TÍNH CẤP THIẾT CỦA ĐỀ TÀI
Đối với nhà đầu tư, việc hiểu rõ tình hình kinh doanh của công ty là yếu tố quyết định cho quyết định đầu tư Thị trường chứng khoán đóng vai trò quan trọng trong việc huy động vốn, và để tham gia, các công ty phải tuân thủ nhiều điều kiện khắt khe, đặc biệt là công bố thông tin cho Ủy ban chứng khoán nhà nước và các bên liên quan Để thúc đẩy sự minh bạch và tạo niềm tin cho nhà đầu tư, Bộ Tài chính đã ban hành các thông tư hướng dẫn công bố thông tin, hiện đang áp dụng theo thông tư số 52/2012/TT–BTC có hiệu lực từ ngày 01/06/2012.
Theo báo cáo thường niên năm 2014 của HNX và HOSE, số lượng công ty đại chúng niêm yết lần lượt là 365 và 305, với giá trị vốn hóa đạt 136.017,41 tỷ đồng và 985.258 tỷ đồng vào ngày 31/12/2014 Ba nhóm ngành chủ yếu là công nghiệp, xây dựng và tài chính, chiếm khoảng 67% giá trị vốn hóa của thị trường, cho thấy sự quan trọng của các ngành này Nghiên cứu của Meek và cộng sự (1995) cùng với Chau và Gray (2002) chỉ ra sự khác biệt trong công bố thông tin giữa các nhóm ngành Tại Việt Nam, có nhiều nghiên cứu về công bố thông tin ở các công ty niêm yết, chủ yếu tập trung vào các công ty phi tài chính và ngân hàng thương mại, nhưng chưa có nghiên cứu đo lường nhân tố tác động đến mức độ công bố thông tin tự nguyện giữa các nhóm ngành Các nhân tố này có thể ảnh hưởng khác nhau đến mức độ công bố thông tin và cần có giải pháp nâng cao sự minh bạch tài chính phù hợp với từng nhóm ngành.
Tác giả nghiên cứu các nhân tố ảnh hưởng đến mức độ công bố thông tin tự nguyện của các công ty niêm yết trên thị trường chứng khoán Việt Nam, tập trung vào ba nhóm ngành chính: công nghiệp, xây dựng và tài chính.
MỤC TIÊU CỦA LUẬN VĂN
Mục tiêu tổng quát của nghiên cứu này là khám phá các yếu tố ảnh hưởng đến mức độ công bố thông tin tự nguyện của các công ty đại chúng niêm yết tại Sở GDCK Hà Nội và Sở GDCK Thành phố Hồ Chí Minh, tập trung vào ba nhóm ngành: công nghiệp, xây dựng và tài chính Từ mục tiêu tổng quát, nghiên cứu sẽ xác định ba mục tiêu cụ thể nhằm làm rõ các yếu tố này.
Mục tiêu chính của nghiên cứu là xác định các yếu tố ảnh hưởng đến mức độ công bố thông tin tự nguyện của các công ty Nghiên cứu sẽ được áp dụng thực nghiệm cho ba nhóm ngành chủ yếu: công nghiệp, xây dựng và tài chính.
Mục tiêu thứ hai là thực hiện nghiên cứu và đánh giá kết quả của mô hình, đồng thời phân tích và so sánh kết quả giữa ba nhóm ngành với mô hình kiểm định tương tự Kết quả này cũng sẽ được so sánh với một số nghiên cứu trước đó để đưa ra những nhận định và kết luận chính xác hơn.
Mục tiêu thứ ba của đề tài là đưa ra những kiến nghị nhằm nâng cao mức độ công bố thông tin tự nguyện của các công ty đại chúng niêm yết trên Sở GDCK, dựa vào kết quả đạt được và nhận định vấn đề ở từng nhóm ngành.
PHẠM VI VÀ ĐỐI TƯỢNG NGHIÊN CỨU
Là các công ty đại chúng niêm yết tại Sở giao dịch chứng khoán (GDCK) Hà nội và
Sở GDCK Thành phố Hồ Chí Minh được chia thành ba nhóm ngành chính: công nghiệp, xây dựng và tài chính Các công ty niêm yết trong ba nhóm ngành này được phân loại theo nhóm ngành cấp I của Hệ thống phân ngành kinh tế tại cả Sở GDCK Hà Nội và Thành phố Hồ Chí Minh.
Dữ liệu thu thập trên báo cáo thường niên năm 2014 Đối tượng nghiên cứu:
Bài viết này tìm hiểu các yếu tố ảnh hưởng đến mức độ công bố thông tin tự nguyện trong báo cáo thường niên của công ty, dựa trên lý thuyết và các nghiên cứu thực nghiệm trong và ngoài nước Các biến độc lập được đưa vào mô hình gồm: quy mô công ty, đòn bẩy nợ, lợi nhuận, tỷ lệ sở hữu của cổ đông lớn, tỷ lệ sở hữu của Nhà nước, tỷ lệ sở hữu nhà đầu tư nước ngoài, tỷ lệ thành viên hội đồng quản trị độc lập, và việc tách biệt vai trò giữa chủ tịch hội đồng quản trị và giám đốc Trong đó, hai biến tỷ lệ thành viên hội đồng quản trị độc lập và tách biệt vai trò chủ tịch hội đồng quản trị và giám đốc được xem là các biến kiểm soát.
Tương ứng với 08 biến độc lập, tác giả đưa ra 08 giả thuyết nghiên cứu
Mức độ công bố thông tin tự nguyện của các công ty được đo lường thông qua danh mục công bố tự nguyện do Meek (1995) phát triển và được Chau và Gray (2002) sửa đổi, loại trừ các mục công bố bắt buộc theo thông tư số 52/2012/TT-BTC của Bộ Tài chính Dữ liệu thu thập từ các công ty đại chúng niêm yết tại hai Sở GDCK Việt Nam được trình bày trong Phụ lục 07, phân chia theo ba nhóm ngành công nghiệp, bao gồm xây dựng và tài chính, dựa trên báo cáo thường niên của các công ty.
Mức độ công bố thông tin tự nguyện trên báo cáo thường niên của các công ty niêm yết trên Sở GDCK chịu ảnh hưởng bởi nhiều nhân tố khác nhau Nghiên cứu tập trung vào ba nhóm ngành chính: công nghiệp, xây dựng và tài chính, nhằm phân tích sự khác biệt trong cách thức công bố thông tin Các yếu tố như quy định pháp lý, yêu cầu từ cổ đông, và xu hướng thị trường có thể tác động đến mức độ minh bạch và đầy đủ của thông tin được công bố Việc hiểu rõ những ảnh hưởng này sẽ giúp các công ty cải thiện chiến lược công bố thông tin, từ đó nâng cao uy tín và niềm tin từ nhà đầu tư.
PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU
Đề tài áp dụng phương pháp nghiên cứu định tính kết hợp với định lượng, nhằm đạt được các mục tiêu đề ra Cụ thể, mỗi mục tiêu sẽ được sử dụng một phương pháp nghiên cứu khác nhau để đảm bảo tính hiệu quả và độ chính xác trong quá trình phân tích.
Mục tiêu chính của nghiên cứu là xác định các yếu tố ảnh hưởng đến mức độ công bố thông tin tự nguyện của công ty trong ba nhóm ngành: công nghiệp, xây dựng và tài chính Để đạt được điều này, tác giả áp dụng phương pháp tiếp cận tổng quát, phân tích sự tương đồng và khác biệt giữa các nghiên cứu thực nghiệm tại Việt Nam và quốc tế Qua đó, tác giả kết hợp các lập luận để xây dựng các giả thuyết nghiên cứu và xác định phương pháp đo lường biến độc lập Một bảng tổng hợp các biến và giả thuyết cần kiểm định trong mô hình cũng được lập ra, đảm bảo mô hình nghiên cứu được áp dụng đồng thời cho cả ba nhóm ngành.
Biến phụ thuộc là chỉ số công bố thông tin tự nguyện, được tính toán dựa trên danh mục thông tin theo mô hình công bố tự nguyện của Meek (1995) và phát triển bởi Chau và Gray (2002) Danh mục này được điều chỉnh bằng cách loại trừ các mục thông tin bắt buộc theo thông tư số 52/2012/TT-BTC của Bộ Tài chính về công bố thông tin trên thị trường chứng khoán Từ đó, tác giả xây dựng danh mục tự nguyện công bố và áp dụng tính điểm cho từng công ty.
Mục tiêu thứ hai của nghiên cứu là đánh giá kết quả đạt được từ mô hình và phân tích so sánh giữa ba nhóm ngành với các mô hình kiểm định tương tự Để thực hiện điều này, phương pháp định lượng được áp dụng, sử dụng hồi quy bội và công cụ SPSS để kiểm định giả thuyết nghiên cứu Kết quả ngành sẽ được so sánh với các nghiên cứu trước đó trong và ngoài nước để đưa ra những nhận định chính xác.
Mục tiêu thứ ba của bài viết là đưa ra những kiến nghị nhằm nâng cao mức độ công bố thông tin tự nguyện của các công ty đại chúng niêm yết trên Sở GDCK, dựa vào kết quả đạt được và nhận định vấn đề ở từng nhóm ngành Tác giả đã thu thập số liệu và phân tích kết quả để đưa ra những khuyến nghị phù hợp với môi trường thực tế.
CÁC ĐÓNG GÓP CỦA LUẬN VĂN
Về mặt lý thuyết, đề tài tóm tắt một số nghiên cứu trước đã được thực hiện ở trong nước và nước ngoài
Nghiên cứu này phân tích tác động của các yếu tố đến mức độ công bố thông tin tự nguyện trong báo cáo thường niên của ba nhóm ngành: công nghiệp, xây dựng và tài chính Kết quả cho thấy sự khác biệt rõ rệt giữa nhóm ngành phi tài chính và tài chính, đồng thời so sánh với các nghiên cứu trước đây cả trong và ngoài nước.
Việc công bố thông tin tự nguyện giúp doanh nghiệp nâng cao chất lượng và số lượng thông tin, từ đó thu hút nguồn đầu tư và tạo dựng hình ảnh tích cực với nhà đầu tư, cơ quan nhà nước và các bên liên quan Đối với nhà đầu tư, thông tin tự nguyện giúp họ hiểu rõ hơn và đưa ra quyết định chính xác Đồng thời, đề tài cũng đưa ra các kiến nghị cho cơ quan quản lý nhằm cải thiện mức độ công bố thông tin tự nguyện, góp phần nâng cao tính minh bạch trên thị trường chứng khoán Việt Nam.
KẾT CẤU CỦA LUẬN VĂN
Ngoài phần mở đầu, đề tài bao gồm 05 chương theo trình tự từ lý thuyết đến thực nghiệm
Chương 1 tổng quan về tình hình nghiên cứu đã được thực hiện trong nước và ngoài nước có liên quan
Chương 2 trình bày khái quát về cơ sở lý thuyết
Chương 3 của nghiên cứu trình bày các phương pháp nghiên cứu bao gồm xác định phương pháp tiếp cận, lựa chọn mô hình, đo lường biến thể thể hiện mức độ CBTT, thu thập dữ liệu và chọn mẫu nghiên cứu.
Chương 4 trình bày kết quả nghiên cứu từ ba nhóm ngành: công nghiệp, xây dựng và tài chính Bài viết thảo luận và so sánh các kết quả đạt được trong từng nhóm ngành, đồng thời đối chiếu với một số nghiên cứu trước đây cả trong và ngoài nước.
Chương 5 tổng kết nội dung nghiên cứu và đưa ra các kiến nghị cho các bên liên quan Bên cạnh đó, chương này cũng nêu rõ những hạn chế của nghiên cứu và đề xuất hướng đi cho các nghiên cứu trong tương lai.
TỔNG QUAN CÁC NGHIÊN CỨU TRƯỚC ĐÂY
TỔNG QUAN CÁC NGHIÊN CỨU TRƯỚC CÓ LIÊN QUAN
1.1.1 TỔNG QUAN TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU NƯỚC NGOÀI
Nghiên cứu của Meek và cộng sự (1995) về công bố thông tin tự nguyện ở các công ty đa quốc gia tại Mỹ, Anh và châu Âu đã chỉ ra rằng có nhiều yếu tố ảnh hưởng đến mức độ công bố này, bao gồm quy mô công ty, vùng địa lý, tình trạng niêm yết và loại ngành công nghiệp Danh mục công bố thông tin tự nguyện được xây dựng dựa trên ba khía cạnh: thông tin chiến lược, tài chính và phi tài chính Kết quả cho thấy ngành kim loại, vật liệu xây dựng và ngành dầu, hóa chất, khai thác mỏ tại Mỹ có mức công bố cao hơn, trong khi ngành tiêu dùng và dịch vụ tại Anh lại nổi bật hơn Mặc dù nghiên cứu đã mang lại những kết quả quan trọng, nhưng mức độ giải thích của mô hình còn hạn chế, với R² chỉ đạt từ 14 đến 46%, cho thấy cần bổ sung thêm các biến giải thích liên quan đến cổ đông.
Meek và cộng sự (1995) đã áp dụng mô hình hồi quy đa biến để phân tích 6 nhân tố ảnh hưởng đến mức độ công bố thông tin tự nguyện trong từng nhóm thông tin, cho thấy phương pháp này phù hợp với mô hình nghiên cứu Trong phần trình bày kết quả, tác giả đã cung cấp thông tin chi tiết về mức độ công bố thông tin tự nguyện theo từng nhóm ngành và vùng khác nhau, bao gồm thống kê kích thước mẫu, các chỉ số R² và mức ý nghĩa của từng nhóm ngành liên quan.
Một nghiên cứu thực nghiệm tại nước Châu Á, là nghiên cứu của Chau và Gray
Bài viết "Ownership structure and corporate voluntary disclosure in Hong Kong and Singapore" (2002) nghiên cứu mối liên hệ giữa cấu trúc sở hữu vốn và công bố thông tin tự nguyện tại Hồng Kông và Singapore Tác giả đã xây dựng chỉ số công bố thông tin tự nguyện dựa trên danh mục phát triển bởi Meek, đồng thời bổ sung một số mục cụ thể hơn Danh mục đo lường mức độ công bố thông tin tự nguyện được trình bày chi tiết trong phụ lục của nghiên cứu Theo quan điểm của tác giả, các mục bổ sung này là phù hợp và có thể được công ty công bố để thể hiện rõ ràng tình hình của mình đối với người sử dụng thông tin trên báo cáo.
Tác giả áp dụng phương pháp định lượng và mô hình hồi quy để kiểm tra mối quan hệ giữa cấu trúc vốn và mức độ công bố thông tin tự nguyện Các biến độc lập bao gồm quy mô công ty, đòn bẩy nợ, số lượng thành viên kiểm toán, cấu trúc sở hữu, lợi nhuận và mức độ đa dạng ngành nghề Kích thước mẫu nghiên cứu là 60 công ty niêm yết tại Hồng Kông và 62 công ty tại Singapore Mô hình hồi quy không gặp hiện tượng đa cộng tuyến, với yêu cầu chỉ số VIF nhỏ hơn 10.
Nghiên cứu cho thấy rằng cấu trúc sở hữu với yếu tố bên ngoài và quy mô đa dạng có tác động tích cực đến mức độ công bố thông tin tự nguyện, trong khi các công ty có sở hữu nội bộ và gia đình lại làm giảm chỉ số này Tác giả cũng xem xét bốn ngành nghề: thực phẩm và nước uống, vận chuyển và giao thông, thiết bị điện tử và công nghệ, cùng vật liệu xây dựng Mặc dù không phân tích sâu về tác động của từng ngành, kết quả cho thấy sự khác biệt trong mức độ công bố thông tin tự nguyện giữa các ngành công nghiệp Tuy nhiên, mức độ phù hợp của mô hình vẫn còn thấp, với chỉ số R² ở Hồng Kông chỉ đạt từ 22,5% đến 25%, trong khi ở Singapore từ 42,6% đến 64,9%.
Một nghiên cứu khác có liên quan của Xiao và Yuang (2007) với đề tài là
Nghiên cứu "Cấu trúc sở hữu, thành phần hội đồng quản trị và công bố thông tin tự nguyện: Bằng chứng từ các công ty niêm yết tại Trung Quốc" đã khảo sát 559 công ty niêm yết năm 2002, sử dụng chỉ số đo lường mức độ công bố thông tin tự nguyện tương tự như các nghiên cứu trước đó Tác giả đã phát triển các giả thuyết dựa trên các nghiên cứu trước và kiểm định các biến như sở hữu của cổ đông lớn, sở hữu của nhà quản trị, sở hữu của nhà nước, sở hữu cá nhân, tình trạng niêm yết/sở hữu cổ đông nước ngoài, thành viên hội đồng quản trị độc lập, và việc tách biệt vai trò của chủ tịch hội đồng quản trị và tổng giám đốc Kết quả cho thấy sở hữu cổ đông lớn và tình trạng niêm yết/sở hữu cổ đông nước ngoài có mối liên hệ đáng kể với công bố thông tin, trong khi các biến còn lại có mối liên hệ thấp hoặc không có.
Mô hình hồi quy theo phương pháp bình phương bé nhất OLS được sử dụng để kiểm tra mối quan hệ giữa các biến, phù hợp với nghiên cứu định lượng trước đó Kiểm định đa cộng tuyến cho thấy VIF tối đa là 1.351, thấp hơn ngưỡng 10, cho thấy tính tin cậy cao Tuy nhiên, mức R² chỉ đạt 9,7%, cho thấy còn nhiều yếu tố chưa được xem xét trong mô hình Nghiên cứu cũng gặp hạn chế khi chỉ thực hiện trên các công ty niêm yết tại Shanghai, đại diện cho 45,7% tổng số công ty niêm yết trên thị trường chứng khoán Trung Quốc.
1.1.2 TỔNG QUAN TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU TRONG NƯỚC
Trong bối cảnh thị trường chứng khoán Việt Nam phát triển và nhu cầu thông tin cho quyết định đầu tư ngày càng cao, nghiên cứu về công bố thông tin (CBTT) chủ yếu tập trung vào các công ty đại chúng niêm yết Hầu hết các nghiên cứu hiện tại sử dụng phương pháp đo lường chỉ số công bố thông tin để đánh giá các yếu tố ảnh hưởng đến chất lượng CBTT và đề xuất giải pháp cải thiện Đặc biệt, công bố thông tin tự nguyện đang trở thành một lĩnh vực quan trọng, khi mà thông tin bắt buộc chưa đáp ứng đủ nhu cầu của người sử dụng và chưa tạo dựng được niềm tin giữa người sở hữu và người quản lý Tuy nhiên, nghiên cứu về CBTT tự nguyện vẫn còn hạn chế tại Việt Nam, và tác giả đã chỉ ra một số nghiên cứu liên quan trong lĩnh vực này.
Lê Quang Bình (2012) đã tiến hành nghiên cứu thực nghiệm về công bố thông tin tự nguyện của các công ty niêm yết tại Việt Nam, xây dựng bảng danh mục thông tin dựa trên Luật doanh nghiệp 2005 và Luật chứng khoán 2006 Nghiên cứu khảo sát ý kiến của 92 nhà phân tích tài chính và 106 nhà quản lý tài chính, đưa ra hai kết quả chính: mức độ công bố thông tin của 199 công ty và tầm quan trọng của thông tin từ hai góc nhìn Kết quả cho thấy mức độ công bố thông tin về nguồn nhân lực tại Việt Nam còn thấp, tương tự như các nước phát triển như Nhật Bản và Ireland Hơn nữa, nhà phân tích tài chính và nhà quản lý tài chính có sự đồng thuận về tầm quan trọng của các khoản mục thông tin Nghiên cứu khuyến nghị các công ty cần cải thiện công bố thông tin tự nguyện để tạo niềm tin cho nhà đầu tư, đồng thời đề xuất hướng nghiên cứu về các nhân tố tác động đến mức độ công bố thông tin ở cả nước phát triển và đang phát triển, góp phần vào lĩnh vực công bố thông tin hiện nay.
Nguyễn Thị Thu Hảo (2014) đã thực hiện nghiên cứu về các yếu tố ảnh hưởng đến mức độ công bố thông tin tự nguyện của các công ty niêm yết trên sàn giao dịch chứng khoán Thành phố Hồ Chí Minh Để xác định chỉ số công bố thông tin tự nguyện, tác giả đã sử dụng danh mục tự tổng hợp dựa trên các nghiên cứu từ các quốc gia đang phát triển như Jordan, Nam Phi và Malaysia Tuy nhiên, tác giả không nêu rõ phương pháp tổng hợp để đạt được 69 mục thông tin tự nguyện, mà chỉ sử dụng để đối chiếu với thông tư 52/2012/TT-BTC ngày 05/04/2012.
Bộ Tài chính đã ban hành quy định về công bố thông tin trên thị trường chứng khoán Nghiên cứu khảo sát các kế toán viên, kiểm toán viên, nhân viên ngân hàng và nhà đầu tư tài chính nhằm đánh giá mức độ quan trọng của thông tin, loại trừ những mục có mức độ quan trọng dưới 3 theo thang đo Likert Tuy nhiên, việc này có thể chưa phù hợp vì đối tượng khảo sát chỉ chú trọng vào một số thông tin nhất định, trong khi danh mục công bố thông tin tự nguyện hướng đến nhiều đối tượng khác nhau như cơ quan nhà nước, chủ nợ, nhà đầu tư tiềm năng và người lao động Kết quả nghiên cứu cho thấy quy mô, loại hình sở hữu và lợi nhuận có tác động tích cực đến mức độ công bố thông tin tự nguyện, trong khi các yếu tố như công ty kiểm toán, đòn bẩy tài chính, quy mô hội đồng quản trị và tỷ lệ thành viên không điều hành không ảnh hưởng đến mức độ này.
Phương pháp kiểm định mô hình hồi quy đa biến được sử dụng để xác định mối liên hệ giữa các biến độc lập và biến phụ thuộc Mức ý nghĩa R² đạt 22% cho thấy còn nhiều yếu tố khác ảnh hưởng đến công bố thông tin tự nguyện chưa được đưa vào mô hình nghiên cứu Tác giả đề xuất hướng nghiên cứu tương lai khi số lượng công ty niêm yết tăng lên, cho phép xem xét các nhân tố ảnh hưởng đến mức độ công bố thông tin trong nhiều ngành khác nhau Đề tài tập trung vào ba nhóm ngành công nghiệp: xây dựng, tài chính và một số ngành khác, áp dụng phương pháp kiểm định mô hình hồi quy đa biến tương tự như các tác giả trước đó.
Nghiên cứu của tác giả Huỳnh Thị Vân tập trung vào mức độ công bố thông tin kế toán của các doanh nghiệp ngành xây dựng niêm yết tại Sàn giao dịch chứng khoán Hà Nội Bài viết phân tích tầm quan trọng của việc minh bạch thông tin tài chính trong ngành xây dựng, đồng thời đánh giá các yếu tố ảnh hưởng đến mức độ công bố thông tin kế toán Kết quả nghiên cứu cung cấp cái nhìn sâu sắc về thực trạng công bố thông tin và đề xuất giải pháp nâng cao tính minh bạch cho các doanh nghiệp trong lĩnh vực này.
Mức độ công bố thông tin được đánh giá theo hướng dẫn của thông tư số 52/2012/TT-BTC, dẫn đến khả năng thiếu sót trong việc công bố thông tin kế toán Để có một cái nhìn đầy đủ hơn, cần kết hợp các chuẩn mực kế toán vào việc chấm điểm mức độ công bố thông tin của doanh nghiệp Tác giả đã xem xét một số biến độc lập như quy mô công ty, đòn bẩy, và chủ thể kiểm toán liên quan đến quản trị công ty, nhưng chưa cung cấp cơ sở lý thuyết cho các biến này Kết quả nghiên cứu chỉ ra rằng, trong ngành xây dựng, quy mô công ty là yếu tố duy nhất giải thích cho mức độ công bố thông tin.
Nghiên cứu quốc tế chỉ ra rằng ngành nghề kinh doanh có ảnh hưởng đến mức độ công bố thông tin tự nguyện (CBTT) Trong khi đó, nghiên cứu trong nước về CBTT tự nguyện còn hạn chế và chưa có nghiên cứu so sánh giữa các ngành Vì vậy, tác giả nhận định rằng cần thiết phải xác định các yếu tố ảnh hưởng và đo lường mức độ tác động của chúng đến CBTT tự nguyện.
CƠ SỞ LÝ THUYẾT
LÝ THUYẾT VỀ CÔNG BỐ THÔNG TIN TỰ NGUYỆN
2.1.1 Tổng quan về công bố thông tin tự nguyện
According to Adina P and Ion P (2008) in their study "Aspects regarding corporate mandatory and voluntary disclosure," information is crucial for the optimal functioning of capital markets High-quality, comparative, and easily understandable reports enhance investor confidence and improve market efficiency.
Theo Đặng Thị Thúy Hằng (2011), công bố thông tin kế toán của các doanh nghiệp niêm yết ở Việt Nam bao gồm toàn bộ thông tin được cung cấp qua hệ thống báo cáo tài chính trong một khoảng thời gian nhất định, bao gồm báo cáo giữa niên độ và báo cáo thường niên Thông tin công bố có thể được phân loại thành hai loại: thông tin công bố bắt buộc và thông tin công bố tự nguyện.
Thông tin công bố bắt buộc là các thông tin kế toán mà luật pháp và các quy định liên quan yêu cầu phải công khai Mỗi quốc gia có những quy định cụ thể, bao gồm Luật kinh doanh, Luật chứng khoán và các quy định của Ủy ban chứng khoán Tại Việt Nam, Thông tư 52/2012/TT-BTC, ban hành ngày 05/04/2012 bởi Bộ Tài chính, quy định rõ về các thông tin bắt buộc phải công bố khi tham gia thị trường chứng khoán.
Thông tin công bố tự nguyện không bắt buộc và khác biệt giữa các doanh nghiệp, chịu ảnh hưởng bởi văn hóa, truyền thống, và đặc điểm kinh tế, xã hội, tài chính riêng Nghiên cứu của Meek (1995) chỉ ra rằng vùng hoặc quốc gia là một trong ba yếu tố quan trọng nhất ảnh hưởng đến mức độ công bố thông tin tự nguyện tại các nước phát triển như Mỹ, Anh và châu Âu.
2.1.2 Vai trò của công bố thông tin tự nguyện
Trong môi trường kinh doanh toàn cầu cạnh tranh, các nhà quản lý cần tối đa hóa giá trị doanh nghiệp để mở rộng và phát triển công ty Việc nâng cao vị thế và niềm tin từ nhà đầu tư cùng các bên liên quan là rất quan trọng Một trong những phương pháp hiệu quả là công bố thông tin, do đó, để đáp ứng nhu cầu thông tin ngày càng tăng, công ty cần cung cấp nhiều hơn các thông tin bắt buộc từ các cơ quan có thẩm quyền.
Adina và Ion (2008) nhấn mạnh rằng việc công bố thông tin đóng vai trò quan trọng trong việc phân bổ hiệu quả nguồn lực xã hội, đồng thời giảm thiểu tình trạng thông tin bất cân xứng giữa công ty và các bên liên quan.
Dựa trên lý thuyết ủy nhiệm, sự tách bạch giữa người sở hữu và người quản lý dẫn đến thông tin bất cân xứng, khiến cho chủ sở hữu không có được thông tin chính xác về tình hình công ty như người quản lý Việc công bố thông tin tự nguyện thường là những thông tin được chọn lọc, nhằm đánh giá tình hình hoạt động hiện tại và định hướng phát triển tương lai của công ty Điều này không chỉ thu hút vốn đầu tư mà còn tạo dựng niềm tin với chủ sở hữu, nhà đầu tư và các bên liên quan khác Các nhà đầu tư cần thông tin để đánh giá thời gian và rủi ro trong dòng tiền hiện tại và tương lai, từ đó có thể hiểu rõ hơn về tình hình công ty (Meek, 1995).
CÁC NHÂN TỐ TÁC ĐỘNG ĐẾN MỨC ĐỘ CÔNG BỐ THÔNG TIN TỰ NGUYỆN
Theo nghiên cứu của Adina và Ion (2008), nhiều yếu tố ảnh hưởng đến mức độ công bố thông tin tự nguyện, bao gồm tần suất và phương pháp công bố, mục tiêu thành lập của tổ chức, quy mô công ty, tình trạng niêm yết, văn hóa tổ chức, cũng như sự phức tạp trong hoạt động kinh doanh Thêm vào đó, số lượng và loại hình các nhà sở hữu, chi phí cho việc công bố thông tin, mức độ thuận lợi trong việc công bố, cùng với mức độ cạnh tranh, thị phần và lợi nhuận của doanh nghiệp cũng đóng vai trò quan trọng.
Trong bài viết này, tác giả trình bày lý thuyết và các nghiên cứu thực nghiệm liên quan để xây dựng các giả thuyết nghiên cứu từ báo cáo thường niên Để người đọc dễ hiểu, tác giả đã lựa chọn các phương pháp đo lường cho từng nhân tố Chương 3 – Phương pháp nghiên cứu sẽ cung cấp bảng tổng hợp và tóm tắt các biến cùng với cách thức đo lường chúng.
Các giả thuyết được sử dụng kiểm định cho cả ba nhóm ngành: công nghiệp, xây dựng và tài chính
Nhiều nghiên cứu chỉ ra rằng quy mô công ty có ảnh hưởng tích cực đến mức độ công bố thông tin tự nguyện Theo lý thuyết ủy nhiệm, việc tách biệt giữa người sở hữu và người quản lý dẫn đến chi phí ủy nhiệm, bao gồm chi phí giám sát và chi phí liên kết (Jensen và Meckling, 1976) Để giảm chi phí này, các nhà quản lý cần công bố thông tin nhiều hơn, và các công ty lớn thường yêu cầu công khai thông tin cao hơn Nghiên cứu của Meek và cộng sự (1995) cho thấy quy mô công ty, vùng/quốc gia và tình trạng niêm yết quốc tế là ba yếu tố quan trọng ảnh hưởng đến công bố thông tin tự nguyện ở các nước phát triển như Mỹ, Anh và châu Âu Các công ty lớn thường phức tạp hơn và có quy mô sở hữu lớn, do đó cần công bố nhiều thông tin hơn Nghiên cứu của Fathi (2013) tại Tunisia cũng xác nhận mối quan hệ tích cực giữa quy mô công ty và mức độ công bố thông tin tự nguyện, dựa trên phân tích các công ty phi tài chính từ năm 2004 đến 2009.
Nghiên cứu của Nguyễn Thị Thu Hảo (2014) tại Việt Nam đã chỉ ra rằng trong số các công ty niêm yết trên sàn giao dịch chứng khoán Thành phố Hồ Chí Minh, quy mô công ty là yếu tố duy nhất ảnh hưởng đến việc công bố thông tin tự nguyện.
Quy mô công ty dược thường được đo lường bằng tổng tài sản Tuy nhiên, nghiên cứu của Meek và cộng sự (1995) đã sử dụng tổng doanh thu để đánh giá quy mô công ty, do ảnh hưởng của việc quy đổi tổng tài sản ở nhiều quốc gia Trong đề tài này, tác giả lựa chọn tổng tài sản để đo lường quy mô công ty, điều này phù hợp để so sánh quy mô giữa các nhóm ngành như công nghiệp, xây dựng và tài chính, đúng với mục tiêu ban đầu.
2.2.2 Tỷ số nợ trên tổng tài sản
Tác động giữa tỷ số nợ/tổng tài sản và mức độ công bố thông tin tự nguyện được nghiên cứu ở nhiều nước, tuy nhiên kết quả khác nhau
Nghiên cứu của Meek và cộng sự (1995) cho thấy không có ảnh hưởng đáng kể của một tỷ lệ nợ trên vốn chủ sở hữu đến CBTT tự nguyện
Nghiên cứu của Hossain (1995) về công bố thông tin tự nguyện của các công ty tại New Zealand trong bối cảnh thu hút vốn đầu tư cho thấy đòn bẩy nợ có ảnh hưởng đáng kể đến mức độ công bố thông tin Tương tự, nghiên cứu của Akhtaruddin và cộng sự (2009) tại Malaysia cũng khẳng định rằng quản trị công ty và đòn bẩy hoạt động có tác động tích cực đến công bố thông tin tự nguyện.
Theo nghiên cứu của Huỷnh Thị Vân (2013) về 51 công ty xây dựng niêm yết trên sàn giao dịch chứng khoán Hà Nội, đòn bẩy nợ có ảnh hưởng tích cực đến mức độ công bố thông tin của các công ty này.
Công ty sử dụng đòn bẩy nợ cao thể hiện sự tín nhiệm với các chủ nợ bên ngoài, điều này có thể dẫn đến việc các chủ nợ yêu cầu công ty cung cấp thêm thông tin để phục vụ cho việc giám sát hoặc theo các điều khoản trong hợp đồng tín dụng.
Tác giả áp dụng tỷ lệ nợ/tổng tài sản thay vì tính trên vốn chủ sở hữu do nghiên cứu được thực hiện trên từng nhóm ngành với quy mô vốn khác nhau Phương pháp này tương tự như cách tính của Huafang Xiao và Jianguo Yuan (2007).
Nghiên cứu của Meek và các cộng sự (1995) chỉ ra rằng lợi nhuận sau thuế trên doanh thu không ảnh hưởng đến việc công bố thông tin tự nguyện tại Anh, Mỹ và một số quốc gia Châu Âu.
Nguyễn Thị Thu Hảo (2014) đã chỉ ra rằng không tồn tại mối quan hệ giữa lợi nhuận và công bố thông tin tự nguyện tại các công ty niêm yết trên Sở GDCK Thành phố.
Hồ chí minh Lợi nhuận được tính bằng lợi nhuận sau thuế/tổng tài sản
Các công ty có lợi nhuận thường công bố nhiều thông tin để tăng cường niềm tin từ nhà đầu tư Theo lý thuyết ủy nhiệm, lợi nhuận cao phản ánh nỗ lực của người quản lý, vì vậy họ muốn công khai thông tin để thu hút vốn đầu tư và nâng cao giá trị bản thân trên thị trường lao động Tác giả đã lựa chọn đo lường biến "lợi nhuận" bằng cách sử dụng tỷ lệ lợi nhuận sau thuế trên tổng tài sản.
2.2.4 Cấu trúc sở hữu vốn
Tác giả trong bài viết này tập trung vào việc kiểm định hai yếu tố chính trong cấu trúc sở hữu vốn, bao gồm tỷ lệ sở hữu của các cổ đông lớn và tỷ lệ sở hữu của tổ chức.
Tỷ lệ sở hữu của cổ đông lớn
Tỷ lệ sở hữu của các cổ đông lớn phản ánh mức độ tập trung vốn trong doanh nghiệp Nghiên cứu của Fathi (2013) chỉ ra rằng khi tỷ lệ sở hữu của các cổ đông lớn tăng cao, mức độ công bố thông tin tự nguyện sẽ giảm xuống, điều này cho thấy mối liên hệ ngược giữa sự tập trung sở hữu và tính minh bạch thông tin.
Theo quy định của pháp luật Việt Nam, cổ đông chính được xác định tại Điều 6 của Luật Chứng khoán số 27/VBHN-VPQH ngày 18/12/2013, là những cổ đông sở hữu từ 5% trở lên số cổ phiếu có quyền biểu quyết của tổ chức phát hành, bao gồm cả sở hữu trực tiếp và gián tiếp Thông tin về cổ đông lớn phải được công bố cho các công ty đại chúng theo Thông tư số 52/2012/TT-BTC ngày 05/04/2012 của Bộ Tài chính trong báo cáo thường niên.
Tỷ lệ sở hữu của Nhà nước
LÝ THUYẾT ỦY NHIỆM
Lý thuyết ủy nhiệm là một khái niệm quan trọng, được nghiên cứu sâu rộng và đóng vai trò nổi bật trong các tác phẩm của nhiều tác giả Nghiên cứu này tập trung vào việc áp dụng lý thuyết ủy nhiệm để hiểu rõ hơn về các mối quan hệ và quy trình ra quyết định trong tổ chức.
Lý thuyết ủy nhiệm, do Jensen và Meckling phát triển vào năm 1976, ngày càng được chú ý trong bối cảnh các công ty mở rộng quy mô và lĩnh vực kinh doanh Khi đó, kiến thức và kinh nghiệm của các chủ sở hữu không còn đủ để quản lý hiệu quả, dẫn đến nhu cầu giám sát và kiểm tra kết quả Điều này thúc đẩy họ thuê mướn các nhà quản lý chuyên nghiệp để đảm bảo hoạt động kinh doanh hiệu quả.
Theo lý thuyết uỷ nhiệm, trong các công ty phát triển, người sở hữu (người uỷ nhiệm) không trực tiếp điều hành mà thuê nhà quản lý (người được uỷ nhiệm) để đại diện cho họ Điều này dẫn đến việc người sở hữu chịu rủi ro từ vốn đầu tư nhưng không có quyền quyết định về hoạt động kinh doanh, trong khi nhà quản lý lại có quyền quyết định mặc dù chỉ là người làm thuê Lý thuyết này nêu rõ những vấn đề phát sinh từ việc tách biệt vai trò giữa người sở hữu và người quản lý, đồng thời nhấn mạnh tầm quan trọng của việc đảm bảo lợi ích cho người sở hữu.
Lý thuyết uỷ nhiệm cho rằng người sở hữu và người quản lý đều tìm cách tối đa hoá lợi ích cá nhân Người sở hữu muốn đạt được lợi nhuận lớn, chia cổ tức cao và gia tăng giá trị công ty, trong khi người quản lý có thể đưa ra quyết định không vì lợi ích chung mà vì lợi ích cá nhân, đặc biệt là trong thời gian thuê ngắn hạn Điều này dẫn đến việc người quản lý có thể ưu tiên mục tiêu ngắn hạn và bỏ qua lợi ích dài hạn Để đảm bảo người quản lý tối đa hoá lợi ích cho công ty, người sở hữu phải gánh chịu một số chi phí như chi phí giám sát và chi phí liên kết, được gọi là chi phí uỷ nhiệm.
Người sở hữu yêu cầu công bố thông tin rõ ràng về hoạt động để theo dõi việc sử dụng vốn, do đó cần tăng cường thông tin giữa họ và người quản lý nhằm giảm thiểu chi phí ủy nhiệm Nhiều nghiên cứu trước đây, cả trong và ngoài nước, đã dựa vào lý thuyết ủy nhiệm, như các tác giả Meek (1995), Chau và Gray (2002), Xiao và Yuang (2007), và Nguyễn Thị Thu Hảo (2014).
PHÂN CHIA NHÓM NGÀNH CÔNG TY NIÊM YẾT TRÊN HAI SỞ GIAO DỊCH CHỨNG KHOÁN VIỆT NAM
Trong những năm gần đây, Sở Giao dịch Chứng khoán Hà Nội và Sở Giao dịch Chứng khoán Thành phố Hồ Chí Minh đã áp dụng việc phân chia nhóm ngành Cụ thể, Sở GDCK Hà Nội bắt đầu áp dụng từ năm 2013, trong khi Sở GDCK Thành phố Hồ Chí Minh đã thực hiện điều này từ năm 2012.
Phân chia nhóm ngành trên thị trường chứng khoán Việt Nam rất quan trọng đối với nhà đầu tư, giúp họ có cái nhìn tổng quan về tình hình tăng giảm và xu hướng của các nhóm ngành so với nhau Việc này không chỉ giúp so sánh giữa các doanh nghiệp mà còn tạo nền tảng cho việc xây dựng chỉ số ngành, với Sở GDCK Hà Nội hiện đã phát triển chỉ số cho ba nhóm ngành: công nghiệp, xây dựng và tài chính Mỗi Sở giao dịch chứng khoán đều áp dụng tiêu chuẩn phân ngành cho các công ty niêm yết hoặc đăng ký giao dịch, với quy trình được thực hiện định kỳ và cập nhật liên tục Mặc dù chưa có sự thống nhất hoàn toàn, nhưng cả hai Sở GDCK tại Việt Nam đều dựa trên Hệ thống ngành kinh tế Việt Nam 2007 (VISIC).
2007) dựa trên tiêu chí là doanh thu hoạt động của công ty
Hệ thống ngành kinh tế của Việt Nam 2007 (VSIC 2007) được Tổng cục Thống kê xây dựng dựa trên Phân ngành chuẩn quốc tế ISIC Rev.4 và khung phân ngành chung của ASEAN Hệ thống này đã được phát triển đến 5 chữ số nhằm đáp ứng thực tiễn sử dụng và nhu cầu điều tra thống kê Quy định về nội dung các ngành kinh tế trong hệ thống này đã được Bộ trưởng Bộ Kế hoạch và Đầu tư phê duyệt tại Quyết định số 337/QĐ-BKH ngày 10 tháng 4 năm 2007.
Tác giả giới thiệu khái quát về hai hệ thống phân ngành của hai Sở GDCK tại Việt nam
2.4.1 Phân ngành theo hệ thống ngành kinh tế HaSIC của Sở giao dịch chứng khoán Hà Nội
Từ ngày 01/10/2012, Sở GDCK Hà Nội đã triển khai hệ thống phân ngành HaSIC, được phát triển dựa trên Hệ thống ngành kinh tế Việt Nam (VSIC 2007) và khuyến nghị của Hệ thống ngành kinh tế ISIC phiên bản 4 của Liên Hiệp Quốc HaSIC áp dụng cho các công ty niêm yết hoặc đăng ký giao dịch trên Sàn GDCK Hà Nội, nhằm chuẩn hóa phân loại ngành kinh tế trong hoạt động giao dịch chứng khoán.
HaSIC bao gồm 3 cấp ngành với 11 ngành cấp I, 39 ngành cấp II và 1 93 ngành cấp III Các nhóm ngành cấp I của HaSIC:
01000 Nông nghiệp, lâm nghiệp và thủy sản
02000 Khai khoáng và dầu khí
06000 Thương mại và dịch vụ lưu trú ăn uống
07000 Thông tin, truyền thông và các hoạt động khác
09000 Hoạt động chuyên môn, khoa học và công nghệ, hành chính và dịch vụ hỗ trợ
Dựa trên tiêu chí phân ngành theo doanh thu, các công ty được phân loại vào quý 3 hàng năm Nguyên tắc phân ngành HaSIC do Sở GDCK Hà Nội công bố dựa vào doanh thu bình quân lớn nhất để xác định hoạt động kinh doanh chính của mỗi công ty.
Hoạt động sản xuất kinh doanh nào đạt doanh thu bình quân lớn nhất trong 3 năm liên tiếp và chiếm trên 50% tổng doanh thu bình quân của công ty sẽ được xếp vào ngành cấp I trong hệ thống phân ngành HaSIC Nếu không đáp ứng được điều kiện này, HNX sẽ áp dụng nguyên tắc từ trên xuống để phân loại vào ngành cấp I trong hệ thống HaSIC.
Nếu không xác định được hoạt động kinh doanh chính của công ty, HNX sẽ sử dụng các thông tin khác để kết hợp và xác định rõ hoạt động kinh doanh chính của công ty đó.
Sở Giao dịch Chứng khoán Hà Nội đã phát triển một hệ thống phân ngành độc lập, dựa trên các tiêu chuẩn phân ngành cụ thể, nhằm giúp các công ty xác định lĩnh vực kinh doanh chính của mình Hệ thống này tạo điều kiện cho việc so sánh hiệu quả giữa các công ty trong cùng ngành, từ đó nâng cao tính minh bạch và hỗ trợ các nhà đầu tư trong quá trình ra quyết định.
Việc phân ngành được thực hiện ngay khi công ty bắt đầu niêm yết và được điều chỉnh định kỳ
2.4.2 Phân ngành các công ty niêm yết trên Sở giao dịch chứng khoán Thành phố Hồ Chí Minh
Quy tắc phân ngành cho các công ty niêm yết trên Sở GDCK Thành phố Hồ Chí Minh được quy định trong quyết định số 01/2012/QĐ-SGDCK TP.HCM, ban hành ngày 23/02/2012 bởi Chủ tịch Hội đồng quản trị Sở GDCK Thành phố Hồ Chí Minh.
Sở GDCK Thành phố Hồ Chí Minh sẽ tiến hành phân ngành cho các công ty từ ngày 15/04 đến 30/06 hàng năm Mỗi công ty sẽ được phân vào một ngành cấp III duy nhất trong Hệ thống ngành kinh tế Việt Nam (VSIC 2007), dựa trên hoạt động kinh doanh chính của họ Hệ thống VSIC 2007 bao gồm 21 nhóm ngành và 88 ngành cấp 2.
242 ngành cấp 3; 437 ngành cấp 4 và 642 ngành cấp 5
Theo Quy tắc phân ngành của Sở GDCK Thành phố Hồ Chí Minh, tiêu chí lựa chọn để phân loại các công ty niêm yết chủ yếu dựa vào doanh thu Cụ thể, hoạt động kinh doanh nào mang lại doanh thu lớn nhất trong tổng doanh thu của công ty sẽ được xác định là hoạt động kinh doanh chính của công ty đó.
Nguyên tắc phân ngành được quy định trong quy tắc phân ngành ban hành năm 2012, dựa trên số liệu thu thập từ Phiếu thu thập thông tin công ty, bản cáo bạch và báo cáo tài chính hàng năm của các công ty niêm yết Phân ngành của HOSE tương tự như HNX, được xác định thông qua doanh thu bình quân của ba năm liên tiếp.
Các công ty có hoạt động kinh doanh mang lại doanh thu bình quân lớn nhất trong 3 năm liên tiếp, chiếm trên 50% tổng doanh thu bình quân, sẽ được phân loại vào ngành cấp 3 duy nhất theo hệ thống phân ngành VSIC 2007 tương ứng với hoạt động đó.
Nếu công ty không có hoạt động kinh doanh nào tạo ra doanh thu đáp ứng các điều kiện, sẽ áp dụng nguyên tắc xếp loại từ trên xuống để phân loại công ty vào một ngành cấp 3 duy nhất trong hệ thống phân ngành VSIC 2007 tương ứng với hoạt động của công ty.
“Nhóm các hoạt động kinh doanh đơn lẻ cấp 3 tương đồng rồi sắp xếp vào ngành cấp 2 và cấp 1 tương ứng ;
+ Xác định ngành cấp 1 có doanh thu bình quân cao nhất;
+ Trong ngành cấp 1, xác định ngành cấp 2 có doanh thu bình quân cao nhất;
Trong ngành cấp 2, ngành cấp 3 có doanh thu bình quân cao nhất được xác định là ngành hoạt động chính của công ty niêm yết, theo quy tắc phân ngành các công ty niêm yết trên Sở GDCK Thành phố Hồ Chí Minh.
XÁC ĐỊNH BIẾN
3.2.1 Xác định biến phụ thuộc: Mức độ công bố thông tin tự nguyện
Theo Nguyễn Chí Đức và Hoàng Trọng (2012), tự nguyện công bố thông tin là khái niệm trừu tượng, liên quan đến việc quản lý chủ động cung cấp thông tin tài chính, chiến lược và phi tài chính ngoài các yêu cầu công bố bắt buộc Sự đa dạng trong cách đo lường mức độ công bố thông tin tự nguyện của công ty dẫn đến sự xuất hiện của nhiều mô hình đo lường khác nhau.
Theo nghiên cứu của Francisco, Maria và Macro (2009), việc đo lường thông tin công bố của công ty là một nhiệm vụ phức tạp và có thể được thực hiện thông qua ba chỉ số chính: chất lượng, phạm vi và số lượng Việc không áp dụng mô hình của nhóm tác giả này có thể dẫn đến những hạn chế trong nghiên cứu Kết quả cho thấy phương pháp tính chỉ số công bố thông tin có thể ảnh hưởng đến xếp hạng của công ty, và việc lựa chọn chỉ số đo lường CBTT cũng là một yếu tố hạn chế trong đề tài Điều này cho thấy rằng nếu sử dụng phương pháp khác để đo lường mức độ CBTT, kết quả có thể khác nhau, mặc dù vẫn có sự tương quan, và điều này có thể tác động đến các giải pháp và chính sách được đề xuất trong nghiên cứu.
Một phương pháp phổ biến trong việc tổ chức thông tin là sử dụng danh mục kiểm tra (checklist) Mỗi danh mục này được thiết kế phù hợp với từng vùng miền, đặc điểm kinh tế và quy định riêng Nhiều tác giả đã phát triển các danh sách khác nhau, với cách phân chia đa dạng Một số tác giả cũng điều chỉnh và bổ sung danh mục để đáp ứng nhu cầu cụ thể khi cần thiết.
Nghiên cứu của Meek (1995) xây dựng danh sách 85 mục thông tin tự nguyện, phân chia thành 03 loại: thông tin chiến lược, thông tin tài chính và thông tin phi tài chính Việc phân loại này nhằm phục vụ cho các đối tượng quan tâm khác nhau, trong đó thông tin chiến lược và tài chính liên quan đến quyết định của nhà đầu tư, còn thông tin phi tài chính phản ánh trách nhiệm xã hội của công ty Meek và cộng sự đã tính chỉ số công bố thông tin tự nguyện theo cách cộng vào và không có trọng số, lý do là vì người sử dụng có thể quan tâm đến các mục thông tin khác nhau, và các công ty có thể dễ dàng tăng chỉ số nếu xác định một mục nào đó quan trọng hơn Điều này hợp lý vì thông tin tự nguyện có mức độ quan tâm tương đương, trong khi thông tin bắt buộc luôn quan trọng Đối với nghiên cứu về mức độ công bố thông tin chung, việc đánh giá trọng số cho mỗi mục là cần thiết, như trong nghiên cứu của Fathi (2013), nhưng đối với đo lường mức độ CBTT tự nguyện thì không sử dụng trọng số là hợp lý.
Danh mục thông tin công bố tự nguyện của Meek (1995) đã được Chau và Gray (2002) bổ sung để hoàn thiện hơn, trong đó có việc trình bày khoản thu lại từ thanh lý và các khoản lợi thế thương mại Mô hình này phù hợp với Việt Nam và mục đích nghiên cứu đo lường chỉ số công bố tự nguyện, bao gồm 113 mục thông tin được chia thành 12 nhóm Các nhóm thông tin được phân loại thành thông tin chiến lược (nhóm 1-5), thông tin phi tài chính (nhóm 6-8) và thông tin tài chính (nhóm 9-12).
Trong nghiên cứu của Akhtaruddin và cộng sự (2009), tác giả đã chỉ ra rằng việc sử dụng danh sách hạng mục thông tin tự nguyện do Chau và Gray phát triển là rất quan trọng.
Theo nghiên cứu của tác giả năm 2002 và một số tác giả khác, thông tin được phân loại thành các nhóm như: thông tin chung, thông tin quản trị công ty, thông tin tài chính, thông tin phân tích tài chính, thông tin về mua và thanh lý tài sản, thông tin dự án, thông tin về nhân sự, và thông tin trách nhiệm xã hội, cùng với việc trình bày đồ thị cho thông tin tài chính Sau khi đối chiếu với các hạng mục bắt buộc, còn lại 74 mục Chỉ số công bố được tính toán bằng cách gán giá trị 1 cho các mục có công bố và 0 cho các mục không có công bố Chỉ số công bố cuối cùng được tính bằng tổng điểm đạt được chia cho tổng điểm tối đa mà công ty có thể đạt được, với các chỉ số tính đều nhau và không có trọng số.
Nghiên cứu của Nguyễn Chí Đức và Hoàng Trọng (2012) tại Việt Nam áp dụng mô hình của Meek (1995) để đánh giá mức độ công bố thông tin tự nguyện của các công ty niêm yết trên Sở GDCK Thành phố Hồ Chí Minh Tác giả đã so sánh 85 mục thông tin với các yêu cầu công bố bắt buộc theo thông tư số 57/2004/TT-BTC của Bộ Tài chính, trong đó có 23 hạng mục thông tin (bao gồm 9 hạng mục chiến lược, 5 hạng mục tài chính và 9 hạng mục phi tài chính) Mỗi thông tin được công bố sẽ được tính 1 điểm, trong khi không công bố sẽ được tính 0 điểm.
Phương pháp của Nguyễn Đức Chí và Hoàng Trọng (2012) tương đồng với nghiên cứu của Akhtaruddin và cộng sự (2009) cũng như Nguyễn Thị Thu Hảo (2014) về quản trị công ty và chỉ số đo lường mức độ công bố thông tin tự nguyện.
Dựa trên phân tích, tác giả đã chọn phương pháp danh mục thông tin công bố tự nguyện của Meek (1995) và bổ sung từ Chau và Gray, đồng thời đối chiếu với thông tư số 52/2012/TT-BTC ngày 05/04/2012 của Bộ Tài chính về công bố thông tin trên thị trường chứng khoán Thông tư này thay thế cho thông tư số 57/2004/TT-BTC do Bộ Tài chính ban hành ngày 17/6/2004, mà Nguyễn Chí Đức và Hoàng Trọng (2004) đã nghiên cứu Danh mục công bố tự nguyện của Meek (1995) và sự phát triển bổ sung của Chau và Gray (2002) đã được dịch sang tiếng Việt và trình bày ở phụ lục 01.
Theo thông tư số 52/2012/TT-BTC ngày 05/04/2012 của Bộ Tài chính, danh mục thông tin bắt buộc được đối chiếu và loại trừ, từ đó xác định các hạng mục thông tin công bố tự nguyện Để đánh giá mức độ công bố thông tin tự nguyện, mỗi hạng mục sẽ được tính 1 điểm nếu doanh nghiệp có công bố thông tin, và 0 điểm nếu không có Việc khảo sát điểm được thực hiện cho từng công ty trong danh sách quan sát đã chọn.
Chỉ số công bố thông tin tự nguyện được tính bằng cách chia số điểm khảo sát mà công ty đạt được cho tổng số điểm tối đa mà công ty có thể đạt.
Ký hiệu biến phụ thuộc VDI, viết tắt cụm từ Voluntary Disclosure Index
3.2.2 Xác định các biến độc lập, cách thức đo lường biến độc lập
Từ những lập luận đưa ra ở chương 2, các biến độc lập và cách thức đo lường của các biến độc lập được trình bày ở bảng 3.1
Bảng 3.1 Tóm tắt các biến độc lập, ký hiệu và cách thức đo lường
Biến Ký hiệu Đo lường
Quy mô công ty SIZE Logarit tổng tài sản
Tỷ số nợ/tổng tài sản LEV Nợ phải trả/Tổng tài sản
Lợi nhuận ROA Lợi nhuận trước thuế/Tổng tài sản
Tỷ lệ sở hữu của cổ đông lớn MAJOR Tổng tỷ lệ sở hữu của cổ đông lớn
Tỷ lệ sở hữu của Nhà nước STATE Tỷ lệ sở hữu của Nhà nước
Tỷ lệ sở hữu của nhà đầu tư nước ngoài FOREIGN Tỷ lệ sở hữu của các nhà đầu tư nước ngoài
Tỷ lệ thành viên hội đồng quản trị (HĐQT) không điều hành
Số thành viên HĐQT không điều hành/ tổng số thành viên HĐQT
Tách biệt vai trò chủ tịch
HĐQT và giám đốc DUAL có giá trị 1 nếu có sự tách biệt, ngược lại giá trị là 0 Giả thuyết cho rằng biến độc lập ảnh hưởng cùng chiều đến biến phụ thuộc.
Ngược chiều: Giả thuyết dự đoán biến độc lập có tác động ngược chiều đến biến phụ thuộc
Có tác động: Có mối tương quan có ý nghĩa thống kê
Dựa trên các nghiên cứu trước và xác định các nhân tố ở mục 2.4, tương ứng 8 giả thuyết được đưa ra như sau:
Giả thuyết 1: Quy mô công ty có tác động cùng chiều đến mức độ công bố thông tin tự nguyện
Giả thuyết 2: Tỷ lệ nợ/tổng tài sản có tác động cùng chiều đến mức độ công bố thông tin tự nguyện
Giả thuyết 3: Lợi nhuận có tác động cùng chiều đến mức độ công bố thông tin tự nguyện
Giả thuyết 4: Tỷ lệ sở hữu của cổ đông lớncó tác động ngược chiều đến mức độ công bố thông tin tự nguyện
Giả thuyết 5: Tỷ lệ sở hữu của Nhà nước có tác động cùng chiều đến mức độ công bố thông tin tự nguyện
Giả thuyết 6: Tỷ lệ sở hữu nước ngoài có tác động cùng chiều đến mức độ công bố thông tin tự nguyện
Giả thuyết 7: Tỷ lệ thành viên hội đồng quản trị không điều hànhcó tác động cùng chiều đến mức độ công bố thông tin tự nguyện
Giả thuyết 8: Tách biệt vai trò chủ tịch hội đồng quản trị với giám đốc có ảnh hưởng đến mức độ công bố thông tin tự nguyện
Tác giả đã áp dụng mô hình nghiên cứu tương tự như các tác giả trước đó, sử dụng mô hình hồi quy đa biến để dự đoán ảnh hưởng của các yếu tố đến mức độ công bố thông tin tự nguyện, dựa trên mẫu thu thập được.
VDI Chỉ số công bố thông tin tự nguyện của một công ty
SIZE Quy mô công ty
LEV Tỷ số nợ/tổng tài sản
ROA Lợi nhuận trước thuế/tổng tài sản
MAJOR Tỷ lệ sở hữu của các cổ đông lớn
STATE Tỷ lệ sở hữu của Nhà nước
FOREIGN Tỷ lệ sở hữu của nhà đầu tư nước ngoài
IND Tỷ lệ thành viên HĐQT không điều hành
DUAL Tách biệt vai trò chủ tịch HĐQT và giám đốc/tổng giám đốc
Mô hình hồi qui bội (MLR), vì cần kiểm địnhtác động của nhiều biến độc lập với một biến phụ thuộc định lượng
Sơ đồ 3.2 Mô hình các nhân tố ảnh hưởng mức độ công bố thông tin tự nguyện
Tỷ số nợ/tổng tài sản
Lợi nhuận trước thuế/tổng tài sản
Tỷ lệ sở hữu của các cổ đông lớn
Tỷ lệ sở hữu của Nhà nước
Tỷ lệ sở hữu của nhà đầu tư nước ngoài
Tỷ lệ thành viên HĐQT độc lập
Tách biệt vai trò chủ tịch HĐQT và GĐ Chỉ số CBTT tự nguyện
DỮ LIỆU
Để tính chỉ số đo lường công bố thông tin tự nguyện, tác giả đã tiến hành chấm điểm báo cáo thường niên của từng công ty theo phụ lục thông tin công bố tự nguyện số 02, sau khi đối chiếu với các quy định hiện hành tại Việt Nam.
Biến độc lập được thu thập từ báo cáo thường niên kèm theo báo cáo tài chính đã được kiểm toán của các công ty đại chúng niêm yết tại Sở giao dịch chứng khoán Hà Nội và Sở giao dịch chứng khoán Thành phố Hồ Chí Minh.
Các báo cáo thường niên được tổng hợp và công bố trên website của Sở Giao dịch Chứng khoán Hà Nội (http://hnx.vn) và Sở Giao dịch Chứng khoán Thành phố Hồ Chí Minh (http://www.hsx.vn).
Thời gian giới hạn của dữ liệu thu thập là trên báo cáo thường niên năm 2014.
MẪU
Do đề tài thực hiện kiểm định trên 03 nhóm ngành Số lượng công ty niêm yết trên
03 nhóm ngành không giống nhau nên kích thước mẫu cũng sẽ khác nhau
Số liệu thống kê số lượng công ty được phân ngành cấp I của 03 nhóm ngành thể hiện như sau:
Ngành Số lượng công ty niêm yết
(*) Theo tên gọi của Hệ thống phân ngành kinh tế của HOSE là Hoạt động tài chính, ngân hàng và bảo hiểm
Trong ba nhóm ngành, ngành công nghiệp có số lượng công ty nhiều nhất Tác giả đã xác định kích thước mẫu trước khi tiến hành phân tích dữ liệu và kiểm định mô hình mối liên hệ giữa các yếu tố và mức độ công bố thông tin tự nguyện Để lựa chọn mẫu, tác giả áp dụng công thức kinh nghiệm được sử dụng trong các nghiên cứu liên quan đến mô hình hồi quy bội (Nguyễn Đình Thọ, 2012, trang 499).
𝑛 ≥ 50 + 8𝑝 Trong đó: n là kích thước mẫu tối thiểu cần thiết p là số lượng biến độc lập trong mô hình
Nghiên cứu xác định 8 biến độc lập và yêu cầu kích thước mẫu tối thiểu là 114 quan sát Tác giả đã chọn kích thước mẫu là 114 quan sát, tuy nhiên, do tổng thể trong ngành xây dựng và tài chính không lớn, không thể áp dụng công thức như trong ngành công nghiệp Vì vậy, tác giả tính toán số quan sát theo tỷ lệ ước lượng Đối với ngành xây dựng, tổng số lượng công ty là 103, với tỷ lệ 60%, kích thước mẫu được chọn là 61 công ty.
Trong ngành tài chính, có tổng cộng 45 công ty niêm yết trên cả hai Sở GDCK Tác giả sẽ chọn ngẫu nhiên 35 công ty, tương đương với hơn 70% số lượng công ty niêm yết trong ngành cấp I này.
Kích thước mẫu cho nghiên cứu được xác định gồm 114 công ty trong ngành công nghiệp, 35 công ty trong ngành tài chính và 61 công ty trong ngành xây dựng, tổng cộng là 210 công ty cho ba mô hình tương ứng với ba nhóm ngành.
Mô hình nghiên cứu bao gồm 08 biến độc lập và 01 biến phụ thuộc, với kích thước mẫu được xác định rõ ràng Cụ thể, ngành công nghiệp có 114 quan sát, ngành xây dựng có 61 quan sát và ngành tài chính có 35 quan sát Phân tích dữ liệu được thực hiện bằng phần mềm thống kê SPSS phiên bản 20.