Vĩnh Trường vào ngày 11 tháng 2 âm lịch.

Sau Tết Nguyên Đán, các phường chài và vạn chài tổ chức Lễ hội Cầu Ngư với thời gian cụ thể cho từng làng, xã, vùng miền khác nhau Điều này giúp ngư dân nắm rõ tục lệ và sắp xếp thời gian để tham gia lễ hội một cách đông đủ.

❖ Không gian, địa điểm tổ chức lễ hội

Lễ hội Cầu Ngư của cư dân ven biển Khánh Hòa diễn ra tại nhiều địa phương khác nhau, thường tổ chức ngoài trời tại sân văn hóa xã hoặc lăng thờ cá Ông Khác với các lễ hội trang nghiêm ở vùng đồng bằng, Lễ hội Cầu Ngư mang không khí tưng bừng, náo nhiệt, tràn đầy sức sống như những đợt sóng triều Không gian lễ hội không chỉ giới hạn trong khu vực điện thờ mà còn mở rộng ra toàn bộ làng và biển khơi, với Lăng Ông là tâm điểm của sự kiện.

Trong không gian mở của Lễ hội Cầu Ngư tại Khánh Hòa, có ba khu vực chính: lăng tẩm (điện thờ), sân rộng và võ ca (sân khấu) Trong ba ngày đêm lễ hội, nhiều nghi thức đặc sắc diễn ra, bao gồm Lễ Nghinh Ông và trò diễn Hò Bả Trạo, thể hiện nét văn hóa hội hè độc đáo của vùng Nam Trung bộ.

Lễ hội thờ phụng Cá Ông (Ông Nam Hải) mang ý nghĩa cầu mong mùa đánh bắt bội thu, sóng yên biển lặng và thuyền bè ra khơi an toàn Ngư dân tin rằng Cá Ông không chỉ có sức mạnh phi thường mà còn thấu hiểu nguyện vọng của họ, luôn giúp đỡ và làm điều thiện.

Trong Lễ hội Cầu Ngư, cư dân ven biển miền Trung, đặc biệt là Khánh Hòa, thờ phụng cá Ông (cá voi) như một phần quan trọng trong tín ngưỡng dân gian Tục thờ cá Ông không chỉ thể hiện lòng biết ơn mà còn phản ánh văn hóa và đời sống tâm linh của người dân nơi đây.

Cá Ông đã trở thành biểu tượng văn hóa đặc trưng của Việt Nam nhờ vào việc liên tục cứu giúp ngư dân trong những cơn bão lớn và thời tiết xấu Tục thờ cá Ông không chỉ thể hiện lòng biết ơn của ngư dân mà còn phản ánh mối quan hệ gắn bó giữa con người và biển cả.

NHỮNG NÉT VĂN HÓA ĐẶC SẮC TRONG LỄ HỘI CẦU NGƯ KHÁNH HÒA

Lễ hội Cầu Ngư, hay còn gọi là lễ hội cá Ông, là một sự kiện văn hoá đặc sắc của ngư dân miền Trung, tái hiện phong tục thờ cúng cá Ông theo truyền thuyết dân gian đầy màu sắc kỳ ảo Lễ hội không chỉ mang ý nghĩa tâm linh mà còn giới thiệu nghệ thuật múa hát Bả Trạo, kết hợp giữa nghi thức tế lễ và hoạt động nghệ thuật, thể hiện sự phong phú trong văn hóa của các làng chài ven biển.

2.5.1 Tục thờ Cá Ông – tín ngưỡng cổ xưa của cư dân ven biển

Tục thờ cá Ông là một tín ngưỡng dân gian phổ biến của ngư dân ven biển Việt Nam, từ Thanh Hóa đến Kiên Giang Các làng chài dọc bờ biển thường có lăng miếu thờ cá Ông, nơi diễn ra những nghi thức cúng tế trang trọng Người dân tin tưởng cá voi, hay cá Ông, là loài vật thiêng liêng mang lại sự phù trợ trong cuộc sống hàng ngày.

Cá voi trong dân gian Việt Nam được gọi bằng nhiều tên kính trọng như ông Nam Hải, ông Chuông, ông Khơi, ông Lớn, ông Cậu, thể hiện sự tôn kính của ngư dân đối với loài cá này Quan niệm cá voi là vị thần hộ mạng phản ánh thái độ của cư dân chài lưới, những người thường đối mặt với sóng gió và nguy hiểm trên biển Hình ảnh cá Ông không chỉ mang lại niềm tin, mà còn trở thành chỗ dựa tinh thần quý giá, giúp ngư dân vượt qua khó khăn trong cuộc sống Niềm tin này dần trở thành tín ngưỡng dân gian, khắc sâu vào tiềm thức của cộng đồng.

Trong cuốn "Các lễ hội vùng biển miền Trung", Trần Hồng kể lại truyền thuyết về cá Ông, rằng cá Ông là một mảnh vải từ chiếc áo cà sa của Phật Bà Quan Âm, được xé ra và ném xuống biển Với bộ xương đặc biệt, cá Ông có khả năng "Thâu Đường", giúp rút ngắn khoảng cách, và được Phật Bà Quan Âm giao nhiệm vụ cứu người gặp nạn giữa biển khơi.

Truyền thuyết về Nguyễn Ánh, sau này là vua Gia Long, kể rằng trong thời gian bôn tẩu, ông đã được cá Ông cứu sống khi thuyền sắp bị đắm dưới sự truy đuổi của quân Tây Sơn trên biển Huyền thoại này tương tự như những câu chuyện phổ biến ở Vàm Láng, Tiền Giang, và cũng được tìm thấy ở các tỉnh Nam Bộ như Bà Rịa - Vũng Tàu, Tp Hồ Chí Minh, và Bến Tre, nơi từng ghi dấu chân của ông Một truyền thuyết khác ở Bình Thuận cho biết vua Gia Long cũng từng gặp nạn khi ngự thuyền rồng ở Huế, bị bão tố dạt vào vùng đất này, và được cá Ông cứu giúp đưa thuyền vào bờ, nhưng cá Ông đã kiệt sức và chết sau đó.

Theo tín ngưỡng của người Chăm, tục thờ cá Ông là một phần quan trọng trong văn hóa Malayo - Polynésie, được người Việt tiếp thu trong quá trình Nam tiến Lễ hội cúng cá voi hàng năm đã trở thành một truyền thống sâu sắc trong kí ức của cư dân ven biển vùng đất mới, thể hiện sự giao thoa văn hóa và tín ngưỡng giữa hai dân tộc.

Tại thôn Quảng Hội, xã Vạn Thắng, huyện Vạn Ninh, Khánh Hòa, có một truyền thuyết độc đáo liên quan đến Quan Công và ông Nam Hải, trong đó kể về một con phượng hoàng đã đẻ ra hai trứng.

Theo truyền thuyết, một quả trứng rơi xuống biển Đông hóa thành ông Nam Hải (cá voi), trong khi quả trứng khác rơi trên đất liền và được một vị hòa thượng ấp trong đại hồng chung, sau 100 ngày nở ra Quán Thánh Tục thờ cá Ông của dân chài bắt nguồn từ câu chuyện về một chàng sĩ tử bị thầy đồ chém đầu, sau đó hóa thành cá voi, suốt bốn mùa bơi trên biển để cứu người gặp nạn Ngoài ra, có nơi cho rằng miếu thờ cá Ông được hình thành từ một thai ngư bị sẩy, trôi dạt vào đồng làng.

Sách Đại Nam nhất thống chí mô tả cá voi là Đức Ngư, với đặc điểm đầu tròn, có lỗ phun nước, màu đen trơn láng, không có vảy và đuôi chia thành hai mảng giống đuôi tôm Loại cá này được cho là có tính từ thiện, thường cứu giúp người khi gặp nạn trên biển Vào đầu niên hiệu Minh Mạng, cá này được đặt tên là Nhân Ngư, nhưng sau đó đổi thành Đức Ngư dưới triều Tự Đức Theo sách An Nam chí dự lục của Cao Trùng Hưng, cá này thuộc loại Hải Thu, có khả năng phun hơi nước lên không trung, tạo thành mưa khi gặp gió Sách Cách trí kinh nguyên dẫn lại rằng cá Bạch Ngư dài khoảng 20 trượng, cũng có tính lương thiện và thường cứu giúp người gặp nguy hiểm trên biển Ngoài ra, Bắc sử ghi nhận nước Chân Lạp có loại cá tên là Kiến Đồng.

Có một sinh vật đặc biệt với bốn chân, không có vảy, mũi giống như vòi voi, có khả năng hút nước và phun lên cao tới năm sáu chục thước Nhiều giả thuyết đã được đưa ra để nghiên cứu về sinh vật này, và vào năm Minh Mạng thứ 17, hình ảnh của nó đã được khắc trên Nhân đỉnh.

Nghiên cứu về tín ngưỡng thờ cá Ông cho thấy vẫn còn nhiều quan điểm khác nhau về nguồn gốc của nó Một số nhà nghiên cứu cho rằng cá Ông là hóa thân của thần Po Riyak trong văn hóa Chăm, trong khi những người khác xem cá Ông như một phần trong bức tranh văn hóa đa dạng của tín ngưỡng này.

Quán Thế Âm Bồ Tát có 38 hình tượng, và câu chuyện về chàng sĩ tử bị thầy chém đầu, sau đó hóa thành cá Ông, được các ngư dân truyền miệng.

Ngư dân ven biển coi cá Ông là loài động vật linh thiêng, có thân hình to lớn nhưng không gây hại cho con người, thậm chí còn cứu người trong những tai nạn trên biển Khi gặp cá Ông "luỵ" hay “lị”, họ tổ chức mai táng chu đáo, vì cá thường chết do cá ép, bệnh già, ô nhiễm môi trường, hoặc vô tình mắc lưới Nếu cá bị sóng lớn dạt vào bờ nhưng chưa chết, ngư dân sẽ nỗ lực đưa nó trở lại biển Người đầu tiên phát hiện xác cá Ông được xem là trưởng tang và phải đội dây rơm mũ bạc như để tang cha mẹ Dân làng tổ chức đám tang trọng thể và người này được tôn trọng như một vị cao niên Nếu trưởng tang là phụ nữ, thì phải có một người con trai trong gia đình đảm nhiệm Người này có quyền đưa xác cá Ông về lăng của địa phương và canh gác bên cạnh cho đến khi hoàn tất tang lễ.

Trước năm 1945, khi cá Ông lụy xuất hiện, xã trưởng phải trình lên Huyện, Phủ để quan chức kiểm tra và cấp tiền tuất, hương đèn, vải đỏ quấn đủ 7 vòng cho việc khâm liệm Nghi thức tang lễ dựa vào “Thọ Mai Gia Lễ” nhưng giản lược hơn so với tang lễ của con người Sau ba năm, xương được cải táng, xếp vào quách và đưa vào lăng đã xây sẵn để thờ cúng Lăng Ông có người trông coi và được quản lý bởi một Hội đồng.

Ngư dân vùng biển tin rằng khi cá Ông lụy vào bờ, đó là điềm báo cho một mùa đánh bắt bội thu Người phát hiện xác Ông, đặc biệt nếu là trưởng nam, sẽ được ban phước và gặp nhiều may mắn trong cuộc sống Họ không chỉ lo an táng cho những xác Ông dạt vào bãi mà còn tìm cách đưa xác Ông từ ngoài khơi vào bờ để tổ chức tang lễ trang trọng Nếu gặp những xác Ông lớn không thể đưa về, ngư dân sẽ thắp nhang cầu xin Ông sớm dạt vào bờ Đối với những Ông còn sống nhưng đang hấp hối, họ sẽ dìu Ông ra khơi với hy vọng cứu sống.

39 lời các ngư dân, phần lớn các Ông trong tình trạng đó đều cố quay đầu vào bờ Vậy là

THỰC TRẠNG CỦA LỄ HỘI CẦU NGƯ KHÁNH HÒA

Trong những năm gần đây, lễ hội văn hóa truyền thống đã trở thành một loại hình du lịch phát triển mạnh mẽ, thu hút ngày càng nhiều du khách Những lễ hội này không chỉ mang đến cho du khách trải nghiệm đa dạng về cách tổ chức, diễn xuất, và trang phục, mà còn giúp họ hiểu rõ hơn về cội nguồn lịch sử của từng lễ hội Tham gia lễ hội, du khách còn có cơ hội khám phá các danh lam thắng cảnh và di tích, thưởng thức giá trị văn hóa phong phú, bởi hầu hết các lễ hội đều diễn ra tại những địa điểm này Chính vì vậy, lễ hội văn hóa truyền thống có sức hấp dẫn lớn đối với khách du lịch.

Theo Báo cáo số 36/BC-SVHTT ngày 19 tháng 3 năm 2019, tỉnh Khánh Hòa đã tổng kết 10 năm thực hiện chiến lược phát triển văn hóa đến năm 2020 Hiện tại, tỉnh có 16 di tích được xếp hạng Quốc gia và 175 di tích được xếp hạng cấp Tỉnh Đặc biệt, Khánh Hòa còn sở hữu 3 di sản phi vật thể cấp Quốc gia, trong đó có Lễ hội Cầu Ngư.

Lễ hội Tháp bà Ponagar, Lễ bỏ mả của người Raglai ở Khánh Hòa

Lễ hội Cầu Ngư tỉnh Khánh Hòa là một di sản văn hóa độc đáo, thể hiện rõ nét bản sắc dân tộc và đời sống tâm linh của người dân Lễ hội này không chỉ phản ánh các quan niệm nhân sinh mà còn bao gồm nhiều hoạt động văn hóa dân gian phong phú Với giá trị văn hóa đặc biệt, lễ hội Cầu Ngư thu hút đông đảo du khách trong và ngoài nước, góp phần làm phong phú thêm trải nghiệm du lịch tại Khánh Hòa.

Các lễ hội dân gian truyền thống ở Khánh Hòa diễn ra chủ yếu tại các làng xã, thể hiện đậm nét văn hóa của các dân tộc Những lễ hội này không chỉ bao gồm nghi lễ truyền thống mà còn có các trò chơi dân gian được phục hồi, kết hợp với hoạt động thể thao như bóng đá, bóng chuyền và văn nghệ quần chúng, tạo nên không khí tưng bừng cho ngày hội Mặc dù cùng một chủ đề, nhưng mỗi địa phương lại có cách tổ chức lễ hội khác nhau do điều kiện tự nhiên và văn hóa riêng, làm phong phú thêm sự đa dạng của các loại hình lễ hội Ngoài ra, lễ hội còn là nơi bảo tồn các giá trị văn hóa và nghệ thuật truyền thống, đồng thời Ban tổ chức cũng tổ chức nhiều hoạt động văn hóa, thể thao để nâng cao đời sống tinh thần cho cộng đồng.

Hoạt động văn nghệ quần chúng đóng vai trò quan trọng trong việc xây dựng nền tảng văn hóa tinh thần tại địa phương, tạo cầu nối giao lưu và sản phẩm văn hóa cộng đồng Công tác tuyên truyền và quảng bá về di tích, lễ hội được chú trọng, với các thông báo thường xuyên từ Ban Tổ chức để du khách hiểu rõ về lễ hội Các phương tiện tuyên truyền đa dạng, bao gồm đài truyền thanh huyện, xã, panô, băng rôn, cổng chào và cờ, được đặt tại khu vực lễ hội và các tuyến đường chính trong xã.

Công tác tuyên truyền và quảng bá trên các phương tiện thông tin đại chúng, đặc biệt là trên website, cùng với việc phát hành ấn phẩm như biển chỉ dẫn và bản đồ, đã giúp nâng cao nhận thức của người dân và du khách về giá trị của lễ hội tại Khánh Hòa Sự phát triển của du lịch lễ hội không chỉ mang lại hiệu quả kinh tế cao mà còn là yếu tố quyết định cho sự phát triển của ngành du lịch Mục tiêu của tỉnh Khánh Hòa là khai thác tốt loại hình du lịch lễ hội, đồng thời làm giàu thêm bản sắc và truyền thống dân tộc Vai trò của du lịch lễ hội trong kinh doanh du lịch là rất quan trọng, góp phần thúc đẩy sự phát triển của ngành du lịch và mang lại lợi ích lớn cho nền kinh tế.

Hiện nay, Khánh Hòa có 50 địa điểm thờ Ông Nam Hải, phân bố tại các khu vực như huyện Vạn Ninh, thị xã Ninh Hòa, thành phố Nha Trang, thành phố Cam Ranh và huyện Cam Lâm.

Lễ hội Cầu Ngư tỉnh Khánh Hòa đang thu hút đông đảo du khách, cả nội địa lẫn quốc tế, nhưng vẫn chưa đáp ứng được nhu cầu của họ Một số hành động tiêu cực như trộm cắp, móc túi và chèo kéo khách du lịch đang làm giảm đi tính linh thiêng của lễ hội Quản lý và tổ chức lễ hội còn lỏng lẻo, dẫn đến việc mất giá trị thực sự của sự kiện này Các cấp chính quyền địa phương cần chú trọng và đưa ra các chính sách phù hợp để bảo tồn giá trị bản sắc dân tộc của lễ hội.

Lễ hội Cầu Ngư ở Khánh Hòa là sự kế thừa và tích hợp từ các lễ hội Cầu Ngư của các tỉnh Nam Trung bộ, chủ yếu là Bình Định và Phú Yên Từ năm 1975 đến 1990, các lễ hội truyền thống ở Khánh Hòa ít được tổ chức, nhưng lễ thức tế tự của Lễ hội Cầu Ngư vẫn được dân làng gìn giữ Nhờ đó, các nghi thức của Lễ hội Cầu Ngư tại Khánh Hòa đã được bảo lưu và truyền thừa nguyên vẹn, đặc biệt trong những năm gần đây.

Lễ hội Cầu Ngư ở Khánh Hòa ngày càng được tổ chức chu đáo, thu hút sự quan tâm của chính quyền địa phương và ngành chức năng, góp phần tạo nên bản sắc văn hóa đặc trưng của vùng đất này Di sản văn hóa này không chỉ được nhân dân trong tỉnh mà còn được du khách biết đến và trân trọng Hò Bả Trạo, nghi thức truyền thống của lễ hội, đã được tái hiện trong các Festival Biển, thu hút đông đảo khán giả Sở Văn hóa và Thể thao đã đề xuất các kế hoạch bảo tồn và phát huy giá trị di sản nghệ thuật truyền thống này, nhằm đưa hò Bả Trạo đến gần hơn với công chúng, đặc biệt là khách du lịch Mặc dù hiện nay chỉ còn một số ít làng, phường thực hành hò Bả Trạo, nhưng nghệ thuật này vẫn giữ được cấu trúc và tinh thần truyền thống.

STT Nội dung Điểm Trung Bình

1 Công tác tổ chức, quản lý lễ hội chu đáo 4,57

2 Ban tổ chức đáp ứng tốt các nhu cầu của du khách 4,00

Việc đảm bảo an toàn, an ninh cho du khách tại các điểm du lịch và thương mại của chính quyền địa phương tốt

4 Vấn đề ô nhiễm môi trường được các đơn vị quản lý quan tâm 3,28

5 Chính quyền địa phương có các đường dây nóng hỗ trợ du khách 4,42

6 Các quảng cáo về chương tình lễ hội được thiết kế rõ ràng 3,55

7 Công tác bảo tồn lễ hội trường thống được quan tâm thực hiện 4,02

8 Công tác tổ chức, quản lý lễ hội chu đáo 3,70

9 Ban tổ chức đáp ứng tốt các nhu cầu của du khách 3,70

Việc đảm bảo an toàn, an ninh cho du khách tại các điểm du lịch và thương mại của chính quyền địa phương tốt

Bảng 2.1 - Đánh giá của doanh nghiệp về công tác tổ chức, quản lý lễ hội ở Khánh Hòa

Nguồn: Trương Thị Xuân Nhi (2021), Kết quả khảo sát thực tế - Phát triển du lịch lễ hội truyền thống tại Khánh Hòa, Trường Đại học Khánh Hòa

XÂY DỰNG CHƯƠNG TRÌNH TÁI HIỆN LỄ HỖI

Nhóm sẽ phục dựng Lễ hội Cầu Ngư, tinh giản các nghi thức thực tế và tổ chức lại phần hội, sân khấu hóa toàn bộ lễ hội Sự kiện sẽ diễn ra từ 18 giờ đến 21 giờ 30 ngày 15/07/2021 tại hội trường với sức chứa 120 khán giả, trong bối cảnh kiểm soát tốt dịch bệnh, nhằm giới thiệu đầy đủ thần thái và diễn tiến của lễ hội.

Không gian tổ chức lễ hội bao gồm khu sân khấu và khu ẩm thực dân gian, triển lãm ảnh nghệ thuật cùng khu trò chơi dân gian Khu sân khấu, được thiết kế như ngôi lăng Ông Nam Hải, là nơi diễn ra các hoạt động phần lễ như Hò Bả Trạo, múa lân rồng và biểu diễn tuồng Khu ẩm thực dân gian nằm bên ngoài sân khấu, nơi có các gánh hàng rong phục vụ những món ăn đặc trưng của Khánh Hòa như bún lá, nem nướng Ninh Hòa, bánh ướt Diên Khánh, bánh xèo, bánh bèo và nhiều món ăn dân gian khác Ngoài ra, khu trò chơi dân gian mang đến những trò chơi thú vị như chói cua, đan lưới, bài chòi và các trò chơi dân gian khác.

Do đặc thù của chương trình tổ chức trong hội trường, một số nghi lễ như diễu hành đường phố và Lễ Nghinh Ông ngoài biển sẽ được trình bày qua video thuyết minh Bên cạnh đó, phần Hội sẽ diễn ra bên ngoài hội trường, cả trước và trong thời gian chương trình, nhằm tạo cơ hội cho khán giả tham dự cũng như những người đến trễ có thể tham gia vào các cuộc thi và trò chơi dân gian.

2.7.2 Kịch bản tái hiện lễ hội

STT THỜI GIAN NỘI DUNG GHI CHÚ

Khai mạc Tuyên bố lý do, giới thiệu đại biểu

2 18h05 – 18h10 Phát biểu Khai mạc Lễ hội

Lễ Rước Sắc diễn ra từ 18h10 đến 18h25, với sự tham gia của các bô lão, đội Bả Trạo, đội Lân sư rồng và đoàn hát tuồng Đoàn rước sẽ diễu hành từ ngoài hội trường hướng về sân khấu chính, bao gồm thuyền rồng, đội lân, cờ lệnh, lọng che, long đình, Ban tế lễ và đội nhạc lễ, vừa đi vừa múa lân và tấu nhạc.

Khi đám rước đến khu vực sân khấu, Ban Tế lễ sẽ đưa Long đình vào trong Sau khi Long đình được nhập, Chánh tế sẽ đặt sắc phong lên bàn thờ để tiến hành Lễ Khai sắc, khởi đầu cho Lễ hội Cầu Ngư.

Nghi lễ Nghinh Ông ngoài biển được bắt đầu bằng phần thuyết minh và trình chiếu Đoàn rước tiến vào chậm rãi, và khi đến sân khâu, mọi người chia ra để xếp đội hình Chánh tế sau đó thực hiện các nghi thức của lễ.

Sau khi Lễ Khai Sắc xong, để mở đầu Lễ Tế Chánh là 2 tiết mục:

6 18h30 – 18h40 - Diễn xướng Hò Bả Trạo bài “Phụng nghinh hồi đình”

Sau các tiệt mục biểu diễn là phần lễ chính Ban tế lễ sẽ tiến hành các nghi thức tế lễ cổ truyền bái tế và đọc văn tế

Cuối lễ Tế chánh Đội Bả Trạo lại múa lạy Ông Nam Hải để hạ ban (trong 2 phút)

Vào lúc 18h50 đến 19h10, trong chương trình Đại bái & Thứ Lễ, một diễn viên tuồng sẽ vừa trình diễn vừa thực hiện nghi thức Trong khi đó, MC sẽ đọc lời bình để giúp khán giả hiểu rõ hơn về ý nghĩa của Khai Diên và Thứ lễ.

Sau khi trình diễn sẽ dâng hương lên Ông Nam Hải và đọc lời chúc cho vạn lạch được an khang, thịnh vượng

Tiếp theo hát các tích tuồng:

11 19h25 -19h40 - Vở “Quan Công phục Huê Dung”

Tiết mục nghệ thuật tổng hợp gồm: múa lân, múa long hổ hội, múa chuốc rượu, múa dâng bông… để cầu quốc thái dân an, mưa thuận gió hòa

- Múa Lân và Long Hổ Hội bài “Kim Long Hý Thủy” và bài “Tứ Quý Hưng Long”

- Múa chuốc rượu bài “Lưu Thủy Kim Tiền”

- Hoạt cảnh ngư dân đánh bắt Thủy hải sản gặp mưa bão được cá ông cứu giúp

- Múa dân bông cảm tạ Ông Nam Hải

BIỂU DIỄN NGHỆ THUẬT PHẦN HỘI

13 20h00 – 20h15 Hoạt cảnh khai hội Hoạt cảnh ca- múa- nhạc- thuyết minh: Múa Cầu ngư - Phục dựng lại cảnh bủa lưới giăng câu

Hát: Phong Hải biển nhớ

15 Múa: Chuyện tình hoa muốn biển

16 Hát: Gần lắm Trường Sa

17 Hát: Chiều hè trên bãi biển

18 Hát + Múa: Lý kéo chài

Minigame Sau tiết mục Lý kéo chài, MC dẫn đến nghề chái lưới và sẽ tổ hức cuộc thi Đan lưới tại sân khấu

Bế mạc Hát múa: “Bến cảng quê hương tôi”

PHẦN HỘI NGOÀI HỘI TRƯỜNG

Cuộc thi và trò chơi dân gian, các gian hàng diễn ra song song với nhau

Hội thi bao gồm hai phần, trong đó mỗi đội thi gồm ba thành viên sẽ thực hiện việc đan một tấm lưới có diện tích 1 mét vuông Sau khi hoàn thành, đội sẽ tiếp tục gỡ rối và xếp lại tấm lưới một cách ngay ngắn để có thể sử dụng trong việc dăng câu Đội nào hoàn thành sớm nhất, đẹp nhất và hoàn chỉnh nhất sẽ giành chiến thắng.

Mỗi đội thi gồm 2 thành viên sẽ thay phiên nhau chạy từ vạch đích đến hồ bắt cua và tiến hành trói cua theo quy định trong thời gian 10 phút Đội nào bắt và trói được nhiều cua nhất sẽ giành chiến thắng.

24 Hội thi bịt mắt bắt vịt

Hai chú vịt được thả vào một cái chuồng, nơi mà mỗi lượt chơi có 5 người tham gia Những người này sẽ bị bịt mắt và phải nghe theo sự chỉ dẫn của đồng đội để bắt được vịt.

25 Các trò chơi dân gian khác

Bảng 2.2 - Kịch bản chương trình tái hiện Lễ hội Cầu Ngư Khánh Hòa

GIÁ TRỊ DI SẢN VĂN HÓA LỄ HỘI CẦU NGƯ Ở KHÁNH HÒA

Lễ hội Cầu Ngư là một lễ hội dân gian độc đáo, mang đậm giá trị văn hóa và có ảnh hưởng sâu sắc đến đời sống tinh thần cũng như tín ngưỡng của cư dân vùng biển phía Nam và Khánh Hòa Việc bảo tồn và phát huy Lễ hội Cầu Ngư tại Khánh Hòa không chỉ là bảo vệ các giá trị văn hóa mà còn là sự tri ân đối với những nỗ lực gìn giữ của người dân nơi đây qua nhiều thế hệ.

Lễ hội Cầu Ngư – ngày hội làng biển: Là vùng đất mới khai cơ nên làng ở Khánh

Mặc dù Hòa không hoàn toàn mang đầy đủ đặc trưng của một làng cổ Việt Nam, nhưng hình ảnh cây đa, bến nước và sân đình vẫn rất quen thuộc với người dân Khánh Hòa Khác với các làng nông nghiệp, làng biển ở Khánh Hòa thường nằm ven lạch nước, cửa sông hoặc cồn cát, bãi triều, và thường tách biệt với các làng khác Trong làng, các ngôi nhà san sát nhau và đều hướng ra biển, điều này đã góp phần tạo nên sự gắn kết cộng đồng mạnh mẽ giữa người dân làng biển Khánh Hòa.

Hầu hết các làng biển ở Khánh Hòa đều xây dựng Đình để thờ cúng Thành hoàng và Tiền hiền, trong đó một số làng còn có Lăng Ông Nam Hải và tổ chức Lễ hội Cầu Ngư Lễ hội này không chỉ gắn liền với tập tục lâu đời của ngư dân mà còn là dịp để mọi người vui chơi, giải trí và thăm viếng lẫn nhau Thông thường, sinh hoạt của làng biển chủ yếu diễn ra trong phạm vi cộng đồng, ít có cơ hội giao lưu với các làng lân cận; do đó, Lễ hội Cầu Ngư đã tạo điều kiện bù đắp những thiếu hụt về mặt tình cảm Đây là ngày hội của làng biển Khánh Hòa, mang ý nghĩa sum họp và đoàn kết của mọi người.

“… Tháng hai lạch cúng đức Ông

Ai đi đâu đó nhớ mong mà về…”

Lễ hội Cầu Ngư không chỉ là một lời mời gọi quê hương dành cho những người xa xứ, mà còn là cầu nối giữa quá khứ và tương lai, giúp người dân biển luôn gắn bó và gìn giữ tình yêu với biển cả.

Lễ hội Cầu Ngư thể hiện niềm tin và ý chí mạnh mẽ của người dân biển, khẳng định truyền thống nghề đánh bắt thủy sản lâu đời của dân tộc Cùng với việc mở rộng lãnh thổ về phương Nam, người dân đã di cư và định cư, tạo điều kiện cho việc khai thác ngư trường Địa lý Việt Nam cho thấy, ngư trường ở phía Nam phong phú hơn, dẫn đến sự phát triển mạnh mẽ của ngành đánh bắt thủy sản tại các tỉnh miền Nam so với miền Bắc.

Đi biển luôn tiềm ẩn nhiều nguy hiểm, đặc biệt trong bối cảnh người xưa không có công cụ dự báo thời tiết Điều này dẫn đến việc ngư dân tin vào vận mệnh và sự hỗ trợ của thần linh Cá voi được coi là biểu tượng may mắn, không chỉ cứu sống người gặp nạn mà còn báo hiệu sự xuất hiện của nhiều đàn cá, mang lại mùa cá bội thu Vì vậy, ngư dân các tỉnh phía Nam tôn thờ cá voi như Đức Ngư, thể hiện lòng tri ân và sùng bái Lễ hội Cầu Ngư không chỉ là hoạt động văn hóa mà còn gắn liền với lao động sản xuất, thể hiện niềm tin và ý chí vượt khó để đạt được hạnh phúc.

Ngư dân tin tưởng vào sự độ trì của Ông Nam Hải và thường cầu cúng, nhưng họ không hoàn toàn ỷ lại vào số phận Họ vẫn giữ vững ý chí và quyết tâm, sẵn sàng đối mặt với sóng cả và bão giông Câu ca dao thể hiện tinh thần này: “Ngàn ngày nhờ phước cả/ một bữa phải gắng công/ dẫu nước ngược cũng xông/ gặp gió giông cũng lướt.”

Lễ hội Cầu Ngư ở Khánh Hòa không chỉ tôn trọng yếu tố lễ nghi mà còn mang đến không khí vui tươi, rạo rực của ngày hội làng biển, thể hiện khát vọng của ngư dân Yếu tố thiêng trong lễ hội hòa quyện với đời sống thường nhật, tạo nên niềm tin cho cộng đồng làng biển Từ niềm tin này, ngư dân có thể vượt qua gian lao, vững vàng chèo lái khi ra khơi.

Lễ hội Cầu Ngư tại Khánh Hòa là một biểu tượng quan trọng trong việc bảo tồn các nghệ thuật truyền thống và dân gian của Nam Trung bộ Theo Giáo sư Ngô Đức Thịnh, lễ hội không chỉ là sự kết hợp giữa các hình thức nghệ thuật mà còn là nơi lưu giữ và trao truyền các giá trị văn hóa từ thế hệ này sang thế hệ khác Tại Lễ hội Cầu Ngư, các hình thức nghệ thuật như Hát bộ, Hò Bả Trạo, Múa Siêu và các trò chơi dân gian được trình diễn, tạo nên một không gian sống động và đa dạng Hơn 2/3 thời gian lễ hội được dành cho các hoạt động nghệ thuật, khẳng định vai trò quan trọng của chúng trong việc giữ gìn bản sắc văn hóa cộng đồng.

55 lễ hội này đều là những vốn quý được nhân dân Nam Trung Bộ sáng tạo, trao truyền và gìn giữ bao đời nay

Lễ hội Cầu Ngư ở Khánh Hòa không chỉ là ngày hội của làng biển mà còn giáo dục lòng yêu quê hương và tạo sự gắn kết cộng đồng Đây là biểu hiện của niềm tin và ý chí vượt khó, xây dựng cuộc sống tươi đẹp Lễ hội còn là bài ca lao động của cư dân vùng biển, thể hiện qua các nghi lễ, trò diễn dân gian và nghệ thuật truyền thống, từ đó góp phần bảo tồn văn hóa dân gian và xây dựng bản sắc văn hóa đặc trưng của Khánh Hòa.

Chương 2 đã cung cấp cái nhìn sâu sắc về Lễ hội Cầu Ngư tại Khánh Hòa, bao gồm đặc điểm tín ngưỡng của người dân, phương thức thờ phụng cá Ông, thời gian và địa điểm tổ chức lễ hội Đặc biệt, chương này cũng giới thiệu về nghệ thuật Hò Bả Trạo, một nghi thức quan trọng không thể thiếu trong Lễ hội Cầu Ngư.

Chương 2 đã làm rõ được Lễ hội Cầu Ngư mang đậm các yếu tố văn hóa dân gian của ngư dân vùng biển Đây là một lễ hội khá tiêu biểu của các ngư dân, thể hiện ước vọng an lành, bình yên, may mắn trong cuộc sống khi ra nơi đầu sóng ngọn gió, thể hiện tinh thần đoàn kết tương trợ trong lao động và sản xuất của của cư dân sông nước ngày đêm đối đầu với thiên nhiên sóng gió được an toàn Dựa theo những đặc điểm nghiên cứu được ở chương 2 đã xây dựng kịch bản chương trình tái hiện lại lễ hội, để đưa lễ hối tiếp cận đền nhiều đối tượng khán giả hơn cũng như bảo tồn những giá trị tốt đẹp của lễ hội Đồng thời ở chương 2, đã tìm hiểu những thực trạng còn tồn tại ở Lễ hội Cầu Ngư Khánh Hóa và phân tích những giá trị di sản văn hóa của lễ hội, từ đó làm nền tảng để xây dựng những giải pháp phát triển, giữ gìn và bảo tồn những giá trị văn hóa tốt đẹp của lễ hội ở chương 3

ĐỀ XUẤT GIẢI PHÁP BẢO TỒN VÀ PHÁT HUY GIÁ TRỊ DI SẢN VĂN HÓA CỦA LỄ HỘI CẦU NGƯ KHÁNH HÒA

Ngày đăng: 05/10/2022, 14:43

HÌNH ẢNH LIÊN QUAN

Bảng  Tên bảng  Trang - NGHIÊN CỨU VÀ XÂY DỰNG CHƯƠNG TRÌNH TÁI HIỆN LỄ HỘI CẦU NGƯ TỈNH KHÁNH HÒA
ng Tên bảng Trang (Trang 10)
Bảng 2.1 - Đánh giá của doanh nghiệp về công tác tổ chức, quản lý lễ hội ở Khánh Hòa - NGHIÊN CỨU VÀ XÂY DỰNG CHƯƠNG TRÌNH TÁI HIỆN LỄ HỘI CẦU NGƯ TỈNH KHÁNH HÒA
Bảng 2.1 Đánh giá của doanh nghiệp về công tác tổ chức, quản lý lễ hội ở Khánh Hòa (Trang 58)

TRÍCH ĐOẠN

TÀI LIỆU CÙNG NGƯỜI DÙNG

TÀI LIỆU LIÊN QUAN

w