GIỚI THIỆU NGHIÊN CỨU
Đặt vấn đề và lý do nghiên cứu
Vấn đề nghèo đói hiện nay là một thách thức toàn cầu, tồn tại ở mọi quốc gia, bao gồm cả Việt Nam Giải quyết tình trạng này không chỉ nâng cao mức sống cho người dân mà còn giúp giải quyết nhiều vấn đề xã hội khác Đảng và Nhà nước Việt Nam đã coi công tác xóa đói giảm nghèo là nhiệm vụ chính trị quan trọng, nhằm đạt được tăng trưởng bền vững và công bằng xã hội Tuy nhiên, tỷ lệ hộ nghèo vẫn còn cao và tình trạng tái nghèo diễn ra thường xuyên, gây khó khăn cho các nhà quản lý địa phương Theo báo cáo của Ngân hàng Thế giới, tỷ lệ tái nghèo ở Việt Nam vào năm 2018 là 2%, điều này ảnh hưởng đến công tác quản lý và chính sách cải thiện đời sống người dân.
Quá trình hội nhập kinh tế quốc tế của Việt Nam mang lại cơ hội cải thiện chất lượng cuộc sống cho người nghèo, nhưng cũng gây ra nhiều thách thức như tình trạng mất việc làm do trình độ thấp Người nghèo thường phụ thuộc vào trợ cấp xã hội, dẫn đến thiếu ý chí thoát nghèo, và nhiều chương trình hỗ trợ không đạt hiệu quả mong muốn Tại Đồng Tháp, tỉnh nông nghiệp với 80% diện tích đất sản xuất nông nghiệp, tỷ lệ hộ nghèo vẫn cao với 17.266 hộ nghèo (4,04%) và 23.120 hộ cận nghèo (5,36%) Huyện Lai Vung, mặc dù có những cải thiện trong đời sống kinh tế - xã hội, vẫn ghi nhận tỷ lệ hộ nghèo cao và nguy cơ tái nghèo lớn, cho thấy cần có chính sách hiệu quả hơn để hỗ trợ các hộ gia đình thoát nghèo bền vững.
Nghiên cứu “Các yếu tố ảnh hưởng đến tình trạng tái nghèo của huyện Lai Vung, tỉnh Đồng Tháp” nhằm xác định các yếu tố và mức độ ảnh hưởng của chúng đến tình trạng tái nghèo ở các xã Mục tiêu là làm rõ nguyên nhân để xây dựng chính sách thoát nghèo bền vững, góp phần phát triển kinh tế huyện Lai Vung, tỉnh Đồng Tháp.
Mục tiêu nghiên cứu
Nghiên cứu này nhằm xác định các yếu tố ảnh hưởng đến tình trạng tái nghèo của hộ gia đình ở huyện Lai Vung, tỉnh Đồng Tháp, từ đó cung cấp cơ sở cho việc xây dựng chính sách giảm nghèo bền vững Kết quả nghiên cứu sẽ hỗ trợ định hướng cụ thể cho các chương trình xóa đói giảm nghèo trong tương lai, góp phần cải thiện đời sống người dân tại địa phương.
(1) Đánh giá thực trạng tái nghèo của người dân tại huyện Lai Vung,
(2) Xác định các yếu tố ảnh hưởng và mức độ ảnh hưởng tới tình trạng tái nghèo của người dân huyện Lai Vung - Đồng Tháp
(3) Gợi ý các giải pháp chính sách nhằm giảm nghèo bền vững tại huyện Lai Vung
2.3 Câu hỏi nghiên cứu Để giải quyết được các mục tiêu nghiên cứu, tác giả tập trung đi vào trả lời cho các câu hỏi nghiên cứu sau:
(1) Thực trạng tái nghèo tại huyện Lai Vung, tỉnh Đồng Tháp như thế nào?
(2) Những yếu tố nào đã ảnh hưởng và mức độ ảnh hưởng đến tình trạng tái nghèo của những người dân ở huyện Lai Vung, tỉnh Đồng Tháp?
(3) Những giải pháp nào giúp giảm tình trạng tái nghèo của các hộ dân?
Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
3.1 Đối tượng nghiên cứu Đối tượng nghiên cứu của đề tài là đánh giá ảnh hưởng của các yếu tố lên tái nghèo
Nghiên cứu được thực hiện tại 12 xã và thị trấn thuộc huyện Lai Vung, tỉnh Đồng Tháp, bao gồm các địa phương: xã Hòa Long, Long Thắng, Long Hậu, Tân Phước, Tân Thành, Vĩnh Thới, Tân Hòa, Định Hòa, Phong Hòa, Tân Dương, Hòa Thành và thị trấn Lai Vung.
Ý nghĩa của đề tài
Nghiên cứu này chỉ ra các yếu tố ảnh hưởng đến khả năng tái nghèo của hộ gia đình tại huyện Lai Vung, Đồng Tháp Kết quả mang lại ý nghĩa lý thuyết và thực tiễn, cung cấp cơ sở khoa học cho chính quyền địa phương và các hộ gia đình tham khảo Từ đó, đề xuất giải pháp cụ thể và khả thi nhằm đạt được mục tiêu thoát nghèo bền vững cho các hộ gia đình trong khu vực.
Kết cấu của luận văn
Đề tài nghiên cứu được trình bày trong 5 chương bao gồm cả Chương mở đầu và Chương kết luận, kiến nghị Cụ thể như sau:
Đề tài nghiên cứu này nhằm giới thiệu tổng quan về vấn đề nghiên cứu, bao gồm lý do cần thiết cho việc thực hiện nghiên cứu, mục tiêu cụ thể mà nghiên cứu hướng tới, các câu hỏi chính cần giải đáp, đối tượng và phạm vi nghiên cứu, cũng như ý nghĩa và đóng góp của nghiên cứu đối với lĩnh vực liên quan.
Chương 2: Cơ sở lý thuyết
Chương này sẽ tóm tắt tổng quan huyện Lai Vung, giải thích các khái niệm liên quan đến nghèo đói, bao gồm đo lường mức độ nghèo đói, tái nghèo và sinh kế bền vững, cùng với nguyên nhân gây ra nghèo đói Bên cạnh đó, chương cũng sẽ tổng hợp các nghiên cứu trước đó có liên quan đến đề tài, từ đó xác định các yếu tố ảnh hưởng đến tình trạng tái nghèo của hộ gia đình và đề xuất mô hình nghiên cứu phù hợp.
Chương 3: Phương pháp nghiên cứu
Chương này giới thiệu khung phân tích nghiên cứu, trình bày mô hình kinh tế cùng với số liệu thứ cấp và sơ cấp đã được thu thập, đồng thời nêu rõ phương pháp phân tích dữ liệu được áp dụng.
Chương 4: Kết quả nghiên cứu
Bài viết trình bày kết quả nghiên cứu và phân tích thống kê mô tả dữ liệu, đồng thời đánh giá kết quả từ mô hình kinh tế lượng Nghiên cứu xác định các yếu tố ảnh hưởng đến tình trạng tái nghèo tại huyện Lai Vung, tỉnh Đồng Tháp.
Chương 5: Kết luận và kiến nghị Đánh giá tổng quan toàn bộ kết quả nghiên cứu, từ đó đưa ra một số giải pháp có tính chất gợi ý, kiến nghị nhằm hạn chế tình trạng tái nghèo của huyện Lai Vung, tỉnh Đồng Tháp Đồng thời, nêu thêm những hạn chế của nghiên cứu cũng như đề xuất nghiên cứu tiếp theo.
CƠ SỞ LÝ THUYẾT
Tổng quan về vị trí địa lý, kinh tế xã hội của huyện Lai Vung
Huyện Lai Vung nằm ở khu vực phía Tây Nam của vùng Sa Đéc, giáp với huyện Lấp Vò ở phía Bắc, Thành phố Sa Đéc và huyện Châu Thành ở phía Đông, quận Thốt Nốt và Ô Môn thuộc thành phố Cần Thơ ở phía Tây - Tây Nam, và huyện Bình Tân thuộc tỉnh Vĩnh Long ở phía Nam Huyện có tổng diện tích tự nhiên là 238,44 km², chiếm 6,79% diện tích tự nhiên của tỉnh Đồng Tháp.
Huyện Lai Vung có 12 đơn vị hành chính trực thuộc trong đó có 1 thị trấn và
Huyện có 11 xã bao gồm Định Hòa, Hòa Long, Hòa Thành, Long Hậu, Long Thắng, Phong Hòa, Tân Dương, Tân Hòa, Tân Phước, Vĩnh Thới, và Tân Thành Năm 2016, dân số huyện đạt 161.576 người, với mật độ dân số khoảng 678 người/km², xấp xỉ gấp 1,4 lần bình quân của toàn tỉnh Đồng Tháp.
Huyện Lai Vung là một huyện nông nghiệp với 8.235 người sống ở thành thị, chiếm 5,1% tổng dân số, trong khi 153.341 người sống ở nông thôn, chiếm 94,9% Đa phần người dân tại đây chủ yếu phụ thuộc vào sản xuất nông nghiệp để sinh sống.
Từ năm 2010 đến 2015, tỷ lệ hộ nghèo của huyện đã giảm đáng kể, tuy nhiên, vào năm 2014, tỷ lệ hộ nghèo đạt 6,5% nhưng lại tăng lên 8,93% vào năm 2015 Để hỗ trợ người nghèo vượt qua khó khăn, UBND huyện đã triển khai nhiều chương trình như đào tạo nghề và cho vay vốn phát triển kinh tế.
Huyện hiện có 3.526 hộ nghèo (chiếm 8,93%) và 2.164 hộ cận nghèo (chiếm 5,48%) Để hỗ trợ lao động nông thôn, huyện triển khai nhiều chương trình như mở lớp nghề theo nhu cầu, hỗ trợ vốn vay phát triển kinh tế và giới thiệu việc làm UBND huyện cũng tạo điều kiện thuận lợi cho doanh nghiệp đến tư vấn tuyển dụng lao động Các hội đoàn thể duy trì và nhân rộng các mô hình hiệu quả nhằm giúp hội viên thoát nghèo.
Bảng 2.1 Tỷ lệ hộ nghèo của huyện Lai Vung giai đoạn 2010-2015 Đơn vị: %
Thành thị Nông thôn
(Nguồn số liệu Chi cục Thống kê huyện Lai Vung, 2015)
Cơ sở lý thuyết
2.2.1 Khái niệm về đói nghèo Đói nghèo là khái niệm đa chiều vừa dễ vừa khó để định nghĩa Chủ yếu các khái niệm nghèo đói đều đề cập đến mức sống, vật chất của người dân Đói nghèo được mô tả là tình trạng mà những cá nhân, hộ gia đình hay cả cộng đồng thiếu các nguồn lực tạo ra thu nhập để duy trì tiêu dùng đáp ứng cho cuộc sống đầy đủ và sung túc Như vậy, đói nghèo được coi là tình trạng thiếu thốn về vật chất Khái niệm nghèo đói được định nghĩa tại hội nghị về chống nghèo đói do Ủy ban kinh tế xã hội khu vực Châu Á - Thái Bình Dương (ESCAP) tổ chức tại Thái Lan năm 1993, các quốc gia đã thống nhất cho rằng:
Nghèo đói là tình trạng mà một bộ phận dân cư không thể đáp ứng các nhu cầu cơ bản của con người Những nhu cầu này phụ thuộc vào trình độ phát triển kinh tế - xã hội và các phong tục tập quán đặc trưng của từng vùng, những phong tục này được xã hội công nhận.
Nghèo được hiểu là tình trạng thiếu thốn về nhiều mặt, bao gồm thu nhập thấp, không đủ các nhu cầu cơ bản hàng ngày, thiếu tài sản để chi tiêu trong những tình huống khẩn cấp và dễ bị tổn thương trước những mất mát trong cuộc sống.
2.2.2 Đo lường mức độ nghèo đói
Chuẩn nghèo đóng vai trò quan trọng trong việc xây dựng và đánh giá hiệu quả các chính sách giảm nghèo tại Việt Nam Kể từ năm 1993, Việt Nam đã áp dụng hai chuẩn nghèo song song với nhiều khác biệt về số liệu, phục vụ cho các mục đích khác nhau Chuẩn nghèo chính thức cũng đã trải qua nhiều lần điều chỉnh, với thời gian hiệu lực ngày càng được kéo dài từ 2 năm lên.
Từ trước đến nay, chuẩn nghèo ở Việt Nam chủ yếu dựa trên các yếu tố kinh tế như thu nhập và chi tiêu, tuy nhiên, cách tiếp cận này ngày càng không còn phù hợp trong bối cảnh phát triển hiện nay và mục tiêu giảm nghèo bền vững Các Chương trình Mục tiêu quốc gia giảm nghèo đã chuyển sang phương pháp tiếp cận đa chiều, hỗ trợ người nghèo qua nhiều lĩnh vực như giáo dục, y tế, việc làm và phát triển sản xuất Mặc dù vậy, việc áp dụng các chính sách hỗ trợ này vẫn dựa trên chuẩn nghèo thu nhập và quy trình xác định chặt chẽ, nhưng chịu ảnh hưởng bởi nhiều yếu tố chủ quan khác.
Chuẩn nghèo Việt Nam hiện nay được coi là thấp, đặc biệt là chuẩn nghèo chính thức, mặc dù đã trải qua nhiều giai đoạn thay đổi Thời gian giữa các lần điều chỉnh chuẩn nghèo thường là 5 năm, phù hợp với kế hoạch phát triển kinh tế xã hội của đất nước và khả năng huy động nguồn lực của Nhà nước, nhưng thường không phản ánh đúng thực tế, nhất là trong bối cảnh khủng hoảng kinh tế và giá cả leo thang hiện nay Sự gia tăng giá cả có thể làm méo mó chuẩn nghèo Vào cuối năm 2008, khi lạm phát gia tăng, nhiều ý kiến đã được đưa ra về việc điều chỉnh chuẩn nghèo, đặc biệt là các đề xuất xây dựng chuẩn nghèo mới, hay còn gọi là chuẩn nghèo động, nhằm cập nhật theo diễn biến của chỉ số CPI.
Vấn đề phân loại nhóm nghèo hiện nay gặp khó khăn do chuẩn nghèo Việt Nam chỉ xem những người dưới ngưỡng nghèo là nghèo, mà không phân biệt tình trạng cụ thể của từng nhóm Có những người gần sát ngưỡng nghèo và những người lại xa ngưỡng nghèo, dẫn đến sự hạn chế trong chính sách hỗ trợ Cách tiếp cận nghèo đơn chiều không đáp ứng được tính đa dạng của vấn đề nghèo, gây ra sự trùng lặp và chồng chéo trong các chính sách Do đó, cần thiết phải áp dụng chính sách hỗ trợ theo từng nhóm đối tượng cụ thể, với mức hỗ trợ, thời gian và phương thức phù hợp hơn để đáp ứng nhu cầu đa dạng của người nghèo.
Theo Quyết định số 59/2015/QĐ-TTg của Thủ tướng Chính phủ về việc ban hành chuẩn nghèo tiếp cận đa chiều áp dụng cho giai đoạn 2016 - 2020 như sau:
Hộ nghèo khu vực nông thôn được xác định dựa trên hai tiêu chí chính: Thứ nhất, hộ có thu nhập bình quân đầu người mỗi tháng từ 700.000 đồng trở xuống; Thứ hai, hộ có thu nhập bình quân đầu người từ 700.000 đồng đến 1.000.000 đồng nhưng thiếu hụt ít nhất ba chỉ số đo lường khả năng tiếp cận các dịch vụ xã hội cơ bản.
Hộ nghèo khu vực thành thị được xác định dựa trên hai tiêu chí chính: Thứ nhất, hộ có thu nhập bình quân đầu người/tháng từ 900.000 đồng trở xuống Thứ hai, hộ có thu nhập bình quân đầu người/tháng từ 900.000 đồng đến 1.300.000 đồng nhưng thiếu hụt ít nhất ba chỉ số đo lường mức độ tiếp cận các dịch vụ xã hội cơ bản.
Mức chuẩn nghèo được sử dụng để đo lường và giám sát tình trạng thiếu hụt thu nhập cũng như khả năng tiếp cận các dịch vụ xã hội cơ bản của người dân Nó là cơ sở quan trọng để xác định đối tượng thực hiện các chính sách giảm nghèo và an sinh xã hội, đồng thời hỗ trợ hoạch định các chính sách kinh tế - xã hội khác trong giai đoạn 2016 - 2020.
2.2.3 Khái niệm về tái nghèo
Theo Khoản 5 Điều 2 Thông tư 17/2016/TT-BLĐTBXH ngày 28/6/2016 của
Bộ Lao động Thương binh và Xã hội đã ban hành hướng dẫn quy trình rà soát hộ nghèo và hộ cận nghèo hàng năm, áp dụng chuẩn nghèo tiếp cận đa chiều cho giai đoạn 2016 Quy trình này nhằm đảm bảo việc đánh giá chính xác tình trạng kinh tế của các hộ gia đình, từ đó giúp các cơ quan chức năng có biện pháp hỗ trợ phù hợp.
Hộ tái nghèo và hộ tái cận nghèo là những hộ gia đình đã từng được công nhận thoát nghèo nhưng lại rơi vào tình trạng nghèo đói do những khó khăn đột xuất trong năm qua Tái nghèo có thể hiểu là sự quay trở lại tình trạng nghèo của một hộ gia đình đã từng thoát nghèo, thường do tác động của thiên tai, khủng hoảng kinh tế, hoặc rủi ro trong sản xuất Mặc dù Việt Nam đã thực hiện nhiều chính sách giảm nghèo hiệu quả, nhưng kết quả này chưa bền vững, thể hiện qua việc số hộ thoát nghèo có mức thu nhập gần sát chuẩn nghèo và tỷ lệ tái nghèo vẫn còn cao.
Nguyên nhân tái nghèo xuất phát từ nhiều lý do, bao gồm cả yếu tố chủ quan và khách quan Về mặt chủ quan, một số chương trình và chính sách giảm nghèo chưa được triển khai đồng bộ và mang tính ngắn hạn, thiếu sự gắn kết chặt chẽ và quản lý hiệu quả Ngoài ra, tâm lý ỷ lại của một số người nghèo cũng cản trở họ trong việc chủ động thoát nghèo Về mặt khách quan, tái nghèo thường là hệ quả của các cuộc khủng hoảng kinh tế, thiên tai, dịch bệnh, hoặc những thay đổi trong chính hộ gia đình như bệnh tật, thay đổi công việc hay phương thức sản xuất, khiến họ rơi vào tình trạng khó khăn hơn.
Suy thoái kinh tế toàn cầu đang đe dọa đến việc đạt được các mục tiêu xóa đói giảm nghèo, đặc biệt là tại Việt Nam Theo bài viết của Thanh Bình trên VN Express, Việt Nam nằm trong nhóm các quốc gia có nguy cơ tái nghèo cao nhất, theo đánh giá của Ngân hàng Thế giới Để đạt được hiệu quả bền vững trong công tác xóa đói giảm nghèo, cần phải tập trung vào việc hạn chế các nguyên nhân dẫn đến tình trạng tái nghèo.
Minh họa rõ hơn cho nguy cơ tái nghèo là mô tả vòng lẩn quẩn của nghèo đói
Gia đình nghèo thường có trình độ học vấn thấp và số lượng con đông, dẫn đến tình trạng thất học do không đủ tiền cho con cái ăn học Thiếu hiểu biết về kế hoạch hóa gia đình khiến họ sinh con nhiều hơn Về mặt kinh tế, các hộ nghèo có thu nhập thấp, từ đó dẫn đến mức tích lũy và đầu tư thấp Điều này làm giảm khả năng đầu tư thâm canh, dẫn đến năng suất thấp và thu nhập không đủ sống Kết quả là, vòng lẩn quẩn của nghèo đói khiến các hộ gia đình không thể thoát khỏi tình trạng nghèo khó.
2.2.4 Sinh kế bền vững
Các nghiên cứu trước đây
Việc xác định các nguyên nhân của nghèo đói là cần thiết để hiểu rõ nguyên nhân dẫn đến tình trạng tái nghèo Thực tế cho thấy, nguyên nhân nghèo đói không chỉ đến từ một yếu tố đơn lẻ mà là sự kết hợp của nhiều nguyên nhân khác nhau Mỗi quốc gia và địa phương đều có những nguyên nhân riêng biệt ảnh hưởng đến tình trạng nghèo đói Tác giả đã tổng hợp một số nghiên cứu trước đó nhằm cung cấp cái nhìn tổng quan hơn về nguyên nhân nghèo đói tại các địa phương khác nhau.
Nghiên cứu của Lê Thanh Sơn (2008) về tình hình nghèo đói của các hộ gia đình ở biên giới Tây Nam đã chỉ ra bốn yếu tố chính ảnh hưởng đến tình trạng nghèo, bao gồm việc làm trong lĩnh vực nông nghiệp, số người phụ thuộc trong hộ, số năm học trung bình của người trưởng thành trong gia đình và diện tích đất canh tác.
Theo Trần Kỳ Việt (2009) nghiên cứu các yếu tố tác động đến nghèo ở huyện
An Phú, tỉnh An Giang, đóng vai trò quan trọng trong việc định hướng tăng trưởng kinh tế và xóa đói giảm nghèo nhờ vào nguồn đất đai phong phú, đa dạng loại hình nghề nghiệp và hệ thống giáo dục phát triển.
Theo nghiên cứu của Hồ Duy Khải (2010), xác suất nghèo của hộ gia đình tại vùng Gò Công, tỉnh Tiền Giang chịu ảnh hưởng bởi nhiều yếu tố, bao gồm trình độ học vấn của chủ hộ, diện tích đất nông nghiệp mà hộ gia đình sở hữu, số lượng nhân khẩu trong hộ, nghề nghiệp chính của chủ hộ, và số người trong hộ di cư để làm ăn ở các khu vực khác.
Nghiên cứu của Nguyễn Minh Hà, Lê Thành Công và Nguyễn Hữu Tịnh (2013) về tình trạng tái nghèo tại huyện Châu Thành, Đồng Tháp đã chỉ ra rằng có sáu yếu tố chính ảnh hưởng đến tình trạng này Các yếu tố bao gồm: tuổi của chủ hộ, tình trạng việc làm của chủ hộ, số người phụ thuộc trong gia đình, diện tích đất sản xuất bình quân mỗi người, vốn vay tín dụng của hộ và sự hỗ trợ từ chính quyền đối với các hộ gia đình.
Các yếu tố ảnh hưởng tới tái nghèo
Nghiên cứu cho thấy nhiều yếu tố tác động đến tình trạng nghèo đói, đặc biệt là khả năng tái nghèo của các hộ gia đình tại huyện Lai Vung, tỉnh Đồng Tháp Tác giả đã tổng hợp các yếu tố có thể ảnh hưởng từ những nghiên cứu trước để làm rõ nguyên nhân của vấn đề này.
2.4.1 Nghề nghiệp của chủ hộ gia đình:
Nghề nghiệp đóng vai trò quyết định trong việc giảm nghèo cho các hộ gia đình Những hộ có nghề nghiệp và thu nhập ổn định có khả năng tái nghèo rất thấp Ngược lại, hộ gia đình làm việc trong lĩnh vực nông nghiệp thường có thu nhập bình quân thấp hơn so với khu vực phi nông nghiệp, dẫn đến khả năng thoát nghèo kém hơn Hơn nữa, những gia đình phụ thuộc hoàn toàn vào thu nhập từ công việc làm thuê theo ngày sẽ đối mặt với nguy cơ tái nghèo cao do nguồn thu nhập không ổn định và bấp bênh.
Nghiên cứu của Huỳnh Nhật Trường (2011) tại huyện Cần Giờ cho thấy rằng hộ gia đình có chủ hộ làm trong lĩnh vực nông, lâm nghiệp, thủy hải sản có nguy cơ nghèo cao hơn so với các hộ khác Cụ thể, trong nhóm hộ nghèo, tỷ lệ hộ có chủ hộ làm trong lĩnh vực này chiếm 80,8%, trong khi chỉ có 19,2% hộ nghèo có chủ hộ làm ở lĩnh vực khác Đối với nhóm hộ cận nghèo, tỷ lệ hộ có chủ hộ làm ở lĩnh vực khác đạt 78,8%, cao hơn so với 21,2% hộ có chủ hộ làm trong nông, lâm nghiệp, thủy hải sản Đặc biệt, trong nhóm hộ khá, 100% chủ hộ đều làm việc trong các lĩnh vực khác.
Nghiên cứu của Hồ Duy Khải (2010) tại 152 hộ ở huyện Gò Công Đông và Gò Công Tây, tỉnh Tiền Giang cho thấy nghề nghiệp chính của chủ hộ có ảnh hưởng lớn đến tình trạng nghèo Cụ thể, 93,1% hộ nghèo có chủ hộ làm nông nghiệp, trong khi 78,3% hộ khá nghèo cũng thuộc lĩnh vực này Điều này chứng tỏ rằng đa số hộ nông nghiệp ở Gò Công rơi vào nhóm nghèo hoặc khá nghèo Người làm trong lĩnh vực nông nghiệp thường có thu nhập thấp và bấp bênh, dễ rơi vào tình trạng nghèo đói do thiếu việc làm ổn định.
Trình độ học vấn có mối liên hệ chặt chẽ với tình trạng nghèo đói, khi người nghèo thường có trình độ học vấn thấp và thiếu hiểu biết, dẫn đến khó khăn trong việc thoát khỏi vòng lẩn quẩn này Họ không có đủ khả năng tài chính để đầu tư cho giáo dục bản thân và gia đình, từ đó thiếu kiến thức cần thiết cho công việc, gây ra năng suất lao động thấp Kết quả là, sản phẩm họ tạo ra có chi phí cao nhưng giá thành thấp, dẫn đến lợi nhuận không đáng kể hoặc thậm chí không có Điều này khiến thu nhập của họ không ổn định và ngày càng giảm, đồng thời hạn chế cơ hội tìm kiếm việc làm tốt hơn Mức thu nhập chỉ đủ đáp ứng nhu cầu tối thiểu, do đó họ không có khả năng nâng cao trình độ học vấn để thoát nghèo trong tương lai, buộc phải làm những công việc thu nhập thấp và không ổn định trong lĩnh vực nông nghiệp.
Nghiên cứu của Trần Kỳ Việt (2009) tại 157 hộ gia đình ở hai xã và một thị trấn thuộc huyện An Phú, tỉnh An Giang cho thấy mối liên hệ giữa trình độ học vấn của chủ hộ và tỷ lệ nghèo Cụ thể, 88,24% hộ gia đình có chủ hộ chỉ học từ cấp tiểu học trở xuống rơi vào tình trạng nghèo, trong khi tỷ lệ này giảm dần ở các hộ có chủ hộ có trình độ học vấn cao hơn.
Nghiên cứu của Huỳnh Nhật Trường (2011) chỉ ra rằng trình độ học vấn của chủ hộ có tác động đáng kể đến tình trạng nghèo của hộ gia đình Cụ thể, những hộ có chủ hộ với trình độ học vấn cao thường có khả năng vượt qua ngưỡng nghèo, như được chứng minh trong nghiên cứu tại huyện Cần Giờ, thành phố Hồ Chí Minh.
Trình độ học vấn là yếu tố then chốt trong việc thoát nghèo Người có trình độ học vấn thấp thường gặp khó khăn trong việc tiếp thu kỹ năng và kỹ thuật mới, từ đó ảnh hưởng đến năng suất lao động và khả năng cải thiện thu nhập.
2.4.3 Giới tính của chủ hộ
Trong quan điểm của người Á Đông, đặc biệt là ở Việt Nam, vẫn tồn tại tư tưởng “Trọng nam, khinh nữ”, dẫn đến sự phân biệt rõ rệt giữa nam và nữ trong xã hội và phân công lao động Mặc dù xã hội đang hội nhập, nhưng quan niệm cho rằng phụ nữ chỉ phù hợp với công việc nhà và không cần học hành đã tạo ra những rào cản lớn Điều này không chỉ ảnh hưởng đến cơ hội tiếp cận thông tin và đào tạo của phụ nữ mà còn khiến họ thiếu quyền quyết định và nhận lương thấp hơn so với nam giới trong cùng một công việc, từ đó góp phần vào tình trạng đói nghèo.
Nghiên cứu của Bùi Quang Minh (2007) tại tỉnh Bình Phước cho thấy tỷ lệ nữ giới trong nhóm nghèo nhất đạt 16,3%, cao hơn so với các nhóm còn lại Mặc dù tỷ lệ nữ giới trong nhóm giàu lên tới 18,2%, nhưng giá trị tuyệt đối lại thấp hơn, không mang tính đại diện Bùi Quang Minh giải thích rằng chủ hộ nữ thường là quả phụ hoặc ly dị, dẫn đến khó khăn trong việc kiếm tiền nuôi sống gia đình, trong khi cơ hội làm việc với thu nhập cao hơn của họ vẫn hạn chế so với nam giới.
Nghiên cứu của Võ Tất Thắng (2004) tại 605 hộ gia đình ở tỉnh Ninh Thuận cho thấy rằng khả năng nghèo đói cao hơn ở các hộ do nữ chủ hộ so với các hộ do nam chủ hộ.
Giới tính đóng vai trò quan trọng trong việc thoát nghèo của hộ gia đình, khi phụ nữ thường gặp khó khăn trong việc tiếp cận thông tin đào tạo và hướng dẫn chuyên môn để nâng cao năng suất lao động Hơn nữa, phụ nữ thường nhận mức lương thấp hơn nam giới cho cùng một công việc, điều này càng làm giảm cơ hội cải thiện tình hình kinh tế của họ.
2.4.4 Quy mô hộ và số người phụ thuộc
Quy mô hộ gia đình đóng vai trò quan trọng trong việc xác định thu nhập bình quân của các thành viên Gia đình đông con không chỉ là nguyên nhân mà còn là hệ quả của tình trạng đói nghèo Điều này có thể hình dung như chiếc bánh thu nhập: gia đình đông con sẽ chia phần bánh nhỏ hơn cho mỗi người, trong khi gia đình ít con sẽ nhận phần lớn hơn Số lượng người phụ thuộc trong hộ gia đình là một yếu tố dẫn đến nghèo đói, khi không tạo ra thu nhập nhưng vẫn phải đối mặt với chi phí sinh hoạt.
Nghiên cứu của Võ Tất Thắng tại 605 hộ gia đình ở một thị xã và ba huyện thuộc tỉnh Ninh Thuận chỉ ra rằng tỷ lệ người phụ thuộc trong nhóm nghèo cao hơn so với nhóm giàu.
Hộ gia đình có quy mô lớn và nhiều người phụ thuộc thường có thu nhập bình quân đầu người thấp hơn, dẫn đến tình trạng nghèo đói Tại tỉnh Ninh Thuận, tỷ lệ người phụ thuộc trong nhóm nghèo lên tới 45%, trong khi nhóm giàu chỉ có 25%.
PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU
Quy trình nghiên cứu
Hình 3.1 Quy trình nghiên cứu
Xác định mục tiêu nghiên cứu Tham khảo các nghiên cứu trước
Thu thập dữ liệu Phân tích dữ liệu
Hoàn thiện báo cáo luận văn
Thiết kế bảng hỏi và mẫu nghiên cứu
Mô hình và giả thuyết nghiên cứu
Bước 1: Xác định mục tiêu nghiên cứu
Khi bắt đầu nghiên cứu, việc xác định mục tiêu rõ ràng là bước đầu tiên quan trọng Trong nghiên cứu này, tác giả đã xác định ba mục tiêu cần thực hiện.
(1) Đánh giá thực trạng tái nghèo của người dân tại huyện Lai Vung,
(2) Xác định các yếu tố ảnh hưởng và mức độ ảnh hưởng tới tình trạng tái nghèo của người dân huyện Lai Vung, tỉnh Đồng Tháp,
(3) Gợi ý các giải pháp chính sách nhằm giảm nghèo bền vững tại huyện Lai Vung
Bước 2: Tham khảo các nghiên cứu có trước
Để đạt được mục tiêu nghiên cứu, tác giả tiến hành khảo sát các tài liệu liên quan, từ đó tổng hợp và chỉ ra những hạn chế của các nghiên cứu trước Dựa vào các mô hình nghiên cứu hiện có, tác giả lựa chọn các yếu tố phù hợp với môi trường nghiên cứu của mình và đưa chúng vào mô hình giả thuyết của đề tài.
Bước 3: Thiết lập mô hình nghiên cứu và các giả thuyết là cần thiết để giải quyết vấn đề nghiên cứu Dựa trên kết quả nghiên cứu định tính và tham khảo các mô hình lý thuyết trước đó, tác giả đề xuất một số mô hình nghiên cứu cùng với các giả thuyết nhằm đánh giá các yếu tố ảnh hưởng đến tái nghèo.
Bước 4: Thiết kế bảng hỏi và mẫu nghiên cứu
Nghiên cứu được thiết kế để đạt được các mục tiêu đã đề ra, bao gồm xây dựng thang đo, xác định tổng thể và mẫu nghiên cứu với hơn 200 mẫu Dữ liệu được thu thập thông qua bảng hỏi trực tiếp từ các hộ dân, và phân tích dữ liệu được thực hiện phù hợp với mục tiêu nghiên cứu Phương pháp thu thập dữ liệu được lựa chọn dựa trên đối tượng và phạm vi nghiên cứu, đảm bảo tính khả thi và độ tin cậy cho kết quả phân tích.
Bước 5: Phân tích dữ liệu
Dữ liệu được thu thập và làm sạch trước khi tiến hành phân tích bằng các phương pháp thống kê phù hợp, bao gồm thống kê mô tả và phân tích hồi quy.
Bước 6: Hoàn thiện báo cáo luận văn
Sau khi phân tích dữ liệu, tác giả sẽ rút ra kết luận và soạn thảo báo cáo để giải đáp các vấn đề nghiên cứu đã đặt ra Bên cạnh đó, tác giả cũng sẽ chỉ ra những đóng góp, ý nghĩa, hạn chế của đề tài và đề xuất hướng nghiên cứu tiếp theo cho các nghiên cứu tương tự trong tương lai.
Mô hình và giả thuyết nghiên cứu
Tham khảo các nghiên cứu trước đây được tác giả trình bày chi tiết ở chương
2, tác giả đưa ra mô hình nghiên cứu như sau:
Hình 3.2 Mô hình nghiên cứu
Nguồn: Tổng hợp của tác giả (2017)
Nghề nghiệp và việc làm
Người nghèo thường thiếu việc làm ổn định, chủ yếu làm thuê hoặc làm việc trong nông nghiệp, trong khi người có thu nhập trung bình hoặc cao thường có công việc ổn định trong các lĩnh vực như buôn bán, dịch vụ hoặc công chức, với thu nhập tương đối hoặc cao hơn.
Do đó, giả thuyết tác giả đưa ra như sau:
H1: Chủ hộ có việc làm làm không ổn định có xu hướng tái nghèo cao hơn chủ hộ có nghề nghiệp ổn định
Tình trạng tái nghèo của hộ gia đình
Diện tích đất SX bình quân
Sự hỗ trợ từ Nhà nước
Trình độ học vấn
Trình độ học vấn của hộ gia đình thường phản ánh số năm đi học của chủ hộ, nhưng nhiều gia đình nghèo không đủ khả năng chi trả học phí cho con cái, dẫn đến việc trẻ em bỏ học sớm hoặc không được đi học Thiếu kiến thức và kỹ năng chuyên môn, người nghèo dễ rơi vào vòng lẩn quẩn của nghèo đói, khó có cơ hội thoát ra Tác giả đưa ra giả thuyết về mối liên hệ này.
H2: Trình độ học vấn của chủ hộ càng thấp thì khả năng tái nghèo càng cao Giới tính của chủ hộ
Giới tính của chủ hộ gia đình ảnh hưởng lớn đến lối sống và quyết định kinh tế của gia đình Chủ hộ nam thường có khả năng giao tiếp tốt và quyết đoán, giúp gia đình dễ dàng thoát nghèo Ngược lại, chủ hộ nữ thường dè chừng và ngại giao tiếp, dẫn đến khó khăn trong việc ra quyết định để cải thiện tình hình tài chính Tại vùng nông thôn, hộ gia đình do nữ làm chủ có nguy cơ tái nghèo cao hơn so với hộ do nam làm chủ, do phụ nữ thường ít có cơ hội việc làm với thu nhập cao và chủ yếu phụ thuộc vào thu nhập của nam giới.
H3: Chủ hộ là nữ giới có xu hướng tái nghèo nhiều hơn so với chủ hộ là nam giới
Quy mô hộ gia đình ảnh hưởng đáng kể đến mức thu nhập bình quân của các thành viên, với quy mô lớn dẫn đến chi tiêu cao hơn và ngược lại Điều này có nghĩa là những hộ gia đình đông con thường có nguy cơ tái nghèo cao hơn so với những hộ nhỏ Sự đông con không chỉ là hệ quả mà còn là nguyên nhân của tình trạng nghèo đói Do đó, tác giả đưa ra giả thuyết rằng quy mô hộ gia đình là yếu tố quan trọng cần xem xét trong bối cảnh nghèo đói.
H4: Hộ có quy mô nhỏ có khả năng tái nghèo thấp hơn hộ có quy mô lớn
Theo World Bank (2005), người phụ thuộc là những cá nhân trưởng thành không tham gia vào các hoạt động tạo thu nhập cho hộ gia đình, bao gồm cả những người ngoài độ tuổi lao động và những người mắc bệnh mãn tính Khi số lượng người phụ thuộc trong một hộ gia đình tăng lên, chi phí cho giáo dục và y tế cũng tăng theo, làm giảm khả năng tích lũy tài chính của gia đình Điều này dẫn đến việc hộ gia đình dễ rơi vào tình trạng vay tín dụng phi chính thức và có nguy cơ tái nghèo cao hơn so với những hộ gia đình có ít người phụ thuộc.
H5: Số người phụ thuộc trong hộ càng ít thì khả năng tái nghèo càng thấp Tuổi của chủ hộ
Tuổi của chủ hộ có ảnh hưởng lớn đến tình trạng nghèo đói của gia đình Những người lớn tuổi thường có nhiều kinh nghiệm trong sản xuất nông nghiệp, giúp họ đạt năng suất cao và tích lũy tài sản Ngược lại, chủ hộ trẻ tuổi, thường mới lập gia đình và thiếu kinh nghiệm, thường gặp khó khăn trong nông nghiệp, dẫn đến thu nhập thấp hơn Tác giả đưa ra giả thuyết về mối quan hệ này.
H6: Tuổi của chủ hộ càng lớn thì khả năng tái nghèo càng thấp
Diện tích đất bình quân trên đầu người là yếu tố quan trọng trong nông nghiệp, ảnh hưởng trực tiếp đến thu nhập của hộ gia đình ở vùng nông thôn Những hộ gia đình có diện tích đất bình quân thấp thường dễ rơi vào tình trạng tái nghèo hơn so với những hộ có diện tích đất cao hơn.
H7: Chủ hộ gia đình có diện tích đất càng nhiều thì khả năng tái nghèo càng thấp
Các nguồn vay tín dụng chính thức bao gồm ngân hàng chính sách xã hội, ngân hàng nông nghiệp và phát triển nông thôn, các ngân hàng khác, tổ chức tín dụng và quỹ hỗ trợ việc làm Trong khi đó, nguồn vay tín dụng phi chính thức thường đến từ người thân, bạn bè hoặc các cá nhân khác Việc vay tín dụng giúp hộ gia đình có thêm vốn để cải thiện điều kiện làm việc và mở rộng sản xuất, từ đó gia tăng thu nhập và tạo ra nguồn thu nhập ổn định, góp phần giúp hộ gia đình thoát nghèo bền vững.
H8: Chủ hộ gia đình sử dụng vốn vay tín dụng có khả năng tái nghèo thấp hơn chủ hộ không vay tín dụng
Các hộ gia đình nhận nhiều sự hỗ trợ từ Nhà nước thường có nguy cơ tái nghèo cao hơn so với những hộ ít nhận hỗ trợ Những gia đình nghèo thường được hưởng các chính sách như bảo hiểm y tế, giảm học phí cho học sinh và nhiều chương trình hỗ trợ khác Tác giả đã đưa ra giả thuyết về mối liên hệ này.
H9: Sự hỗ trợ của nhà nước có tác động làm giảm khả năng tái nghèo
3.3 Mẫu nghiên cứu và thu thập dữ liệu
Nghiên cứu được thực hiện trên các hộ dân đã thoát nghèo, với tình trạng hiện tại có thể vẫn duy trì thoát nghèo hoặc đối mặt với nguy cơ tái nghèo Tác giả áp dụng công thức chọn mẫu điều tra (N) theo phương pháp của Tabachnick và Fidell (1996).
Trong đó: n là số biến độc lập
Tác giả xác định 9 biến độc lập gồm: Tuổi chủ hộ, Giới tính chủ hộ, Học vấn chủ hộ, Việc làm, Quy mô hộ gia đình, Số người phụ thuộc, Diện tích đất sản xuất, Vay tín dụng, và Số tiền hỗ trợ Số mẫu điều tra ban đầu được tính là 122 quan sát (50 + 8*9), nhưng để tăng độ chính xác và giảm sai số, tác giả đã chọn 220 quan sát từ các xã, thị trấn thuộc huyện Lai Vung, tỉnh Đồng Tháp Danh sách hộ gia đình từng nghèo được Chi cục Thống kê huyện Lai Vung cung cấp, từ đó tác giả thực hiện chọn ngẫu nhiên số quan sát tại từng xã, thị trấn, với tổng cộng 220 quan sát đại diện.
Bảng 3.1 Số lượng quan sát ở từng xã, thị trấn
STT Xã, thị trấn Số hộ Số quan sát
Nguồn: Chi cục thống kê huyện Lai Vung và tác giả tổng hợp (2016)
Từ tháng 4 đến tháng 10 năm 2017, một cuộc điều tra đã được thực hiện tại các xã thuộc huyện Lai Vung, tỉnh Đồng Tháp, nhằm thu thập dữ liệu quan trọng để phân tích và đánh giá các yếu tố ảnh hưởng đến xác suất tái nghèo của các hộ gia đình Bảng khảo sát được thiết kế dựa trên các chỉ tiêu và biến nghiên cứu theo giả thuyết có tác động đến khả năng tái nghèo của người dân trong khu vực này.
3.3.2 Phương pháp thu thập dữ liệu
Tác giả đã thu thập dữ liệu bằng cách phát phiếu khảo sát trực tiếp đến các đối tượng, sử dụng phương pháp lấy mẫu thuận tiện, chủ yếu từ các hộ gia đình đã từng thuộc diện nghèo Các hộ được khảo sát có thể vẫn đang trong tình trạng nghèo hoặc đã thoát nghèo Mẫu được lấy đại diện từ từng xã, tuy nhiên số lượng mẫu ở mỗi xã khác nhau do các yếu tố thực tế trong quá trình thu thập Sau khi hoàn tất việc thu thập dữ liệu, tác giả đã nhập liệu vào Excel và mã hóa trước khi đưa vào phần mềm SPSS phiên bản 20 để tiến hành phân tích.