Sự cần thiết của đề tài
Ngân hàng là huyết mạch của nền kinh tế, đóng vai trò trung gian trong việc phân bổ vốn, từ đó thúc đẩy sự phát triển kinh tế và tạo ra lợi nhuận cho chính mình Ngân hàng thương mại (NHTM) cũng hỗ trợ Ngân hàng Nhà nước (NHNN) trong việc điều hành chính sách tiền tệ quốc gia Để nền kinh tế phát triển bền vững, cần có một thị trường tài chính vững chắc và hệ thống NHTM hoạt động ổn định, hiệu quả Tuy nhiên, trong những năm gần đây, nền kinh tế Việt Nam gặp nhiều khó khăn như tăng trưởng kinh tế thấp, lạm phát cao và nợ xấu gia tăng Sự gia tăng nợ xấu đã làm tắc nghẽn dòng vốn, ảnh hưởng nghiêm trọng đến sự phát triển kinh tế, khiến các chuyên gia lo ngại về khả năng hệ thống ngân hàng rơi vào tình trạng khó khăn, thậm chí là bờ vực phá sản.
Hoạt động tín dụng là nguồn thu chủ yếu của các ngân hàng thương mại (NHTM) tại Việt Nam, tuy nhiên nợ xấu là vấn đề không thể tránh khỏi trong quá trình cho vay Việc kiểm soát nợ xấu ở mức cho phép đang là một thách thức lớn Mặc dù Chính phủ và các ngành đã nỗ lực xử lý nợ xấu với những kết quả ban đầu đáng khích lệ, nhưng vẫn còn nhiều khó khăn Tỷ lệ nợ xấu có giảm, nhưng con số tuyệt đối lại tăng lên, và các báo cáo về nợ xấu thường không thống nhất, gây ra sự hoài nghi về thực trạng và biện pháp xử lý nợ xấu.
Sự ra đời của VAMC đánh dấu bước ngoặt quan trọng trong việc xử lý nợ xấu, cho phép các ngân hàng thương mại (NHTM) bán nợ xấu cho VAMC để cải thiện bảng cân đối kế toán Tuy nhiên, quy trình này không hề đơn giản, vì VAMC chỉ mua những khoản nợ xấu được chọn lọc kỹ lưỡng Khi bán nợ xấu thông qua trái phiếu đặc biệt, NHTM phải trích lập dự phòng rủi ro 20% mỗi năm, làm tăng chi phí Nếu sau năm năm VAMC không xử lý được nợ xấu, NHTM sẽ phải nhận lại khoản nợ đó Do đó, việc tự ý thức và chủ động trong việc quản lý nợ xấu là vô cùng cần thiết đối với mỗi NHTM Hiện tại và trong tương lai, nợ xấu vẫn là vấn đề đáng quan tâm, và các nhà quản lý cần nhận diện nguyên nhân cũng như các yếu tố ảnh hưởng đến nợ xấu để có biện pháp phòng ngừa hiệu quả.
Việc phân tích các nhân tố ảnh hưởng đến nợ xấu tại các ngân hàng thương mại cổ phần niêm yết ở Việt Nam là rất cần thiết Điều này giúp hiểu rõ hơn về tình hình nợ xấu và tìm ra các giải pháp hiệu quả để quản lý và giảm thiểu rủi ro tài chính trong ngành ngân hàng.
Mục tiêu nghiên cứu
Trong giai đoạn 2006 - 2015, các nhân tố kinh tế vĩ mô và đặc thù ngành ngân hàng đã có tác động đáng kể đến nợ xấu tại các ngân hàng thương mại cổ phần niêm yết ở Việt Nam Việc xem xét các yếu tố này sẽ giúp nhận diện những xu hướng ảnh hưởng đến tình hình nợ xấu, từ đó đưa ra các khuyến nghị hiệu quả nhằm giảm thiểu tình trạng nợ xấu trong hệ thống ngân hàng.
Câu hỏi nghiên cứu
Trong giai đoạn 2006 - 2015, nợ xấu tại các ngân hàng thương mại cổ phần niêm yết ở Việt Nam chịu ảnh hưởng mạnh mẽ từ các nhân tố kinh tế vĩ mô như tăng trưởng kinh tế, lãi suất, tỷ giá hối đoái và chính sách tín dụng Sự biến động của các yếu tố này có thể dẫn đến sự gia tăng hoặc giảm thiểu nợ xấu, ảnh hưởng đến hiệu quả hoạt động và khả năng cạnh tranh của ngân hàng Việc phân tích các đặc thù ngành ngân hàng cũng như các yếu tố bên ngoài sẽ giúp hiểu rõ hơn về nguyên nhân và hệ quả của nợ xấu trong bối cảnh kinh tế Việt Nam.
Trong các yếu tố trên thì nợ xấu chịu tác động mạnh bởi yếu tố nào?
Phương pháp nghiên cứu
Đề tài nghiên cứu sử dụng phương pháp định lượng để làm rõ tình hình nợ xấu tại các ngân hàng thương mại cổ phần (NHTMCP) niêm yết Tác giả phân tích thực trạng nợ xấu trong thời gian qua, xác định các nguyên nhân và nhân tố có khả năng ảnh hưởng đến nợ xấu Để kiểm tra tác động của những nhân tố này, tác giả đã sử dụng phần mềm Eview nhằm xác định mối quan hệ giữa chúng và nợ xấu của các NHTMCP niêm yết.
1.6 Kết cấu của luận văn
Luận vănđược bố cục làm 5 chương như sau:
Chương 1: Giới thiệu đề tài nghiên cứu
Chương 2: Tổng quan về nợ xấu và các nhân tố tác động đến nợ xấu tại các
NHTMCP niêm yết ở Việt Nam
Chương 3: Thực trạng về tình hình hoạt động kinh doanh và nợ xấu ở các
NHTMCP niêm yết ở Việt Nam
Chương 4: Phương pháp, dữ liệu và kết quả nghiên cứu
Chương 5:Giải pháp, kiến nghị nhằm hạn chế và xử lý nợ xấu tại các NHTMCP niêm yết ở Việt Nam
Đề tài nghiên cứu này tập trung vào chín ngân hàng thương mại cổ phần niêm yết tại Việt Nam, sử dụng dữ liệu cập nhật và có tính chính xác cao Tác giả đã thu thập số liệu trong suốt mười năm, với thông tin được cập nhật đến cuối năm 2015, nhằm đảm bảo tính khoa học và độ tin cậy của nghiên cứu.
Tại Việt Nam, nhiều nghiên cứu đã được thực hiện về nợ xấu, đặc biệt là các luận văn thạc sĩ từ Đại học Kinh tế Tp.HCM Tuy nhiên, một số nghiên cứu chỉ tập trung vào nợ xấu của một ngân hàng cụ thể hoặc toàn hệ thống ngân hàng mà chưa thực hiện kiểm định giả thuyết thống kê Một số nghiên cứu khác có sử dụng kiểm định giả thuyết nhưng số biến giải thích trong mô hình còn hạn chế Do đó, tác giả quyết định bổ sung thêm các biến giải thích vào mô hình để kiểm tra ảnh hưởng của chúng đối với nợ xấu.
CHƯƠNG 2: TỔNG QUAN VỀ NỢ XẤU VÀ MỘT SỐ NHÂN TỐ TÁC ĐỘNG ĐẾN NỢ XẤU TẠI CÁC NHTMCP NIÊM YẾT Ở VIỆT NAM
Để xác định khái niệm chính xác liên quan đến vấn đề nghiên cứu, tác giả đã tham khảo các tài liệu nghiên cứu trước đó, từ đó xây dựng cơ sở lý thuyết cho vấn đề cần khai thác.
Thông qua việc nghiên cứu tài liệu, tác giả sẽ tổng hợp quan điểm về nợ xấu, phân tích tác động của nó, đồng thời xem xét các yếu tố vĩ mô và đặc thù ngành ngân hàng ảnh hưởng đến nợ xấu.
2.1 Cơ sở lý luận về nợ xấu
Theo Uỷ ban Basel về Giám sát Ngân hàng (BCBS)
BCBS không định nghĩa rõ ràng về nợ xấu, nhưng trong các hướng dẫn về quản lý rủi ro tín dụng, họ xác định rằng một khoản nợ được coi là không có khả năng hoàn trả khi xảy ra một trong hai điều kiện sau: i) Ngân hàng nhận thấy người vay không có khả năng trả nợ đầy đủ mà chưa thực hiện biện pháp thu hồi nào; ii) Người vay đã quá hạn thanh toán trên 90 ngày.
BCBS nhấn mạnh rằng các khoản vay bị giảm giá trị sẽ xảy ra khi không thể thu hồi các khoản thanh toán từ người vay Giá trị tổn thất sẽ được ghi nhận bằng cách giảm trừ giá trị khoản vay thông qua một khoản dự phòng, và điều này sẽ được phản ánh trên báo cáo thu nhập của ngân hàng Do đó, lãi suất của các khoản vay này sẽ không được cộng dồn mà chỉ xuất hiện dưới dạng tiền mặt thực tế nhận được.
Theo Tổ chức tiền tệ thế giới (IMF)
Theo IMF, nợ xấu được định nghĩa là các khoản nợ quá hạn trả lãi hoặc gốc từ 90 ngày trở lên, bao gồm cả trường hợp lãi suất quá hạn đã được vốn hóa, cơ cấu lại hoặc trì hoãn Ngoài ra, các khoản thanh toán đến hạn dưới 90 ngày nhưng có dấu hiệu rõ ràng cho thấy người vay không thể hoàn trả nợ cũng được xem là nợ xấu Khi một khoản vay được phân loại là nợ xấu, nó cùng với bất kỳ khoản vay thay thế nào sẽ tiếp tục nằm trong danh mục nợ xấu cho đến khi được xóa nợ hoặc thu hồi đầy đủ cả lãi và gốc.
Theo quan điểm của Filip(2015)
Nợ xấu được xác định khi quan hệ tín dụng trở nên biến chất, không mong đợi và gây hại Nó có thể ngăn cản các nguồn cho vay hợp pháp hoặc gây tổn thất cho ngân hàng Nợ xấu thường xuất hiện khi các bên tham gia trong quan hệ tín dụng có hiệu suất quản lý nguồn tài chính kém.
Một số quan niệm về nợ xấu khác
Nợ xấu được định nghĩa theo nhiều quan niệm khác nhau trong các nghiên cứu Louzis et al (2012) cho rằng nợ xấu là những khoản nợ đã chậm thanh toán quá 90 ngày, trong khi Kouser và Saba (2012) xem nợ xấu như một tình huống có khả năng mất vốn hoặc chắc chắn sẽ mất vốn.
Tác giả nhận thấy rằng có những điểm chung nhất định trong các quan điểm về khái niệm “nợ xấu”, mà cũng được xác định trong giáo trình “Quản trị ngân hàng thương mại” của Trường Đại học Kinh tế Tp HCM Dựa trên những điểm chung này, tác giả chọn khái niệm “nợ xấu” cho bài nghiên cứu của mình, định nghĩa rằng “nợ xấu bao gồm những khoản nợ quá hạn không được Chính phủ xử lý rủi ro” và “nợ xấu (Bad debt) là những khoản nợ quá hạn từ 91 ngày trở lên mà không đòi được và không được tái cơ cấu”.
2.1.2 Đặc trưng, phân loại nợ xấu
2.1.2.1 Đặc trưng của nợ xấu
- Khách hàng không thực hiện nghĩa vụ trả nợ với ngân hàng khi các cam kết này đã đến hạn
- Tình hình tài chính của khách hàng đang và có chiều hướng xấu dẫn đến có khả năng ngân hàng không thu hồi được cả vốn lẫn lãi
Tài sản đảm bảo, bao gồm thế chấp, cầm cố và bảo lãnh, thường được đánh giá có giá trị phát mãi không đủ để trang trải nợ gốc và lãi (Trần Huy Hoàng, 2011, trang 214).
Nếu căn cứ vào TSĐB, nợ xấu của ngân hàng có thể chia thành các nhóm như sau:
Nợ xấu có tài sản đảm bảo bao gồm các loại nợ tồn đọng ngân hàng đã thu giữ tài sản thông qua hình thức gán hoặc xiết nợ, nợ tồn đọng chưa thu giữ tài sản liên quan đến vụ án đang chờ xét xử, và nợ có tài sản đảm bảo đã quá hạn trên 365 ngày.
Nợ xấu không có tài sản đảm bảo và không có đối tượng để thu bao gồm: nợ xóa do thiên tai chưa có nguồn và còn hạch toán nội bảng; nợ khoanh đối với những doanh nghiệp đã giải thể hoặc phá sản; nợ khoanh liên quan đến các vụ án; và nợ khoanh do thiên tai của hộ sản xuất.
Nợ xấu không có tài sản đảm bảo vẫn tồn tại và hoạt động, bao gồm nợ khoanh từ các doanh nghiệp khó thu hồi và nợ tín dụng chính sách còn khả năng thu hồi.
Ngoài ra, còn có nhóm nợ là những khoản nợ không thu được nhưng không đủ điều kiện để khoanh nợ, xóa nợ.(Trần Huy Hoàng, 2011, trang 214)