1. Trang chủ
  2. » Giáo Dục - Đào Tạo

(LUẬN văn THẠC sĩ) các nhân tố ảnh hưởng đến đói nghèo ở các hộ gia đình vùng biên giới tây nam

79 2 0

Đang tải... (xem toàn văn)

Tài liệu hạn chế xem trước, để xem đầy đủ mời bạn chọn Tải xuống

THÔNG TIN TÀI LIỆU

Thông tin cơ bản

Tiêu đề Các Nhân Tố Ảnh Hưởng Đến Đói Nghèo Ở Các Hộ Gia Đình Vùng Biên Giới Tây Nam
Tác giả Lê Thanh Sơn
Trường học Trường Đại Học Kinh Tế Tp. Hồ Chí Minh
Chuyên ngành Kinh Tế
Thể loại Luận Văn Thạc Sĩ
Năm xuất bản 2008
Thành phố Tp. Hồ Chí Minh
Định dạng
Số trang 79
Dung lượng 1,73 MB

Cấu trúc

  • CHƯƠNG 1: CƠ SỞ LÝ LUẬN (9)
    • 1.1 Lý thuyết về nghèo đói (9)
      • 1.1.1 Các định nghĩa về nghèo đói (9)
      • 1.1.2 Các thước đo chỉ số nghèo đói và bất bình đẳng (11)
      • 1.1.3 Đường cong Lorenz và hệ số Gini (13)
    • 1.2 Các kết quả nghiên cứu có liên quan đến nghèo đói (13)
    • 1.3 Tổng quan về tình hình nghèo đói của Việt Nam năm 2006 (19)
  • CHƯƠNG 2: PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU (29)
    • 2.1 Sử dụng chi tiêu bình quân làm tiêu chí phân tích nghèo (29)
    • 2.2 Cở sở xác định nghèo (30)
    • 2.3 Nguồn số liệu (30)
    • 2.4 Phương pháp trích dữ liệu (31)
    • 2.5 Phương pháp phân tích (32)
      • 2.5.1 Mục tiêu nghiên cứu 1: Sự khác biệt lớn nhất giữa những hộ nghèo và không nghèo ở vùng biên giới Tây Nam (32)
      • 2.5.2 Mục tiêu nghiên cứu 2: Các nhân tố ảnh hưởng đến việc tăng chi tiêu của các hộ (33)
      • 2.5.3 Mục tiêu nghiên cứu 3: Các yếu tố ảnh hưởng đến đói nghèo của các hộ gia đình (34)
  • CHƯƠNG 3: KẾT QUẢ PHÂN TÍCH (37)
    • 3.1 Tổng quan về nghèo và bất bình đẳng vùng biên giới Tây Nam (37)
    • 3.2 Sự khác biệt lớn nhất giữa những hộ nghèo và không nghèo ở vùng biên giới Tây (38)
    • 3.3 Các nhân tố ảnh hưởng đến việc tăng thu nhập của các hộ gia đình (50)
    • 3.4 Các yếu tố ảnh hưởng đến đói nghèo của các hộ gia đình (51)
  • KẾT LUẬN (55)
  • TÀI LIỆU THAM KHẢO (58)

Nội dung

CƠ SỞ LÝ LUẬN

Lý thuyết về nghèo đói

1.1.1 Các định nghĩa về nghèo đói

Tại hội nghị Thượng đỉnh thế giới và phát triển xã hội năm 1995 ở Copenhagen, Đan Mạch, người nghèo được định nghĩa là những cá nhân có thu nhập dưới 1 đô la Mỹ mỗi ngày Số tiền này được xem là mức tối thiểu để mua sắm các sản phẩm thiết yếu phục vụ cho cuộc sống hàng ngày (Nguyễn Trọng Hoài, 2005).

NHTG định nghĩa nghèo đói không chỉ là sự thiếu thốn về sản phẩm và dịch vụ thiết yếu như giáo dục, y tế và dinh dưỡng, mà còn bao gồm tình trạng bị gạt ra bên lề xã hội và dễ bị tổn thương Nghèo đói đồng nghĩa với việc sống trong khốn cùng, không có đủ thức ăn, chỗ ở, quần áo, và không được chăm sóc khi ốm đau Người nghèo thường phải đối mặt với nạn mù chữ và không có cơ hội đến trường Hơn nữa, họ đặc biệt dễ bị tổn thương trước những sự kiện bất thường ngoài tầm kiểm soát của mình.

Khái niệm về nghèo đói và cách nhận dạng nghèo đói giữa các quốc gia, vùng miền và cộng đồng dân cư có nhiều điểm tương đồng, với hầu hết các tiêu chí xác định nghèo đói dựa trên mức thu nhập hoặc chi tiêu cho các nhu cầu cơ bản như ăn, ở, mặc, y tế, giáo dục, văn hóa, di chuyển và giao tiếp xã hội Sự khác biệt chủ yếu nằm ở mức độ thỏa mãn các nhu cầu này, phụ thuộc vào trình độ phát triển kinh tế - xã hội và phong tục tập quán của từng khu vực, trong khi các tiêu chí xác định nghèo đói cũng có thể thay đổi theo thời gian.

Tại Việt Nam, chính phủ đã công nhận định nghĩa về đói nghèo được đưa ra tại Hội nghị chống đói nghèo khu vực Châu Á - Thái Bình Dương, tổ chức bởi ESCAP vào tháng 9/1993 tại Băng Cốc, Thái Lan Theo định nghĩa này, nghèo là tình trạng mà một bộ phận dân cư không được đáp ứng và thỏa mãn các nhu cầu cơ bản của con người, những nhu cầu này được xã hội công nhận dựa trên trình độ phát triển kinh tế - xã hội và phong tục tập quán của địa phương.

Như vậy, tất cả những định nghĩa về nghèo đói nêu trên đều phản ánh ba khía cạnh chủ yếu của người nghèo:

- Có mức sống thấp hơn mức sống trung bình của cộng đồng dân cư;

- Không được thụ hưởng những nhu cầu cơ bản ở mức tối thiểu dành cho con người trong cộng đồng đó;

- Thiếu cơ hội lựa chọn tham gia vào quá trình phát triển của cộng đồng.

Khái niệm nghèo tuyệt đối đề cập đến tình trạng của một cá nhân hoặc hộ gia đình có thu nhập thấp hơn mức tối thiểu được quy định bởi quốc gia hoặc tổ chức quốc tế trong một khoảng thời gian nhất định.

1.1.1.1.1 Phương pháp xác định chuẩn đói nghèo quốc tế

Phương pháp xác định đường đói nghèo theo chuẩn quốc tế được thực hiện bởi Tổng cục Thống kê và Ngân hàng Thế giới thông qua các cuộc khảo sát mức sống dân cư ở Việt Nam, diễn ra vào các năm 1992-1993 và 1997-1998 Đường đói nghèo được phân chia thành hai mức: đường đói nghèo về lương thực, thực phẩm và đường đói nghèo chung Đường đói nghèo về lương thực, thực phẩm được xác định dựa trên tiêu chuẩn 2.100 Kcal/người/ngày, theo yêu cầu dinh dưỡng tối thiểu, và những người có mức chi tiêu dưới mức này được coi là nghèo đói Đường đói nghèo chung không chỉ tính đến lương thực, thực phẩm mà còn bao gồm các chi phí cho hàng hóa phi lương thực, thực phẩm, từ đó phản ánh một cách toàn diện hơn về tình trạng nghèo đói trong xã hội.

1.1.1.1.2 Phương pháp xác định chuẩn đói nghèo của Chương trình xóa đói giảm nghèo quốc gia

Từ năm 1993, Việt Nam đã nâng mức chuẩn nghèo 4 lần, với chuẩn nghèo giai đoạn 2006-2010 dựa trên 3 tiêu chí: xóa đói giảm nghèo toàn diện, công bằng hơn và hội nhập theo chuẩn nghèo quốc tế Cụ thể, hộ gia đình nông thôn có thu nhập bình quân dưới 200.000 đồng/người/tháng (2,4 triệu đồng/năm) được xem là hộ nghèo, trong khi ở khu vực thành thị, mức thu nhập bình quân dưới 260.000 đồng/người/tháng (3,12 triệu đồng/năm) cũng được coi là hộ nghèo Phương pháp xác định hộ nghèo này được Bộ LĐTBXH áp dụng.

1.1.1.2 Nghèo tương đối Đ.P.Hổ (2006), Nghèo đói tương đối là tình trạng mà một người hoặc một hộ gia đình thuộc về nhóm người có thu nhập thấp nhất trong xã hội xét theo không gian và thời gian nhất định Như vậy, nghèo đói tương đối được xác định trong mối tương quan xã hội về tình trạng thu nhập với nhóm người Ở bất kỳ xã hội nào, luôn luôn tồn tại nhóm người có thu nhập thấp nhất trong xã hội, do đó cũng theo khái niệm này thì người nghèo đói tương đối sẽ luôn hiện diện bất kể trình độ phát triển kinh tế nào.

Hộ gia đình nghèo được xác định khi mức chi tiêu bình quân đầu người nằm trong 20% thấp nhất của tổng chi tiêu Phương pháp này giúp làm rõ các yếu tố phân biệt giữa các hộ gia đình giàu và những hộ có thu nhập gần bằng hoặc thấp hơn mức trung vị.

1.1.2 Các thước đo chỉ số nghèo đói và bất bình đẳng

1.1.2.1 Chỉ số đếm đầu (P 0 ) – Tỷ lệ hộ (người) nghèo

Chỉ số đếm đầu, thường được ký hiệu là P0, là thước đo phổ biến nhất để đánh giá tỷ lệ người nghèo trong xã hội Công thức tính chỉ số này rất đơn giản, cho phép xác định số lượng người được xem là nghèo trong tổng thể dân số.

- N là tổng số hộ hay tổng dân số và

Hàm chỉ thị I(yi ≤ z) có giá trị 1 khi chi tiêu (yi) của hộ gia đình nhỏ hơn chuẩn nghèo (z), và giá trị 0 khi không đúng Do đó, nếu chi tiêu của hộ gia đình thấp hơn chuẩn nghèo, hộ gia đình đó sẽ được xác định là nghèo.

- Np là tổng số người nghèo.

Chỉ số đếm đầu người là một công thức đơn giản, dễ tính toán và dễ hiểu, nhưng nó không phản ánh mức độ trầm trọng của đói nghèo Chỉ số này cũng không thể hiện được mức độ đói nghèo hay sự chênh lệch giữa chi tiêu và mức chuẩn nghèo.

1.1.2.2 Chỉ số khoảng cách nghèo

Chỉ số khoảng cách nghèo (P1) là một thước đo phổ biến về nghèo đói, phản ánh mức độ thiếu hụt thu nhập hoặc chi tiêu của các hộ nghèo so với chuẩn nghèo Chỉ số này được tính toán bằng phần trăm thiếu hụt bình quân so với chuẩn nghèo, giúp đánh giá rõ ràng hơn tình trạng nghèo đói trong cộng đồng.

Khoảng cách nghèo (G i) là sự chênh lệch giữa chuẩn nghèo (z) và thu nhập thực tế (y i) của người nghèo Khoảng cách này được xác định bằng công thức G i = (z – y i )*I(y i ≤ z), trong đó giá trị G i bằng không đối với những người không thuộc diện nghèo.

Thước đo này phản ánh tỷ lệ khoảng cách nghèo bình quân trong dân cư, trong đó người không nghèo có khoảng cách bằng không Nó cũng có thể xem như chi phí giảm nghèo đói tương đối so với chuẩn nghèo, cho biết số tiền cần chuyển cho người nghèo để họ có thu nhập vượt qua chuẩn nghèo Chi phí tối thiểu để giảm nghèo đói thông qua chuyển tiền đúng mục tiêu chính là tổng toàn bộ khoảng cách nghèo trong cộng đồng, với mỗi khoảng cách nghèo được lấp đầy đến chuẩn nghèo.

Các kết quả nghiên cứu có liên quan đến nghèo đói

Theo Báo cáo phát triển Việt Nam 2004, tại Hội nghị tư vấn các nhà tài trợ Việt Nam tháng 12/2003, các hộ gia đình lớn, đặc biệt là những hộ có nhiều trẻ em, người già hoặc không có chồng, thường có mức chi tiêu theo đầu người thấp hơn Điều này cho thấy mối liên hệ chặt chẽ giữa nghèo đói và cấu trúc gia đình.

Báo cáo này được thực hiện với sự hợp tác của nhiều tổ chức quốc tế như Ngân hàng phát triển Châu Á (ADB), AusAID, DFID, GTZ, JICA, SCUK, UNDP và Ngân hàng Thế giới Nghiên cứu cho thấy rằng chi tiêu của các hộ dân tộc thiểu số thấp hơn 13% so với hộ người Kinh hoặc người Hoa, mặc dù các yếu tố khác giống nhau Trình độ giáo dục của chủ hộ cũng ảnh hưởng đáng kể đến mức chi tiêu; hộ có chủ hộ tốt nghiệp trung cấp chi tiêu cao hơn trung bình 19%, trong khi hộ có chủ hộ tốt nghiệp đại học chi tiêu cao hơn 31% Nếu vợ/chồng có trình độ trung cấp, mức chi tiêu cao hơn là 29%, và nếu có trình độ đại học, mức chi tiêu cao hơn lên tới 48%.

Sự chênh lệch chi tiêu giữa các vùng ở Việt Nam rất rõ rệt, với các hộ gia đình ở Đồng bằng sông Cửu Long chi tiêu cao hơn 26% so với Đồng bằng sông Hồng, và 31% so với các hộ ở Đông Nam Bộ Khoảng cách chi tiêu giữa khu vực thành thị và nông thôn còn lớn hơn, với hộ gia đình thành thị chi tiêu nhiều hơn 78% so với hộ nông thôn tương đương Tác động này vượt trội hơn cả các yếu tố khác, bao gồm cả trình độ học vấn Ngoài ra, các đặc điểm cộng đồng như có đường nông thôn hoặc trường học cũng góp phần làm tăng 5% mức chi tiêu trung bình của các hộ trong xã.

Kế thừa nghiên cứu trước đó, bài viết này sẽ xem xét lại các yếu tố liên quan đến vùng nghiên cứu, đặc biệt là khu vực biên giới Tây Nam Để khắc phục sự khác biệt giữa các vùng, số liệu điều tra sẽ được tính toán có trọng số nhằm loại bỏ yếu tố vùng, đồng thời chỉ tập trung vào các hộ gia đình sống tại khu vực nông thôn để đảm bảo tính chính xác của nghiên cứu.

Theo đánh giá nghèo theo vùng năm 2004, vùng đồng bằng sông Cửu Long có 96% người nghèo sống ở khu vực nông thôn Tăng trưởng trong các ngành sản xuất và dịch vụ diễn ra nhanh hơn so với nông lâm ngư nghiệp, dẫn đến tốc độ xóa đói giảm nghèo nhanh hơn ở khu vực thành thị Người nghèo tại đây có những đặc trưng riêng biệt.

Sống bằng nông nghiệp là chủ yếu

Hơn 77% hộ nghèo hoạt động trong các lĩnh vực nông nghiệp, lâm nghiệp và ngư nghiệp, trong khi 9% làm việc trong ngành công nghiệp và 13% trong ngành dịch vụ Theo PPA, đói nghèo có mối liên hệ chặt chẽ với nông nghiệp, đặc biệt là khi phần lớn hộ nghèo sinh sống ở vùng nông thôn và chủ yếu trồng lúa.

Trong các hộ nông dân, hộ nghèo thường thiếu đất và phụ thuộc vào thu nhập từ làm thuê, dẫn đến việc họ gặp khó khăn trong việc tìm kiếm cơ hội việc làm ổn định Trình độ học vấn thấp khiến cho việc tìm kiếm công việc ngoài nông nghiệp trở nên khó khăn, trong khi cơ hội việc làm phi nông nghiệp trong khu vực cũng hạn chế Sự di cư của những người có trình độ và kỹ năng đến các thành phố lớn như TP.HCM và Bình Dương, cùng với việc tăng cường lao động nông nghiệp mùa vụ, có thể là nguyên nhân góp phần làm tăng mức chi tiêu tổng thể trong vùng.

Trình độ học vấn thấp

Tỉ lệ đói nghèo có mối liên hệ chặt chẽ với trình độ học vấn, đặc biệt ở vùng đồng bằng sông Cửu Long, nơi tỉ lệ đói nghèo của những người chưa hoàn thành tiểu học là 30%, thấp hơn mức 40% của cả nước Ngược lại, những người có trình độ học vấn cao hoặc học nghề gần như không gặp phải tình trạng đói nghèo Thiếu trình độ học vấn khiến công nhân gặp khó khăn trong việc học hỏi kỹ năng mới để nâng cao năng suất Hơn nữa, cha mẹ có trình độ học vấn thấp thường không nhận thức được tầm quan trọng của giáo dục, dẫn đến việc họ không tạo điều kiện cho con em đến trường và khuyến khích học tập.

Giáo dục và các đặc điểm của người nghèo có mối liên hệ chặt chẽ Trình độ học vấn ở khu vực nông thôn thường thấp hơn so với thành phố, đặc biệt là ở các dân tộc thiểu số, nơi mà trình độ học vấn còn kém xa so với người Kinh và Hoa Bên cạnh đó, người nghèo cũng thường sở hữu ít tài sản và đất đai.

Thiếu đất đai là một trong những rào cản lớn nhất trong công cuộc xoá đói giảm nghèo tại vùng Đồng bằng sông Cửu Long (ĐBSCL) Theo số liệu năm 2002, ĐBSCL đứng thứ hai về tỷ lệ nông dân không có đất ở khu vực nông thôn, chỉ sau vùng Đông Nam Bộ Đặc biệt, ở ĐBSCL, tình trạng không có đất có mối liên hệ trực tiếp với nghèo đói, điều này trái ngược với các vùng khác.

Sở hữu tài sản lâu bền như điện thoại, tủ lạnh, xe đạp và xe máy có sự khác biệt rõ rệt giữa các hộ gia đình Tại vùng Đồng bằng sông Cửu Long, tỷ lệ nhà tạm bợ cao nhất so với các khu vực khác, dẫn đến việc người nghèo chủ yếu sinh sống trong những ngôi nhà tạm.

Nghèo đói với dân tộc thiểu số

Dân tộc thiểu số, đặc biệt là người Kh’Mer, chiếm tỷ lệ cao trong số những người nghèo ở Đồng bằng sông Cửu Long (ĐBSCL) Các tỉnh có tỷ lệ nghèo cao nhất thường là nơi cư trú đông đảo của người Kh’Mer Tại những tỉnh này, tỷ lệ người Kh’Mer sống trong cảnh nghèo đói luôn cao hơn so với các dân tộc thiểu số khác.

Theo phân tích của AusAID (2004) về hiện trạng nghèo đói ở đồng bằng sông Cửu Long, người nghèo tại khu vực này được phân thành bốn nhóm bất lợi chính, phản ánh những thách thức đặc trưng mà họ phải đối mặt.

Nhóm không có đất và ít đất canh tác

Số dân không có đất canh tác trong vùng ĐBSCL đang gia tăng, chủ yếu do việc bán đất để trả nợ do mất mùa và biến động kinh tế từ thiên tai hoặc bệnh tật Việc bán đất trở thành hệ quả của nghèo đói, dẫn đến tình trạng người nghèo sống phụ thuộc vào công việc làm thuê với thu nhập thấp và không ổn định Nhóm nông dân không có đất canh tác có tỷ lệ nghèo cao hơn so với các nhóm khác trong khu vực.

Nhóm dân tộc thiểu số - Người Kh’Mer

Trong vùng Đồng bằng sông Cửu Long (ĐBSCL), người Kh’Mer là nhóm dân tộc thiểu số chiếm tỉ lệ cao nhất và cũng là nhóm gặp nhiều bất lợi nhất.

Tổng quan về tình hình nghèo đói của Việt Nam năm 2006

Theo số liệu điều tra hộ gia đình, xu hướng giảm nghèo ở Việt Nam vẫn tiếp tục diễn ra, với tỷ lệ hộ gia đình sống dưới ngưỡng nghèo hiện chỉ còn 16%.

Báo cáo chung của các nhà tài trợ tại Hội nghị tư vấn các nhà tài trợ Việt Nam vào tháng 12/2008, được soạn thảo với sự hợp tác của ADB, DFID, EC, GDC và Ngân hàng Thế giới, chỉ ra rằng tỷ lệ nghèo đã giảm từ 28,9% năm 2002 xuống 58,1% năm 1993, cho thấy những tiến bộ đáng khích lệ Tuy nhiên, sự tiến bộ này không đồng đều, với tỷ lệ nghèo ở các nhóm dân tộc ít người vẫn cao hơn so với người Kinh và Hoa Đa số người nghèo sống ở vùng nông thôn, nơi tỷ lệ nghèo tiếp tục giảm, mặc dù mức giảm chậm hơn trước Ngược lại, tỷ lệ nghèo ở thành phố có dấu hiệu giữ nguyên, thậm chí có xu hướng tăng lên lần đầu tiên trong lịch sử Các vùng như Tây Bắc, Tây Nguyên và duyên hải Bắc Trung Bộ vẫn còn nghèo hơn so với các khu vực khác trong cả nước.

Một phương pháp để đánh giá tốc độ giảm nghèo là thông qua năm cuộc điều tra chi tiêu hộ gia đình do Tổng cục Thống kê (TCTK) thực hiện vào các năm 1993 và 1998.

Từ năm 1993 đến 2006, Việt Nam đã đạt được những tiến bộ đáng kể trong việc giảm nghèo, với 42% dân số, tương đương 35 triệu người, thoát khỏi tình trạng nghèo đói Phương pháp quốc tế so sánh chi tiêu hộ gia đình trên đầu người với ngưỡng nghèo cho thấy mức nghèo đã giảm rõ rệt ở cả khu vực nông thôn và thành thị, cũng như trong cộng đồng người Kinh và các dân tộc thiểu số Tuy nhiên, đến năm 2006, vẫn còn 16% dân số sống dưới ngưỡng nghèo.

Bảng 1 1: Tỉ lệ nghèo và khoảng cách nghèo

Nguồn: Theo Báo cáo Phát triển Việt Nam 2008, trang 4.

Các vùng nông thôn ở Việt Nam vẫn là nơi có nhiều người nghèo sinh sống, nhưng sự giảm mạnh tỉ lệ nghèo ở đây đã góp phần làm giảm tỉ lệ nghèo toàn quốc Từ năm 2004 đến 2006, tỷ lệ nghèo nông thôn giảm 2,3 điểm phần trăm mỗi năm, mặc dù tốc độ giảm đã chậm lại so với giai đoạn trước đó Ngược lại, tỉ lệ nghèo ở khu vực thành thị có dấu hiệu chững lại và thậm chí tăng nhẹ Dựa vào các khoảng tin cậy thống kê, khó có thể xác định xu hướng rõ rệt từ số liệu hiện có, nhưng có khả năng tỉ lệ nghèo sẽ chững lại khi gần đến mức 0 Việc giảm nghèo chậm lại ở nông thôn và sự ổn định ở thành thị cần được phân tích kỹ lưỡng hơn.

Mặc dù tỷ lệ nghèo lương thực đang giảm nhanh chóng, vẫn có gần 9% hộ gia đình nông thôn và 29% hộ gia đình dân tộc ít người bị ảnh hưởng Tuy nhiên, một tín hiệu tích cực là những người nghèo từ tất cả các nhóm dân cư đang dần thoát nghèo, với chỉ số khoảng cách nghèo giảm từ 6,9% năm 2002 xuống 3,8% năm 2006 Đáng chú ý, khoảng cách nghèo của nhóm dân tộc ít người năm 2006 đã tương đương với mức của người Kinh và người Hoa vào năm 1993.

Để so sánh mức độ nghèo giữa các quốc gia, phương pháp xác định ngưỡng nghèo là một đôla mỗi ngày cho mỗi người đã được áp dụng Tuy nhiên, giá cả ở các quốc gia rất khác nhau, vì vậy sức mua của một đôla cần được điều chỉnh bằng hệ số sức mua ngang giá (PPP) Vào năm 2006, hệ số PPP của Việt Nam là khoảng 3,36, cho thấy chỉ cần 30 xu ở Việt Nam có thể mua được lượng hàng hóa tương đương với 1 đôla ở Mỹ.

Hình 1 1: Tỉ lệ nghèo giảm liên tục nhưng với mức độ khác nhau

Nguồn: Theo Báo cáo Phát triển Việt Nam 2008, trang 5.

Sử dụng thước đo một đôla một ngày, tỷ lệ nghèo ở Việt Nam đã giảm nhanh chóng, tương tự như khi áp dụng thước đo 2.100 đơn vị calo Đến năm 2006, chỉ còn 4,9% dân số sống dưới mức nghèo khổ, tương đương với thu nhập 01 đôla một ngày tại Mỹ.

Nghèo và vị trí địa lý

Khoảng cách giữa các vùng vẫn lớn, với vùng núi nghèo hơn so với đồng bằng và Đông Nam bộ Tuy nhiên, tốc độ giảm nghèo có sự khác biệt rõ rệt: vùng núi Tây Bắc giảm 19 điểm phần trăm trong 4 năm qua, trong khi Tây Nguyên giảm tới 23 điểm phần trăm Ngược lại, vùng đồng bằng sông Hồng và Đông Nam bộ, dù ít nghèo hơn, lại có tốc độ giảm nghèo chậm, theo sau một giai đoạn giảm nghèo mạnh mẽ và bền vững.

Bảng 1 2 : Tỷ lệ nghèo giữa các vùng

Vùng núi phía Bắc 81,5 64,2 43,9 35,4 30,2 Đông Bắc 38,4 29,4 25,0

Tây Bắc 68,0 58,6 49,0 Đồng bằng sông Hồng 62,7 29,3 22,4 12,1 8,8 Duyên Hải Bắc Trung Bộ 74,5 48,1 43,9 31,9 29,1 Duyên Hải Nam Trung Bộ 47,2 34,5 25,2 19,0 12,6

Tây Nguyên 70,0 52,4 51,8 33,1 28,6 Đông Nam Bộ 37,0 12,2 10,6 5,4 5,8 Đồng bằng sông Cửu Long 47,1 36,9 23,4 19,5 10,3

Nguồn: Theo Báo cáo Phát triển Việt Nam 2008, trang 7.

Sự kết hợp giữa tốc độ giảm nghèo nhanh ở các vùng nghèo và giảm nghèo chậm ở các tỉnh giàu hơn đã thu hẹp khoảng cách vùng miền Tỷ lệ nghèo đã giảm nhanh chóng ở những khu vực có tỷ lệ nghèo ban đầu cao nhất Cụ thể, những vùng có tỷ lệ nghèo cao hơn mức trung bình 1% có tốc độ giảm nghèo hàng năm tăng nhanh hơn mức trung bình 0,037 điểm phần trăm Trong giai đoạn 2002-2004, tốc độ giảm này đạt 0,082 điểm phần trăm, cho thấy mối liên hệ thống kê ngày càng chặt chẽ theo thời gian.

Hình 1 2: Mức chênh lệch về nghèo giữa các vùng giảm mạnh

Nguồn: Theo Báo cáo Phát triển Việt Nam 2008, trang 8.

Bức tranh nghèo giữa các tỉnh cho thấy sự chênh lệch rõ rệt giữa tỉnh giàu nhất và nghèo nhất Tuy nhiên, ngay cả trong các vùng cao nguyên nghèo, một số tỉnh đang có những bước tiến đáng kể trong việc giảm nghèo và dần dần bắt kịp với các tỉnh phát triển hơn ở vùng đồng bằng.

Việt Nam đã đạt được thành tựu to lớn về tăng trưởng và giảm nghèo trong khi sự bất bình đẳng chỉ tăng lên chút ít.

Các số liệu chi tiêu hộ gia đình cho phép xây dựng các chỉ số chuẩn, phân chia dân số thành 5 nhóm dựa trên mức sống và tỉ lệ chi tiêu Cụ thể, nhóm 20% dân số nghèo nhất chỉ chiếm 7,2% tổng chi tiêu cả nước, trong khi nhóm 20% giàu nhất chiếm đến 43,3% Điều này cho thấy một người trung bình ở nhóm giàu nhất chi tiêu gấp 6 lần so với một người trung bình ở nhóm nghèo nhất.

Hình 1 3 : Bản đồ nghèo cấp tỉnh

Nguồn: Theo Báo cáo Phát triển Việt Nam 2008, trang 8.

Trước cải cách ở Việt Nam, trong nền kinh tế tập trung quan liêu, hệ số Gini lý thuyết rất thấp do hầu hết mọi người đều nghèo Tuy nhiên, cơ chế thị trường tạo ra sự khác biệt về thu nhập, khuyến khích nỗ lực lao động và tích lũy vốn Sự chênh lệch này có thể gia tăng trong những giai đoạn tăng trưởng kinh tế nhanh chóng.

Trong giai đoạn 1993 đến 2004, hệ số Gini chỉ tăng nhẹ và thậm chí có xu hướng giảm trong giai đoạn 2004-2006, cho thấy sự ổn định trong phân phối thu nhập Sự cải thiện mức sống của ba nhóm ngũ phân vị giữa đã góp phần tạo ra một tầng lớp trung lưu ngày càng quan trọng, với ba nhóm này chiếm 50% tổng chi tiêu năm 2006, một tỷ lệ cao so với tiêu chuẩn phát triển của Việt Nam Tuy nhiên, sự phát triển của nhóm giữa không đồng nghĩa với việc khoảng cách thu nhập giữa nhóm ngũ phân vị đầu và cuối ngày càng gia tăng.

Bảng 1 3: Tỉ lệ chi tiêu của các nhóm ngũ phân vị trong dân số

Hệ số Gini cho chi tiêu 0,34 0,35 0,37 0,37 0,36

Nguồn: Theo Báo cáo Phát triển Việt Nam 2008, trang 11.

Các nhóm dân tộc ít người

Các nhóm dân tộc ít người tại Việt Nam đang ngày càng chiếm tỷ lệ cao trong số người nghèo Mặc dù tỷ lệ nghèo trong các nhóm này đã giảm, đặc biệt là ở những nhóm sống tại thung lũng và vùng đất thấp, điều kiện sống của những nhóm dân tộc ít người khác vẫn chưa được cải thiện đáng kể Tỷ lệ nghèo chung của các nhóm dân tộc thiểu số vẫn cao hơn nhiều so với người Kinh và người Hoa, trong khi mức độ nghèo đói vẫn nghiêm trọng, với tình trạng thiếu đói là vấn đề nan giải đối với một số dân tộc thiểu số.

PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU

Sử dụng chi tiêu bình quân làm tiêu chí phân tích nghèo

Chúng tôi lựa chọn chi tiêu bình quân đầu người làm tiêu chí phân tích nghèo do số liệu chi tiêu thường chính xác hơn so với thu nhập.

Do tâm lý, người dân thường khai thấp thu nhập của mình, đặc biệt là khi thu nhập càng cao Bên cạnh đó, nguồn thu của nông hộ khó xác định đầy đủ do công việc không ổn định và thường xuyên thay đổi, khiến họ khó nhớ tất cả các khoản thu nhập.

Thu nhập từ cây lâu năm và gia súc thường khó xác định trong kỳ phỏng vấn do tính chất biến động và thời gian thu hoạch dài Một hộ gia đình có thể gặp thu nhập âm trong năm, nhưng không thể coi họ là hộ nghèo, vì chi tiêu thường dựa vào tài sản hiện có hoặc kỳ vọng thu nhập tương lai Hộ nghèo thường gặp khó khăn trong việc chi tiêu do tâm lý hạn chế và khó khăn trong việc vay mượn, bởi chủ nợ thường không cho vay và số tiền vay thường nhỏ.

Chi tiêu tăng cao bất thường, như chi phí cho chữa bệnh, mua sắm vật dụng đắt tiền, hay sửa chữa và xây dựng nhà, thường chỉ xảy ra ở các hộ gia đình không nghèo Đối với hộ nghèo, chi phí khám và chữa bệnh được hỗ trợ bởi bảo hiểm y tế; nếu không có bảo hiểm, họ thường không đến cơ sở y tế do chi phí quá cao và thiếu khả năng tài chính.

Chi tiêu không chỉ ít bị khai thấp hơn thu nhập mà còn ổn định qua các năm Dựa trên các nghiên cứu trước, chúng tôi sử dụng các thước đo chi tiêu để phản ánh mức sống trong nghiên cứu này.

4 Võ Tất Thắng (2004), Thực trạng và những yếu tố tác động đến nghèo ở tỉnh Ninh Thuận

Cở sở xác định nghèo

Nghiên cứu này nhằm xác định các yếu tố phân biệt hộ nghèo và không nghèo, sử dụng phương pháp chọn hộ nghèo tương đối Phương pháp này đã được áp dụng để phân tích các Điều tra Mức sống dân cư ở Việt Nam trong giai đoạn 1993-1998 Theo đó, hộ gia đình nghèo được định nghĩa là những hộ thuộc 1/5 nhóm hộ có mức chi tiêu bình quân đầu người thấp nhất, trong khi hộ không nghèo là những hộ nằm trong 80% dân số còn lại.

Nguồn số liệu

Bài viết sử dụng dữ liệu từ cuộc điều tra mức sống hộ gia đình năm 2006 do Tổng Cục Thống kê thực hiện, bao gồm 9.189 hộ dân sống tại 3.100 xã/phường Cuộc khảo sát này cung cấp thông tin chi tiết về 8 nội dung điều tra chính, cùng với các phần mở rộng liên quan đến giáo dục và y tế, nhằm đại diện cho toàn quốc, cả khu vực thành thị và nông thôn, cũng như 8 vùng sinh thái khác nhau.

Nội dung điều tra của VHLSS bao gồm các yếu tố quan trọng như đặc điểm nhân khẩu học, giáo dục, y tế và chăm sóc sức khỏe, thu nhập, chi tiêu, tài sản và đồ dùng của hộ gia đình, cũng như thông tin về nhà ở và phương tiện vệ sinh Bên cạnh đó, điều tra còn bao gồm các câu hỏi liên quan đến việc tham gia chương trình xoá đói giảm nghèo và tín dụng, cùng với bảng câu hỏi về xã, trường và trạm y tế.

Bộ số liệu này nổi bật với số lượng lớn câu hỏi trong các mục khác nhau, cho phép kiểm tra tính nhất quán một cách hiệu quả Nhờ đó, VHLSS cung cấp một công cụ mạnh mẽ cho việc phân tích và đánh giá dữ liệu.

2006 trở nên quan trọng cho các nghiên cứu về nghèo đói và những vấn đề kinh tế - xã hội khác

Trong nghiên cứu này, chúng tôi đã thu thập dữ liệu từ 231 hộ gia đình nông thôn sống tại 77 xã thuộc khu vực biên giới Tây Nam, đặc biệt là các huyện ven biên giới của Đồng bằng sông Cửu Long, với khoảng cách tối đa 20km từ ranh giới huyện đến đường biên giới.

Trong vùng Đồng bằng sông Cửu Long (ĐBSCL), có 24 huyện thuộc 4 tỉnh giáp biên giới Sau khi loại bỏ các mẫu không phù hợp, chúng tôi đã sử dụng 225 mẫu để tiến hành phân tích Tổng cộng, chúng tôi đã khảo sát 1.245 hộ gia đình sống tại khu vực nông thôn của ĐBSCL.

Người dân có quyền tự do đi lại qua ranh giới huyện, đặc biệt là những cư dân ở các huyện gần biên giới, giúp họ dễ dàng thực hiện các hoạt động kinh tế và giao thương trong khu vực biên giới.

Bảng 2 1: Số mẫu trong vùng nghiên cứu

Tỉnh Huyện có biên giới

Huyện cách biên giới trong vòng 20km

Hồng Ngự 27 Tam Nông 9 Đồng

Tháp Tân Hồng 6 Thanh Bình 15

Giang Thị Xã Hà Tiên 3 Đức Huệ 6 Đức Hoà 12

Phương pháp trích dữ liệu

Chi tiêu là yếu tố quan trọng để so sánh với ngưỡng nghèo, bao gồm chi phí cho giáo dục, y tế, tiêu dùng, mua sắm đồ dùng lâu bền, nhà ở, điện nước và rác thải sinh hoạt Để thực hiện so sánh giữa các vùng và thời điểm điều tra, cần điều chỉnh chi tiêu về giá trị thực Trong bộ dữ liệu VHLSS 2006, biến chi tiêu dùng thực bình quân đầu người được ghi nhận là pcexp1rl, có trong tập tin hhexpe06.

Giới tính của chủ hộ: Trích từ mục 1A câu 2 (muc1ac2).

Tuổi của của hộ: Trích từ mục 1A câu 5 (muc1ac5).

Dân tộc của chủ hộ: Trang bìa phiếu phỏng vấn hộ (dantoc) Qui mô hộ: Trích từ mục 1A câu 3 (muc1ac3).

Số người phụ thuộc: được tính là tổng của hai nhóm:

- Nhóm khuyết tật: Trích từ mục 3B gồm các câu 3 (bị mù), câu 5 (bị điếc), câu 8 (bị tâm thần) và câu 11(bị liệt).

Nhóm không nằm trong độ tuổi lao động bao gồm những thành viên dưới 16 tuổi, nữ trên 55 tuổi và nam trên 60 tuổi Những người này được xem là không có sức lao động và phụ thuộc vào các thành viên còn lại trong hộ gia đình.

Trình độ học vấn chủ hộ: Được đo bằng số năm đi học, trích từ mục 2A câu

Đối với các bậc học trung học phổ thông và học nghề, thời gian học được tính theo số năm học của bậc học này Cụ thể, bậc cao đẳng được tính là 15 năm, đại học là 16 năm, thạc sĩ là 18 năm và tiến sĩ là 22 năm.

Trình độ học vấn trung bình của các thành viên trong hộ được xác định dựa trên số năm đi học, theo thông tin từ mục 2A câu 1 và câu 3 Đối với bậc học trung học phổ thông và học nghề, số năm học được tính như bậc học phổ thông Cụ thể, bậc cao đẳng được tính là 15 năm, đại học là 16 năm, thạc sĩ là 18 năm và tiến sĩ là 22 năm.

Diện tích đất sản xuất: Được trích từ mục 4B0 câu 3 và câu 6 (muc4b0c3b và muc4b0c6)

Làm nông:Được trích từ mục A4 câu 4 (m4ac4).

Có sử dụng điện: Trích từ mục 7 câu 34 (m7c34).

Vay tín dụng được phân chia thành hai loại chính: vay từ nguồn tín dụng chính thức và vay từ nguồn tín dụng không chính thức Hộ gia đình vay từ các ngân hàng chính sách xã hội, ngân hàng NN&PTNN, quỹ hỗ trợ việc làm, tổ chức tín dụng và các tổ chức chính trị xã hội sẽ được xếp vào dạng vay chính thức Ngược lại, nếu hộ gia đình vay từ cá nhân, bạn bè, họ hàng hoặc các nguồn không chính thức khác, thì được gọi là vay tín dụng không chính thức.

Phương pháp phân tích

2.5.1 Mục tiêu nghiên cứu 1: Sự khác biệt lớn nhất giữa những hộ nghèo và không nghèo ở vùng biên giới Tây Nam

- Dùng phương pháp thống kê mô tả để nêu được hiện trạng của các hộ gia đình ở vùng nghiên cứu.

- Tính toán các chỉ số nghèo đói, đường cong Loren, hệ số Gini.

- Phân tích phương sai để kiểm định sự khác nhau của hộ nghèo và không nghèo.

2.5.2 Mục tiêu nghiên cứu 2: Các nhân tố ảnh hưởng đến việc tăng chi tiêu của các hộ gia đình.

2.5.2.1 Mô hình Kinh tế lượng

Y i là chi tiêu bình quân đầu người hàng tháng

 0 ,  i là hệ số hồi quy của mô hình

X i là các biến độc lập (các nhân tố có ảnh hưởng đến chi tiêu bình quân)

Y  0   ln lnY i là logarit chi tiêu bình quân đầu người hàng tháng

 0 ,  i là hệ số hồi quy của mô hình

X i là các biến độc lập (các nhân tố có ảnh hưởng đến chi tiêu bình quân)

Phương pháp bình phương nhỏ nhất (Ordinary Least Squares)

* Ý nghĩa của các hệ số hồi quy

Các hệ số hồi quy thể hiện sự thay đổi tương đối của biến Y khi biến X i thay đổi một đơn vị, trong khi các yếu tố khác giữ nguyên Cụ thể, khi biến X i tăng hoặc giảm một đơn vị, biến Y sẽ thay đổi tương ứng với tỷ lệ  i x100 (%) hoặc thay đổi theo hệ số e  i lần.

2.5.2.2 Áp dụng trong nghiên cứu:

Kế thừa các nghiên cứu trước, chúng tôi đề xuất mô hình nghiên cứu như sau: u TONGVAYT TONGDAT

Bảng 2 2: Các biến số của mô hình các nhân tố ảnh hưởng đến chi tiêu

Ký hiệu Mô tả biến số Đơn vị Kỳ vọng

DANTOC Là biến dummy, nhận giá trị 0 nếu hộ gia đình thuộc dân tộc Kinh, nhận giá trị 1 cho trường hợp hộ thuộc nhóm dân tộc thiểu số

GIOITINH là biến dummy, nhận giá trị 0 nếu chủ hộ là nữ, nhận giá trị 1 nếu chủ hộ là nam

QUIMOHO là biến thể hiện tổng số người trong hộ người (-)

PHUTHUOC là biến thể hiện tổng số người không có hoạt động tạo thu nhập trong hộ người (-)

TUOICHU là biến thể hiện số tuổi của chủ hộ Năm (+)

HOC_TT là biến thể hiện số năm đi học của những người trưởng thành trong một hộ gia đình Năm (+)

LAM_NONG là biến dummy, được sử dụng để phân loại hộ gia đình dựa trên hoạt động kinh tế Nếu hộ gia đình tham gia vào công việc phi nông nghiệp, giá trị của LAM_NONG sẽ là 0 Ngược lại, nếu hộ gia đình hoạt động trong lĩnh vực trồng trọt, chăn nuôi hoặc thuỷ sản, giá trị của biến này sẽ là 1.

TONGDATC Là biến thể hiện số mét vuông đất canh tác của hộ gia đình 1.000 m 2 (+)

TONGVAYT Là biến thể hiện số tổng số tiền mà hộ vay. triệu đồng (+) u là sai số ngẫu nhiên

2.5.3 Mục tiêu nghiên cứu 3: Các yếu tố ảnh hưởng đến đói nghèo của các hộ gia đình

2.5.3.1 Mô hình Kinh tế lượng

* Mô hình tổng quát (trong trường hợp một biến) 6

Nếu ta đặt biến Y = 1: là hộ nghèo và Y=0 là hộ không nghèo thì

Pi là kỳ vọng xác suất Y=1 (hộ là nghèo) với điều kiện Xi đã xảy ra

 1 ,  2 là hệ số hồi quy của mô hình

X i là biến độc lập (nhân tố có ảnh hưởng đến nghèo)

Bằng phương pháp tuyến tính hóa, mô hình trên trở thành:

Phương pháp ước lượng thích hợp cực đại(maximum likelihood method)

* Ý nghĩa của các hệ số hồi quy

0 P ho khong ngheo ngheo ho

  là hệ số chênh lệch nghèo ban đầu, trong đó P 0 là xác suất nghèo ban đầu.

Từ phương trình suy ra: k k X e X

Giả định rằng các yếu tố khác không thay đổi, khi tăng X k lên 1 đơn vị, hệ số chênh lệch nghèo mới (O 1 ) sẽ là: k k k k k k k k e e e

Công thức trên có thể được viết lại như sau: O e k

Thế hệ số Odd vào, ta được:

Khi yếu tố X k tăng lên một đơn vị thì xác suất nghèo của một hộ gia đình sẽ chuyển dịch từ P 0 sang P 1

Dự đoán xác suất nghèo của hộ gia đình : P  1  e    0  1  1 X 1    k X k 

2.5.3.2 Xác định mô hình thực nghiệm.

Kế thừa các nghiên cứu trước, chúng tôi đề xuất mô hình nghiên cứu như sau:

Mô hình logit cho các p i được xác định như sau:

NONG LAM DANTOC GIOITINH QUYMO HO PHUTHUOC TUOICHU HOC TT i e

Bảng 2 3: Các biến số của mô hình các nhân tố ảnh hưởng đến nghèo

Ký hiệu Mô tả biến số Đơn vị Kỳ vọng

NGHEO Là biến phụ thuộc đại diện trình trạng nghèo (nhận giá trị 1) hoặc không nghèo (nhận giá trị 0) của hộ gia đình.

DANTOC Là biến dummy, nhận giá trị 0 nếu hộ gia đình thuộc dân tộc Kinh, nhận giá trị 1 cho trường hợp hộ thuộc nhóm dân tộc thiểu số

GIOITINH là biến dummy, nhận giá trị 0 nếu chủ hộ là nữ, nhận giá trị 1 nếu chủ hộ là nam

QUIMOHO là biến thể hiện tổng số người trong hộ người (+)

PHUTHUOC là biến thể hiện tổng số người không có hoạt động tạo thu nhập trong hộ người (+)

TUOICHU là biến thể hiện số năm tuổi của chủ hộ Năm (-)

HOC_TT là biến thể hiện số năm đi học của những người trưởng thành trong một hộ gia đình Năm (-)

LAM_NONG là biến dummy, với giá trị 0 cho các hộ làm việc phi nông nghiệp và giá trị 1 cho các hộ tham gia vào ngành trồng trọt, chăn nuôi và thủy sản.

TONGDATC Là biến thể hiện số mét vuông đất canh tác của hộ gia đình

TONGVAYT Là biến thể hiện số tổng số tiền mà hộ vay triệu đồng

(-) u là sai số ngẫu nhiên

KẾT QUẢ PHÂN TÍCH

Tổng quan về nghèo và bất bình đẳng vùng biên giới Tây Nam

Vùng nông thôn biên giới Tây Nam có mức chi tiêu bình quân đầu người đạt 442,7 ngàn đồng/tháng, nhỉnh hơn mức trung bình của vùng đồng bằng sông Cửu Long là 440,1 ngàn đồng/tháng Tuy nhiên, sự khác biệt này không có ý nghĩa thống kê, do đó có thể coi mức chi tiêu trung bình của vùng nghiên cứu tương đương với mức thu nhập chung của toàn vùng.

Phân tích từ 225 hộ dân trong vùng nghiên cứu cho thấy giá trị trung vị chi tiêu là 384,9 ngàn đồng/tháng, cho thấy rằng 50% hộ gia đình ở khu vực biên giới có mức chi tiêu bình quân đầu người thấp hơn mức này.

Chúng tôi xác định hộ nghèo tương đối là những hộ có mức chi tiêu dưới 280 ngàn đồng/tháng, dựa trên cách tính đã nêu trong phần 3.2 Mục đích nghiên cứu này là tìm hiểu tác động của các nhân tố ảnh hưởng đến nghèo đói và thu nhập của người dân, đồng thời khám phá sự khác biệt giữa nhóm nghèo và không nghèo, do đó cách phân nhóm này sẽ hỗ trợ hiệu quả cho công tác nghiên cứu.

Kết quả phân tích chi tiêu bình quân đầu người vùng biên giới Tây Nam được trình bài trong bảng 3.1:

Bảng 3 1: Phân tích chi tiêu bình quân đầu người/tháng vùng biên giới Tây Nam Mức chi tiêu/người/tháng

Số hộ Tỉ lệ Chi tiêu trung bình nhóm Nhóm

Nguồn: Tính toán theo số mẫu nghiên cứu (n"5, VHLSS 2006)

Hình 3 1 : Đường cong Lorenz khu vực nông thôn vùng Đồng bằng Sông Cửu Long và vùng biên giới Tây Nam

Lorenze Tây Nam Equality Lorenze ĐBSCL

Nguồn: Tính toán theo số mẫu nghiên cứu (n"5, VHLSS 2006)

Mức độ bất bình đẳng trong chi tiêu ở vùng nghiên cứu cũng ở mức rất thấp

Hệ số Gini năm 2006 cho khu vực nông thôn cả nước là 0,3, trong khi đó, vùng đồng bằng sông Cửu Long và biên giới Tây Nam có hệ số lần lượt là 0,28 và 0,25 Điều này cho thấy không có sự chênh lệch đáng kể giữa khu vực thành thị và nông thôn trong nghiên cứu này.

Bảng 3 2: Hệ số Gini năm 2006 theo chi chiêu

Thành thị Nông thôn Chung

Việt Nam 0,34 0,30 0,36 Đồng bằng sông Cửu Long 0,32 0,28 0,30

Vùng biên giới Tây Nam 0,25 0,25 0,25

Nguồn: Tính toán theo số mẫu nghiên cứu (n"5, VHLSS 2006)

Sự khác biệt lớn nhất giữa những hộ nghèo và không nghèo ở vùng biên giới Tây

3.2.1 Nghèo và trình trạng nghề nghiệp của chủ hộ

Theo truyền thống Việt Nam, chủ hộ thường là người trụ cột, đóng vai trò quan trọng trong việc tạo ra thu nhập chính cho gia đình và quyết định các vấn đề quan trọng trong cuộc sống gia đình.

Bảng 3 3: Nghèo và việc làm nhận lương, nhận công của chủ hộ

Hộ không nghèo Hộ nghèo

Chủ hộ Số lượng Tỉ lệ Số lượng Tỉ lệ

Có đi làm để nhận tiền lương, tiền công 55 30.6% 25 55.6%

Không đi làm nhận tiền lương, tiền công 125 69,4% 20 44,4%

Nguồn: Tính toán theo số mẫu nghiên cứu (n"5, VHLSS 2006)

Các hộ gia đình nghèo có tỷ lệ chủ hộ làm thuê cao hơn nhiều so với hộ không nghèo, với 55,6% so với 30,6% (Pearson Chi-Square = 9,820) Sự khác biệt này vẫn giữ ý nghĩa thống kê khi phân tích theo 5 nhóm chi tiêu, với Pearson Chi-Square đạt 15,29.

Số liệu thống kê cho thấy có mối liên hệ chặt chẽ giữa nghề nghiệp của chủ hộ và mức độ nghèo đói, với tỷ lệ chủ hộ làm thuê ở các hộ nghèo cao hơn 25% so với các hộ không nghèo Tuy nhiên, nghề nghiệp không phải là yếu tố duy nhất ảnh hưởng đến nghèo đói, mà lĩnh vực làm việc của chủ hộ cũng đóng vai trò quan trọng trong tình trạng này.

Bảng 3 4: Nghèo và tự làm nông, lâm, thuỷ sản của chủ hộ

Hộ không nghèo Hộ nghèo

Số lượng Tỉ lệ Số lượng Tỉ lệ

Có hoạt động SX hoặc DV về trồng trọt, chăn nuôi, lâm nghiệp và thuỷ sản cho hộ

Không có hoạt động SX hoặc DV về trồng trọt, chăn nuôi, lâm nghiệp và thuỷ sản cho hộ

Nguồn: Tính toán theo số mẫu nghiên cứu (n"5, VHLSS 2006)

Cả hộ nghèo và hộ không nghèo đều có tỷ lệ cao trong hoạt động sản xuất hoặc dịch vụ liên quan đến trồng trọt, chăn nuôi, lâm nghiệp và thủy sản, với 61,3% và 61,7% chủ hộ tham gia tương ứng Điều này cho thấy không có sự khác biệt đáng kể giữa hai nhóm hộ trong lĩnh vực này.

Theo kết quả từ phụ lục 2a và 2b, có sự liên quan nghèo nàn giữa nghề nghiệp của chủ hộ trong lĩnh vực nông, lâm và thuỷ sản với thu nhập (Pearson Chi-Square 0,042) Điều này cho thấy rằng việc tự làm trong các lĩnh vực này không mang lại hiệu quả cao trong việc tăng thu nhập.

Bảng 3 5: Nghèo và việc làm tự sản xuất kinh doanh, dịch vụ phi nông, lâm, thuỷ sản của chủ hộ

Hộ không nghèo Hộ nghèo

Số lượng Tỉ lệ Số lượng Tỉ lệ

Tự SXKD, DV phi nông, lâm thuỷ sản 42 23,3% 4 8,9%

Không tự SXKD, DV phi nông, lâm thuỷ sản 138 76,7% 41 91,1%

Nguồn: Tính toán theo số mẫu nghiên cứu (n"5, VHLSS 2006)

Tham gia vào lĩnh vực sản xuất kinh doanh và dịch vụ phi nông nghiệp có thể giảm thiểu khả năng nghèo đói Theo thống kê, 91,1% hộ nghèo không hoạt động trong các lĩnh vực này, trong khi chỉ có 76,7% hộ không nghèo không tham gia Điều này cho thấy rằng các hộ gia đình có chủ hộ làm việc trong kinh doanh có khả năng thoát nghèo cao hơn, khẳng định câu nói: “Phi thương bất phú”.

Bảng 3 6 : Nghèo và thành phần kinh tế tham gia của chủ hộ

Hộ không nghèo Hộ nghèo

Số lượng Tỉ lệ Số lượng Tỉ lệ

Kinh tế có vốn đầu tư nước ngoài 1 0.6% 0.0%

Tự làm cho gia đình không phải là doanh nghiệp 113 62.8% 23 51.1%

Nguồn: Tính toán theo số mẫu nghiên cứu (n"5, VHLSS 2006)

Trong số 45 hộ nghèo được khảo sát, không có hộ nào có chủ hộ làm việc trong lĩnh vực kinh tế có vốn đầu tư nước ngoài.

Theo phụ lục 2d, tỷ lệ hộ nghèo làm thuê cho hộ khác là 33,3%, cao hơn so với tỷ lệ 12,2% của hộ không nghèo (Pearson Chi-Square = 15.075, phụ lục 2e) Điều này cho thấy sự khác biệt rõ rệt trong tình hình kinh tế giữa hai nhóm hộ này.

Bảng 3 7 : Nghèo và nguyên nhân không đi làm của chủ hộ

Hộ không nghèo Hộ nghèo

Số lượng Tỉ lệ Số lượng Tỉ lệ Ốm đau 4 14,8%

Theo số liệu từ VHLSS 2006, phần lớn các chủ hộ không làm việc chủ yếu do già yếu hoặc nghỉ hưu Tuy nhiên, kết quả từ bảng 3.7 cho thấy không có mối quan hệ thống kê đáng kể giữa lý do không đi làm của chủ hộ và khả năng nghèo đói của gia đình, với chỉ số Pearson Chi-Square là 2,285 (Phụ lục 2f).

3.2.2 Nghèo và trình độ học vấn

Trình độ học vấn trung bình của chủ hộ trong vùng nghiên cứu chỉ đạt 4,8 năm, với nhóm nghèo nhất chỉ học 3,2 năm và nhóm giàu nhất đạt 6,2 năm Số năm đi học trung bình có xu hướng cao hơn ở nhóm hộ giàu, và sự khác biệt giữa nhóm nghèo với nhóm khá giàu và nhóm giàu là có ý nghĩa thống kê ở mức 95% Tương tự, số năm đi học trung bình của người trưởng thành trong gia đình cũng tăng từ nhóm nghèo nhất (3,8 năm) đến nhóm giàu nhất (7,0 năm), với sự khác biệt có ý nghĩa thống kê giữa nhóm nghèo và các nhóm còn lại, ngoại trừ nhóm cận nghèo Mức chi tiêu cho giáo dục cũng có xu hướng tăng từ nhóm nghèo đến nhóm giàu, nhưng sự gia tăng này không đạt ý nghĩa thống kê.

Bảng 3 8: Số năm đi học và chi tiêu cho giáo dục của hộ gia đình

Nghèo Cận nghèo Trung bình Khá giàu Giàu Tổng

Số năm đi học trung bình của chủ hộ 3,2 3,9 5,0 5,9 6,2 4,8

Số năm đi học trung bình của những người trên 15 tuổi trong hộ 3,8 4,1 5,3 6,4 7,0 5,3

Chi tiêu cho giáo dục (ngàn đồng/hộ/năm) 278 459 660 1.136 858 678

Nguồn: Tính toán theo số mẫu nghiên cứu (n"5, VHLSS 2006)

Trong một nghiên cứu với 674 thành viên từ 15 tuổi trở lên, 90% thành viên thuộc hộ nghèo không có bằng cấp hoặc chỉ tốt nghiệp cấp 1, trong khi chỉ có 73% thành viên thuộc hộ không nghèo có bằng tiểu học trở xuống.

Bảng 3 9 : Trình độ học vấn của các thành viên trên 15 tuổi của hộ gia đình nghèo

Hộ không nghèo Hộ nghèo

Số lượng Tỉ lệ Số lượng Tỉ lệ Tổng

Nguồn: Tính toán theo số mẫu nghiên cứu (n"5, VHLSS 2006)

Khả năng đọc và viết của chủ hộ có ảnh hưởng lớn đến khả năng thoát nghèo của gia đình Cụ thể, tỷ lệ chủ hộ biết đọc, biết viết ở các hộ không nghèo đạt 87,2%, trong khi con số này ở hộ nghèo chỉ là 66,7%.

Bảng 3 10 : Khả năng đọc viết của chủ hộ hộ gia đình

Số lượng Tỉ lệ Số lượng Tỉ lệ

Không biết đọc, biết viết 23 12,8% 15 33,3%

Nguồn: Tính toán theo số mẫu nghiên cứu (n"5, VHLSS 2006)

3.2.3 Những đặc điểm về nhân khẩu học

* Qui mô hộ và số người phụ thuộc

Qui mô hộ trung bình trong vùng nghiên cứu là 4,2 người, với hộ nghèo có trung bình 4,4 nhân khẩu và hộ không nghèo là 4,1 người; tuy nhiên, sự khác biệt này không đạt ý nghĩa thống kê.

Theo phân tích chi tiêu theo năm nhóm, hộ nghèo thường có số người phụ thuộc cao hơn hộ giàu, với trung bình 1,9 người phụ thuộc so với 1,3 người ở hộ giàu.

Theo phân loại hộ nghèo và không nghèo, với độ tin cậy 90%, trung bình mỗi hộ nghèo có 1,9 người phụ thuộc, cao hơn so với hộ không nghèo chỉ có 1,6 người.

Hình 3 2 : Qui mô hộ và số người phụ thuộc

Nghèo Cận nghèo Trung bình Khá giàu Giàu

Nguồn: Tính toán theo số mẫu nghiên cứu (n"5, VHLSS 2006)

Các nhân tố ảnh hưởng đến việc tăng thu nhập của các hộ gia đình

Bảng 3 16 : Ước lượng tham số hồi quy đánh giá những nhân tố tác động lên chi tiêu bình quân đầu người ở vùng biên giới Tây Nam

Logargit chi tiêu bình quân đầu người Hệ số hồi quy (β k ) Thống kê t Giá trị P Hệ số tác động biên (e β k )

Số người phụ thuộc trong hộ -0.06172 0.02536 0.016 0.9401

Số năm đi học trung bình của những người trưởng thành trong gia đình 0.04239 0.00754 0.000 1.0433

Nghề nghiệp chính làm làm nông của chủ hộ (có =1) -0.23882 0.04812 0.000 0.7876 Diện tích đất sản xuất của hộ (1.000m2) 0.00511 0.00148 0.001 1.0051

Tổng số tiền vay (triệu đồng) 0.00044 0.00089 0.623 1.0004

R 2 điều chỉnh = 0,35 với 225 quan sát

Nguồn: Tính toán theo số mẫu nghiên cứu (n"5, VHLSS 2006) bằng Eveiw 4.1, xem phụ lục 8.

Kết quả kiểm định F = 14,2 (Prob = 0,00) cho thấy mô hình có mức độ thích hợp rất tốt Các hệ số hồi quy đều có dấu đúng như kỳ vọng Điểm khác biệt của mô hình ở vùng biên giới Tây Nam so với nhiều nghiên cứu khác tại Việt Nam là dân tộc và vay tín dụng không ảnh hưởng thống kê đến chi tiêu của hộ Ngoài ra, nhân tố giới tính có ý nghĩa thống kê ở mức 10%.

Kết quả hồi quy cho thấy rằng việc phân tích thống kê mô tả có thể không chính xác bằng, vì nó giúp đưa ra những kết luận rõ ràng hơn Cụ thể, khi số năm học của các thành viên trong hộ gia đình trên 15 tuổi tăng thêm 1 năm, mức chi tiêu bình quân đầu người sẽ tăng 4,3%, tương đương với 1,043 lần Ngược lại, nếu hộ gia đình có thêm một người phụ thuộc, chi tiêu sẽ giảm 6%, chỉ còn 0,940 lần so với ban đầu Tương tự, mỗi thành viên thêm vào hộ gia đình sẽ làm giảm chi tiêu 5,1% khi các yếu tố khác không thay đổi Đặc biệt, loại hình việc làm của chủ hộ ảnh hưởng mạnh mẽ đến chi tiêu, với hộ gia đình làm nông có mức chi tiêu chỉ đạt 0,788 lần (giảm 21,2%) so với hộ làm việc trong lĩnh vực phi nông nghiệp, cho thấy rằng công việc nông nghiệp vẫn tiềm ẩn nhiều rủi ro và khó khăn hơn.

Chủ hộ nam giới có mức chi tiêu cao hơn nữ giới 1,105 lần, tương đương với 10,5% cho thấy phụ nữ gặp nhiều khó khăn hơn trong việc phát triển sản xuất và nâng cao thu nhập cho gia đình Thực tế này nhấn mạnh sự cần thiết của các biện pháp hỗ trợ từ Nhà nước dành cho phụ nữ.

Tuổi của chủ hộ có tác động đáng kể đến chi tiêu gia đình, với mỗi năm tăng thêm dẫn đến mức chi tiêu tăng 0,34% Điều này cho thấy rằng kinh nghiệm sống có vai trò quan trọng trong việc gia tăng thu nhập của hộ gia đình.

Diện tích đất canh tác có ảnh hưởng hạn chế đến chi tiêu của hộ gia đình, với việc mỗi 1.000 m² đất tăng thêm chỉ làm chi tiêu tăng 0,51%.

Yếu tố học vấn trung bình của người trưởng thành trong gia đình có ảnh hưởng lớn nhất đến chi tiêu hộ gia đình, tiếp theo là việc làm chính của chủ hộ trong lĩnh vực nông nghiệp Để tăng chi tiêu của hộ gia đình, cần tập trung vào hai yếu tố này.

Các yếu tố ảnh hưởng đến đói nghèo của các hộ gia đình

Bảng 3 17 : Kết quả ước lượng mô hình hồi quy đánh giá những nhân tố tác động lên tình trạng nghèo ở vùng biên giới Tây Nam

Hộ gia đình nghèo (có =1) Hệ số hồi quy (β k ) Độ lệch chuẩn Thống kê Z Giá trị P Exp(B)

Các biến số độc lập

Số người phụ thuộc trong hộ 0.4459 0.2353 1.8948 0.0581 1.562

Số năm đi học trung bình của những người trưởng thành trong gia đình -0.2080 0.0771 -2.6987 0.0070

0.812 Nghề nghiệp chính làm làm nông của chủ hộ (có =1) 1.4741 0.4299 3.4293 0.0006

4.367 Diện tích đất sản xuất của hộ (1.000m2) -0.0488 0.0277 -1.7636 0.0778 0.952 Tổng số tiền vay (triệu đồng) -0.0314 0.0285 -1.1044 0.2694 0.969

Nguồn: Tính toán theo số mẫu nghiên cứu (n"5, VHLSS 2006) bằng SPSS 15.0 Xem phụ lục 9.

Kết quả từ mô hình hồi qui logit cho thấy hầu hết các tác động đã được xác nhận Các biến độc lập có hệ số âm chỉ ra rằng, khi các yếu tố khác không đổi, việc tăng thêm một đơn vị của biến này sẽ làm giảm xác suất nghèo của hộ gia đình Ngược lại, các biến có hệ số dương cho thấy rằng việc tăng thêm một đơn vị (hoặc có thuộc tính này) sẽ làm tăng xác suất nghèo của hộ gia đình, trong khi giữ cố định các biến còn lại.

Kết quả ước lượng cho thấy rằng số năm đi học trung bình của người trưởng thành và loại hình nghề nghiệp chính của chủ hộ có ý nghĩa thống kê ở mức 5%, trong khi yếu tố giới tính, số người phụ thuộc và diện tích đất sản xuất có ý nghĩa ở mức 10% Loại hình nghề nghiệp có ảnh hưởng mạnh mẽ đến khả năng nghèo của hộ gia đình, trong khi giới tính, số người phụ thuộc, trình độ học vấn trung bình và diện tích đất sản xuất có ảnh hưởng yếu hơn Đặc biệt, vùng biên giới Tây Nam khác biệt với các nghiên cứu khác ở Việt Nam khi các yếu tố như dân tộc, quy mô hộ và vay tín dụng không có ý nghĩa thống kê trong việc ảnh hưởng đến khả năng nghèo của hộ gia đình.

Bảng 3 18 : Ước lượng xác suất nghèo theo tác động biên của từng yếu tố

Xác suất nghèo đói được ước tính khi biến số độc lập thay đổi một đơn vị và xác suất ban đầu là:

Hộ gia đình nghèo (có =1)

Các biến số độc lập

Số người phụ thuộc trong hộ 0.4459 14.8% 28.1% 40.1% 51.0%

Số năm đi học trung bình của những người trưởng thành trong gia đình -0.2080 8.3% 16.9% 25.8% 35.1%

Nghề nghiệp chính làm làm nông của chủ hộ (có =1) 1.4741 32.7% 52.2% 65.2% 74.4%

Diện tích đất sản xuất của hộ (1.000m2) -0.0488 9.6% 19.2% 29.0% 38.8%

Nguồn: Tính toán từ bảng 4.17 bằng Excel

Bảng 3.18 chỉ ra rằng xác suất nghèo của hộ gia đình chịu ảnh hưởng đáng kể từ các yếu tố khác nhau Cụ thể, nếu chủ hộ là nam giới, xác suất nghèo giảm xuống còn 10,6%, trong khi việc tăng thêm một năm học cho những người trưởng thành trong gia đình giúp giảm xác suất nghèo xuống 16,9% Ngược lại, nếu nghề nghiệp chính của chủ hộ là nông nghiệp, xác suất nghèo sẽ tăng cao tới 52,2%.

Tương tự, nếu số người phụ thuộc tăng một người thì xác suất nghèo tăng lên 28,1%, và nếu diện tích đất tăng thêm 1.000m 2 thì xác xuất nghèo giảm xuống 19,2%

Bảng 3 19 : Dự báo xác xuất nghèo của một hộ gia đình

Số người phụ thuộc trong hộ 0.45 2 2 1 1 1

Số năm đi học trung bình của những người trưởng thành trong gia đình

Nghề nghiệp chính làm làm nông của chủ hộ (có =1)

Diện tích đất sản xuất của hộ

Nguồn: Tính toán từ bảng 4.17 bằng Excel

Giả định các yếu tố khác không thay đổi, một hộ gia đình có chủ hộ là nam giới và 2 người phụ thuộc, với số năm học của người lớn chỉ là 2 năm và nghề nghiệp chính là làm nông trên 4 công đất, có xác suất nghèo là 64% Qua việc áp dụng các chính sách tác động đến các biến độc lập, chúng ta sẽ phân tích xác suất nghèo của hộ gia đình này trong các tình huống khác nhau.

Nếu học vấn trung bình của những người trưởng thành chỉ đạt bằng tốt nghiệp cấp 3 và số người phụ thuộc giảm xuống còn 01, trong khi các điều kiện khác không thay đổi, thì xác suất nghèo sẽ là 13%.

Trong trường hợp 2, nếu trình độ học vấn trung bình của người trưởng thành đạt bằng tốt nghiệp cấp 2, số lượng người phụ thuộc giảm xuống còn 01, diện tích đất sản xuất tăng lên 16 công và các điều kiện khác được giữ nguyên, thì xác suất nghèo vẫn là 13%.

Trường hợp 3 cho thấy rằng hộ gia đình không có đất sản xuất nhưng có trình độ học vấn trung bình với ít nhất một người trưởng thành tốt nghiệp cấp 3, cùng với việc giảm số người phụ thuộc xuống còn 01, có thể giảm xác suất nghèo xuống chỉ còn 2,6% nếu hộ gia đình học nghề và chuyển sang lĩnh vực phi nông nghiệp.

Để giảm xác suất nghèo từ 64% xuống còn 13%, ngoài việc giảm số người phụ thuộc, chúng ta có hai phương án: cấp thêm 1,2 ha đất cho hộ gia đình hoặc nâng cao trình độ học vấn của người lớn thêm 3 năm Trong bối cảnh đất đai hạn hẹp, việc cấp thêm đất là không khả thi, nhưng việc tăng cường giáo dục và giảm số người phụ thuộc là điều khả thi Do đó, cần tập trung vào chính sách giáo dục, y tế và dân số để giảm nghèo, đặc biệt là trong giáo dục phổ thông và dạy nghề tại vùng biên giới Tây Nam.

Ngày đăng: 17/07/2022, 21:36

HÌNH ẢNH LIÊN QUAN

Hình 0. 1: Bản đồ vùng đồng bằng sông Cửu Long và vùng nghiên cứu - (LUẬN văn THẠC sĩ) các nhân tố ảnh hưởng đến đói nghèo ở các hộ gia đình vùng biên giới tây nam
Hình 0. 1: Bản đồ vùng đồng bằng sông Cửu Long và vùng nghiên cứu (Trang 8)
Bảng 1. 1: Tỉ lệ nghèo và khoảng cách nghèo - (LUẬN văn THẠC sĩ) các nhân tố ảnh hưởng đến đói nghèo ở các hộ gia đình vùng biên giới tây nam
Bảng 1. 1: Tỉ lệ nghèo và khoảng cách nghèo (Trang 20)
Hình 1. 1: Tỉ lệ nghèo giảm liên tục nhưng với mức độ khác nhau - (LUẬN văn THẠC sĩ) các nhân tố ảnh hưởng đến đói nghèo ở các hộ gia đình vùng biên giới tây nam
Hình 1. 1: Tỉ lệ nghèo giảm liên tục nhưng với mức độ khác nhau (Trang 22)
Hình 1. 2: Mức chênh lệch về nghèo giữa các vùng giảm mạnh - (LUẬN văn THẠC sĩ) các nhân tố ảnh hưởng đến đói nghèo ở các hộ gia đình vùng biên giới tây nam
Hình 1. 2: Mức chênh lệch về nghèo giữa các vùng giảm mạnh (Trang 23)
Bảng 1. 2 : Tỷ lệ nghèo giữa các vùng - (LUẬN văn THẠC sĩ) các nhân tố ảnh hưởng đến đói nghèo ở các hộ gia đình vùng biên giới tây nam
Bảng 1. 2 : Tỷ lệ nghèo giữa các vùng (Trang 23)
Hình 1. 3 : Bản đồ nghèo cấp tỉnh - (LUẬN văn THẠC sĩ) các nhân tố ảnh hưởng đến đói nghèo ở các hộ gia đình vùng biên giới tây nam
Hình 1. 3 : Bản đồ nghèo cấp tỉnh (Trang 24)
Bảng 1. 3: Tỉ lệ chi tiêu của các nhóm ngũ phân vị trong dân số - (LUẬN văn THẠC sĩ) các nhân tố ảnh hưởng đến đói nghèo ở các hộ gia đình vùng biên giới tây nam
Bảng 1. 3: Tỉ lệ chi tiêu của các nhóm ngũ phân vị trong dân số (Trang 25)
Hình 1. 4: Tỷ lệ nghèo khác nhau giữa các nhóm dân tộc - (LUẬN văn THẠC sĩ) các nhân tố ảnh hưởng đến đói nghèo ở các hộ gia đình vùng biên giới tây nam
Hình 1. 4: Tỷ lệ nghèo khác nhau giữa các nhóm dân tộc (Trang 26)
Hình 1. 5: Thành tích giáo dục theo dân tộc - (LUẬN văn THẠC sĩ) các nhân tố ảnh hưởng đến đói nghèo ở các hộ gia đình vùng biên giới tây nam
Hình 1. 5: Thành tích giáo dục theo dân tộc (Trang 27)
Bảng 1. 5: Tiếp cận dịch vụ y tế theo dân tộc - (LUẬN văn THẠC sĩ) các nhân tố ảnh hưởng đến đói nghèo ở các hộ gia đình vùng biên giới tây nam
Bảng 1. 5: Tiếp cận dịch vụ y tế theo dân tộc (Trang 28)
Bảng 2. 1: Số mẫu trong vùng nghiên cứu Tỉnh Huyện có biên - (LUẬN văn THẠC sĩ) các nhân tố ảnh hưởng đến đói nghèo ở các hộ gia đình vùng biên giới tây nam
Bảng 2. 1: Số mẫu trong vùng nghiên cứu Tỉnh Huyện có biên (Trang 31)
Bảng 2. 2: Các biến số của mô hình các nhân tố ảnh hưởng đến chi tiêu - (LUẬN văn THẠC sĩ) các nhân tố ảnh hưởng đến đói nghèo ở các hộ gia đình vùng biên giới tây nam
Bảng 2. 2: Các biến số của mô hình các nhân tố ảnh hưởng đến chi tiêu (Trang 34)
Bảng 2. 3: Các biến số của mô hình các nhân tố ảnh hưởng đến nghèo - (LUẬN văn THẠC sĩ) các nhân tố ảnh hưởng đến đói nghèo ở các hộ gia đình vùng biên giới tây nam
Bảng 2. 3: Các biến số của mô hình các nhân tố ảnh hưởng đến nghèo (Trang 36)
Hình 3. 1 : Đường cong Lorenz khu vực nông thôn vùng Đồng bằng Sông Cửu Long  và vùng biên giới Tây Nam - (LUẬN văn THẠC sĩ) các nhân tố ảnh hưởng đến đói nghèo ở các hộ gia đình vùng biên giới tây nam
Hình 3. 1 : Đường cong Lorenz khu vực nông thôn vùng Đồng bằng Sông Cửu Long và vùng biên giới Tây Nam (Trang 38)
Bảng 3. 3: Nghèo và việc làm nhận lương, nhận công của chủ hộ - (LUẬN văn THẠC sĩ) các nhân tố ảnh hưởng đến đói nghèo ở các hộ gia đình vùng biên giới tây nam
Bảng 3. 3: Nghèo và việc làm nhận lương, nhận công của chủ hộ (Trang 39)

TRÍCH ĐOẠN

TÀI LIỆU CÙNG NGƯỜI DÙNG

TÀI LIỆU LIÊN QUAN