1. Trang chủ
  2. » Luận Văn - Báo Cáo

Nghĩa vụ của các bên theo Công ước của Liên Hợp Quốc về mua bán hàng hóa quốc tế

93 18 0

Đang tải... (xem toàn văn)

Tài liệu hạn chế xem trước, để xem đầy đủ mời bạn chọn Tải xuống

THÔNG TIN TÀI LIỆU

Thông tin cơ bản

Tiêu đề Nghĩa Vụ Của Các Bên Theo Công Ước Của Liên Hợp Quốc Về Mua Bán Hàng Hóa Quốc Tế
Tác giả Nguyễn Phi Long
Người hướng dẫn TS. Nguyễn Lan Anh
Trường học Trường Đại Học Ngoại Thương
Chuyên ngành Luật Kinh Tế
Thể loại luận văn thạc sĩ
Năm xuất bản 2022
Thành phố Hà Nội
Định dạng
Số trang 93
Dung lượng 260,32 KB

Cấu trúc

  • 1. Tính cấp thiết của đề tài (7)
  • 2. Tình hình nghiên cứu liên quan tới đề tài (8)
  • 3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu (10)
  • 4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu (11)
  • 5. Phương pháp luận và phương pháp nghiên cứu đề tài (11)
  • 6. Cấu trúc luận văn (12)
  • CHƯƠNG 1: TỔNG QUAN VỀ CÔNG ƯỚC VIÊN 1980 VÀ NGHĨA VỤ CỦA CÁC BÊN (13)
    • 1.1. Khái quát về Công ước Viên 1980 và hợp đồng mua bán hàng hóa quốc tế (13)
    • 1.2. Các nội dung cơ bản về nghĩa vụ của các bên trong hợp đồng mua bán hàng hóa quốc tế (19)
  • CHƯƠNG 2: THỰC TIỄN ÁP DỤNG CÔNG ƯỚC VIÊN 1980 VỀ NGHĨA VỤ CỦA CÁC BÊN TRONG HỢP ĐỒNG MUA BÁN HÀNG HÓA TẠI VIỆT NAM (45)
    • 2.1. Vai trò của Công ước Viên 1980 đối với các doanh nghiệp Việt Nam (45)
    • 2.2. Đánh giá việc áp dụng Công ước Viên 1980 về hợp đồng mua bán hàng hóa quốc tế tại Việt Nam (47)
    • 2.3. Thực tiễn áp dụng Công ước Viên 1980 đối với các doanh nghiệp Việt Nam (67)
  • CHƯƠNG 3: BÀI HỌC KINH NGHIỆM CHO DOANH NGHIỆP VIỆT NAM (74)
    • 3.1. Xu hướng áp dụng Công ước Viên 1980 về hợp đồng mua bán hàng hóa quốc tế tại Việt Nam (74)
    • 3.2. Kinh nghiệm trong việc áp dụng Công ước Viên 1980 trên thế giới (75)
    • 3.3. Bài học kinh nghiệm đối với các doanh nghiệp Việt Nam (85)
  • KẾT LUẬN (43)

Nội dung

Nghĩa vụ của các bên theo Công ước của Liên Hợp Quốc về mua bán hàng hóa quốc tế.Nghĩa vụ của các bên theo Công ước của Liên Hợp Quốc về mua bán hàng hóa quốc tế.Nghĩa vụ của các bên theo Công ước của Liên Hợp Quốc về mua bán hàng hóa quốc tế.Nghĩa vụ của các bên theo Công ước của Liên Hợp Quốc về mua bán hàng hóa quốc tế.Nghĩa vụ của các bên theo Công ước của Liên Hợp Quốc về mua bán hàng hóa quốc tế.Nghĩa vụ của các bên theo Công ước của Liên Hợp Quốc về mua bán hàng hóa quốc tế.Nghĩa vụ của các bên theo Công ước của Liên Hợp Quốc về mua bán hàng hóa quốc tế.Nghĩa vụ của các bên theo Công ước của Liên Hợp Quốc về mua bán hàng hóa quốc tế.Nghĩa vụ của các bên theo Công ước của Liên Hợp Quốc về mua bán hàng hóa quốc tế.Nghĩa vụ của các bên theo Công ước của Liên Hợp Quốc về mua bán hàng hóa quốc tế.Nghĩa vụ của các bên theo Công ước của Liên Hợp Quốc về mua bán hàng hóa quốc tế.Nghĩa vụ của các bên theo Công ước của Liên Hợp Quốc về mua bán hàng hóa quốc tế.

Tính cấp thiết của đề tài

Công ước của Liên hợp quốc về hợp đồng mua bán hàng hóa quốc tế, được thông qua tại Vienna vào ngày 11/4/1980 và có hiệu lực từ ngày 01/01/1988, nhằm thiết lập các quy định thống nhất cho hợp đồng mua bán hàng hóa quốc tế Mục tiêu của Công ước Viên 1980 là xóa bỏ các rào cản pháp lý trong thương mại quốc tế và thúc đẩy sự phát triển của thương mại toàn cầu Đến nay, Công ước Viên là một trong những điều ước quốc tế thành công nhất trong lĩnh vực giao thương hàng hóa, với 95 quốc gia thành viên, bao gồm nhiều nền kinh tế lớn như Pháp, Mỹ, Italia, Liên bang Nga, Canada, Đức, Hà Lan, Australia và Trung Quốc, trong đó có nhiều đối tác thương mại quan trọng của Việt Nam.

Ngày 18/12/2015, Chính phủ Việt Nam đã phê duyệt gia nhập Công ước Viên, đánh dấu bước tiến quan trọng cho ngành xuất nhập khẩu Từ ngày 01/01/2017, Công ước Viên 1980 chính thức có hiệu lực tại Việt Nam, mở ra nhiều cơ hội và thách thức mới trong thương mại quốc tế Việc hiểu rõ nghĩa vụ của các bên trong hợp đồng mua bán hàng hóa quốc tế theo Công ước Viên 1980 là rất quan trọng, giúp doanh nghiệp xuất nhập khẩu xác định và thực hiện nghĩa vụ của mình một cách chính xác.

Nhận thức rõ tầm quan trọng của việc nghiên cứu các quy định, án lệ và thực tiễn áp dụng Công ước Viên tại Việt Nam, tác giả đã chọn đề tài "Nghĩa vụ của các bên theo Công ước của Liên Hợp Quốc về MBHH quốc tế – Bài học kinh nghiệm đối với các doanh nghiệp Việt Nam" làm nội dung nghiên cứu.

1 Xem thêm tại: https://uncitral.un.org/en/texts/salegoods/conventions/sale_of_goods/cisg/status? fbclid=IwAR0vd6Og8qgSA 1Do2H7PaftPmCqdqNWriQKMhvj_UdzP-wqLBRgjhOeLnPU

Tình hình nghiên cứu liên quan tới đề tài

a Tình hình nghiên cứu trên thế giới

Trên thế giới, đã có một số bài viết và nghiên cứu về vấn đề này:

Cuốn sách “CISG Methodology” của André Janssen và Olaf Meyer cung cấp những phân tích sâu sắc về việc giải thích Công ước CISG, nhấn mạnh các nguyên tắc cần thiết để đạt được các mục tiêu của Công ước Ngoài ra, tác phẩm còn đưa ra cái nhìn tổng quan về cách thức giải thích Công ước tại một số quốc gia, bao gồm Ả Rập và Trung Quốc.

Bài nghiên cứu của Nguyễn Trung Nam tại Đại học West of England phân tích vấn đề giao kết hợp đồng MBHH quốc tế, nhấn mạnh những bất đồng giữa Công ước Viên và Bộ luật thương mại thống nhất (UCC) Tác giả chỉ ra rằng những điểm không hòa hợp này đã dẫn đến mâu thuẫn rõ rệt khi áp dụng Công ước tại tòa án Hoa Kỳ.

Tại Việt Nam, một số công trình nghiên cứu có thể kể đến như:

Cuốn sách "101 câu hỏi - đáp về Công ước của Liên Hợp Quốc về hợp đồng mua bán hàng hóa quốc tế" được biên soạn bởi VIAC kết hợp với Trường Đại học Ngoại Thương, cung cấp kiến thức cần thiết về các quy định và nguyên tắc của công ước này.

Cuốn sách “Đọc hiểu CISG qua thực tiễn giải quyết các tranh chấp tiêu biểu” của tác giả Ngô Nguyễn Thảo Vy và Nguyễn Hoàng Thái Hy, được xuất bản bởi Nxb Đại học Quốc gia thành phố Hồ Chí Minh vào năm 2020, cung cấp cái nhìn sâu sắc về các quy định của Công ước Viên Tác phẩm không chỉ giới thiệu các điều khoản quan trọng mà còn minh họa bằng những án lệ tiêu biểu được nhóm tác giả chọn lọc, giúp người đọc dễ dàng tiếp cận và hiểu rõ hơn về nội dung của Công ước này.

Cuốn sách “Hợp đồng MBHH quốc tế theo CISG: Quy định và Án lệ” do PGS.TS Nguyễn Bá Bình chủ biên, được xuất bản năm 2021 bởi Nhà xuất bản Tư Pháp Tác phẩm này được phát triển từ nghiên cứu trong khuôn khổ Đề án của Chính phủ nhằm hỗ trợ cộng đồng doanh nghiệp tham gia hiệu quả vào thương mại quốc tế khi Việt Nam trở thành thành viên của Công ước Viên.

Luận án Tiến sỹ của tác giả Võ Sỹ Mạnh, thực hiện tại trường Đại học Luật Thành phố Hồ Chí Minh năm 2015, tập trung vào vấn đề vi phạm cơ bản hợp đồng theo Công ước Viên 1980 về hợp đồng mua bán hàng hóa quốc tế Nghiên cứu này cũng đề xuất các định hướng nhằm hoàn thiện các quy định pháp luật liên quan tại Việt Nam.

Luận văn Thạc sỹ của Đào Sỹ Kiều, được thực hiện tại Đại học Mở năm 2017, nghiên cứu về nghĩa vụ của người bán và người mua theo quy định của Công ước Viên 1980 về hợp đồng mua bán hàng hóa quốc tế Bài viết cũng đưa ra những kinh nghiệm quý báu cho các doanh nghiệp Việt Nam trong việc áp dụng các quy định này nhằm nâng cao hiệu quả kinh doanh và hội nhập quốc tế.

Bài viết “Góc nhìn thực tế về áp dụng CISG tại Việt Nam trong 4 năm qua – sự ngại thay đổi hay gánh nặng nhớ nhà” của tác giả Diệu Anh Hoàng, đăng trên EPLegal Việt Nam, khám phá hành trình Việt Nam gia nhập Công ước Viên 1980 Phần 1 tập trung vào lịch sử ra đời và thành công của CISG, cùng với quá trình Việt Nam tham gia vào Công ước này và những lo ngại liên quan Phần 2 phân tích kết quả áp dụng CISG tại Việt Nam trong bốn năm qua, nhấn mạnh những thách thức và cơ hội mà các doanh nghiệp gặp phải trong việc thực hiện các quy định của Công ước.

Bài viết của PGS.TS Nguyễn Minh Hằng trên Báo Diễn đàn doanh nghiệp ngày 26/02/2018 phân tích sự khác biệt giữa Công ước Viên và Luật Thương mại Việt Nam 2005 Nội dung bài viết giúp người đọc hiểu rõ hơn về Công ước, từ đó áp dụng hiệu quả văn bản luật thống nhất này, điều này rất quan trọng đối với các luật sư và doanh nghiệp xuất nhập khẩu tại Việt Nam.

Bài viết “Không nắm vững pháp lý về hợp đồng, doanh nghiệp Việt dễ thua thiệt trong tranh chấp TMQT” của tác giả Vũ Lê, đăng trên Báo Công thương ngày 31/7/2019, nhấn mạnh tầm quan trọng của việc hiểu biết về pháp lý hợp đồng trong thương mại quốc tế Các chuyên gia đã chia sẻ kiến thức trong kỳ tập huấn “Hiểu và áp dụng CISG để tham gia hiệu quả hơn vào TMQT” do Sở Công Thương Đà Nẵng phối hợp với Vụ Pháp chế - Bộ Công Thương tổ chức, nhằm giúp doanh nghiệp Việt Nam nâng cao khả năng tham gia vào thị trường toàn cầu.

Bài viết "Sửa đổi luật hợp đồng MBHH quốc tế hấp dẫn hơn" của tác giả X Hoa, đăng ngày 05/4/2017 trên báo Pháp luật Việt Nam, thông tin về hội thảo “Thi hành Công ước về MBHH quốc tế tại Việt Nam và yêu cầu sửa đổi Luật Thương mại 2005 – Bài học kinh nghiệm từ Đức và Nhật Bản.” Hội thảo này được tổ chức bởi Đại học Luật Hà Nội, phối hợp với Trung tâm Pháp luật Đức và Trung tâm nghiên cứu, đào tạo pháp luật Nhật Bản, nhằm thảo luận về việc cải cách và áp dụng hiệu quả các quy định liên quan đến hợp đồng MBHH quốc tế tại Việt Nam.

Phương pháp luận và phương pháp nghiên cứu đề tài

Trong quá trình thực hiện luận văn, tác giả đã áp dụng nhiều phương pháp nghiên cứu như phân tích, hệ thống hóa, so sánh luật học và tổng hợp - thống kê để làm rõ nội dung của Công ước Việc kết hợp các phương pháp này giúp bài luận có trình tự và bố cục hợp lý, chặt chẽ, đồng thời làm nổi bật các quy định về nghĩa vụ của các bên trong hợp đồng MBHH quốc tế theo Công ước Viên Bên cạnh đó, tác giả cũng đối chiếu với thực tiễn áp dụng Công ước tại Việt Nam, từ đó rút ra bài học và đề xuất giải pháp khắc phục những hạn chế trong hoạt động thương mại quốc tế.

Cấu trúc luận văn

Ngoài phần Mở đầu, Kết luận và Danh mục tài liệu tham khảo, nội dung Luận văn gồm 3 chương:

Chương1: Tổng quan về Công ước Viên 1980 và nghĩa vụ của các bên trong hợp đồng mua bán hàng hóa quốc tế theo Công ước

Chương 2: Thực tiễn áp dụng Công ước Viên 1980 về nghĩa vụ của các bên trong hợp đồng mua bán hàng hóa quốc tế tại Việt Nam

Chương 3: Bài học kinh nghiệm cho doanh nghiệp Việt Nam

TỔNG QUAN VỀ CÔNG ƯỚC VIÊN 1980 VÀ NGHĨA VỤ CỦA CÁC BÊN

Khái quát về Công ước Viên 1980 và hợp đồng mua bán hàng hóa quốc tế

1.1.1 Sở lược Công ước Viên 1980

Sau chiến tranh thế giới, nhu cầu xóa bỏ rào cản pháp lý cho thương mại quốc tế (TMQT) đã dẫn đến việc Viện quốc tế về Thống nhất luật tư của Liên hợp quốc (UNIDROIT) tạo ra khung pháp luật thống nhất về mua bán hàng hóa quốc tế Năm 1964, UNIDROIT đã ban hành hai công ước: Luật Thống nhất về Mua bán hàng hóa quốc tế (ULIS) và Luật Thống nhất về thiết lập hợp đồng mua bán hàng hóa quốc tế (ULF), nhưng không nhận được sự ủng hộ rộng rãi Để khắc phục điều này, UNCITRAL đã khởi xướng việc soạn thảo Công ước Viên vào năm 1968, và sau nhiều chỉnh sửa, công ước đã được thông qua vào năm 1980 Công ước Viên đã tạo ra một hệ thống pháp luật thống nhất cho hợp đồng mua bán hàng hóa quốc tế, với 4 phần và 101 điều, bao gồm phạm vi áp dụng và các quy định chung.

Trong phần này Công ước nhấn mạnh đến giá trị tập quán trong các giao dịch TMQT, được chia làm hai chương:

Chương 1: Phạm vi áp dụng, quy định về các trường hợp được áp dụng hoặc không áp dụng Công ước Viên 1980 (từ điều 1 đến điều 6).

Chương 2: Các quy định chung, quy định các nguyên tắc trong việc áp dụng Công ước Viên (từ Điều 7 đến Điều 13)

Công ước Viên quy định các nguyên tắc cơ bản của pháp luật hợp đồng, bao gồm nguyên tắc tự do hợp đồng cho phép các bên tự do lựa chọn luật áp dụng và hình thức, nguyên tắc thiện chí (Good faith) nhằm thúc đẩy sự hợp tác giữa các bên, cùng với nguyên tắc tôn trọng tập quán và thói quen thương mại trong giao dịch.

Chương 2 của Công ước nêu rõ các nguyên tắc đặc thù, bao gồm nguyên tắc giải thích nội dung đã được quy định cũng như những vấn đề chưa được giải quyết trong Công ước Ngoài ra, còn có nguyên tắc giải thích tuyên bố và hành vi của các bên trong hợp đồng.

Phần II: Ký kết hợp đồng

Công ước về hợp đồng mua bán hàng hóa quốc tế bao gồm 11 điều khoản, quy định chi tiết các vấn đề pháp lý liên quan đến giao kết hợp đồng Từ điều 14 đến điều 17, Công ước nêu rõ nội dung của một lời chào hàng, yêu cầu chào hàng phải thể hiện tính rõ ràng, xác định người nhận và ý chí ràng buộc của người chào hàng Ngoài ra, Công ước cũng quy định giá trị pháp lý của lời chào hàng, bao gồm hiệu lực, rút lại và hủy bỏ chào hàng Từ điều 18 đến điều 21, Công ước quy định về hình thức, nội dung và hiệu lực của chấp nhận chào hàng, cũng như thời điểm hợp đồng được giao kết.

Điều 8 của CISG quy định về thời hạn chấp nhận chào hàng, bao gồm việc chấp nhận chào hàng muộn và thời điểm chấp nhận chào hàng có hiệu lực Thời gian để bên nhận chào hàng đưa ra quyết định là rất quan trọng, bởi vì nó ảnh hưởng đến thời điểm hợp đồng được giao kết Việc hiểu rõ các quy định này giúp các bên trong giao dịch thương mại quốc tế có thể thực hiện quyền và nghĩa vụ của mình một cách hiệu quả.

Phần III: Mua bán hàng hóa Đây là chương chiếm số lượng điều luật lớn nhất trong Công ước, hàm chứa các nội dung quan trọng, những quy phạm hiện đại, mang tính ưu việt đối với các vấn đề được quy định trong hợp đồng, bao gồm 5 chương:

Chương 1: Những quy định chung (từ điều 25 đến điều 29)

Chương 2: Nghĩa vụ của người bán (từ điều 30 đến điều 52)

Chương 3: Nghĩa vụ của người mua (từ điều 53 đến điều 65)

Chương 4: Chuyển rủi ro (từ điều 66 đến điều 70)

Chương 5: Các điều khoản chung về nghĩa vụ của người bán và người mua (từ điều 71 đến điều 88) Đối với nghĩa vụ của người bán, Công ước quy định rất rõ trong 23 điều 4 , bao gồm các nội dung: nghĩa vụ giao hàng và chứng từ liên quan, tính phù hợp của hàng hoá và sự liên quan của bên thứ ba tới hàng hóa là đối tượng của hợp đồng giữa bên bán và bên mua

Công ước quy định nghĩa vụ của người mua, bao gồm việc thanh toán tiền hàng và nhận hàng Ngoài ra, Công ước cũng nhấn mạnh tầm quan trọng của việc kiểm tra hàng hóa, bao gồm thời gian kiểm tra và thời hạn thông báo.

Công ước Viên không có chương riêng về vi phạm hợp đồng và chế tài, nhưng các nội dung này được đề cập trong chương 2, chương 3 và chương 5 Khi có dấu hiệu vi phạm hợp đồng, các bên có thể áp dụng các biện pháp như buộc thực hiện đúng hợp đồng, bồi thường thiệt hại và hủy hợp đồng Ngoài ra, các biện pháp khác cũng có thể được áp dụng, bao gồm biện pháp giảm giá và biện pháp gia hạn thời hạn thực hiện nghĩa vụ.

4 Từ Điều 30 tới Điều 52 CISG

5 Điều 50 CISG vụ 6 ; hay những biện pháp mà bên vi phạm đưa ra nhằm khắc phục những thiệt hại do hành vi vi phạm của mình 7

Công ước cũng đề cập đến các vấn đề quan trọng như chuyển rủi ro, miễn trách, hậu quả của việc hủy hợp đồng và bảo quản hàng hóa trong trường hợp tranh chấp Mục tiêu của những biện pháp này là bảo vệ quyền lợi cho các bên, giúp họ duy trì hợp đồng và hoàn thành nghĩa vụ.

Phần IV: Những quy định cuối cùng

Phần này quy định về việc ký kết, phê chuẩn, phê duyệt, gia nhập, bảo lưu và rút lui khỏi Công ước của các quốc gia, đồng thời nhấn mạnh rằng Công ước Viên không ảnh hưởng đến các điều ước quốc tế đã ký hoặc sẽ ký liên quan đến đối tượng điều chỉnh của nó Ngoài ra, cũng đề cập đến vấn đề lưu chiều của Công ước và thời điểm có hiệu lực của nó.

1.1.2 Lý luận chung về hợp đồng mua bán hàng hóa quốc tế a Khái niệm

Hoạt động MBHH quốc tế là giao dịch thương mại giữa các thương nhân của các quốc gia khác nhau, nhằm chuyển giao hàng hóa từ quốc gia này sang quốc gia khác Trong hợp đồng này, bên xuất khẩu có trách nhiệm chuyển giao hàng hóa và quyền sở hữu cho bên nhập khẩu, trong khi bên nhập khẩu phải nhận hàng và thanh toán tiền hàng Qua đó, hàng hóa sẽ được nhập khẩu vào thị trường của quốc gia nhập khẩu Tóm lại, hợp đồng MBHH quốc tế là một hình thức của hợp đồng MBHH nhưng với yếu tố quốc tế rõ ràng.

Theo Công ước Viên 1980, hợp đồng mua bán hàng hóa quốc tế là thỏa thuận giữa các bên có trụ sở thương mại tại các quốc gia khác nhau, nhằm mục đích sinh lợi từ việc trao đổi hàng hóa Hợp đồng này có những đặc điểm riêng biệt so với hợp đồng mua bán trong nước.

6 Khoản 1 Điều 47 và Khoản 1 Điều 63

- Về chủ thể: Chủ thể của hợp đồng MBHH quốc tế là các chủ thể, có trụ sở thương mại đặt ở các nước khác nhau.

Đối tượng của hợp đồng mua bán hàng hóa quốc tế là động sản, tức là hàng hóa có khả năng chuyển qua biên giới của một quốc gia Ngoài ra, giai đoạn chào hàng và chấp nhận chào hàng có thể được thực hiện tại các quốc gia khác nhau, tạo điều kiện cho giao dịch thương mại quốc tế linh hoạt và đa dạng.

Đồng tiền thanh toán trong hợp đồng mua bán hàng hóa quốc tế thường là đồng tiền chung như USD hoặc EURO, hoặc là nội tệ của một trong hai quốc gia tham gia hợp đồng.

- Về ngôn ngữ của hợp đồng: Hợp đồng MBHH quốc tế thường được ký kết bằng tiếng nước ngoài, trong đó phần lớn là được ký bằng tiếng Anh.

Các nội dung cơ bản về nghĩa vụ của các bên trong hợp đồng mua bán hàng hóa quốc tế

1.2.1 Nghĩa vụ của bên bán

Trong Công ước Viên, nghĩa vụ của bên bán là yếu tố cốt lõi trong bất kỳ hợp đồng mua bán hàng hóa nào Cụ thể, Điều 30 quy định rằng người bán phải thực hiện việc giao hàng và cung cấp chứng từ liên quan cho người mua, đồng thời có trách nhiệm chuyển giao quyền sở hữu và đảm bảo tính hợp pháp của hàng hóa theo quy định pháp luật.

Trong Công ước, nghĩa vụ của bên bán được quy định tại Chương II, từ Điều

Điều 44 quy định ba nhóm nghĩa vụ chính của bên bán: giao hàng và cung cấp giấy tờ liên quan, đảm bảo hàng hóa phù hợp với hợp đồng, và đảm bảo hàng hóa không có tranh chấp với bên thứ ba.

1.2.1.1 Nghĩa vụ giao hàng a Nghĩa vụ giao hàng đúng địa điểm

Khi thực hiện giao thương hàng hóa, các bên thường quy định địa điểm giao hàng cụ thể Nếu không có thỏa thuận nào về địa điểm, việc giao hàng sẽ được xác định dựa trên từng trường hợp theo Điều 31 của Công ước Viên.

Khi giao kết hợp đồng, nếu các bên đã thống nhất về việc vận chuyển hàng, người bán phải thực hiện nghĩa vụ giao hàng bằng cách xếp hàng cho người chuyên chở Địa điểm thực hiện giao hàng sẽ được coi là địa điểm giao hàng Nếu hợp đồng cho phép chuyển tải, nghĩa vụ của người bán hoàn thành khi giao hàng cho người chuyên chở đầu tiên Theo khoản 2 Điều 79 Công ước Viên, người bán không chịu trách nhiệm đối với việc thực hiện nghĩa vụ của bên vận chuyển.

Trong vụ Art books case 9 giữa người mua Thụy Sĩ và người bán Italia, để đảm bảo việc giao catalogue cho triển lãm, người bán đã ủy thác cho một công ty vận chuyển Mặc dù công ty này cam kết giao hàng đúng hạn, lô hàng đã đến muộn Theo phán quyết ngày 10/2/1999 của Tòa án Handelsgericht des Kantons Zurich, căn cứ Điều 31 Công ước Viên, người bán chỉ cần sắp xếp vận chuyển và đã thực hiện đúng nghĩa vụ của mình, do đó không phải chịu trách nhiệm về sai sót của người vận chuyển.

Trong vụ “Steel profiles case 10”, các bên ký hợp đồng mua bán ô tô và hàng hóa được vận chuyển từ cảng Ý trong tình trạng hoàn hảo Tuy nhiên, khi đến nơi, người mua phát hiện thép đã bị oxy hóa và đã khởi kiện người bán Tòa án Aooellate Court Cordoba, trong phán quyết ngày 31/10/1997, xác định rằng người bán không chịu trách nhiệm vì rủi ro đã chuyển sang người mua khi hàng hóa được giao cho người chuyên chở.

9 Switzerland 10 February 1999 Commercial Court Zurich (Art books case), Truy cập tại: http://unilex.info/cisg/case/484

10 Spain, 31 October 1997, Aooellate Court Cordoba (Steel pro files case), truy cập tại: http://unilex.info/cisg/case/315

Theo Điều 31, khoản b của Công ước Viên, khi hàng hóa thuộc loại đặc định cần được tách ra từ một lô hàng hoặc khi các bên đã biết rõ nguồn gốc sản xuất của hàng hóa, người bán có trách nhiệm giao hàng theo quyền định đoạt của người mua.

Theo khoản b Điều 31, khi hàng hóa là vật đặc định và được đặt tại một địa điểm cụ thể, quyền định đoạt thuộc về người mua Điều này bao gồm cả hàng hóa tương lai, tức là hàng hóa sẽ được chế tạo hoặc sản xuất tại một địa điểm nhất định, hoặc được lấy ra từ một lô hàng cụ thể Rủi ro tổn thất sẽ được chuyển giao cho bên mua ngay khi họ nhận hàng hóa.

Trong vụ kiện liên quan đến máy trợ thính điện tử, bên yêu cầu bồi thường thiệt hại do người mua không nhận hàng mặc dù bên bán đã gia hạn hợp đồng Tòa án đã đưa ra phán quyết vào ngày 14/5/1993, khẳng định rằng việc không thực hiện hợp đồng trong trường hợp này là vi phạm.

Theo Công ước Viên 1980, người bán có trách nhiệm giao hàng tại nơi sản xuất hàng hóa, trong khi người mua có nghĩa vụ nhận hàng tại địa điểm đó.

Theo Công ước, khoản c Điều 31 quy định rằng người bán phải giao hàng tại trụ sở thương mại của mình vào thời điểm giao kết hợp đồng, qua đó giảm trách nhiệm vận chuyển hàng hóa đến địa điểm khác Việc giao hàng tại trụ sở kinh doanh được coi là hoàn thành nghĩa vụ của người bán, đồng nghĩa với việc hàng hóa đã sẵn sàng và phù hợp cho việc vận chuyển, bao gồm cả việc đóng gói cần thiết.

Theo Điều 32 của Công ước, nếu người bán vẫn phải thực hiện các nghĩa vụ liên quan đến vận chuyển hàng hóa, hàng hóa cần được cá biệt hóa rõ ràng cho mục đích hợp đồng Điều này có thể được thực hiện bằng cách ghi mã hiệu trên hàng hóa hoặc thông qua các chứng từ chuyên chở.

Vào ngày 14 tháng 5 năm 1993, Tòa án quận Aachen, Đức, đã xét xử vụ án liên quan đến thiết bị trợ thính điện tử Theo quy định, người bán có nghĩa vụ thông báo cho người mua về việc đã gửi hàng, kèm theo hướng dẫn chi tiết về hàng hóa Đồng thời, nghĩa vụ giao hàng phải được thực hiện đúng thời hạn đã thỏa thuận.

Trong hợp đồng MBHH, yếu tố thời gian đóng vai trò quan trọng, ảnh hưởng trực tiếp đến tiến độ sản xuất, hiệu quả và lợi nhuận kinh doanh Việc người bán có giao hàng đúng hạn hay không sẽ quyết định đến sự thành công của hợp đồng Do đó, thời gian giao hàng cần được các bên thỏa thuận rõ ràng, theo quy định của công ước Viên.

Người bán phải giao hàng cho người mua đúng ngày đã thỏa thuận trong hợp đồng Nếu hợp đồng quy định thời điểm cụ thể, người bán cần gửi hàng đúng thời gian đó Trong trường hợp hợp đồng chỉ quy định khoảng thời gian giao hàng, người bán có thể gửi hàng bất kỳ lúc nào, miễn là đảm bảo đúng hạn đã thống nhất.

THỰC TIỄN ÁP DỤNG CÔNG ƯỚC VIÊN 1980 VỀ NGHĨA VỤ CỦA CÁC BÊN TRONG HỢP ĐỒNG MUA BÁN HÀNG HÓA TẠI VIỆT NAM

Vai trò của Công ước Viên 1980 đối với các doanh nghiệp Việt Nam

Việc Việt Nam gia nhập Công ước Viên mang một ý nghĩa đặc biệt đó là,

Công ước Viên 1980 thể hiện tinh thần dân chủ và sự lắng nghe giữa Đảng và nhân dân, với sự tham gia của chính phủ theo cơ chế bottom-up Quá trình tham gia của Việt Nam vào Công ước này được thúc đẩy mạnh mẽ bởi cộng đồng doanh nghiệp và cộng đồng pháp lý trong nước.

Ủy ban tư vấn về chính sách thương mại quốc tế, cùng với Trung tâm Trọng tài Quốc tế Việt Nam (VIAC) và các chuyên gia từ các trường đại học như Ngoại thương và Luật Hà Nội, Tp Hồ Chí Minh, đã tạo ra một điểm đặc biệt trong việc tham gia vào các công ước quốc tế tại Việt Nam Điều này khác biệt so với cơ chế Top-down truyền thống, nơi chính phủ tham gia và doanh nghiệp phải tuân thủ, mở ra cơ hội cho sự tham gia chủ động hơn từ phía doanh nghiệp.

Công ước Viên là một trong những điều ước quốc tế về thương mại mà Việt Nam gia nhập nhanh chóng, được sự ủng hộ mạnh mẽ từ các cơ quan chức năng và doanh nghiệp Sự ủng hộ này chủ yếu xuất phát từ những lợi ích to lớn mà Công ước mang lại cho cả Nhà nước và doanh nghiệp Việt Nam.

Việc Việt Nam gia nhập Công ước Viên đánh dấu một bước tiến quan trọng trong quá trình hội nhập kinh tế quốc tế, giúp đất nước mở rộng hơn nữa mối quan hệ với nền kinh tế toàn cầu Mặc dù đã thực hiện nhiều cải cách từ năm 1986, theo Bộ Công thương, sự tham gia của Việt Nam vào các điều ước quốc tế vẫn còn thấp, dưới mức trung bình khu vực và toàn cầu Do đó, gia nhập Công ước Viên, một trong những công ước quan trọng nhất về hợp đồng MBHH quốc tế, là rất cần thiết và mang ý nghĩa sâu sắc đối với sự phát triển kinh tế của Việt Nam.

Công ước Viên đóng vai trò quan trọng trong việc thống nhất quy định pháp luật về hợp đồng mua bán hàng hóa quốc tế giữa các quốc gia, giúp Việt Nam nhanh chóng hài hòa hệ thống pháp luật trong lĩnh vực này Nó không chỉ tạo điều kiện cho Việt Nam điều chỉnh hợp đồng MBHH quốc tế mà còn là nguồn tham khảo quý giá cho việc hoàn thiện khung pháp lý trong nước cũng như các điều ước quốc tế mà Việt Nam tham gia Kể từ khi được thông qua, Công ước Viên đã định hướng cho pháp luật của nhiều quốc gia, bao gồm cả Việt Nam, góp phần tạo ra sự thống nhất trong hệ thống pháp luật thương mại quốc tế.

Thứ ba, gia nhập Công ước Viên giúp các cơ quan giải quyết tranh chấp của

Việt Nam có lợi thế trong việc áp dụng pháp luật để giải quyết tranh chấp, nhờ vào phạm vi áp dụng rộng rãi của Công ước Nhiều tranh chấp sẽ được điều chỉnh bởi Công ước thay vì các nguồn luật nước ngoài phức tạp Điều này giúp thẩm phán và trọng tài viên dễ dàng nắm bắt quy định trong Công ước Viên, từ đó áp dụng hiệu quả vào việc giải quyết vụ việc Việc này cũng khắc phục tình trạng khó khăn khi phải áp dụng pháp luật nước ngoài trong giải quyết tranh chấp thương mại quốc tế, tạo điều kiện thuận lợi hơn cho doanh nghiệp.

Công ước của Liên hợp quốc về hợp đồng MBHH quốc tế tạo ra sự cân bằng giữa người bán và người mua, đảm bảo quyền và nghĩa vụ hợp pháp khi giao kết hợp đồng Việc áp dụng cùng một nguồn luật giúp doanh nghiệp Việt Nam và đối tác nước ngoài hiểu rõ hơn về các điều khoản, đánh giá hàng hóa và xác định rủi ro, từ đó thiết lập hợp đồng chặt chẽ hơn Hơn nữa, việc này cũng tạo điều kiện cho hai bên có chung "tiếng nói", giải quyết vấn đề một cách rõ ràng và đơn giản, hạn chế căng thẳng, góp phần củng cố tình hữu nghị và mở rộng quan hệ hợp tác.

Sử dụng Công ước Viên giúp doanh nghiệp Việt Nam tiết kiệm thời gian trong quá trình đàm phán về luật áp dụng, vì các bên sẽ có chung nguồn luật tự động áp dụng trong hợp đồng Điều này không chỉ giảm thiểu tranh cãi mà còn tiết kiệm chi phí tìm hiểu và tư vấn pháp luật từ nhiều quốc gia khác nhau Doanh nghiệp chỉ cần nắm rõ và áp dụng các quy định trong Công ước, từ đó đơn giản hóa quy trình giao kết hợp đồng.

Khi một quốc gia gia nhập Công ước Viên, Công ước này trở thành một phần của hệ thống pháp luật quốc gia đó Trong thương mại quốc tế, các điều ước quốc tế thường được ưu tiên áp dụng hơn so với pháp luật thương mại quốc gia, nhờ vào tính trung lập của các quy định trong điều ước, giúp tránh việc tạo ra "lợi thế sân nhà" cho một bên trong hợp đồng Điều này giúp các doanh nghiệp Việt Nam hạn chế việc phải sử dụng quy phạm xung đột trong tư pháp quốc tế để xác định luật áp dụng cho hợp đồng.

Theo nguyên tắc tự do hợp đồng, doanh nghiệp có thể bổ sung các nguồn luật khác để hoàn thiện hợp đồng, không nhất thiết phải sử dụng Công ước làm nguồn luật chính Tính “mở” của Công ước giúp doanh nghiệp linh hoạt hơn trong việc bảo vệ lợi ích của mình trong giao thương hàng hóa quốc tế.

Đánh giá việc áp dụng Công ước Viên 1980 về hợp đồng mua bán hàng hóa quốc tế tại Việt Nam

Doanh nghiệp Việt Nam khi ký kết hợp đồng mua bán hàng hóa, đặc biệt là hợp đồng quốc tế, phải tuân thủ Bộ luật Dân sự 2015 và Luật Thương mại 2005 Ngoài ra, các quy định về hợp đồng thương mại cũng được điều chỉnh bởi các điều ước quốc tế mà Việt Nam tham gia Kể từ ngày 01/01/2017, Công ước Viên đã chính thức có hiệu lực tại Việt Nam, đóng vai trò quan trọng trong giao kết mua bán quốc tế Tuy nhiên, nhiều doanh nghiệp xuất nhập khẩu vẫn gặp khó khăn trong việc hiểu rõ các quy định pháp lý của Công ước này, chủ yếu do tính mới và tâm lý ngại thay đổi, dẫn đến việc họ thường áp dụng nội luật thay vì tận dụng Công ước Viên.

Luật Thương mại 2005 và Công ước Viên có nhiều điểm tương thích, cho thấy rằng các nhà làm luật Việt Nam đã tham khảo Công ước trong quá trình soạn thảo Tuy nhiên, một số quy định trong Luật Thương mại 2005 vẫn thiên về hợp đồng mua bán nội địa, chưa hoàn toàn phản ánh tính chất phức tạp của hợp đồng mua bán hàng hóa quốc tế Do đó, để giảm thiểu rủi ro pháp lý, doanh nghiệp Việt cần nắm vững nội dung của Công ước và hiểu rõ sự khác biệt giữa Công ước này và Luật Thương mại 2005.

Trong hoạt động MBHH quốc tế, hợp đồng đóng vai trò quan trọng trong việc xác định quyền lợi và trách nhiệm của các bên tham gia Hợp đồng không chỉ là chứng cứ rõ ràng để giải quyết tranh chấp phát sinh, mà còn được pháp luật Việt Nam và Công ước Viên công nhận Tuy nhiên, giữa hai nguồn luật này tồn tại sự khác biệt rõ ràng về quy định hình thức hợp đồng.

Công ước viên dựa trên nguyên tắc tự do hợp đồng, cho phép các bên tự do lựa chọn hình thức giao kết hợp đồng Theo Điều 11, hợp đồng không cần phải được lập bằng văn bản hoặc tuân thủ yêu cầu hình thức nào khác Các bên có thể giao kết hợp đồng qua nhiều hình thức, bao gồm lời nói, văn bản hành vi, hoặc thậm chí là lời khai của nhân chứng.

Nhằm đảm bảo sự tương thích với khoản 2 Điều 27 Luật Thương mại 2005, Việt Nam đã bảo lưu Điều 11 của Công ước về quy định hình thức của hợp đồng.

Hợp đồng MBHH quốc tế của doanh nghiệp tại Việt Nam cần được lập thành văn bản hoặc hình thức tương đương để đảm bảo tính hợp pháp Tương tự, nhiều quốc gia như Argentina, Belarus và Chile cũng yêu cầu hợp đồng kinh tế phải được xác lập rõ ràng và dễ dự đoán, nhằm hỗ trợ cho các kế hoạch phát triển kinh tế bền vững.

Vì vậy, họ yêu cầu việc giao kết hợp đồng phải được minh chứng rõ ràng.

Quy định về hình thức hợp đồng trong pháp luật Việt Nam có phần hạn chế hơn so với Công ước Viên Tuy nhiên, để đạt được hiệu quả tối ưu và giảm thiểu rủi ro trong giao dịch thương mại quốc tế, việc này là cần thiết nhằm bảo vệ lợi ích của doanh nghiệp trong nước.

2.2.2 Nghĩa vụ của người bán

Theo Điều 30 của Công ước Viên, người bán có trách nhiệm giao hàng, chứng từ liên quan và quyền sở hữu hàng hóa cho người mua theo hợp đồng Nếu hợp đồng không quy định rõ ràng các điều khoản này, người bán vẫn phải thực hiện nghĩa vụ theo quy định của Công ước.

Luật Thương mại 2005 quy định tại Điều 34 rằng bên bán có nghĩa vụ giao hàng và cung cấp chứng từ liên quan đến hàng hóa Đồng thời, nghĩa vụ đảm bảo quyền sở hữu được quy định trong hai Điều 45 và 46.

2.2.2.1 Nghĩa vụ giao hàng và chứng từ hàng hóa a Nghĩa vụ giao hàng Đối với nghĩa vụ giao hàng của người bán, có thể hiểu rằng: “Giao hàng” là hành động thực hiện những thủ tục mà người bán cần thực hiện để đảm bảo người mua có được quyền sở hữu đối với hàng hóa và quá trình này có thể được người bán đơn phương thực hiện mà không cần có sự hỗ trợ từ bên mua Bên cạnh đó, nghĩa vụ giao hàng có thể được người bán thực hiện mặc dù quyền sở hữu của hàng hóa chưa được chuyển giao hoặc việc vận chuyển hàng hóa chưa được thực hiện thực tế.

Theo quy định tại Điểm a Điều 31 của hợp đồng, người bán có trách nhiệm giao hàng cho người chuyên chở mà không cần sự can thiệp của người mua, và việc vận chuyển hàng hóa có thể không diễn ra ngay lập tức.

Công ước không quy định về việc chuyển giao quyền sở hữu hàng hóa, và nếu các bên không tham chiếu đến các nguồn luật khác, vấn đề này sẽ dựa vào thỏa thuận giữa họ Khi các bên có thỏa thuận khác, nếu hợp đồng không phải là hợp đồng mua bán có điều kiện và hàng hóa có sẵn, quyền sở hữu có thể được chuyển cho người mua ngay khi hợp đồng được ký kết, bất kể việc thanh toán hay giao hàng đã diễn ra hay chưa Điều này cho phép người mua chuyển quyền sở hữu hàng hóa cho bên thứ ba, ngay cả khi họ chưa thanh toán và hàng hóa vẫn thuộc quyền quản lý của bên bán.

Luật Thương mại 2005 quy định rằng quyền sở hữu hàng hóa chỉ chuyển giao khi hàng hóa được chuyển giao, trừ khi có quy định pháp luật khác hoặc thỏa thuận riêng giữa các bên Điều này có nghĩa là người mua chưa có quyền sở hữu hàng hóa cho đến khi nhận được hàng Quy định này giúp ngăn chặn việc hàng hóa được chuyển giao cho bên thứ ba khi người mua chưa nhận hàng Tuy nhiên, nếu các bên thỏa thuận thanh toán trả sau, quyền sở hữu hàng hóa sẽ thuộc về người mua ngay khi họ nhận hàng, mặc dù chưa thanh toán.

Công ước Viên quy định rằng khi xác lập hợp đồng mua bán hàng hóa, nếu các bên đã thỏa thuận về địa điểm giao hàng, người bán phải giao hàng đúng tại địa điểm đó Nếu không có địa điểm cụ thể, người bán có thể xác định địa điểm giao hàng tùy thuộc vào từng trường hợp cụ thể.

Khi xác lập hợp đồng mua bán hàng hóa, hai bên đã đồng ý về việc vận chuyển hàng, do đó, điểm giao hàng sẽ được xác định là địa điểm mà người bán tiến hành xếp hàng cho người chuyên chở đầu tiên.

Trong trường hợp các bên không có thỏa thuận rõ ràng về việc vận chuyển hàng hóa, Công ước sẽ dựa vào đối tượng hợp đồng để xác định các phương thức giao hàng phù hợp.

Thực tiễn áp dụng Công ước Viên 1980 đối với các doanh nghiệp Việt Nam

Việt Nam đã bắt đầu quá trình nghiên cứu gia nhập Công ước của Liên hợp quốc về MBHH quốc tế khá sớm so với các quốc gia trong khối ASEAN, mặc dù không phải là sớm so với sự ra đời của Công ước Quá trình xem xét gia nhập Công ước Viên đã nhận được sự ủng hộ mạnh mẽ từ cộng đồng doanh nghiệp, giới nghiên cứu và các cơ quan chức năng Sáng kiến kêu gọi Việt Nam gia nhập Công ước này khởi nguồn từ cộng đồng doanh nghiệp, với đề xuất của VCCI vào năm 2010 về việc tham gia sớm.

Năm 2011, theo chỉ đạo của Thủ tướng Chính phủ, Bộ Công Thương đã tiến hành nghiên cứu và tổ chức hội thảo để thu thập ý kiến từ các đối tượng liên quan về khả năng gia nhập Công ước Viên của Việt Nam Đến năm 2014, VCCI, VIAC, Trường Đại học Luật Hà Nội, Trường Đại học Ngoại thương và Đại học Luật Thành phố Hồ Chí Minh đã cùng nhau ký văn bản đề xuất Chính phủ tham gia Công ước này.

61 Xem chi tiết tại: https://quochoi.vn/uybandoingoai/content/tulieu/Lists/Tulieu/Attachments/11/Bao%20cao

%20tong%20hop% 20ket%20qua%20nghien%20cuu%20Cong%20uoc%20Vien%201980%20(final).pdf

Trong năm nay, Bộ Công Thương đã nhận được sự đồng thuận từ Bộ Ngoại giao và Bộ Tư pháp về chủ trương gia nhập Công ước Viên của Việt Nam Các cơ quan liên quan như Bộ Giao thông vận tải, Tòa án nhân dân tối cao, VCCI và VIAC cũng đã gửi ý kiến ủng hộ việc này đến Bộ Công Thương.

Vào ngày 24/11/2015, Chủ tịch nước Việt Nam đã ký quyết định gia nhập Công ước Viên, với bảo lưu quy định về hình thức hợp đồng theo Điều 12 và Điều 96 Công ước chính thức có hiệu lực tại Việt Nam từ ngày 01/01/2017 Sau 5 năm áp dụng, Việt Nam đã tích cực nghiên cứu và hỗ trợ doanh nghiệp xuất nhập khẩu thông qua việc tổ chức nhiều hội thảo và cuộc thi liên quan đến Công ước Viên.

Theo khảo sát của Bộ Công Thương năm 2013, 35% người làm việc trong lĩnh vực xuất nhập khẩu không hiểu hoặc thiếu kiến thức về Công ước Viên Chỉ 25% trong số đó tuyên bố hiểu đầy đủ về công ước, trong khi 40% cho rằng họ có thể áp dụng công ước nếu cần thiết Ông Ngô Minh Đức, phó vụ trưởng vụ pháp chế Bộ Công Thương, đã nêu những con số này tại một hội thảo.

Vào ngày 10/12/2020, nghiên cứu về mức độ hiểu biết của các doanh nghiệp xuất nhập khẩu về Công ước Viên (CISG) cho thấy khoảng 60-65% doanh nghiệp có nhận thức cơ bản, trong khi chỉ có 26% hiểu sâu về nội dung của công ước này Đặc biệt, tỷ lệ doanh nghiệp có khả năng áp dụng CISG trực tiếp hoặc gián tiếp chỉ đạt khoảng 12%.

Nghiên cứu cho thấy rằng nhiều doanh nghiệp có kiến thức hạn chế về Công ước Viên, dẫn đến việc họ ngần ngại trong việc áp dụng các quy định của Công ước này và ưu tiên sử dụng luật pháp Việt Nam khi có thể Thông tin không chính thức từ các thành phố cho thấy tình trạng này ảnh hưởng đến cách thức hoạt động của các doanh nghiệp tại tòa án.

62 Xem chi tiết tại: https://quochoi.vn/uybandoingoai/content/tulieu/Lists/Tulieu/Attachments/

12/2015.04.17%20Trinh%20UBT VQH%20ve%20CISG.pdf

Hiện tại, các thành phố lớn như Hà Nội, thành phố Hồ Chí Minh và Đà Nẵng chưa có số liệu ghi nhận về việc xét xử các tranh chấp thương mại quốc tế theo Công ước Viên 1980.

Từ năm 2017 đến 2020, Công ước Viên đã được áp dụng trong 7 vụ tranh chấp tại trọng tài, bao gồm 6 vụ tại VIAC và 1 vụ tại Phòng TMQT (ICC) Mặc dù tổng số vụ tranh chấp ghi nhận là 86, nhưng việc sử dụng Công ước Viên để giải quyết tranh chấp vẫn còn hạn chế Dữ liệu cho thấy chỉ có 7 vụ được hội đồng trọng tài công nhận đã áp dụng Công ước Viên trong quá trình giải quyết.

- Chỉ có 02 vụ là các bên thỏa thuận sử dụng Công ước;

Trong ba vụ án mà hợp đồng không quy định luật áp dụng, các bên đều là thành viên của Công ước Viên Do đó, hội đồng trọng tài đã dựa vào điểm a khoản 1 Điều 1 của Công ước để thực hiện việc áp dụng các quy định của Công ước này.

Hợp đồng thỏa thuận áp dụng Luật Việt Nam trong một vụ việc cụ thể, dựa trên điểm b khoản 1 Điều 1, đã được hội đồng trọng tài quyết định áp dụng Công ước Viên để giải quyết tranh chấp.

Trong vụ tranh chấp giữa Việt Nam, một thành viên của Công ước Viên, và một bên từ Trung Đông không tham gia Công ước, hội đồng trọng tài đã quyết định áp dụng luật Việt Nam, dựa trên mối quan hệ gắn bó nhất với hợp đồng Theo điểm b khoản 1 Điều 1, Việt Nam là thành viên của Công ước Viên, do đó, hội đồng trọng tài đã lựa chọn Công ước để giải quyết tranh chấp này.

Một khảo sát năm 2019 với 500 doanh nghiệp và 35 chuyên gia, bao gồm 10 thẩm phán, 15 trọng tài viên và 10 luật sư thương mại quốc tế, đã chỉ ra ba lý do chính dẫn đến việc áp dụng Công ước Viên tại Việt Nam còn rất hạn chế.

Một là, trong số tổng cộng 86 vụ tranh chấp được ghi nhập tại trọng tài năm

Tính đến năm 2017, hầu hết các hợp đồng này đã được ký kết trước khi Việt Nam gia nhập Công ước hoặc khi Công ước chưa chính thức có hiệu lực tại Việt Nam Điều này dẫn đến

Tại Hội thảo CISG và trọng tài quốc tế năm 2020, đã có nhiều vụ việc được ghi nhận nhưng chưa đủ điều kiện áp dụng hoặc không thể áp dụng Công ước Viên để giải quyết Điều này cho thấy sự cần thiết phải nâng cao nhận thức và hiểu biết về Công ước CISG trong cộng đồng doanh nghiệp và các cơ quan pháp lý tại Việt Nam, nhằm thúc đẩy việc áp dụng hiệu quả hơn trong thực tiễn.

BÀI HỌC KINH NGHIỆM CHO DOANH NGHIỆP VIỆT NAM

Xu hướng áp dụng Công ước Viên 1980 về hợp đồng mua bán hàng hóa quốc tế tại Việt Nam

Để Công ước Viên phát huy hiệu quả và mang lại lợi ích cho pháp luật quốc gia cũng như cộng đồng doanh nghiệp, các doanh nghiệp, hiệp hội và cơ quan nhà nước tại Việt Nam cần có nguồn thông tin tài liệu đáng tin cậy Điều này giúp họ hiểu rõ và áp dụng các quy định của Công ước trong các giao dịch thương mại quốc tế.

Sau khi gia nhập Công ước Viên vào ngày 20/12/2016, Thủ tướng Chính phủ đã ký Quyết định số 2484/QĐ-TTg phê duyệt Đề án Hỗ trợ cộng đồng doanh nghiệp tham gia hiệu quả vào thương mại quốc tế Để thực hiện nhiệm vụ này, Bộ Công Thương đã ban hành Quyết định số 4070/QĐ-BCT ngày 29/10/2018, giao cho Vụ Pháp chế phối hợp với các chuyên gia biên soạn tài liệu và ấn phẩm về Công ước Viên nhằm tuyên truyền và phổ biến các nội dung cơ bản cùng những quy định liên quan.

1980 về hợp đồng MBHH quốc tế.

Đề án khuyến khích áp dụng tích cực các quy định của Công ước trong giao dịch thương mại quốc tế và giải quyết tranh chấp hợp đồng quốc tế tại Việt Nam Trong quá trình triển khai, các đơn vị đã đóng góp nhiều ý tưởng và tổ chức nhiều hoạt động thực tiễn đa dạng nhằm đưa Công ước Viên đến gần hơn với cộng đồng, với nhiều hoạt động tiêu biểu được thực hiện.

Vào ngày 12/9/2017, tại Thành phố Hồ Chí Minh, hội thảo “Diễn giải và áp dụng CISG trong hợp đồng MBHH quốc tế” đã được tổ chức thành công, thu hút sự quan tâm của nhiều chuyên gia và doanh nghiệp trong lĩnh vực thương mại quốc tế.

- Hội thảo “CISG và trọng tài quốc tế 2020” ngày 10/12/2020 Hội thảo được tổ chức nhân diệp kỷ niệm 40 năm CISG và 60 thành lập Trường Đai học Ngoại Thương.

Không tìm thấy thông tin từ liên kết bạn cung cấp Liên kết này không tồn tại Mời bạn bấm vào đây để về trang chủ.

- Hội thảo “Giao kết và thực hiện hợp đồng MBHH quốc tế áp dụng Công ước Viên 1980 (CISG) – lưu ý từ thực tiễn giải quyết tranh chấp tại VIAC” ngày 16/12/2021.

Cuộc thi CISG Pre-Moot, lần đầu tiên tổ chức vào năm 2019, đã nhận được sự ủng hộ mạnh mẽ từ giới trẻ Sự kiện này diễn ra dưới hình thức giả định (moot arbitration), tạo cơ hội cho sinh viên tiếp cận và áp dụng Công ước Viên, đồng thời rèn luyện kỹ năng giải quyết vấn đề trong tranh chấp kinh doanh quốc tế.

- Tổ chức các khóa đào tạo cho các doanh nghiệp vừa và nhỏ về hợp đồng MBHH quốc tế do VIAC phối hợp cùng VCCI.

Xu hướng áp dụng Công ước Viên tại Việt Nam đang phát triển theo hướng xây dựng nền tảng, kiến thức, tư duy pháp lý của các doanh nghiệp Để hiện thực hóa những lợi ích mà Công ước này mang lại, các doanh nghiệp cần chủ động tìm hiểu và áp dụng Công ước Viên hợp đồng MBHH quốc tế càng sớm càng tốt, bên cạnh sự hỗ trợ của Nhà nước Việc áp dụng này là yêu cầu tối quan trọng để doanh nghiệp tận dụng được những lợi ích của Công ước Viên.

Kinh nghiệm trong việc áp dụng Công ước Viên 1980 trên thế giới

3.2.1 Tại Khu vực Châu Á a Hàn Quốc

Trước khi gia nhập Công ước Viên, doanh nghiệp Hàn Quốc thường gặp khó khăn trong việc lựa chọn luật áp dụng cho hợp đồng, chủ yếu dựa vào luật Anh hoặc Mỹ Điều này đã khiến họ mất đi sự chủ động trong giao kết hợp đồng MBHH quốc tế Do đó, việc hoàn thiện pháp luật về hợp đồng MBHH quốc tế tại Hàn Quốc trở nên cần thiết hơn bao giờ hết.

Vào thời điểm đó, nhiều đối tác thương mại lớn của Hàn Quốc như Trung Quốc, Mỹ và Đức đều là thành viên của Công ước Viên, điều này đã thúc đẩy Hàn Quốc xem xét việc gia nhập Ngày 17/2/2004, Hàn Quốc chính thức quyết định gia nhập Công ước Viên, và các quy định về hợp đồng MBHH quốc tế đã có hiệu lực từ ngày 1/3/2005 Sự phát triển nhanh chóng của nền kinh tế Hàn Quốc cùng với sự gia tăng ấn tượng trong lĩnh vực xuất nhập khẩu đã làm thay đổi những lo ngại về rủi ro pháp lý và thói quen sử dụng nội luật.

Trước khi gia nhập Công ước Viên, Nhật Bản đã trải qua một cuộc khủng hoảng kinh tế nghiêm trọng, khiến việc phục hồi nền kinh tế trở thành ưu tiên hàng đầu của Chính phủ Sau khi vượt qua khủng hoảng, vào ngày 01/07/2007, Nhật Bản đã phê chuẩn việc gia nhập Công ước Viên, và từ ngày 01/08/2009, Công ước chính thức có hiệu lực tại đất nước mặt trời mọc Động lực gia nhập Công ước Viên của Nhật Bản xuất phát từ hai lý do chính.

Khi Nhật Bản gia nhập Công ước Viên, Công ước này đã có hơn 70 quốc gia thành viên, cho thấy sự phổ biến toàn cầu của nó Việc áp dụng các quy định của Công ước không chỉ là xu hướng mà còn được nhiều quốc gia chưa tham gia tự nguyện đưa vào hợp đồng như một nguồn luật điều chỉnh chính.

Sau khi phục hồi nền kinh tế, Chính phủ Nhật Bản đã chú trọng nghiên cứu Công ước Viên và nhận được nhiều tín hiệu tích cực từ các báo cáo về tác động và lợi ích của Công ước này Các doanh nghiệp Nhật Bản đã thừa nhận những lợi ích rõ ràng từ việc gia nhập Công ước, như tiết kiệm chi phí trong quá trình hình thành hợp đồng và giải quyết tranh chấp một cách nhanh chóng và hợp lý.

Trung Quốc là một trong những quốc gia thành công trong việc áp dụng Công ước Viên, có hiệu lực từ ngày 01/01/1988, góp phần quan trọng vào việc hoàn thiện hệ thống pháp luật MBHH Các chuyên gia đánh giá rằng, việc doanh nghiệp Trung Quốc có một nguồn luật được công nhận toàn cầu giúp tăng cường niềm tin cho các đối tác khi ký kết hợp đồng Thực tế cho thấy, số lượng hợp đồng và đối tác mới đang gia tăng đáng kể.

Công ước Viên đã trở thành nguồn cảm hứng quan trọng trong việc sửa đổi Luật Hợp đồng tại Trung Quốc Sự ảnh hưởng này được thể hiện rõ qua việc các điều khoản của luật mới đã được điều chỉnh để phù hợp với những nguyên tắc chung được công nhận rộng rãi trên toàn thế giới.

Công ước Viên 1980 đã được áp dụng rộng rãi tại Trung Quốc, với nhiều trường hợp trọng tài sử dụng để giải quyết các tranh chấp nội địa cũng như giữa Trung Quốc đại lục và các đặc khu kinh tế như Hồng Kông, Ma Cao, và Đài Loan Điều này chứng tỏ vai trò quan trọng của Công ước trong hệ thống pháp luật của Trung Quốc.

Một bản án tiêu biểu tại khu vực Châu Á có thể nhắc tới đó là:

Trong hợp đồng mua bán thép giữa Nguyên đơn (người mua – Việt Nam) và

Bị đơn (người bán – Nhật Bản) và Nguyên đơn thực hiện hợp đồng dựa trên uỷ thác nhập khẩu từ Công ty X - Việt Nam Hợp đồng quy định rằng số lượng và chất lượng thép phế liệu sẽ được xác định theo biên bản giám định của NKKK tại cảng xếp hàng và Vinacontrol tại cảng dỡ hàng Biên bản giám định của NKKK khẳng định rằng thép giao có tiêu chuẩn phù hợp với hợp đồng, với tỷ lệ sai lệch trong giới hạn cho phép Tuy nhiên, biên bản giám định của Vinacontrol tại cảng dỡ hàng lại cho thấy hàng giao không đúng kích cỡ.

Trong thư giải trình, người bán không phản đối biên bản giám định, cho thấy họ đã thừa nhận lô hàng giao là sai qui cách Đồng thời, người bán cũng cho rằng Công ty X mới thực sự là bên liên quan trong vấn đề này.

66 Xem thêm tại: https://quochoi.vn/uybandoingoai/content/tulieu/Lists/Tulieu/Attachments/11/Bao%20cao

%20tong%20hop% 20ket%20qua%20nghien%20cuu%20Cong%20uoc%20Vien%201980%20(final).pdf

Phán quyết số 22 trong tài liệu "50 phán quyết trọng tài quốc tế chọn lọc" nêu rõ rằng người bán đã tiến hành thương lượng trực tiếp với Công ty X để đáp ứng nhu cầu mua hàng và thực hiện giao hàng theo hướng dẫn của công ty này.

Nguyên đơn khẳng định không hay biết về các cuộc thương lượng và thỏa thuận giữa người bán và Công ty X, đồng thời không nhận được thông báo nào từ hai bên này Nguyên đơn đã khởi kiện người bán dựa trên Hợp đồng ngoại thương đã ký kết giữa mình và Bị đơn, hợp đồng này hoàn toàn không liên quan đến Công ty X.

Uỷ ban trọng tài đã ra phán quyết không chấp nhận lý do liên quan đến Công ty X, vì việc giao hàng của người bán được thực hiện theo hợp đồng với Nguyên đơn, không phải với Công ty X Do Công ty X không phải là bên trong hợp đồng, họ không có quyền thương lượng với người bán về việc thực hiện hợp đồng Vì vậy, mọi thoả thuận giữa người bán và người ủy thác nhập khẩu không có giá trị ràng buộc đối với Nguyên đơn, và cũng không thể thay đổi hay bổ sung điều khoản của hợp đồng.

Trong hoạt động xuất nhập khẩu, uỷ thác xuất nhập khẩu là một phương thức phổ biến, đặc biệt khi các đơn vị không thể thực hiện trực tiếp Cần lưu ý rằng, trong uỷ thác xuất nhập khẩu, người nhận uỷ thác là bên ký hợp đồng xuất nhập khẩu và là một bên trong hợp đồng này, trong khi người uỷ thác không phải là bên tham gia hợp đồng Điều này có nghĩa là người uỷ thác không có quyền điều chỉnh hay sửa đổi hợp đồng, và nếu tranh chấp phát sinh, các bên không thể viện dẫn người uỷ thác để miễn trách nhiệm.

Khi ký kết hợp đồng xuất nhập khẩu, đặc biệt là trong trường hợp có ủy thác xuất nhập khẩu, việc xác định và ghi rõ tên của các bên trong hợp đồng là rất quan trọng Điều này giúp tránh những tranh chấp không đáng có liên quan đến chủ thể của hợp đồng trong tương lai.

3.2.2 Tại khu vực Châu Âu a Công ước Viên tại Đức

Ngày đăng: 02/10/2022, 17:29

Nguồn tham khảo

Tài liệu tham khảo Loại Chi tiết
12. Trần Thị Sáu Nhàn “Nghĩa vụ đảm bảo tính hợp pháp của hàng hóa theo Công ước Viên năm 1980 về MBHH quốc tế”, Tạp chí Nghề luật, số 04, 2015 Sách, tạp chí
Tiêu đề: Nghĩa vụ đảm bảo tính hợp pháp của hàng hóa theoCông ước Viên năm 1980 về MBHH quốc tế
13. Trần Thị Sáu Nhàn “Nghĩa vụ đảm bảo tính hợp pháp của hàng hóa theo Công ước Viên năm 1980 về MBHH quốc tế”, Tạp chí Nghề luật, số 04, 2015 Sách, tạp chí
Tiêu đề: Nghĩa vụ đảm bảo tính hợp pháp của hàng hóa theoCông ước Viên năm 1980 về MBHH quốc tế
15. Ngô Nguyễn Thảo Vy và Nguyễn Hoàng Thái Hy (2017), “Xác định thời hạn thực hiện nghĩa vụ kiểm tra và thông báo về sự không phù hợp của hàng hóa theo Công ước Vienna năm 1980”, Tạp chí Khoa học pháp lý, Số 7 (110) Sách, tạp chí
Tiêu đề: Xác định thờihạn thực hiện nghĩa vụ kiểm tra và thông báo về sự không phù hợp củahàng hóa theo Công ước Vienna năm 1980
Tác giả: Ngô Nguyễn Thảo Vy và Nguyễn Hoàng Thái Hy
Năm: 2017
16. Nguyễn Thế Đức Tâm, Ngô Nguyễn Thảo Vy và Phạm Ánh Dương (2013), Vi phạm cơ bản do giao hàng hóa không phù hợp với hợp đồng theo Công ước Viên 1980 và pháp luật thương mại Việt Nam , NCKH Giải thưởng Euréka 2013 Sách, tạp chí
Tiêu đề: Vi phạm cơ bản do giao hàng hóa không phù hợp với hợp đồngtheo Công ước Viên 1980 và pháp luật thương mại Việt Nam
Tác giả: Nguyễn Thế Đức Tâm, Ngô Nguyễn Thảo Vy và Phạm Ánh Dương
Năm: 2013
17. Võ Sỹ Mạnh, “Vi phạm cơ bản hợp đồng theo Công ước Viên 1980 về hợp đồng MBHH quốc tế và định hướng hoàn thiện các quy định có liên quan của pháp luật Việt Nam”, Luận án Tiến sỹ của tác giả Võ Sỹ Mạnh, Trường Đại học Luật Thành phố Hồ Chí Minh năm 2015 Sách, tạp chí
Tiêu đề: “Vi phạm cơ bản hợp đồng theo Công ước Viên 1980 về hợpđồng MBHH quốc tế và định hướng hoàn thiện các quy định có liên quancủa pháp luật Việt Nam”
18. Đào Sỹ Kiều, “ Nghĩa vụ của người bán và người mua theo quy định Công ước Viên 1980 về hợp đồng MBHH quốc tế và kinh nghiệm cho các doanh nghiệp Việt Nam” Luận văn Thạc sỹ, Trường Đại học mở, năm 2017 Sách, tạp chí
Tiêu đề: “ Nghĩa vụ của người bán và người mua theo quy định Côngước Viên 1980 về hợp đồng MBHH quốc tế và kinh nghiệm cho các doanhnghiệp Việt Nam”
14. Nguyễn Trung Nam, Lê Trần Đức Huy, Nguyễn Hiểu Bình, Ngụy Thị Bích, Nguyễn Trịnh Thủy Tiên, Nghiên cứu so sánh pháp luật hợp đồng Việt Nam, Công ước của Liên hợp quốc về hợp đồng MBHH quốc tế và nguyên tắc hợp đồng TMQT về vấn đề vi phạm hợp đồng trước thời hạn, Tạp chí Khoa học pháp lý, số 07(110), 2017 Khác
19. Báo cáo nghiên cứu khả năng của Việt Nam gia nhập Công ước Viên 1980 về hợp đồng MBHH quốc tế (CISG) Khác
20. Quyết định số 2588/2015/QĐ-CTN về việc gia nhập Công ước của Liên hợp quốc về Hợp đồng MBHH quốc tế Khác

TRÍCH ĐOẠN

TÀI LIỆU CÙNG NGƯỜI DÙNG

TÀI LIỆU LIÊN QUAN

w