TỔNG QUAN CÁC VẤN ĐỀ NGHIÊN CỨU
Các nghiên cứu trên thế giới
Nghiên cứu của tác giả Ku Ismail và Chandler tập trung vào việc xác định các yếu tố ảnh hưởng đến tính kịp thời của báo cáo tài chính hàng quý tại sàn giao dịch chứng khoán Kuala Lumpur.
(2004) với bài báo “The timeliness of quarterly financial reports of companies in
Nghiên cứu về tính kịp thời của báo cáo hàng quý tại Malaysia cho thấy 117 công ty mất trung bình khoảng 56 ngày để phát hành báo cáo, chậm hơn so với các quốc gia khác Tính kịp thời của báo cáo bị ảnh hưởng bởi quy mô công ty, lợi nhuận, tốc độ tăng trưởng và tỷ suất vay vốn Các công ty lớn hơn, có lợi nhuận cao và đang phát triển thường công bố báo cáo nhanh hơn Phát hiện này hỗ trợ lý thuyết cho rằng các công ty lớn chịu áp lực từ các nhà phân tích để cung cấp thông tin kịp thời Ngoài ra, tin xấu thường mất nhiều thời gian hơn để được công bố so với tin tốt, do các nhà quản lý có động cơ trì hoãn thông tin tiêu cực Cuối cùng, các doanh nghiệp có đòn bẩy cao có xu hướng báo cáo chậm hơn, điều này có thể dẫn đến những điều chỉnh trong quy định về tính kịp thời của báo cáo hàng quý tại Malaysia trong tương lai.
Kế đến là Owusu-Ansah và Stergios Leventis (2006) với nghiên cứu
Nghiên cứu "Timeliness of Corporate Annual Financial Reporting in Greece" đăng trên tạp chí European Accounting Review, Vol 15, No 2, pp 273 – 287, 2006, đã khảo sát các yếu tố ảnh hưởng đến tính kịp thời của báo cáo tài chính hàng năm của 95 công ty phi tài chính niêm yết tại Sở Giao dịch Chứng khoán Athens Nghiên cứu xem xét tác động của đặc điểm công ty như quy mô (SIZE), đòn bẩy tài chính (GEAR), tỷ lệ cổ phần nội bộ (EQOS) và lĩnh vực hoạt động (INDT), cùng với các yếu tố kiểm toán như ý kiến của kiểm toán viên (RMAK) và loại công ty kiểm toán (AUDT) Kết quả cho thấy 92% công ty báo cáo sớm, 3% báo cáo đúng hạn và 5% báo cáo muộn Phân tích hồi quy đa biến chỉ ra rằng các công ty lớn, công ty dịch vụ và các công ty được kiểm toán bởi Big 5 có thời gian báo cáo ngắn hơn Nghiên cứu cũng chỉ ra rằng các công ty có tỷ lệ cổ phần nội bộ cao thường không kịp thời công bố báo cáo tài chính, trong khi không tìm thấy bằng chứng cho thấy chi phí giám sát ảnh hưởng đến tính kịp thời của báo cáo tài chính.
Tiếp đến là nghiên cứu của J Efrim Boritz (2006) với bài báo
“Determinants of the Timeliness of Quarterly Reporting: Evidence from
Nghiên cứu này phân tích các yếu tố ảnh hưởng đến tính kịp thời của báo cáo tài chính hàng quý tại Canada Tác giả giả thuyết rằng các công ty có tính minh bạch cao về môi trường thông tin sẽ công bố báo cáo tài chính giữa niên độ nhanh hơn so với các doanh nghiệp có tính minh bạch thấp Ngoài ra, các doanh nghiệp gặp nhiều vấn đề trọng yếu có khả năng trì hoãn việc công bố báo cáo tài chính hơn so với những doanh nghiệp có ít vấn đề Bằng chứng cho thấy rằng môi trường thông tin và các vấn đề trọng yếu liên quan đến tính kịp thời của báo cáo Đặc biệt, các công ty không có báo cáo tài chính giữa niên độ được kiểm toán thường công bố báo cáo chậm hơn so với những doanh nghiệp có báo cáo được xét duyệt Nghiên cứu cũng chỉ ra rằng ý kiến kiểm toán, thu nhập công ty, môi trường thông tin và chi phí hoa hồng đại lý có thể ảnh hưởng đến tính kịp thời của báo cáo tài chính giữa niên độ.
Nghiên cứu thực nghiệm này tập trung vào các yếu tố ảnh hưởng đến tính kịp thời của kiểm toán tại hai quốc gia đang phát triển, UAE và Bahrain Mục tiêu là phân tích và so sánh các yếu tố này để hiểu rõ hơn về thực trạng kiểm toán trong bối cảnh kinh tế của hai nước.
Khasharmeh va Aljifri (2010) với bài báo “The timeliness of annual reports in
Bahrain and the United Arab Emirates: An empirical comparative study” trên tạp chí The International Journal of Business and Finance Research, Volume 4, Number
Nghiên cứu nhằm kiểm tra các yếu tố quyết định sự chậm trễ kiểm toán tại hai nước đang phát triển, cụ thể là các Tiểu vương quốc Ả Rập Thống Nhất (UAE) và Bahrain, với mẫu gồm 83 công ty niêm yết trong năm 2004 Phân tích hồi quy được áp dụng để kiểm tra các giả thuyết, dựa trên mô hình trước đó của Ashton và cộng sự (1989) cùng Carslaw và Kaplan (1991) Mô hình nghiên cứu bao gồm các biến như tỷ số nợ, loại công ty kiểm toán, lĩnh vực hoạt động, quy mô công ty, hệ số giá trên thu nhập một cổ phiếu (P/E), khả năng sinh lời và tỷ lệ chi trả cổ tức Kết quả cho thấy tỷ suất lợi nhuận, tỷ số nợ, lĩnh vực hoạt động và tỷ lệ chi trả cổ tức có ảnh hưởng mạnh đến tính kịp thời của báo cáo hàng năm, trong khi loại công ty kiểm toán, quy mô doanh nghiệp và tỷ số P/E có tác động yếu hơn Tại UAE, tỷ lệ nợ và loại công ty kiểm toán được xác định có ảnh hưởng mạnh đến tính kịp thời, trong khi các biến khác không có ảnh hưởng đáng kể.
Với mục tiêu đo lường tính kịp thời của báo cáo tài chính, tác giả Asli Turel
Nghiên cứu "Timeliness of financial reporting in emerging capital markets: Evidence from Turkey" (Tính kịp thời của BCTC tại các nền kinh tế phát triển: Bằng chứng từ Thổ Nhĩ Kỳ), đăng trên tạp chí Istanbul University Journal of the School of Business Administration, đã khảo sát mối quan hệ giữa tính kịp thời báo cáo tài chính (TKT) và các yếu tố liên quan đến báo cáo kiểm toán của công ty niêm yết tại Thổ Nhĩ Kỳ Mẫu nghiên cứu bao gồm báo cáo tài chính của 211 công ty phi tài chính trên Sàn giao dịch chứng khoán Istanbul Kết quả cho thấy 59% công ty chuẩn bị báo cáo tài chính riêng và 66% công ty chuẩn bị báo cáo tài chính hợp nhất phát hành báo cáo tài chính trước thời hạn tối đa cho phép Ngược lại, 28% công ty chuẩn bị báo cáo tài chính riêng và 16% công ty hợp nhất đã vượt quá thời hạn quy định Tác giả chỉ ra rằng phần lớn các nghiên cứu trước đây chỉ tập trung vào BCTC của các công ty niêm yết ở các nước phát triển.
Nghiên cứu này khảo sát tác động của các nhân tố như quy mô công ty, thu nhập ròng, ý kiến kiểm toán, công ty kiểm toán và lĩnh vực hoạt động đến báo cáo tài chính (BCTC) của các công ty niêm yết trên sàn chứng khoán Istanbul trong các nền kinh tế mới phát triển Kết quả cho thấy thu nhập ròng, ý kiến kiểm toán, công ty kiểm toán và lĩnh vực hoạt động có ảnh hưởng đến tính kịp thời của BCTC, trong khi quy mô công ty không có tác động đáng kể đến yếu tố này.
Nghiên cứu của Khalid Alkhatib và Qais Marji (2012) mang tên “Audit reports timeliness: Empirical evidence from Jordan” đã điều tra các yếu tố ảnh hưởng đến tính kịp thời của báo cáo kiểm toán tại Jordan, với mẫu nghiên cứu gồm 137 công ty niêm yết trên Sở Giao dịch Chứng khoán Jordan Kết quả cho thấy trong lĩnh vực dịch vụ, các yếu tố như tỷ lệ sinh lời, loại công ty kiểm toán và quy mô công ty không ảnh hưởng đến thời gian kiểm toán, trong khi đòn bẩy là yếu tố duy nhất có mối tương quan đáng kể Ngược lại, trong lĩnh vực công nghiệp, các yếu tố tương tự cũng không có ảnh hưởng đến tính kịp thời của báo cáo kiểm toán.
Nghiên cứu của Ziyad Mustafa M, AL- Shwiyat (2013), “Affecting Factors
On The Timing Of The Issuance Of Annual Financial Reports: Empirical Study
On The Jordanian Public Shareholding Companies” trên tạp chí European
Bài viết này phân tích tác động của một số yếu tố đến tính kịp thời trong việc công bố thông tin báo cáo tài chính hàng năm, bao gồm quy mô công ty (tổng tài sản), thu nhập trên mỗi cổ phần (EPS), lợi nhuận trên vốn chủ sở hữu (ROE), lợi nhuận trên tổng tài sản (ROA), cổ tức trên mỗi cổ phiếu (DPS), tuổi thọ công ty, dòng tiền từ hoạt động kinh doanh và đòn bẩy tài chính Nghiên cứu được thực hiện trên mẫu 120 công ty niêm yết tại thị trường chứng khoán Jordan vào năm 2012, và kết quả cho thấy các công ty trong lĩnh vực công nghiệp thường cần nhiều thời gian hơn để công bố báo cáo tài chính so với quy định.
Phân tích cho thấy rằng quy mô công ty, tuổi thọ công ty và đòn bẩy tài chính có tác động tích cực đến tính kịp thời của báo cáo tài chính hàng năm, trong khi thu nhập trên mỗi cổ phần (EPS) lại ảnh hưởng tiêu cực đến vấn đề này Hơn nữa, không có mối liên hệ nào giữa lợi nhuận trên vốn chủ sở hữu, lợi nhuận trên tổng tài sản, dòng tiền hoạt động và cổ tức trên mỗi cổ phiếu với tính kịp thời công bố thông tin báo cáo tài chính hàng năm.
Tiếp theo là nghiên cứu của Khaldoon Ahmad Al Daoud , Ku Nor Izah Ku Ismail & Nor Asma Lode (2014), “The Timeliness of Financial Reporting among
Nghiên cứu "Jordanian Companies: Do Company and Board Characteristics, and Audit Opinion Matter?" điều tra ảnh hưởng của tính độc lập hội đồng quản trị, quy mô hội đồng, ý kiến kiểm toán viên, lợi nhuận và lĩnh vực hoạt động đến tính kịp thời của báo cáo tài chính (TKT) của các công ty Jordan Mẫu nghiên cứu bao gồm 114 báo cáo tài chính của các công ty niêm yết trên sàn giao dịch chứng khoán Amman trong năm 2012, với thời gian hoàn thành kiểm toán trung bình là 2 tháng Kết quả cho thấy lợi nhuận kinh doanh, ý kiến kiểm toán và quy mô hội đồng có ảnh hưởng tích cực đến TKT, trong khi tính độc lập của giám đốc và lĩnh vực hoạt động không có tác động đáng kể Nghiên cứu này cung cấp thông tin hữu ích cho các nhà hoạch định chính sách và quản lý trong việc xây dựng chiến lược liên quan đến tính kịp thời của báo cáo tài chính, mặc dù còn hạn chế do chỉ xem xét một số yếu tố cụ thể Các nghiên cứu trong tương lai nên mở rộng xem xét các cơ chế quản trị doanh nghiệp khác như chất lượng ủy ban kiểm toán, cơ cấu sở hữu và các cuộc họp hội đồng.
Tiếp theo phải nhắc đến nghiên cứu của Saqer Sulaiman Yousef AL-Tahat
(2015) với bài báo “Company Attributes and the Timeliness of Interim Financial
Nghiên cứu "Tính kịp thời của báo cáo tài chính tại Jordan" phân tích 193 báo cáo tài chính bán niên của các công ty niêm yết trên thị trường Chứng khoán Amman (ASEM) và xác định mối quan hệ giữa tính kịp thời và các thuộc tính của công ty như quy mô, lợi nhuận, tăng trưởng, tuổi, đòn bẩy, quy mô công ty kiểm toán và tình trạng niêm yết Kết quả cho thấy 89,6% công ty tuân thủ quy định về thời gian báo cáo, với trung bình chậm trễ là 30,95 ngày Nghiên cứu cũng chỉ ra rằng lợi nhuận, tăng trưởng, tuổi tác và tình trạng niêm yết ảnh hưởng đến tính kịp thời, trong khi quy mô công ty, đòn bẩy và quy mô công ty kiểm toán không có ảnh hưởng đáng kể Các công ty có khả năng sinh lời cao và niêm yết trên thị trường có thời gian báo cáo ngắn hơn, trong khi các công ty lớn tuổi và có mức tăng trưởng cao hơn thường mất nhiều thời gian hơn để công bố báo cáo.
Nghiên cứu của Amos O Arowoshegbe (2017) mang tiêu đề “Factors Affecting Timeliness of an Audit Report in Nigeria” đã đánh giá ảnh hưởng đến tính kịp thời của báo cáo kiểm toán tại Nigeria Mẫu nghiên cứu bao gồm 42 công ty niêm yết trên Sàn giao dịch chứng khoán Nigeria (NSE) trong giai đoạn 2012-2015, sử dụng phương pháp đo lường thực nghiệm và hồi quy bình thường bé nhất (OLS) để phân tích dữ liệu Kết quả cho thấy loại hình doanh nghiệp, quy mô công ty và tuổi của công ty đều ảnh hưởng đến tính kịp thời của báo cáo kiểm toán Đặc biệt, loại công ty kiểm toán có tác động đáng kể, trong khi độ tuổi và quy mô công ty cũng có ảnh hưởng quan trọng Nghiên cứu chỉ ra rằng công ty kiểm toán chuyển đổi không có ảnh hưởng đáng kể đến tính kịp thời của báo cáo Từ đó, tác giả khuyến nghị các công ty nên thiết lập các cơ chế nội bộ nhằm thúc đẩy quá trình báo cáo kiểm toán, và cơ quan quản lý cần tăng cường việc theo đuổi tính kịp thời của báo cáo kiểm toán giữa các công ty tại Nigeria.
Các nghiên cứu liên quan tại Việt nam
Tại Việt Nam, các nhà nghiên cứu đang ngày càng chú ý đến TKT (Tình hình Kinh tế Tài chính) của BCTC (Báo cáo Tài chính) của các công ty niêm yết trên sàn chứng khoán, với nhiều công trình nghiên cứu cụ thể được thực hiện.
Nghiên cứu của Đặng Đình Tân vào năm 2013, đăng trên tạp chí Công nghệ ngân hàng, đã chỉ ra các nhân tố ảnh hưởng đến tính kịp thời của báo cáo tài chính (BCTC) của các công ty niêm yết tại Việt Nam Mẫu nghiên cứu gồm 120 công ty trong hai năm 2010 và 2011 cho thấy sự khác biệt về tính kịp thời giữa các loại BCTC, có thể do quy định hiện hành và độ phức tạp trong việc lập và kiểm toán BCTC hợp nhất Đáng chú ý, nghiên cứu không tìm thấy mối liên hệ giữa tính kịp thời của BCTC và loại kiểm toán viên, điều này trái ngược với những nghiên cứu trước đó cho rằng các công ty kiểm toán thuộc Big 4 thường yêu cầu thời gian kiểm toán lâu hơn và có chất lượng kiểm toán cao hơn.
Vào năm 2013, Nguyễn An Nhiên đã thực hiện luận văn thạc sĩ nghiên cứu các yếu tố ảnh hưởng đến tính kịp thời của báo cáo tài chính tại các công ty niêm yết trên sàn chứng khoán Việt Nam Đề tài mang tên “Các nhân tố tác động đến tính kịp thời của BCTC các công ty niêm yết trên sàn chứng khoán Việt Nam” đã thu thập báo cáo tài chính của 173 công ty trên hai sàn chứng khoán.
Hà Nội và TPHCM năm 2012, nghiên cứu kế thừa của Owusu – Ansah và Leventis (2010) về tác động đến tính kịp thời (TKT) của báo cáo tài chính (BCTC) các công ty niêm yết trên sàn chứng khoán Athens TKT được đo lường bằng số ngày từ khi kết thúc năm tài chính đến ngày ký báo cáo kiểm toán, với mô hình nghiên cứu gồm 5 yếu tố: Quy mô công ty, loại công ty kiểm toán, loại BCTC (riêng lẻ hay hợp nhất), lợi nhuận kinh doanh (tỷ lệ lợi nhuận trên tổng tài sản và vốn chủ sở hữu), và loại ý kiến kiểm toán (chấp nhận toàn phần và không chấp nhận toàn phần) Mẫu được chọn ngẫu nhiên từ http://www.random.org và các BCTC từ http://cafef.vn Phương pháp phân tích sử dụng thống kê mô tả, ma trận hệ số tương quan và phân tích phương sai ANOVA để kiểm định mối quan hệ giữa các nhân tố tác động đến tính kịp thời của BCTC Kết quả phân tích cho thấy mối liên hệ đáng kể giữa các yếu tố này.
- Việc công bố thông tin của các công ty phải hợp nhất tiến hành chậm hơn so với các công ty khác
- Doanh nghiệp có kết quả kinh doanh tốt thường công bố thông tin sớm hơn trên thị trường chứng khoán
Báo cáo tài chính được kiểm toán với ý kiến chấp nhận toàn phần thường được công bố sớm hơn so với các báo cáo kiểm toán không được chấp nhận toàn phần.
- Quy mô công ty và loại công ty kiểm toán không có ảnh hưởng đến TKT của BCTC
Dựa trên kết quả nghiên cứu thực nghiệm, tác giả đã đề xuất một số kiến nghị nhằm tăng tính kịp thời của báo cáo tài chính
Nghiên cứu của Nguyễn Thị Hằng Nga và cộng sự (2015) đã phân tích các yếu tố ảnh hưởng đến tính kịp thời của báo cáo tài chính ngân hàng thương mại Việt Nam từ 184 quan sát trong giai đoạn 2007 – 2014 Các nhân tố được xem xét bao gồm quy mô ngân hàng, tỷ suất sinh lời trên vốn chủ sở hữu, công ty kiểm toán, sự thay đổi công ty kiểm toán, sự thay đổi lợi nhuận, báo cáo tài chính hợp nhất, loại ý kiến kiểm toán và tỷ lệ nợ xấu Kết quả cho thấy quy mô ngân hàng và tỷ lệ nợ xấu có tác động thuận chiều đến thời hạn công bố báo cáo tài chính, trong khi tỷ suất sinh lời trên vốn chủ sở hữu, sự thay đổi lợi nhuận và loại ý kiến kiểm toán lại có ảnh hưởng ngược chiều, rút ngắn thời hạn công bố Đặc biệt, ngân hàng có báo cáo tài chính được kiểm toán bởi Big 4 thường công bố sớm hơn Các yếu tố như loại báo cáo tài chính và sự thay đổi công ty kiểm toán tuy có dấu hiệu tích cực nhưng không đạt ý nghĩa thống kê.
Vào năm 2016, Phạm Ngọc Toàn đã công bố bài viết "Các nhân tố ảnh hưởng đến tính kịp thời của báo cáo tài chính các công ty niêm yết Sở giao dịch chứng khoán TPHCM" trên tạp chí Phát triển kinh tế, số 27(10), trang 76 Bài báo này nghiên cứu các yếu tố tác động đến độ kịp thời của báo cáo tài chính, một vấn đề quan trọng đối với các công ty niêm yết tại TPHCM.
93 Nghiên cứu nhằm xác định các nhân tố ảnh hưởng đến TKT của BCTC và phân tích tầm quan trọng về TKT của BCTC đối với nhà đầu tư Tác giả sử dụng phương pháp nghiên cứu định lượng để đánh giá mức độ tác động của các nhân tố đến TKT của BCTC, mẫu nghiên cứu gồm 77 CTNY trên sàn chứng khoán TPHCM Kết quả nghiên cứu cho thấy các nhân tố: Loại BCTC, lợi nhuận kinh doanh, loại công ty kiểm toán và đòn bẩy tài chính có tác động thuận chiều đến TKT của BCTC Trong khi đó quy mô công ty, ngành nghề kinh doanh có tác động nghịch chiều đến TKT của BCTC của các công ty niêm yết trên sàn giao dịch chứng khoán TPHCM
Luận văn thạc sĩ của Nguyễn Thị Xuân Vy năm 2014 nghiên cứu mối quan hệ giữa đặc trưng doanh nghiệp và tính kịp thời của việc công bố thông tin báo cáo tài chính tại các công ty niêm yết trên sàn chứng khoán Việt Nam Nghiên cứu được thực hiện dựa trên mẫu 100 công ty niêm yết có báo cáo tài chính trong giai đoạn 2012 – 2014 trên hai sàn giao dịch chứng khoán.
Nghiên cứu tập trung vào mối quan hệ giữa cấu trúc, tài chính và kiểm toán độc lập với tính kịp thời của báo cáo tài chính tại Hà Nội và thành phố Hồ Chí Minh, loại trừ các công ty tài chính, ngân hàng và chứng khoán Phương pháp nghiên cứu sử dụng thống kê mô tả, phân tích tương quan và hồi quy tuyến tính để định lượng các yếu tố ảnh hưởng Tác giả xác định năm nhân tố chính gồm số lượng công ty con, tính phức tạp trong hoạt động, thu nhập trên cổ phiếu, biến đổi khả năng sinh lời và ý kiến kiểm toán Phân tích sử dụng công cụ Stata cho thấy số lượng công ty con và tính đa dạng trong hoạt động có mối quan hệ tích cực với tính kịp thời của báo cáo tài chính, trong khi biến đổi khả năng sinh lời và ý kiến kiểm toán lại có tác động tiêu cực đến tính kịp thời này.
Nghiên cứu của tác giả Lê Phương Thảo trong luận văn thạc sĩ "Ảnh hưởng của sự thay đổi ý kiến kiểm toán đến tính kịp thời của báo cáo tài chính của các công ty niêm yết tại Sở giao dịch chứng khoán Thành phố Hồ Chí Minh" nhằm tìm hiểu ảnh hưởng của sự thay đổi ý kiến kiểm toán và mức độ thay đổi ý kiến kiểm toán đến thời gian công bố thông tin trên báo cáo tài chính (BCTC) Nghiên cứu sử dụng dữ liệu của 252 công ty niêm yết giai đoạn 2013-2016, thu thập các thông tin như loại ý kiến kiểm toán, ngày ký báo cáo, thu nhập thuần, tổng tài sản và nguồn vốn Kết quả phân tích hồi quy cho thấy sự cải thiện ý kiến kiểm toán có mối quan hệ tích cực với tính kịp thời của BCTC, tức là mức độ thay đổi ý kiến kiểm toán càng lớn thì thời gian công bố BCTC càng giảm Nghiên cứu khẳng định doanh nghiệp có xu hướng công bố thông tin tốt kịp thời hơn thông tin xấu và đưa ra các kiến nghị nhằm nâng cao tính kịp thời của BCTC cho nhà quản lý, công ty kiểm toán và doanh nghiệp niêm yết.
Năm 2018, nghiên cứu "Các nhân tố ảnh hưởng đến tính kịp thời của báo cáo tài chính" của tác giả Đoàn Thị Cẩm Thu đã được công bố trên tạp chí Công nghệ ngân hàng Mục tiêu chính của nghiên cứu này là phân tích các yếu tố ảnh hưởng đến tính kịp thời của báo cáo tài chính (BCTC) và đề xuất các giải pháp cải thiện tính kịp thời của BCTC tại các công ty niêm yết ở Việt Nam Sử dụng phương pháp định lượng với 825 quan sát từ BCTC của các công ty niêm yết trên thị trường chứng khoán Việt Nam, nghiên cứu cung cấp những kết quả đáng chú ý về các yếu tố ảnh hưởng đến tính kịp thời của BCTC.
Nghiên cứu giai đoạn 2011 – 2015 chỉ ra rằng tỷ suất lợi nhuận trên vốn chủ sở hữu, sự thay đổi lợi nhuận và loại ý kiến kiểm toán đều ảnh hưởng tích cực đến tính kịp thời của báo cáo tài chính (BCTC) Ngược lại, loại BCTC và loại công ty kiểm toán lại có tác động tiêu cực đến yếu tố này Dựa trên kết quả nghiên cứu, tác giả đề xuất một số chính sách nhằm nâng cao tính kịp thời của BCTC cho các công ty niêm yết tại Việt Nam.
Khe hổng nghiên cứu…
Trên thế giới, nhiều nghiên cứu đã được thực hiện về tính kịp thời của báo cáo tài chính (BCTC) của các công ty niêm yết trên sàn chứng khoán, nhưng chủ yếu tập trung vào các quốc gia phát triển và thị trường chứng khoán đã có từ lâu Tại Việt Nam, các nghiên cứu chủ yếu phân tích và kiểm tra BCTC của các công ty niêm yết, nhằm nâng cao tính minh bạch và hoàn thiện thông tin kế toán Tuy nhiên, rất ít nghiên cứu đề cập đến tính kịp thời của BCTC bán niên trên sàn giao dịch chứng khoán TP.HCM Điều này đặt ra câu hỏi về thực trạng tính kịp thời của BCTC bán niên và các yếu tố ảnh hưởng đến nó.
Luận văn này nghiên cứu các nhân tố ảnh hưởng đến tính kịp thời của báo cáo tài chính (BCTC) bán niên của các công ty niêm yết trên sàn giao dịch chứng khoán TP.HCM Phương pháp định lượng được sử dụng để kiểm định mô hình các nhân tố, dựa trên các nghiên cứu trước đó, đặc biệt là mô hình của Saqer Sulaiman Yousef AL-Tahat (2015) Kết quả nghiên cứu làm rõ lý luận và thực tiễn liên quan đến tính kịp thời của BCTC bán niên, đồng thời đề xuất các giải pháp nhằm nâng cao tính kịp thời, góp phần vào việc nâng cao hiệu quả hoạt động của thị trường chứng khoán.
Chương này đánh giá tổng quan các nghiên cứu trong và ngoài nước liên quan đến tính kịp thời của báo cáo tài chính (BCTC) Các kết quả cho thấy nhiều yếu tố ảnh hưởng đến tính kịp thời của BCTC đã được nghiên cứu tại các thị trường chứng khoán toàn cầu, chủ yếu ở các nước phát triển Mặc dù Việt Nam cũng có nghiên cứu về vấn đề này, nhưng chưa có nhiều nghiên cứu chuyên sâu về tính kịp thời của BCTC bán niên Điều này chỉ ra một khe hổng cần được khai thác, làm nền tảng cho các bước nghiên cứu tiếp theo Từ đó, đề tài sẽ phát triển hướng nghiên cứu mới và cung cấp bằng chứng thực nghiệm về ảnh hưởng của các yếu tố đến tính kịp thời của BCTC bán niên trên sàn giao dịch chứng khoán TPHCM, nhằm đề xuất các kiến nghị cải thiện tính kịp thời của BCTC.
CƠ SỞ LÝ THUYẾT VỀ TÍNH KỊP THỜI CỦA BÁO CÁO TÀI CHÍNH
Một số vấn đề chung…
2.1.1 Khái niệm báo cáo tài chính
BCTC là báo cáo tổng hợp quan trọng, phản ánh tình hình tài sản, vốn chủ sở hữu và nợ phải trả của doanh nghiệp, cùng với kết quả tài chính trong kỳ Nó cung cấp cái nhìn rõ nét về khả năng sinh lời và tình trạng tài chính của doanh nghiệp, phục vụ cho các đối tượng quan tâm như chủ doanh nghiệp, nhà đầu tư, nhà cho vay, cơ quan thuế và các cơ quan chức năng.
Theo luật kế toán 2015, báo cáo tài chính là hệ thống thông tin kinh tế và tài chính của đơn vị kế toán, được trình bày theo mẫu quy định tại chuẩn mực và chế độ kế toán Điều 29 quy định rằng báo cáo tài chính dùng để tổng hợp và giải thích tình hình tài chính cùng kết quả hoạt động của đơn vị Báo cáo tài chính bao gồm: báo cáo tình hình tài chính, báo cáo kết quả hoạt động, báo cáo lưu chuyển tiền tệ, thuyết minh báo cáo tài chính và các báo cáo khác theo quy định của pháp luật.
Theo chuẩn mực số 21, báo cáo tài chính phản ánh tình hình tài chính và kết quả kinh doanh của doanh nghiệp theo cấu trúc chặt chẽ Mục đích chính của báo cáo tài chính là cung cấp thông tin hữu ích về tình hình tài chính, hoạt động kinh doanh và luồng tiền của doanh nghiệp, nhằm hỗ trợ người sử dụng trong việc đưa ra quyết định kinh tế Để đạt được mục tiêu này, báo cáo tài chính cần cung cấp thông tin về chi phí, lãi và lỗ, cũng như các luồng tiền.
Thông tin trong Bản thuyết minh báo cáo tài chính cung cấp cái nhìn rõ ràng về các luồng tiền tương lai, giúp người sử dụng dự đoán thời điểm và mức độ chắc chắn của việc tạo ra các luồng tiền và khoản tương đương tiền.
2.1.2 Mục đích báo cáo tài chính
Báo cáo tài chính là công cụ cung cấp thông tin quan trọng về tình hình tài chính, hoạt động kinh doanh và dòng tiền của doanh nghiệp Nó phục vụ nhu cầu quản lý của chủ doanh nghiệp, cơ quan Nhà nước và hỗ trợ người dùng trong việc đưa ra các quyết định kinh tế hiệu quả (Theo VAS 21)
2.1.3 Vai trò báo cáo tài chính Đối với doanh nghiệp: BCTC có vai trò quan trọng đối với sự phát triển của doanh nghiệp Dựa vào số liệu được cung cấp trên BCTC giúp nhà quản trị các cấp trong doanh nghiệp đưa ra những quyết định kinh doanh kịp thời và chính xác trong quá trình điều hành hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp, tạo ra cơ hội đầu tư cho DN Các cổ đông sử dụng BCTC để theo dõi tình hình sử dụng vốn của
Báo cáo tài chính (BCTC) là công cụ quan trọng giúp doanh nghiệp (DN) trong quá trình hội nhập kinh tế quốc tế Đối với nhà đầu tư, BCTC cung cấp cái nhìn rõ ràng về tình hình hoạt động của DN, cho phép họ đánh giá hiệu quả hoạt động và đưa ra quyết định đầu tư hợp lý Ngoài ra, người cho vay và nhà cung cấp vật liệu sử dụng BCTC để xác định khả năng thanh toán của DN, từ đó giảm thiểu rủi ro trong giao dịch.
2.1.4 Ý nghĩa của Báo cáo tài chính
Hệ thống báo cáo tài chính của doanh nghiệp được lập với ý nghĩa sau:
Báo cáo tài chính (BCTC) tổng hợp và trình bày một cách toàn diện tình hình tài sản, nguồn vốn, công nợ, cũng như kết quả kinh doanh của doanh nghiệp trong kỳ kế toán BCTC cung cấp các thông tin kinh tế, tài chính chủ yếu, giúp đánh giá tình hình và kết quả hoạt động của doanh nghiệp BCTC có vai trò quan trọng trong quản lý kinh tế và thu hút sự quan tâm từ nhiều đối tượng khác nhau Mỗi đối tượng tiếp cận BCTC với một góc độ riêng, nhưng chung quy lại đều nhằm mục đích thu thập thông tin cần thiết để đưa ra quyết định phù hợp với mục tiêu của họ.
Báo cáo tài chính (BCTC) là công cụ quan trọng cho các nhà quản lý doanh nghiệp, cung cấp thông tin tổng hợp về tài sản và nguồn hình thành tài sản, cũng như tình hình và kết quả kinh doanh sau một kỳ hoạt động Dựa trên những thông tin này, nhà quản lý có thể phân tích, đánh giá và đưa ra các giải pháp, quyết định quản lý kịp thời, phù hợp nhằm thúc đẩy sự phát triển bền vững của doanh nghiệp trong tương lai.
Báo cáo tài chính (BCTC) đóng vai trò quan trọng đối với các cơ quan nhà nước như tài chính, ngân hàng, kiểm toán và thuế, giúp trong việc kiểm tra, giám sát, hướng dẫn và tư vấn cho doanh nghiệp thực hiện các chính sách và chế độ kinh tế tài chính.
Báo cáo tài chính (BCTC) đóng vai trò quan trọng đối với nhà đầu tư và các nhà cho vay, giúp họ đánh giá khả năng tài chính, tình hình sử dụng tài sản, nguồn vốn, khả năng sinh lời và hiệu quả hoạt động sản xuất kinh doanh Thông qua BCTC, họ có thể xác định mức độ rủi ro và đưa ra quyết định đầu tư hoặc cho vay phù hợp.
Báo cáo tài chính (BCTC) cung cấp cho khách hàng thông tin quan trọng về năng lực sản xuất, mức độ tiêu thụ sản phẩm, khả năng sinh lời, độ uy tín và chính sách đãi ngộ khách hàng của doanh nghiệp Những dữ liệu này giúp khách hàng đưa ra quyết định chính xác khi lựa chọn mua sắm sản phẩm.
2.1.5 Các yêu cầu cơ bản của BCTC:
BCTC cần được lập một cách chính xác, trung thực và đúng theo biểu mẫu quy định Để đảm bảo tính pháp lý của báo cáo, BCTC phải có đầy đủ chữ ký xét duyệt của những người liên quan và có dấu xác nhận của đơn vị.
BCTC cần đảm bảo tính nhất quán về nội dung, trình tự và phương pháp lập theo quy định của Nhà nước, giúp người sử dụng dễ dàng so sánh và đánh giá hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp qua các giai đoạn khác nhau.
- Số liệu được phản ánh trong báo cáo phải rõ ràng, đủ độ tin cậy và dễ hiểu, đảm bảo thuận tiện cho người sử dụng
Báo cáo tài chính (BCTC) cần được lập và gửi đúng hạn theo quy định, đồng thời tuân thủ các nguyên tắc và chuẩn mực kế toán được công nhận Việc này đảm bảo rằng hệ thống BCTC sẽ phát huy tính hữu ích, đáp ứng đầy đủ yêu cầu của các đối tượng sử dụng trong quá trình ra quyết định.
Các lý thuyết nền
2.3.1 Lý thuyết thông tin hữu ích cho việc ra quyết định
Kể từ những năm 1950-1970, nghiên cứu chuẩn tắc về kế toán đã dẫn đến việc xây dựng và ban hành các khuôn mẫu lý thuyết kế toán bởi các tổ chức lập quy, tạo thành nền tảng cho hệ thống kế toán tài chính hiện đại trên toàn cầu.
Lý thuyết thông tin đóng vai trò quan trọng trong việc hỗ trợ quyết định, bắt nguồn từ mục tiêu của kế toán là cung cấp thông tin có giá trị cho người sử dụng, giúp họ đưa ra những quyết định kinh tế hợp lý.
Báo cáo tài chính (BCTC) cần đảm bảo các đặc điểm chất lượng như cung cấp thông tin thích hợp giúp người sử dụng đánh giá quá khứ và dự đoán tương lai của doanh nghiệp Thông tin này phải phản ánh trung thực tình hình doanh nghiệp, đúng bản chất các hiện tượng kinh tế Theo lý thuyết thông tin hữu ích, BCTC phải được xây dựng trên giả thiết rằng luôn có sự mất cân đối thông tin giữa người lập và người sử dụng Nhu cầu thông tin kế toán cần được xác định qua thực tiễn, và việc đáp ứng thông tin phải được thực hiện bởi các bên có lợi ích liên quan đến tình hình tài chính doanh nghiệp Tính hữu ích của thông tin cần được đánh giá dựa trên mối tương quan lợi ích – chi phí Do đó, BCTC phải cung cấp thông tin cần thiết và kịp thời cho quyết định của người sử dụng, đặc biệt là nhà đầu tư và chủ nợ.
Theo lý thuyết thông tin hữu ích, thông tin báo cáo tài chính (BCTC) được cung cấp nhằm đáp ứng nhu cầu của người sử dụng trong quá trình ra quyết định Tính hữu ích của thông tin được đánh giá qua khả năng hỗ trợ cho các đối tượng sử dụng, đặc biệt là trong việc đánh giá chất lượng thông tin mà các công ty niêm yết công bố Các công ty niêm yết có kinh nghiệm lâu năm và đội ngũ kế toán chuyên nghiệp thường công bố BCTC nhanh hơn so với các công ty mới thành lập Hơn nữa, việc sử dụng dịch vụ kiểm toán từ các công ty danh tiếng như Big4 cũng gia tăng sự tin tưởng của nhà đầu tư và chủ nợ đối với tính minh bạch và hữu ích của thông tin Lý thuyết này giúp giải thích ảnh hưởng của tuổi thọ công ty và loại hình kiểm toán đến tính kịp thời của BCTC bán niên của các công ty niêm yết.
2.3.2 Lý thuyết đại diện (Agency theory)
Lý thuyết đại diện, được phát triển bởi Jensen và Meckling (1976) cùng với Fama và Jensen (1983), nghiên cứu mối quan hệ giữa bên ủy nhiệm và bên được ủy nhiệm Trong lý thuyết này, bên được ủy nhiệm thực hiện vai trò quản lý thay mặt cho bên ủy nhiệm.
Theo Letza và cộng sự (2008), các nhà quản lý thường chỉ hành động nhằm tối đa hóa giá trị cổ đông khi không mâu thuẫn với lợi ích cá nhân của họ Điều này cho thấy sự thiếu quan tâm của nhà quản trị đối với lợi ích của cổ đông, dẫn đến việc phát sinh chi phí đại diện (agent costs) Những chi phí này cần thiết để duy trì mối quan hệ đại diện hiệu quả, chẳng hạn như các khoản tiền thưởng khuyến khích nhà quản trị làm việc vì lợi ích của cổ đông.
Theo Healy và Palepu (2001), hợp đồng tối ưu giữa nhà quản trị và nhà đầu tư giúp điều chỉnh thù lao và tiền thưởng của nhà quản trị, từ đó hòa hợp lợi ích giữa doanh nghiệp và nhà đầu tư bên ngoài Những hợp đồng này yêu cầu doanh nghiệp phải sử dụng thông tin từ hệ thống kế toán quản trị, bao gồm hệ thống ngân sách và thông tin kiểm soát chi phí, nhằm phục vụ lợi ích của nhà đầu tư.
Theo lý thuyết người đại diện, trong các doanh nghiệp lớn, mâu thuẫn giữa bên ủy nhiệm và bên được ủy nhiệm là đáng kể do người điều hành chỉ sở hữu một phần nhỏ cổ phần Để giảm chi phí ủy nhiệm, người điều hành cần công bố thông tin kịp thời và đầy đủ đến các cổ đông Lý thuyết này giải thích ảnh hưởng của quy mô đến tính kịp thời của báo cáo tài chính (BCTC) Hơn nữa, nó cũng làm rõ tác động của lợi nhuận kinh doanh đến tính kịp thời của BCTC, khi các công ty có lợi nhuận cao thường có xu hướng công bố thông tin nhiều hơn để thể hiện khả năng quản lý.
Lý thuyết đại diện giúp giải thích tác động của quy mô công ty, lợi nhuận kinh doanh và đòn bẩy tài chính đến tính kịp thời của báo cáo tài chính bán niên ở các công ty niêm yết.
2.3.3 Lý thuyết thông tin bất cân xứng (Asymmetric information)
Bất cân xứng thông tin, lần đầu được đề cập vào những năm 1970 và được nghiên cứu sâu vào năm 2001 bởi các nhà kinh tế học George Akerlof, Michael Spence và Jose Stiglitz, xảy ra khi các bên giao dịch che giấu thông tin, khiến người mua không có thông tin đầy đủ và chính xác Điều này dẫn đến việc người mua trả giá thấp hơn giá trị thực của hàng hóa, làm giảm động lực sản xuất của người bán và tạo ra xu hướng cung cấp sản phẩm chất lượng trung bình Hệ quả là thị trường có thể chỉ còn lại những sản phẩm kém chất lượng, gây ra tình trạng lựa chọn đối kháng (adverse selection) và dẫn đến rủi ro đạo đức (moral hazard) cũng như độc quyền thông tin (information monopoly).
Trong thị trường chứng khoán, thông tin bất cân xứng xảy ra khi các bên giao dịch che giấu thông tin bất lợi, phóng đại thông tin tích cực hoặc cung cấp thông tin không công bằng cho các nhà đầu tư Biểu hiện của sự bất cân xứng thông tin bao gồm việc doanh nghiệp sau khi phát hành cổ phiếu không đầu tư vào sản xuất kinh doanh mà chỉ tập trung vào việc đẩy giá cổ phiếu, rò rỉ thông tin nội gián, tạo cung cầu ảo, tung tin đồn thất thiệt và cung cấp thông tin sai lệch Hệ quả của bất cân xứng thông tin dẫn đến sự lựa chọn bất lợi và rủi ro đạo đức, làm méo mó quyết định tham gia thị trường của các chủ thể kinh tế và có thể dẫn đến thất bại của thị trường.
Bất cân xứng thông tin là hiện tượng phổ biến trong tất cả các lĩnh vực kinh tế, bao gồm cả thị trường chứng khoán Hiện tượng này gây ra những hậu quả tiêu cực, ảnh hưởng đến nhiều thành viên tham gia thị trường như nhà đầu tư và tổ chức phát hành chứng khoán, đồng thời tác động chung đến toàn bộ thị trường.
Thông tin không cân xứng có tác động tiêu cực đến nhà đầu tư và doanh nghiệp trên thị trường chứng khoán (TTCK), dẫn đến sự giảm sút hứng thú của họ đối với TTCK, từ đó cản trở sự phát triển của thị trường và nền kinh tế Hơn nữa, việc lợi dụng thông tin nội gián để giao dịch chứng khoán và tạo ra cung cầu ảo trong thời gian dài có thể làm gia tăng nguy cơ sụp đổ cho thị trường.
Trên thị trường chứng khoán, bất cân xứng thông tin xảy ra khi doanh nghiệp công bố thông tin không đầy đủ hoặc không hữu ích, như việc che giấu thông tin bất lợi hoặc thổi phồng thông tin có lợi Điều này làm giảm chất lượng thông tin kế toán trong báo cáo tài chính, khiến nhà đầu tư phụ thuộc vào thông tin công bố từ doanh nghiệp và báo cáo kiểm toán để xác minh độ tin cậy Hàng hóa trên thị trường chứng khoán, như cổ phiếu và trái phiếu, là vô hình và dựa vào uy tín của doanh nghiệp, do đó, thông tin kế toán hữu ích là yếu tố quan trọng giúp nhà đầu tư đưa ra quyết định sáng suốt Sự bất cân xứng thông tin còn thể hiện ở việc một số bên tham gia giao dịch, như ban điều hành công ty và cổ đông lớn, có nhiều thông tin hơn so với các nhà đầu tư khác, dẫn đến tình trạng thông tin không đầy đủ, không kịp thời, không tin cậy và không dễ tiếp cận cho những nhà đầu tư còn lại trên thị trường.
Lý thuyết thông tin bất cân xứng giải thích tác động của quy mô công ty, đòn bẩy tài chính và lợi nhuận kinh doanh đến tính kịp thời của báo cáo tài chính bán niên của các công ty niêm yết.
Các nhân tố ảnh hưởng đến tính kịp thời của BCTC
Hiện nay, nhiều tác giả trên thế giới đang nghiên cứu các yếu tố ảnh hưởng đến tính kịp thời của báo cáo tài chính (BCTC) Mỗi nghiên cứu được thực hiện với các phương pháp đo lường khác nhau và tại nhiều quốc gia khác nhau, trong đó có những yếu tố chung và những yếu tố được bổ sung từ các nghiên cứu khác.
Luận văn này tiếp tục phát triển mô hình nghiên cứu về tính kịp thời của báo cáo tài chính (BCTC) tại các quốc gia có thị trường chứng khoán đang phát triển, dựa trên công trình của hai nhà nghiên cứu tiêu biểu.
Nghiên cứu của Ku Ismail & Chandler (2004) tập trung vào việc đánh giá tính kịp thời của báo cáo tài chính hàng quý của các công ty niêm yết trên Sàn giao dịch chứng khoán Kuala Lumpur (KLSE) Nghiên cứu này không chỉ dừng lại ở các phân tích trước đây mà còn mở rộng bằng cách làm rõ mối liên hệ giữa tính kịp thời và các thuộc tính cụ thể của từng công ty.
Nghiên cứu chỉ ra rằng quy mô công ty, lợi nhuận, tốc độ tăng trưởng và đòn bẩy tài chính đều có tác động tích cực đến TKT của BCTC từng quý, trong khi các yếu tố khác không ảnh hưởng đáng kể đến TKT này.
Nghiên cứu của Saqer Sulaiman Yousef AL-Tahat (2015) đã kiểm tra tác động của các yếu tố như quy mô, lợi nhuận, tốc độ tăng trưởng, tuổi, đòn bẩy tài chính, quy mô công ty kiểm toán và tình trạng niêm yết thị trường đến tính kịp thời của báo cáo kiểm toán tại các công ty niêm yết trên thị trường chứng khoán Jordan Kết quả cho thấy rằng tính kịp thời của báo cáo tài chính bán niên bị ảnh hưởng bởi lợi nhuận, sự tăng trưởng, độ tuổi và tình trạng niêm yết của công ty Tuy nhiên, quy mô công ty, đòn bẩy tài chính và quy mô công ty kiểm toán không có ảnh hưởng đáng kể đến tính kịp thời của báo cáo tài chính bán niên.
Dựa trên lý thuyết và kết quả thực tiễn từ nghiên cứu của Ku Ismail & Chandler, Saqer Sulaiman Yousef AL-Tahat, luận văn đề xuất một mô hình nhằm kiểm định ảnh hưởng của các nhân tố đến tính khả thi (TKT) của báo cáo tài chính bán niên các công ty niêm yết trên sàn giao dịch chứng khoán TPHCM Mô hình này bao gồm 6 nhân tố chính được mô tả chi tiết trong nghiên cứu.
Hình 2.1: Mô hình nghiên cứu
(Nguồn: Tác giả tổng hợp)
Mô hình nghiên cứu đã loại bỏ một số yếu tố do tính thực tế trong việc thu thập dữ liệu, chẳng hạn như tình trạng niêm yết thị trường của Saqer Sulaiman Yousef AL-Tahat Tại Việt Nam, dữ liệu báo cáo tài chính bán niên chỉ có thể tiếp cận tại sàn giao dịch chứng khoán thành phố Hồ Chí Minh, trong khi các báo cáo này không được công bố công khai, dẫn đến khó khăn trong việc tiếp cận thông tin Hơn nữa, tính minh bạch của thông tin cần được kiểm tra và xem xét lại, cùng với một số yếu tố liên quan đến báo cáo.
Tốc độ tăng trưởng Độ tuổi của công ty Đòn bẩy tài chính
Loại công ty kiểm toán
Tính kịp thời của báo cáo tài chính bán niên (BCTC) là yếu tố quan trọng, và tác giả đã phân tích mối liên hệ giữa các nhân tố ảnh hưởng đến tính kịp thời này với các lý thuyết nền tảng Việc hiểu rõ các yếu tố tác động sẽ giúp cải thiện chất lượng và độ tin cậy của BCTC bán niên, từ đó nâng cao khả năng ra quyết định của các nhà đầu tư và các bên liên quan.
Bảng 2.1: Bảng phân tích mối liên hệ giữa các nhân tố và lý thuyết nền
Nhân tố Tác giả Lý thuyết nền
Quy mô công ty Ku Ismail & Chandler,
Saqer Sulaiman Yousef AL-Tahat
Lý thuyết người đại diện
Lợi nhuận kinh doanh Ku Ismail & Chandler,
Saqer Sulaiman Yousef AL-Tahat
Lý thuyết người đại diện, lý thuyết thông tin bất cân xứng
Tốc độ tăng trưởng Ku Ismail & Chandler,
Saqer Sulaiman Yousef AL-Tahat
Lý thuyết người đại diện, lý thuyết thông tin bất cân xứng Độ tuổi của công ty Saqer Sulaiman Yousef
Lý thuyết thông tin hữu ích cho người ra quyết định Đòn bẩy tài chính Ku Ismail & Chandler,
Saqer Sulaiman Yousef AL-Tahat
Lý thuyết người đại diện
Loại công ty kiểm toán Saqer Sulaiman Yousef
Lý thuyết thông tin hữu ích cho người ra quyết định
(Nguồn: Tác giả tổng hợp từ các nghiên cứu trước)
Chương 2 của luận văn đã trình bày các lý thuyết cơ bản liên quan đến nghiên cứu, nhấn mạnh vai trò quan trọng của tính kịp thời trong báo cáo tài chính (BCTC) bán niên Luận văn cũng xem xét các quy định liên quan đến BCTC và các khía cạnh của nó Tác giả đã kế thừa những thành tựu nghiên cứu trước để xây dựng giả thuyết và mô hình nghiên cứu về ảnh hưởng của 6 nhân tố đến tính kịp thời của BCTC bán niên Các giả thuyết, phương pháp nghiên cứu và kết quả sẽ được trình bày trong chương tiếp theo.
Nội dung có ý nghĩa hết sức quan trọng trong nghiên cứu chính là phương pháp nghiên cứu Vì vậy trong chương này trình bày hai vấn đề:
- Phương pháp nghiên cứu và quy trình nghiên cứu
- Mô hình hồi quy và đo lường biến trong mô hình
3.1 Phương pháp nghiên cứu và quy trình nghiên cứu
Bài nghiên cứu này áp dụng phương pháp nghiên cứu định lượng, dựa trên cơ sở lý luận từ các nghiên cứu toàn cầu để hỗ trợ mô hình và giả thuyết của tác giả Để xử lý dữ liệu thu thập, tác giả sử dụng thống kê mô tả nhằm tóm tắt mẫu, cùng với công cụ SPSS để đánh giá mức độ phù hợp của mô hình với dữ liệu và kiểm định các giả thuyết trong nghiên cứu.
Hình 3.1 Quy tình nghiên cứu luận văn
(Nguồn: Tác giả xây dựng)
Quy trình nghiên cứu luận văn được thực hiện theo trình tự các bước sau
Xác định vấn đề nghiên cứu
Tổng hợp các nghiên cứu trước và lý thuyết nền tảng
Xây dựng mô hình nghiên cứu
Thu thập và xử lý số liệu
Phân tích và bàn luận kết quả
Kết luận và kiến nghị
Bước 1: Phân tích tình hình thực tế để xác định mục tiêu nghiên cứu, phạm vi nghiên cứu
Bước thứ hai là xem xét các nghiên cứu liên quan cả trong và ngoài nước, nhằm tìm hiểu các cơ sở lý thuyết cần thiết để xây dựng mô hình và giả thuyết nghiên cứu.
Bước 3 trong quá trình nghiên cứu bao gồm việc xây dựng mô hình nghiên cứu và các giả thuyết liên quan, xác định phương pháp đo lường, cũng như tính toán các yếu tố trong mô hình Tác giả sẽ tiến hành nghiên cứu tài liệu để phát triển các giả thuyết và mô hình nghiên cứu, nhằm phân tích tác động của các yếu tố ảnh hưởng đến tính khả thi (TKT) của báo cáo tài chính bán niên tại các công ty niêm yết trên sàn giao dịch chứng khoán TPHCM.
Bước 4: Mô tả cách lấy mẫu, cách thu thập số liệu trong mẫu nghiên cứu Từ đó đưa số liệu vào phần mềm SPSS để xử lý
Bước 5: Phân tích thống kê mô tả, phân tích tương quan, phân tích hồi quy đa biến sau đó trình bày kết quả và bàn luận
Kết luận và đề xuất giải pháp dựa trên các kết quả nghiên cứu trước đó, so sánh với tình hình thực tế của công ty niêm yết trên sàn giao dịch chứng khoán TPHCM, nhằm đưa ra những kiến nghị phù hợp và hiệu quả.
3.2 Giả thuyết nghiên cứu và thang đo các biến
Nghiên cứu này dựa trên việc kế thừa kết quả từ các nghiên cứu trước đây trên thế giới và Việt Nam về các yếu tố ảnh hưởng đến tính kịp thời của báo cáo tài chính bán niên của các công ty niêm yết Mục tiêu là đề xuất các giả thuyết về những nhân tố này và đo lường mức độ ảnh hưởng của chúng đến tính kịp thời của báo cáo tài chính bán niên.
Mục tiêu của nghiên cứu là phân tích tính kịp thời của báo cáo tài chính bán niên của các công ty niêm yết tại sàn giao dịch thành phố Hồ Chí Minh và các yếu tố liên quan Để đạt được mục tiêu này, tác giả đã tiến hành tổng quan lý thuyết và xem xét các công trình nghiên cứu trước đó nhằm xây dựng các giả thuyết cho mô hình nghiên cứu Luận văn xác định tính kịp thời của báo cáo tài chính bán niên là biến phụ thuộc trong nghiên cứu này.