1. Trang chủ
  2. » Luận Văn - Báo Cáo

ĐỀ ÁN MÔN HỌC: ĐẦU TƯ PHÁT TRIỂN NGUỒN NHÂN LỰC TẠI VIỆT NAM GIAI ĐOẠN NĂM 2010 – 2021

66 8 0

Đang tải... (xem toàn văn)

Tài liệu hạn chế xem trước, để xem đầy đủ mời bạn chọn Tải xuống

THÔNG TIN TÀI LIỆU

Thông tin cơ bản

Tiêu đề Đầu Tư Phát Triển Nguồn Nhân Lực Tại Việt Nam Giai Đoạn Năm 2010 – 2021
Trường học Học viện
Chuyên ngành Đầu tư phát triển nguồn nhân lực
Thể loại đề án môn học
Năm xuất bản 2022
Thành phố Hà Nội
Định dạng
Số trang 66
Dung lượng 1,02 MB

Cấu trúc

  • CHƯƠNG 1: CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ ĐẦU TƯ PHÁT TRIỂN NGUỒN NHÂN LỰC (8)
    • 1.1. Lý luận chung về nguồn nhân lực (8)
      • 1.1.1 Một số khái niệm về nguồn nhân lực (8)
      • 1.1.2 Phân loại nguồn nhân lực (9)
      • 1.1.3 Đặc trưng cơ bản của nguồn nhân lực (10)
    • 1.2. Nội dung đầu tư phát triển nguồn nhân lực (12)
      • 1.2.1 Quan điểm về đầu tư phát triển nguồn nhân lực (12)
      • 1.2.2 Đầu tư phát triển nguồn nhân lực dưới góc nhìn vĩ mô (12)
        • 1.2.2.1. Đầu tư cho giáo dục, đào tạo (13)
        • 1.2.2.2. Đầu tư cho y tế (15)
        • 1.2.2.3. Đầu tư cho tiền lương (16)
        • 1.2.2.4. Đầu tư cải thiện môi trường làm việc (17)
      • 1.2.3 Đầu tư phát triển nguồn nhân lực dưới góc nhìn vi mô (17)
        • 1.2.3.1. Đầu tư cho nâng cao trình độ người lao động (17)
        • 1.2.3.2. Đầu tư cho y tế trong doanh nghiệp (18)
        • 1.2.3.3. Đầu tư cho tiền lương, thưởng trong doanh nghiệp (19)
        • 1.2.3.4. Đầu tư cải thiện môi trường làm việc của nhân viên trong doanh nghiệp (19)
      • 1.2.4 Vai trò của đầu tư phát triển nguồn nhân lực (20)
      • 1.2.5 Đặc điểm của đầu tư phát triển nguồn nhân lực (21)
      • 1.2.6 Các chỉ tiêu đánh giá hiệu quả đầu tư phát triển nguồn nhân lực (21)
      • 1.2.7 Các yếu tố ảnh hưởng tới đầu tư phát triển nguồn nhân lực (23)
  • CHƯƠNG 2: THỰC TRẠNG ĐẦU TƯ PHÁT TRIỂN NGUỒN NHÂN LỰC TẠI VIỆT NAM GIAI ĐOẠN 2010-2021 (25)
    • 2.1.1. Tình hình đầu tư trong lĩnh vực giáo dục đào tạo (25)
      • 2.1.1.1. Tình hình chi ngân sách nhà nước cho giáo dục đào tạo (25)
      • 2.1.1.2. Đầu tư cho giáo dục mầm non (28)
      • 2.1.1.3. Đầu tư cho giáo dục cấp tiểu học, trung học cơ sở và trung học phổ thông (29)
      • 2.1.1.4. Đầu tư phát triển giáo dục đại học, cao đẳng chuyên nghiệp (30)
      • 2.1.1.5. Tình hình đào tạo nguồn nhân lực trong các doanh nghiệp (31)
    • 2.1.2. Tình hình đầu tư cho y tế (32)
      • 2.1.2.1. Tình hình chi ngân sách cho đầu tư phát triển y tế (32)
      • 2.1.2.2. Tình trạng cơ sở vật chất khám chữa bệnh và đội ngũ y bác sỹ (33)
      • 2.1.2.3. Tình hình cung cấp trang thiết bị y tế (35)
    • 2.1.3. Tình hình đầu tư cho tiền lương (36)
      • 2.1.3.1. Trong vĩ mô (36)
      • 2.1.3.2. Trong vi mô (37)
    • 2.1.4. Tình hình đầu tư cải thiện môi trường lao động (39)
      • 2.1.4.1. Đầu tư cải thiện điều kiện việc làm (39)
      • 2.1.4.2. Đầu tư cải thiện đời sống văn hóa tinh thần của người lao động (41)
    • 2.2. Đánh giá chung hoạt đông đầu tư phát triển nguồn nhân lực tại Việt (43)
      • 2.2.1. Những thành tựu đạt được (43)
        • 2.2.1.1. Về giáo dục đào tạo (43)
        • 2.2.1.2. Về lĩnh vực y tế (45)
        • 2.2.1.3. Về cải thiện tiền lương và môi trường làm việc (45)
      • 2.2.2. Những hạn chế còn tồn tại (45)
        • 2.2.2.1. Hạn chế về giáo dục – đào tạo (46)
        • 2.2.2.2. Hạn chế đầu tư trong lĩnh vực y tế (47)
        • 2.2.2.3. Hạn chế trong đầu tư tiền lương (48)
        • 2.2.2.4. Hạn chế trong đầu tư cải thiện môi trường lao động (48)
      • 2.2.3. Nguyên nhân tồn tại hạn chế (49)
    • 3.1. Quan điểm phát triển nguồn nhân lực của Việt Nam trong thời gian tới 50 3.2. Một số kiến nghị cho đầu tư phát triển nguồn nhân lực tại Việt Nam (51)
      • 3.2.1. Đối với Nhà nước (53)
      • 3.2.2. Đối với doanh nghiệp (53)
    • 3.3. Một số giải pháp nâng cao đầu tư phát triển nguồn nhân lực tại Việt (54)
      • 3.3.1. Giải pháp cho đầu tư phát triển giáo dục đào tạo (54)
      • 3.3.2. Giải pháp đầu tư cho y tế (57)
      • 3.2.3. Giải pháp đầu tư cho vấn đề tiền lương (60)
      • 3.2.4. Giải pháp đầu tư cho vấn đề cải thiện môi trường lao động (61)
  • KẾT LUẬN (64)
  • TÀI LIỆU THAM KHẢO (65)

Nội dung

ĐỀ ÁN MÔN HỌC Đề tài ĐẦU TƯ PHÁT TRIỂN NGUỒN NHÂN LỰC TẠI VIỆT NAM GIAI ĐOẠN NĂM 2010 – 2021 Hà Nội, 2022 1 MỤC LỤC LỜI CẢM ƠN 0 MỤC LỤC 1 DANH MỤC CÁC TỪ VIẾT TẮT 4 DANH MỤC BẢNG, HÌNH ẢNH 5 LỜI MỞ ĐẦU 6 CHƯƠNG 1 CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ ĐẦU TƯ PHÁT TRIỂN NGUỒN NHÂN LỰC 7 1 1 Lý luận chung về nguồn nhân lực 7 1 1 1 Một số khái niệm về nguồn nhân lực 7 1 1 2 Phân loại nguồn nhân lực 8 1 1 3 Đặc trưng cơ bản của nguồn nhân lực 9 1 2 Nội dung đầu tư phát triển nguồn nhân lực 11 1 2 1 Quan điểm về đầu tư p.

CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ ĐẦU TƯ PHÁT TRIỂN NGUỒN NHÂN LỰC

Lý luận chung về nguồn nhân lực

1.1.1 Một số khái niệm về nguồn nhân lực

Theo giáo trình nguồn nhân lực của trường Đại học Lao động – Xã hội do PGS.TS Nguyễn Tiệp chủ biên, in năm 2005:

“Nguồn nhân lực là nguồn lực con người, yếu tố quan trọng, năng động nhất của tăng trưởng và phát triển kinh tế - xã hội.”

Với cách tiếp cận nhân lực là nguồn cung cấp sức lao động thì “Nguồn nhân lực bao gồm toàn bộ dân cư có khả năng lao động.”

Nguồn nhân lực được định nghĩa hẹp hơn là nhóm dân cư trong độ tuổi lao động quy định, thể hiện khả năng đảm đương lao động chính của xã hội.

Theo giáo trình kinh tế nguồn nhân lực của trường Đại học Kinh tế Quốc dân do PGS.TS Trần Xuân Cầu chủ biên, in năm 2012:

Nguồn nhân lực, hay nguồn lực con người, là yếu tố thiết yếu trong dân số, góp phần quan trọng vào việc tạo ra của cải vật chất và tinh thần cho xã hội Khái niệm về nguồn nhân lực có thể được hiểu khác nhau tùy theo các cách tiếp cận khác nhau về vấn đề này.

Phương pháp tiếp cận dựa trên trạng thái hoạt động kinh tế của con người cho thấy rằng nguồn nhân lực bao gồm tất cả những cá nhân tham gia vào các lĩnh vực kinh tế, văn hóa và xã hội.

Nguồn nhân lực bao gồm tất cả những người trong độ tuổi lao động có khả năng làm việc, không phân biệt tình trạng việc làm của họ, với phương pháp tiếp cận dựa trên khả năng lao động và các giới hạn độ tuổi.

Nhóm lao động dự trữ bao gồm những người trong độ tuổi lao động chưa có việc làm do nhiều lý do khác nhau, như sinh viên, người thất nghiệp, bộ đội xuất ngũ, và người lao động làm việc ở nước ngoài đã hết hạn hợp đồng trở về nước Phương pháp tiếp cận này dựa trên độ tuổi lao động và trạng thái không hoạt động kinh tế.

Nguồn nhân lực là khái niệm được nghiên cứu từ nhiều góc độ khác nhau, nhưng có thể hiểu đơn giản là nguồn lao động Nó bao gồm sự kết hợp giữa các yếu tố thể chất và tinh thần, được huy động trong quá trình lao động.

1.1.2 Phân loại nguồn nhân lực

Dựa trên những khái niệm cùng cách tiếp cận khác nhau, nguồn nhân lực có thể được phân ra các loại sau:

Thứ nhất, căn cứ theo khả năng và mức độ tham gia hoạt động kinh tế gồm:

Nguồn nhân lực trong độ tuổi lao động bao gồm tất cả những người có khả năng làm việc, được xác định theo quy định của luật lao động Theo Bộ luật Lao động Việt Nam năm 2019, từ ngày 1/1/2022, độ tuổi lao động được quy định là từ 15 đến 60 tuổi 6 tháng đối với nam và từ 15 đến 55 tuổi đối với nữ.

Lao động nữ có thể nghỉ hưu sau 8 tháng, trong khi những người làm công tác quản lý và một số trường hợp đặc biệt khác có thể nghỉ hưu ở tuổi cao hơn, nhưng không vượt quá 5 năm.

Bộ phận năng động nhất và đóng vai trò quan trọng trong nguồn nhân lực chính là nguồn nhân lực tham gia hoạt động kinh tế, hay còn gọi là lực lượng lao động Nguồn nhân lực tham gia vào hoạt động kinh tế của một quốc gia, vùng, địa phương bao gồm nhiều thành phần khác nhau, góp phần thúc đẩy sự phát triển kinh tế và xã hội.

+ Những người trong độ tuổi lao động đang làm việc

Người lao động trong độ tuổi làm việc được xác định bởi giới hạn tuổi nghỉ hưu theo quy định của pháp luật lao động Theo Bộ luật lao động năm 2019, tuổi nghỉ hưu cho nam giới là 60 tuổi 6 tháng và cho nữ giới là 55 tuổi 8 tháng, trong điều kiện lao động bình thường.

+ “ Những người trong độ tuổi lao động có nhu cầu làm việc, đang tìm việc nhưng không có việc (lao động thất nghiệp)

Có sự khác biệt giữa nguồn nhân lực (NNL) trong độ tuổi lao động và NNL tham gia hoạt động kinh tế Toàn bộ dân số trong độ tuổi lao động và có khả năng lao động được coi là NNL trong độ tuổi lao động Trong khi đó, NNL tham gia hoạt động kinh tế không chỉ bao gồm những lao động trong độ tuổi lao động đang làm việc mà còn cả những người trên độ tuổi lao động đang làm việc và những người trong độ tuổi lao động chưa tham gia hoạt động kinh tế Nguyên nhân cho sự không tham gia này có thể là do thất nghiệp, có việc làm nhưng không muốn làm, đang học tập, hoặc có nguồn thu nhập khác không cần đi làm.

Bộ phận nguồn nhân lực dự trữ bao gồm những cá nhân trong độ tuổi lao động có khả năng tham gia vào thị trường lao động nhưng hiện tại chưa hoạt động kinh tế Điều này bao gồm học sinh, sinh viên đang theo học tại các trường phổ thông và đào tạo chuyên môn, những người nội trợ, cũng như những người không có nhu cầu làm việc vì nhiều lý do nhưng có thể gia nhập thị trường lao động vào thời điểm thích hợp Ngoài ra, nhóm này còn bao gồm những người nghỉ hưu sớm, lao động trở về từ nước ngoài và bộ đội mới xuất ngũ.

Thứ hai, dựa trên vai trò của từng bộ phận nguồn nhân lực tham gia vào nền kinh tế, có thể chia thành 3 loại:

Nguồn nhân lực (NNL) là lực lượng lao động trong độ tuổi lao động, đóng vai trò quan trọng trong việc thực hiện các hoạt động kinh tế - xã hội của đất nước NNL có năng lực lao động lớn nhất, góp phần quyết định vào sự phát triển bền vững và thịnh vượng của nền kinh tế.

Nguồn nhân lực phụ là lực lượng lao động tham gia vào các hoạt động kinh tế theo khả năng của họ trong một khoảng thời gian nhất định Nhóm này bao gồm những người nằm ngoài độ tuổi lao động, cả trên và dưới độ tuổi lao động Tình trạng này đặc biệt phổ biến ở các nước đang phát triển, nơi mà thu nhập từ lao động chính không đủ để nuôi sống gia đình, dẫn đến việc trẻ em dưới 15 tuổi và người cao tuổi tham gia vào thị trường lao động Do đó, nguồn nhân lực phụ thường rất lớn trong những khu vực này.

Nguồn nhân lực bổ sung là những cá nhân từ các bộ phận khác, sẵn sàng tham gia vào hoạt động kinh tế Điều này bao gồm những người đã hoàn thành nghĩa vụ quân sự, lao động trở về từ nước ngoài, người mới tốt nghiệp trong độ tuổi lao động, và những người đã mãn hạn tù.

Nội dung đầu tư phát triển nguồn nhân lực

1.2.1 Quan điểm về đầu tư phát triển nguồn nhân lực Đầu tư phát triển là thành phần cơ bản của đầu tư, là việc sử dụng vốn hiện có để thực hiện các hoạt động nhằm làm tăng thêm, bổ sung hoặc tạo ra những tài sản vật chất (nhà xưởng, thiết bị…) và tài sản trí tuệ (tri thức, kỹ năng…), góp phần làm gia tăng năng lực sản xuất, tạo thêm việc làm và đạt được các mục tiêu phát triển xã hội

Dưới góc độ tài sản, đối tượng đầu tư phát triển chia thành hai loại:

- Đầu tư vào những tài sản vật chất (tài sản thực)

Đầu tư vào tài sản vô hình, đặc biệt là phát triển nguồn nhân lực, đóng vai trò quan trọng trong hoạt động đầu tư phát triển, nhằm sử dụng vốn hiện có để nâng cao quy mô và chất lượng nguồn nhân lực, từ đó thúc đẩy sự phát triển kinh tế - xã hội của quốc gia Các hoạt động đầu tư này bao gồm đào tạo lực lượng lao động (chính thức, không chính thức, dài hạn, ngắn hạn, bồi dưỡng nghiệp vụ), đầu tư cho y tế và chăm sóc sức khỏe, cũng như cải thiện môi trường và điều kiện làm việc cho người lao động Ngoài ra, việc trả lương thỏa đáng cho người lao động cũng được xem là một phần của đầu tư phát triển nguồn nhân lực.

1.2.2 Đầu tư phát triển nguồn nhân lực dưới góc nhìn vĩ mô

Trong bối cảnh hội nhập kinh tế quốc tế, nguồn nhân lực đóng vai trò quan trọng đối với sự phát triển kinh tế, văn hóa và xã hội của mỗi quốc gia Kể từ khi gia nhập WTO vào năm 2007, Việt Nam đã trở thành thành viên chính thức của Tổ chức thương mại quốc tế, mở ra nhiều cơ hội và thách thức trong suốt 15 năm qua Để đối phó với những khó khăn này, nhà nước đã triển khai nhiều chính sách nhằm đầu tư phát triển nguồn nhân lực hiệu quả, với các kết quả cụ thể thể hiện qua những nội dung cơ bản trong chiến lược phát triển.

1.2.2.1 Đầu tư cho giáo dục, đào tạo Để phát huy những thành công của sự nghiệp đổi mới toàn diện nền KT - XH, đầu tư cho giáo dục có tính chất quyết định đối với việc nâng cao chất lượng nguồn nhân lực Đầu tư cho giáo dục được hiểu là nguồn vốn mà một quốc gia hoặc khu vực đầu tư vào giáo dục để phát triển giáo dục Là một hình thức của đầu tư phát triển KT -XH, đầu tư cho đào tạo và giáo dục bao gồm các nội dung sau: Đầu tư cho chương trình giảng dạy

Chương trình giảng dạy đóng vai trò quan trọng trong việc xác định chất lượng nguồn nhân lực, phụ thuộc vào sự phù hợp của nội dung học tập với nhu cầu của người học và khả năng tiếp thu kiến thức của họ Đầu tư vào chương trình giảng dạy cần được ưu tiên hàng đầu trong giáo dục và đào tạo, đặc biệt là ở Việt Nam, nơi mà các khóa học chủ yếu được thể hiện qua sách giáo khoa (SGK) và giáo trình SGK cung cấp kiến thức chuẩn cho cả giảng viên và học sinh, được phân loại theo đối tượng sử dụng và chủ đề Kiến thức trong SGK được xây dựng trên cơ sở khoa học, với trình tự logic chặt chẽ và nghiên cứu kỹ lưỡng về mặt sư phạm, nhằm phù hợp với trình độ và thời gian học tập của học sinh.

Hệ thống giáo trình và sách giáo khoa (SGK) của Việt Nam hiện còn nhiều hạn chế, khi chỉ có một bộ SGK cho mỗi môn học, trong khi nhiều quốc gia sử dụng nhiều bộ SGK khác nhau cho cùng một môn Mặc dù nội dung đã được nghiên cứu kỹ lưỡng để phù hợp với trình độ học sinh, nhưng vẫn chưa đáp ứng đầy đủ nhu cầu sư phạm Để cải thiện tình hình này, Chính phủ đã đầu tư mạnh mẽ vào cải cách giáo dục, đặc biệt là trong việc đổi mới SGK và chương trình giảng dạy, như việc áp dụng hình thức học tín chỉ ở cấp đại học nhằm khuyến khích sinh viên chủ động hơn trong học tập Đầu tư vào đội ngũ giáo viên và phương pháp giảng dạy là rất cần thiết để nâng cao chất lượng nhân lực Điều này bao gồm việc đảm bảo giáo viên có đủ trình độ chuyên môn, kỹ năng và đạo đức nghề nghiệp, đồng thời thanh lọc những giáo viên không đạt tiêu chuẩn, nhằm tạo ra một đội ngũ giáo viên chất lượng cao và nâng cao kỷ cương trong giáo dục.

Phương pháp giảng dạy đóng vai trò quan trọng trong việc nâng cao hiệu quả tiếp thu kiến thức của học sinh, sinh viên Để thu hút sự quan tâm của học viên, phương pháp dạy học cần phải phù hợp và hấp dẫn Tại Việt Nam, hiện nay có hai phương pháp giảng dạy chính.

Phương pháp dạy học truyền thống thường chỉ cho phép giáo viên truyền đạt kiến thức một chiều, dẫn đến việc học viên thiếu sự tương tác và tham gia Điều này khiến cho người học trở nên thụ động trong việc tiếp thu thông tin, đồng thời không tạo điều kiện cho khả năng sáng tạo của học viên được phát huy.

Phương pháp dạy học hiện đại đặt giáo viên trong vai trò thiết kế và tổ chức, trong khi học viên tự tìm hiểu kiến thức, giúp họ chủ động và phát huy khả năng sáng tạo Mặc dù phương pháp dạy học truyền thống vẫn phổ biến ở Việt Nam, nhưng việc chuyển đổi sang phương pháp mới cần thời gian và đầu tư cho trang thiết bị Đầu tư vào đội ngũ giáo viên và phương pháp giảng dạy là yếu tố quan trọng cho sự phát triển giáo dục, cần được nhà nước quan tâm Hơn nữa, việc nâng cấp cơ sở hạ tầng và vật chất cho giáo dục cũng là điều cần thiết.

Giáo dục là nhiệm vụ chung của quốc gia, và Nhà nước có trách nhiệm phát triển kế hoạch giáo dục phù hợp với tình hình kinh tế - xã hội Đầu tư cho giáo dục không chỉ bao gồm ngân sách xây dựng trường học và trang thiết bị giảng dạy, mà còn cần chú trọng đến các công cụ hiện đại như máy chiếu và hội thảo Nhà nước đã dành một phần lớn ngân sách cho giáo dục, đồng thời cũng tập trung vào việc cải thiện cơ sở hạ tầng giáo dục tại các đô thị cũng như xây dựng trường học ở vùng núi và hải đảo xa xôi.

1.2.2.2 Đầu tư cho y tế Để sống, học tập và làm việc có hiệu quả, có năng suất, con người phải có sức khoẻ tốt Có thể nói, đầu tư vào chăm sóc sức khỏe con người hay đầu tư vào lĩnh vực y tế cũng là đầu tư phát triển Đặc biệt để đầu tư phát triển nguồn nhân lực thì cần đầu tư cho hệ thống y tế và chăm sóc sức khỏe lao động Từ góc độ kinh tế vĩ mô, đầu tư cho phát triển ngành y tế bao gồm một số yếu tố sau: Đầu tư xây dựng và phát triển cơ sở hạ tầng khám chữa bệnh Đời sống xã hội nâng cao, nhu cầu khám chữa bệnh của người dân cũng tăng theo đó, vì vậy hệ thống bệnh viện cần đáp ứng nhu cầu khám chữa bệnh mọi nơi, mọi lúc Hệ thống bệnh viện đang được chia làm 3 tuyến chính là tuyến cơ sở (các trạm y tế xã, phường…), tuyến địa phương (các bệnh viện tuyến huyện, tỉnh…) và tuyến trung ương (những bệnh viện lớn tập trung đội ngũ bác sĩ có trình độ chuyên môn cao cùng với những máy móc, thiết bị hiện đại…chuyên khám những ca bệnh nguy hiểm, phức tạp) Đầu tư vào cơ sở hạ tầng bệnh viện bao gồm xây dựng phòng khám, trang bị giường bệnh và các thiết bị y tế cơ bản để đảm bảo người dân có thể được khám và điều trị Đầu tư sản xuất, lắp đặt trang thiết bị y tế (TTBYT)

Trang thiết bị y tế (TTBYT) bao gồm các thiết bị, dụng cụ và vật tư cần thiết cho công tác chăm sóc sức khỏe con người Nghề y tế đòi hỏi sự kết hợp giữa bác sĩ giỏi và trang thiết bị hiện đại để đạt hiệu quả khám chữa bệnh cao Đầu tư cho TTBYT cần dựa trên tiêu chí cung cấp đầy đủ thiết bị cho các tuyến y tế, hiện đại hóa TTBYT, đào tạo đội ngũ kỹ thuật viên chuyên ngành, và phát triển công nghiệp TTBYT Để thực hiện mục tiêu này, chính phủ cần thúc đẩy nghiên cứu và phát triển TTBYT trong nước, áp dụng chính sách ưu đãi thuế cho hàng hóa TTBYT, huy động vốn cho lĩnh vực này, và khuyến khích sản xuất trong nước nhằm giảm giá thành thiết bị y tế, đồng thời nâng cao chất lượng đội ngũ nhân viên y tế.

Đội ngũ nhân viên y tế đóng vai trò quan trọng trong sự phát triển của ngành y tế, vì không có họ, ngay cả những thiết bị hiện đại nhất cũng không thể hoạt động hiệu quả Do đó, việc đầu tư vào đào tạo và nâng cao chất lượng đội ngũ nhân viên y tế có trình độ cao và y đức là điều cần thiết.

Bác Hồ đã từng nói: “Có tài mà không có đức thì cũng là người vô dụng”, điều này đặc biệt đúng với nghề y Do đó, việc đào tạo nhân viên y tế cần được thực hiện một cách bài bản, không chỉ chú trọng vào tay nghề mà còn giáo dục tư tưởng và lòng nhiệt huyết với nghề Hơn nữa, việc dạy và học phải gắn liền với thực hành, bởi nghề y liên quan trực tiếp đến sinh mạng con người, vì vậy cần luyện tập thực hành nhiều lần trước khi ra tay Cuối cùng, chế độ đãi ngộ và lương thưởng cho nhân viên y tế cũng cần được cải thiện, giúp các y bác sĩ tập trung vào chuyên môn mà không phải lo lắng về nhu cầu thiết yếu trong cuộc sống.

Y tế dự phòng và giáo dục chăm sóc sức khoẻ cho cộng đồng

Nhiều người chỉ đến khám khi đã có bệnh, bỏ qua việc phòng bệnh, dẫn đến chi phí điều trị cao hơn nhiều so với chi phí phòng ngừa Đầu tư vào y tế dự phòng và giáo dục sức khỏe cộng đồng là giải pháp hiệu quả để giảm thiểu chi phí xã hội Cần đẩy mạnh nghiên cứu các biện pháp phòng chống bệnh và ngăn chặn dịch bệnh từ sớm, đồng thời đảm bảo sức khỏe cho người dân Bên cạnh đó, việc tuyên truyền và phổ biến kiến thức về các bệnh thường gặp và cách phòng tránh thông qua các phương tiện truyền thông cũng rất quan trọng.

1.2.2.3 Đầu tư cho tiền lương

THỰC TRẠNG ĐẦU TƯ PHÁT TRIỂN NGUỒN NHÂN LỰC TẠI VIỆT NAM GIAI ĐOẠN 2010-2021

Tình hình đầu tư trong lĩnh vực giáo dục đào tạo

2.1.1.1 Tình hình chi ngân sách nhà nước cho giáo dục đào tạo:

Nhà nước đã phân bổ nguồn ngân sách nhà nước (NSNN) hợp lý cho sự phát triển giáo dục, với quy định Quốc hội và Chính phủ duy trì chi tối thiểu 20% tổng chi NSNN cho giáo dục Trong đó, chi thường xuyên cho giáo dục ở trung ương chiếm khoảng 11% và chi từ địa phương chiếm khoảng 89% tổng chi NSNN cho giáo dục.

Cơ cấu chi ngân sách nhà nước cho giáo dục đã được các địa phương điều chỉnh phù hợp với từng bậc học, với việc xây dựng tiêu chí ưu tiên phân bổ đầu tư cho giáo dục Hệ thống định mức phân bổ dự toán cho giáo dục cũng đã được hoàn thiện, đồng thời tăng cường giám sát và đánh giá chất lượng thiết kế các chương trình mục tiêu đầu tư trong lĩnh vực này Xu hướng tăng nhẹ về tốc độ và quy mô chi ngân sách địa phương cho giáo dục trong giai đoạn 2011 – 2017 cho thấy sự quan tâm ngày càng lớn của các địa phương đối với giáo dục.

Tổng chi ngân sách nhà nước cho giáo dục và đào tạo (GDĐT) hàng năm không ngừng gia tăng, với quy mô chi tăng hơn 62% từ năm 2011 đến 2017, đạt 227 nghìn tỷ đồng vào năm 2017 Tuy nhiên, tốc độ chi ngân sách cho giáo dục lại có xu hướng giảm, từ 33% năm 2012 xuống còn 8,6% vào năm 2017, trong đó năm 2014 ghi nhận mức tăng thấp nhất chỉ đạt 4% Cơ cấu chi ngân sách trong giai đoạn này cũng khá ổn định, duy trì tỷ lệ khoảng 20% cho chi đầu tư phát triển và 80% cho chi thường xuyên.

Các số liệu cho thấy mức chi ngân sách phân bổ cho học sinh, sinh viên không tính hệ đại học có xu hướng giảm dần, trong khi các cấp học khác lại tăng lên Cụ thể, năm 2017, mức chi trung bình cho học sinh trung học phổ thông cao nhất đạt 10,7 triệu đồng, trong khi mức thấp nhất ở cấp tiểu học là 9,56 triệu đồng Việc gia tăng chi ngân sách nhà nước cho các cấp giáo dục là phù hợp với chủ trương chính quy hóa hệ thống giáo dục và ưu tiên cho các bậc học cơ bản tại Việt Nam.

Từ năm 2013 đến năm 2017, ngân sách dành cho giáo dục đã tăng trưởng mạnh mẽ, với chi ngân sách địa phương năm 2015 tăng 69.553 tỷ đồng và ngân sách trung ương tăng 14.052 tỷ đồng so với năm 2011.

Năm 2015, tổng chi cho giáo dục và đào tạo đạt 184,070 tỷ đồng, trong khi tổng ngân sách nhà nước (NSNN) dành cho lĩnh vực này là 224.826 tỷ đồng Để thực hiện các nhiệm vụ giáo dục địa phương, dự toán chi ngân sách địa phương (NSĐP) là 152 nghìn tỷ đồng, và chi ngân sách trung ương (NSTW) là 32.070 tỷ đồng, trong đó 10.398 tỷ đồng được sử dụng để hỗ trợ hoạt động thường xuyên của các cơ sở giáo dục thuộc các bộ, cơ quan trung ương Ngoài ra, chi đầu tư phát triển giáo dục và đào tạo là 33.756 tỷ đồng, bao gồm 19.660 tỷ đồng từ NSĐP và 14.096 tỷ đồng từ NSTW.

Theo kết quả khảo sát năm 2020 về cơ cấu chi trung bình ngân sách nhà nước trong lĩnh vực giáo dục và đào tạo ở các địa phương, nghiên cứu đã chỉ ra những xu hướng và đặc điểm nổi bật trong việc phân bổ nguồn lực cho giáo dục.

Từ năm 2013 đến 2017, dữ liệu cho thấy mức chi thực tế bình quân cho mỗi học sinh ở các cấp học mẫu giáo, tiểu học, trung học cơ sở và trung học phổ thông có sự khác biệt rõ rệt giữa các vùng miền Cụ thể, mức chi ngân sách địa phương trên mỗi học sinh tại các tỉnh miền núi phía Bắc và Đông Nam Bộ cao hơn mức trung bình cả nước Ngược lại, các tỉnh đồng bằng sông Hồng, Bắc Trung Bộ và Tây Nguyên lại có mức chi bình quân/học sinh thấp hơn mức trung bình chung của cả nước.

Hình 2.1: Tỷ lệ chi ngân sách nhà nước cho giáo dục đào tạo từ năm 2010 –

(Nguồn: Tổng cục thống kê)

Cơ cấu chi ngân sách nhà nước cho giáo dục và đào tạo tại các địa phương có sự phân bổ khác nhau, với mầm non chiếm 19%, tiểu học 22,7%, trung học cơ sở 25,3%, trung học phổ thông 12% và đại học cùng các trình độ khác chiếm 11% Từ năm 2017 đến 2021, tốc độ gia tăng của các khoản thanh toán cá nhân và chi cho tiền lương đã chiếm hơn 80% tổng chi thường xuyên, dẫn đến nhiều địa phương không còn nguồn lực cho các hoạt động khác ngoài giảng dạy tại các trường phổ thông.

Theo các báo cáo, Chính phủ đã chỉ ra một số hạn chế trong lĩnh vực giáo dục, trong đó tỷ lệ chi ngân sách nhà nước cho giáo dục năm 2021 chỉ đạt 17,3% tổng chi ngân sách quốc gia, con số này vẫn còn thấp và chưa đáp ứng được các quy định đã ban hành.

Dự toán thu năm 2021 cho thấy tổng mức thu từ giáo dục của các cơ sở giáo dục, đào tạo ước đạt 38.550 tỷ đồng, chỉ đạt khoảng 85% so với năm 2020 Cụ thể, nguồn thu sự nghiệp tại các bộ, ngành giảm khoảng 13%, trong khi tổng thu sự nghiệp giáo dục và đào tạo của các địa phương ước đạt 15.905 tỷ đồng, tương đương 82% so với năm 2020 Đối với các đơn vị trực thuộc Bộ GD-ĐT, ước thực hiện đạt 9.875 tỷ đồng, bằng 87% so với năm trước.

Năm 2021, tổng dự toán chi ngân sách nhà nước (NSNN) cho ngành Giáo dục đạt 299.325 tỷ đồng, chiếm 17,3% tổng chi, bao gồm cả chi thường xuyên và chi đầu tư phát triển So với năm 2020, dự toán chi này giảm 4,7% Tỷ lệ chi NSNN cho giáo dục trong giai đoạn 2010-2021 luôn thấp hơn mức quy định 20% theo Luật Giáo dục.

2.1.1.2 Đầu tư cho giáo dục mầm non

Theo Trung tâm Nghiên cứu về Sự Phát triển của Trẻ em (CODC), giai đoạn từ 0-6 tuổi là thời kỳ vàng để kích thích sự phát triển não bộ của trẻ Những trải nghiệm ban đầu và môi trường giáo dục mầm non đóng vai trò quan trọng trong thành công của trẻ sau này Do đó, đầu tư vào giáo dục mầm non là yếu tố thiết yếu trong phát triển nguồn nhân lực, không chỉ dừng lại ở việc trông coi trẻ mà còn thông qua các chương trình học giúp nâng cao kiến thức và kỹ năng cho trẻ trong những năm đầu đời Thực tế, trong những năm qua, Nhà nước đã chú trọng đầu tư cho giáo dục mầm non.

Chính phủ đã triển khai các chính sách hỗ trợ kinh phí cho phát triển giáo dục mầm non, với tỉnh Lâm Đồng ghi nhận tỷ trọng ngân sách nhà nước chi cho hệ thống giáo dục mầm non tăng từ 11% đến 19,05% trong tổng chi ngân sách cho giáo dục - đào tạo Từ năm 2011 đến 2021, tỉnh đã đầu tư 88.644 triệu đồng vào cơ sở vật chất để xây dựng các trường mầm non đạt chuẩn quốc gia và mua sắm trang thiết bị, đồ dùng phục vụ giáo dục Số lượng trường mầm non trên toàn quốc cũng tăng đáng kể, từ 12.908 trường trong năm học 2010-2011 lên 15.480 trường trong năm học 2020-2021.

Nhà nước đang chú trọng nâng cao chất lượng đội ngũ giáo viên mầm non thông qua việc cải thiện chế độ chính sách, phụ cấp, bảo hiểm xã hội và y tế Ngân sách nhà nước sẽ hỗ trợ đảm bảo mức lương cho giáo viên không thấp hơn mức lương tối thiểu quy định, đặc biệt đối với các cơ sở giáo dục mầm non bán công khi nguồn thu không đủ chi trả.

2.1.1.3 Đầu tư cho giáo dục cấp tiểu học, trung học cơ sở và trung học phổ thông

Tình hình đầu tư cho y tế

2.1.2.1 Tình hình chi ngân sách cho đầu tư phát triển y tế Đầu tư phát triển y tế luôn là mục tiêu ưu tiên của Nhà nước, cụ thể là đặt mục tiêu tăng tỷ lệ chi NSNN cho y tế cao hơn tỷ lệ tăng chi NSNN, tăng cường đổi mới trong cơ chế phân bổ ngân sách y tế, trong đó 20% ngân sách y tế được sử dụng để hỗ trợ người dân tham gia bảo hiểm y tế (BHYT) Giai đoạn 2010-2021, Nhà nước ta cũng đã quan tâm đến đầu tư phát triển trong lĩnh vực y tế được thể hiện qua sự gia tăng tổng chi NSNN cho y tế

Hình 2.2: Tổng chi ngân sách nhà nước cho y tế giai đoạn 2013-2020

(Nguồn tổng cục thống kê)

Theo biểu đồ, tỷ lệ chi ngân sách nhà nước cho đầu tư phát triển y tế luôn vượt 6,3%, đặc biệt từ năm 2018 đến 2020, tỷ lệ này tăng 0,83% từ 6,31% lên 7,14%, phản ánh sự gia tăng chi tiêu y tế do đại dịch Covid-19 bùng phát vào năm 2020 Cụ thể, Trung ương đã chi 25.350 tỷ đồng, trong đó có 18.490 tỷ đồng từ dự phòng ngân sách Trung ương.

Năm 2021, Chính phủ đã bổ sung 6.900 tỷ đồng cho Bộ Y tế để mua vaccine và hỗ trợ công tác phòng, chống dịch Ngoài ra, còn chi 6.337 tỷ đồng từ nguồn tiết kiệm chi ngân sách nhà nước năm 2020 nhằm tăng cường khả năng mua vaccine cho Bộ Y tế.

Tổng chi ngân sách nhà nước cho y tế năm 2021 ước đạt khoảng 133.837,5 tỷ đồng, tăng so với năm 2020 và là tỷ lệ chi cao nhất từ năm 2013 đến nay Sự gia tăng này phản ánh nhu cầu chăm sóc sức khỏe và khám chữa bệnh ngày càng cao của người dân, đòi hỏi phải có sự đầu tư mạnh mẽ hơn cho lĩnh vực y tế.

2.1.2.2 Tình trạng cơ sở vật chất khám chữa bệnh và đội ngũ y bác sỹ

Bảng 2.1: Thống kê tình hình các cơ sở khám chữa bệnh 2010-2021

Bệnh viện điều dưỡng và phục hồi chức năng

Phòng khám đa khoa khu vực

Trạm y tế của cơ quan, xí nghiệp

(Nguồn: Tổng cục thống kê)

Bảng 2.2: Thống kê tình hình cơ sở vật chất khám chữa bệnh 2010-2021

Số giường bệnh (Nghìn giường)

Giường bệnh bình quân 1 vạn dân

Số bác sĩ (nghìn người) 61,4 73,8 77,5 74,4 84,8 96,2 99,3 101,2

Bác sĩ bình quân 1 vạn dân (người)

(Nguồn: Tổng cục thống kê)

Theo số liệu thống kê, số lượng cơ sở khám chữa bệnh đã tăng lên qua các năm, nhưng số giường bệnh vẫn còn thiếu hụt nghiêm trọng Năm 2021, trung bình chỉ có 29,5 giường bệnh trên 10.000 người, dẫn đến tình trạng nhiều bệnh nhân phải nằm chung một giường, không đáp ứng được nhu cầu điều trị Mặc dù số lượng bác sĩ cũng gia tăng, nhưng vẫn chưa theo kịp với tốc độ tăng dân số, với tỷ lệ 1 bác sĩ phục vụ cho 1.111,1 người vào năm 2021 Điều này gây áp lực lớn lên nhân viên y tế, ảnh hưởng đến chất lượng chăm sóc sức khỏe Tình hình đầu tư vào cơ sở vật chất và đội ngũ y tế cần được cải thiện để nâng cao chất lượng dịch vụ y tế tại Việt Nam.

2.1.2.3 Tình hình cung cấp trang thiết bị y tế

Chất lượng công tác y tế phụ thuộc vào trang thiết bị y tế, giúp bác sĩ chẩn đoán và điều trị bệnh một cách chính xác, nhanh chóng và an toàn Thời gian qua, hệ thống y tế cả nước đã được đầu tư nâng cấp, trong đó trang thiết bị y tế chiếm tỷ trọng lớn về số lượng và giá trị, được đầu tư từ nhiều nguồn khác nhau.

Theo Bộ Y tế, Việt Nam tiêu tốn hàng trăm tỷ đồng mỗi năm cho việc nhập khẩu trang thiết bị y tế, trong đó khoảng 80% trang thiết bị y tế đang được sử dụng tại các cơ sở khám chữa bệnh là hàng nhập khẩu.

Việt Nam hiện có hơn 1000 bệnh viện, tạo ra nhu cầu lớn về thiết bị y tế (TTBYT) với yêu cầu cao về độ chính xác và an toàn Tuy nhiên, số lượng công ty sản xuất TTBYT trong nước còn hạn chế, dẫn đến việc các TTBYT chủ yếu được mua sắm qua đấu thầu từ các cơ sở y tế nhà nước hoặc chương trình viện trợ nước ngoài Do tâm lý ưa chuộng hàng ngoại, các doanh nghiệp sản xuất TTBYT trong nước gặp khó khăn trong việc cạnh tranh, đặc biệt khi thuế nhập khẩu cho TTBYT nguyên chiếc rất thấp hoặc gần như bằng 0, trong khi linh kiện nhập khẩu lại chịu thuế cao Điều này làm giảm khả năng cạnh tranh của sản phẩm y tế nội địa và khuyến khích doanh nghiệp nhập khẩu TTBYT, dẫn đến sự phát triển hạn chế của ngành sản xuất TTBYT trong nước.

Tình hình đầu tư cho tiền lương

2.1.3.1 Trong vĩ mô Để đảm bảo quyền lợi của người lao động khi tham gia lao động, Việt Nam cũng như các nước khác trên thế giới đều quy định một mức lương tối thiểu mà người lao động có thể nhận được Mức lương tối thiểu ở Việt Nam có khá nhiều yêu cầu ràng buộc với hệ thống an sinh Cụ thể như, phổ biến trên thế giới, ở nước ngoài, lương tối thiểu gắn liền với yếu tố lạm phát, thường được điều chỉnh kịp thời dựa trên những thay đổi chỉ số, thì ở Việt Nam, lương tối thiểu còn là cơ sở để xác định mức lương hưu, trợ cấp, bảo hiểm xã hội,… mục đích của việc này là để tạo sự công bằng cho tất cả đối tượng được hưởng lương, tuy nhiên điều đó lại làm mất đi tính linh hoạt trong cơ chế điều chỉnh lương, đặt lên vai ngân sách nhà nước gánh nặng rất lớn

Bảng 2.3: Mức lương tối thiểu vùng qua các năm (từ năm 2010-2021)

Vùng I Vùng II Vùng III Vùng IV

Vùng I Vùng II Vùng III Vùng IV

(Nguồn: Tổng cục thống kê)

Trong giai đoạn 2010-2021, mức lương tối thiểu theo từng vùng đã tăng đáng kể, ngoại trừ hai năm 2020 và 2021 giữ nguyên mức Sự tăng trưởng này phản ánh hiệu quả của các chính sách điều chỉnh mức lương cơ bản phù hợp với tình hình kinh tế - xã hội Mức lương tối thiểu cao hơn giúp người lao động nhận được mức đãi ngộ tốt hơn, từ đó tạo động lực và hứng thú hơn trong công việc.

Lương là yếu tố quan trọng hàng đầu đối với người lao động tại mọi doanh nghiệp Một doanh nghiệp có chế độ lương hấp dẫn sẽ dễ dàng thu hút nhiều ứng viên Việc xác định mức lương hợp lý, tương xứng với năng lực của nhân viên, là ưu tiên hàng đầu của các doanh nghiệp.

Việt Nam hiện có hơn 300 khu công nghiệp (KCN), khu chế xuất (KCX) và khu kinh tế (KKT) với tổng số lao động vượt qua 10 triệu người Tuy nhiên, mức lương bình quân của người lao động chỉ đạt dưới 5 triệu đồng mỗi tháng, cho thấy tình trạng lương thấp tại hầu hết các doanh nghiệp trong nước.

Trong các doanh nghiệp ngoài quốc doanh, mức lương bình quân hàng tháng của nhiều công ty vượt quá 2 triệu đồng, trong khi mức lương bình quân theo phương án của Bộ Lao động và Xã hội chỉ là 1,5 triệu đồng Điều này dẫn đến sự thiệt thòi cho lao động tại các công ty nước ngoài, khi mà các doanh nghiệp này không chấp nhận việc trả lương cao hơn mức tối thiểu do nhà nước quy định.

Một số doanh nghiệp cho rằng mức lương tối thiểu hiện tại quá thấp, gây khó khăn trong việc tính toán chi phí và tuyển dụng lao động Cả khu vực hành chính sự nghiệp và doanh nghiệp đều áp dụng mức lương tối thiểu chung, dẫn đến việc tăng lương tối thiểu của doanh nghiệp diễn ra rất chậm và không phù hợp với tình hình thực tế.

Hệ thống tiền lương hiện nay ở Việt Nam còn nhiều bất cập, phản ánh qua những vấn đề nêu trên Hy vọng rằng trong những năm tới, Đảng và nhà nước sẽ thực hiện cải cách và cập nhật chính sách tiền lương, từ đó giảm bớt các tồn tại, hạn chế và giúp người lao động nhận được mức lương cao hơn và ổn định hơn.

Tiền thưởng và phúc lợi doanh nghiệp

Tiền thưởng không chỉ khuyến khích người lao động nỗ lực và sáng tạo trong công việc mà còn đảm bảo công bằng trong trả lương Nhiều doanh nghiệp áp dụng chiến lược tiền thưởng để duy trì lực lượng lao động lâu dài, thu hút nhân tài và nâng cao chất lượng lao động, từ đó tạo ra lợi thế cạnh tranh trên thị trường.

Phúc lợi doanh nghiệp là những lợi ích vật chất và tinh thần mà doanh nghiệp cung cấp cho nhân viên ngoài tiền công, tiền lương Những phúc lợi này được phân bổ theo quy chế và quy định của doanh nghiệp, nhằm động viên và khuyến khích người lao động gắn bó lâu dài với tổ chức, đồng thời hỗ trợ họ trong những tình huống khó khăn.

Vào Tết năm 2022, mức thưởng Tết Âm lịch bình quân cho người lao động tại các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài đạt 6,66 triệu đồng, giảm 0,33 triệu đồng so với năm 2021 Doanh nghiệp dân doanh có mức thưởng trung bình là 5,92 triệu đồng, giảm 0,13 triệu đồng so với năm trước Trong khi đó, các công ty trách nhiệm hữu hạn một thành viên do Nhà nước nắm giữ 100% vốn điều lệ có mức thưởng trung bình là 5,59 triệu đồng, giảm 0,26 triệu đồng so với năm 2021.

Mức thưởng Tết dương lịch năm 2022 giảm mạnh, chỉ đạt 58% so với năm 2021 Trong số 41.826 doanh nghiệp báo cáo kế hoạch thưởng, chỉ khoảng 55,2% doanh nghiệp có mức thưởng bình quân là 1,36 triệu đồng/người.

Về phúc lợi xã hội, các doanh nghiệp thường xây dựng và ban hành hệ thống quy chế liên quan đến quyền lợi của người lao động, bao gồm quy chế tuyển dụng, sử dụng lao động, trả lương, thưởng, nâng lương, và khen thưởng cho những cá nhân có thành tích xuất sắc Ngoài ra, các phúc lợi tập thể, an toàn vệ sinh lao động, bảo vệ môi trường và phòng chống cháy nổ cũng được chú trọng nhằm đảm bảo quyền lợi và sự an toàn cho người lao động.

Người lao động trong danh sách nhận lương của doanh nghiệp không chỉ nhận lương cơ bản mà còn có thể nhận thêm thưởng bằng tiền mặt hoặc quà trong các dịp lễ, Tết Ngoài ra, họ còn được hỗ trợ tiền ăn trưa, phí gửi xe và các đặc quyền khác như chi phí đi công tác và chi phí điện thoại, tùy thuộc vào chính sách của từng công ty Các khoản phúc lợi này có sự khác biệt giữa các doanh nghiệp, phụ thuộc vào tiềm lực tài chính và kết quả kinh doanh của họ.

Theo thống kê của Bộ Lao động, 95,7% doanh nghiệp thực hiện chế độ trợ cấp và thăm hỏi người lao động khi có sự kiện đau buồn hoặc hạnh phúc, trong khi 89,8% doanh nghiệp hỗ trợ người lao động gặp khó khăn Ngoài ra, 63,2% doanh nghiệp cũng thăm hỏi gia đình người lao động khi có người thân qua đời Các phúc lợi của doanh nghiệp còn bao gồm hoạt động đào tạo nâng cao tay nghề miễn phí, tổ chức du lịch, nghỉ mát và các hoạt động văn hóa, thể thao, góp phần nâng cao tinh thần và tạo sự thoải mái cho nhân viên sau thời gian làm việc căng thẳng.

Tình hình đầu tư cải thiện môi trường lao động

2.1.4.1 Đầu tư cải thiện điều kiện việc làm

Trong những năm gần đây, số lượng doanh nghiệp gia tăng kéo theo nguy cơ tai nạn lao động (TNLĐ) cũng tăng dần Theo báo cáo của Bộ Lao động – Thương binh và Xã hội, tần suất tai nạn lao động chết người giai đoạn 2016-2020 giảm 16,99% so với giai đoạn 2011-2015, nhưng vẫn có 960.089 người lao động được phát hiện bệnh nghề nghiệp, chiếm 43,68% tổng số lao động có nguy cơ Các ngành khai khoáng, xây dựng, chế tạo kim loại và hóa chất dẫn đầu về số vụ tai nạn lao động chết người Trung bình mỗi năm, khu vực có quan hệ lao động ghi nhận 7.389 vụ tai nạn, làm 7.559 người bị nạn và 613 người chết, với tổng số ngày nghỉ do TNLĐ lên tới 138.089 ngày Nhiều doanh nghiệp chú trọng lợi nhuận hơn là cải thiện điều kiện làm việc an toàn Năm 2021, tổng số vụ TNLĐ trên cả nước là 5.797 vụ, giảm 1.676 vụ so với năm 2020, nhưng vẫn là con số đáng lo ngại.

Trước thực trạng an toàn lao động hiện nay, các cấp công đoàn đang tích cực thúc đẩy công tác bảo hộ lao động (BHLĐ) thông qua việc tham gia xây dựng văn bản quy phạm pháp luật, chỉ đạo và hướng dẫn các cấp thực hiện công tác này Họ cũng tổ chức tuyên truyền về bảo hiểm cho người lao động và người sử dụng lao động, củng cố mạng lưới an toàn và sức khỏe lao động (ATNSLĐ), và triển khai các chiến dịch hàng năm về BHLĐ Đồng thời, công đoàn tăng cường giám sát, kiểm tra và đôn đốc các doanh nghiệp chấp hành nghiêm Luật Lao động, nhằm hoàn thiện hệ thống văn bản quy phạm pháp luật về điều kiện và tiêu chuẩn an toàn vệ sinh lao động, tạo điều kiện làm việc tốt nhất cho người lao động.

Theo Luật lao động, người sử dụng lao động cần tổ chức khám sức khỏe định kỳ và trang bị đầy đủ thiết bị bảo hộ lao động (BHLĐ) để đảm bảo an toàn lao động Mặc dù nhiều doanh nghiệp đã nhận thức được tầm quan trọng của an toàn vệ sinh lao động (ATVSLĐ), vẫn còn nhiều doanh nghiệp, đặc biệt là trong lĩnh vực xây dựng và khai thác đá, chưa thực sự chú trọng Một số doanh nghiệp chỉ trang bị BHLĐ để đối phó với các đợt thanh tra, trong khi các cơ sở sản xuất nhỏ thường không tuân thủ các quy định ATVSLĐ Qua kiểm tra, các cơ quan chức năng nhận thấy rằng doanh nghiệp nhỏ rất ít hiểu biết về pháp luật liên quan đến BHLĐ, dẫn đến việc thực hiện các quy định này không nghiêm túc, gây ra nhiều tai nạn lao động (TNLĐ) Theo thống kê, nguyên nhân vi phạm an toàn lao động chiếm 29,67% trong tổng số vụ TNLĐ, trong khi 2,2% do thiết bị sản xuất không an toàn và 68,13% do các nguyên nhân khác.

Vấn đề bảo hộ lao động (BHLĐ) và điều kiện làm việc cho người lao động vẫn chưa được nhiều doanh nghiệp coi trọng, trong khi số lượng lao động làm việc trong môi trường độc hại ngày càng gia tăng, dẫn đến tỷ lệ mắc bệnh nghề nghiệp cũng tăng cao Theo báo cáo của Bộ Y tế, chỉ khoảng 22-25% lao động được khám sức khỏe định kỳ, và dưới 10% lao động tiếp xúc với yếu tố độc hại được khám sức khỏe nghề nghiệp Hơn nữa, chỉ khoảng 18-20% doanh nghiệp có nguy cơ cao được giám sát về môi trường lao động Điều này cho thấy nhiều doanh nghiệp vẫn chưa chú trọng đến công tác huấn luyện an toàn lao động và các vấn đề liên quan đến BHLĐ, chưa đảm bảo môi trường làm việc an toàn cho người lao động.

2.1.4.2 Đầu tư cải thiện đời sống văn hóa tinh thần của người lao động

Chiến lược phát triển đất nước Việt Nam tập trung vào việc đảm bảo an sinh xã hội, là mục tiêu tối thượng trong xây dựng xã hội chủ nghĩa Điều này bao gồm việc nâng cao đời sống vật chất và tinh thần của nhân dân Hệ thống an sinh xã hội tại Việt Nam được cấu thành từ 5 trụ cột chính: bảo hiểm y tế, bảo hiểm xã hội, bảo hiểm thất nghiệp, cứu trợ xã hội, và trợ giúp cùng ưu đãi xã hội.

Trong giai đoạn 2010-2021, nhận thức về an sinh xã hội (ASXH) và quyền ASXH đã được nâng cao, nhờ vào sự phát triển kinh tế - xã hội của đất nước trong bối cảnh thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa Hệ thống ASXH không ngừng cải thiện, góp phần nâng cao đời sống vật chất và tinh thần của nhân dân ASXH đã trở thành chỗ dựa vững chắc cho nhóm người nghèo và các nhóm yếu thế, từ đó hình thành xã hội không có sự loại trừ, đảm bảo an sinh xã hội theo định hướng xã hội chủ nghĩa và thúc đẩy sự phát triển của đất nước.

Nhà nước đã chú trọng đến việc nâng cao sức khỏe tinh thần của nhân dân thông qua việc xây dựng và trùng tu các công trình giải trí, như công viên và nhà thi đấu thể thao Bên cạnh đó, việc điều chỉnh chính sách tăng mức lương tối thiểu cho người lao động cũng đã góp phần cải thiện đáng kể đời sống tinh thần của họ.

Đảng và Nhà nước đã triển khai nhiều chính sách hỗ trợ và khuyến khích phát triển doanh nghiệp, đồng thời cải thiện môi trường đầu tư kinh doanh Trong nội bộ các doanh nghiệp, việc nâng cao đời sống văn hóa tinh thần cho công nhân và người lao động cũng được chú trọng Đặc biệt, đời sống văn hóa và tinh thần của công nhân tại các khu công nghiệp ngày càng được quan tâm, với hệ thống thiết chế văn hóa đang dần hoàn thiện Nhiều hoạt động văn hóa, thể thao và giải trí phong phú đã được tổ chức, tạo điều kiện cho công nhân tham gia và nâng cao chất lượng cuộc sống.

Mặc dù nhiều công ty đã nỗ lực cải thiện môi trường làm việc cho người lao động, vẫn còn không ít doanh nghiệp thiếu quan tâm đến công tác an toàn vệ sinh lao động, ảnh hưởng tiêu cực đến sức khỏe của NLĐ Công ty Cổ phần Kết cấu thép Atad Đồng Nai là một ví dụ điển hình với những cải tiến liên tục trong điều kiện làm việc và chất lượng nhân sự Họ đã nâng cấp hệ thống quản lý để giảm thiểu rủi ro về sức khỏe và bệnh nghề nghiệp, đồng thời đầu tư vào không gian xanh thay thế bê tông và lắp đặt hệ thống quạt gió, hút bụi, tạo ra môi trường làm việc mát mẻ và trong lành.

Công ty cổ phần Vedan Việt Nam (xã Phước Thái, huyện Long Thành) thực hiện nghiêm túc công tác quản lý an toàn vệ sinh lao động (ATVS) bằng cách thành lập phòng chuyên trách về quản lý an toàn sức khỏe môi trường và xây dựng đội ngũ cán bộ bán chuyên trách Hàng năm, công ty trang bị đầy đủ thiết bị bảo hộ lao động cho nhân viên, đo kiểm tra điều kiện lao động, tổ chức khám sức khỏe định kỳ và phát hiện bệnh nghề nghiệp cho toàn thể công nhân viên Ngoài ra, các thiết bị yêu cầu nghiêm ngặt về an toàn lao động cũng được kiểm định đầy đủ và đúng thời hạn.

Hay tại Công ty TNHH Việt Nam Suzuki, để tạo nên môi trường làm việc xanh

Công ty đã đầu tư xây dựng 7 khu giải lao sạch đẹp, được trang bị bàn ghế và tiểu cảnh hấp dẫn, nhằm tạo môi trường làm việc thoải mái cho nhân viên Hằng năm, Công đoàn phối hợp tổ chức hội thi khu giải lao đẹp nhất, khuyến khích sự sáng tạo và chăm sóc không gian chung Để cải thiện môi trường làm việc, công ty tích cực phát động phong trào thực hiện nội quy, xây dựng nếp sống văn hóa và an toàn lao động Các sáng kiến cải tiến được khuyến khích nhằm ngăn ngừa rủi ro trong sản xuất và giảm thiểu tác động đến môi trường Công ty cũng đảm bảo cung cấp đầy đủ đồ bảo hộ lao động cho nhân viên, từ đó nâng cao ý thức giữ gìn môi trường làm việc xanh - sạch - đẹp.

Các doanh nghiệp đang ngày càng chú trọng đến việc cải thiện môi trường làm việc và đời sống văn hóa tinh thần nhằm tạo ra một không gian làm việc hiệu quả nhất cho nhân viên.

Đánh giá chung hoạt đông đầu tư phát triển nguồn nhân lực tại Việt

2.2.1 Những thành tựu đạt được

2.2.1.1 Về giáo dục đào tạo

Việt Nam đã đạt được nhiều thành tựu trong phát triển giáo dục, với một số mục tiêu chiến lược đã hoàn thành và vượt chỉ tiêu Những nỗ lực này đã góp phần nâng cao chất lượng giáo dục sau hơn 10 năm thực hiện chiến lược phát triển giáo dục giai đoạn này.

Tỷ lệ tiếp cận giáo dục:

Mục tiêu chiến lược của Nhà nước là đảm bảo quyền tiếp cận giáo dục cho học sinh các cấp phổ thông, với chỉ tiêu đến năm 2020 đạt 99% tỷ lệ học sinh tiểu học đúng tuổi, 95% ở cấp THCS, 80% thanh niên có trình độ THPT và 70% trẻ khuyết tật được đi học Kết quả thực tế cho thấy tỷ lệ nhập học đúng độ tuổi đã vượt chỉ tiêu, với 99,35% ở tiểu học và 96% ở THCS trong năm học 2020 – 2021 Đặc biệt, tỷ lệ trẻ khuyết tật có khả năng học tập tham gia học tại các trường tiểu học và THCS cũng tăng lên hàng năm.

Tỷ lệ giáo viên đạt chuẩn và trên chuẩn ở các cấp phổ thông năm 2021 đã tăng so với năm trước, với 97,6% ở bậc mầm non, 99,8% ở tiểu học, 99,1% ở THCS và 99,7% ở THPT Đạo đức nghề giáo và tinh thần trách nhiệm của đa số giáo viên và cán bộ quản lý hiện nay luôn đi kèm với năng lực giảng dạy Việc nâng cao chất lượng chuyên môn nghiệp vụ được chú trọng để đáp ứng yêu cầu đổi mới, đồng thời cơ sở vật chất trong các cơ sở giáo dục cũng được đầu tư nâng cấp và kiên cố hóa.

Chỉ số chất lương giáo dục phổ thông:

Chất lượng giáo dục phổ thông đã được cải thiện, thể hiện qua tỷ lệ học sinh bỏ học ở các cấp tiểu học, THCS và THPT giảm dần Trình độ ngoại ngữ và tin học của học sinh cũng được nâng cao, với nhiều học sinh có khả năng giao tiếp tiếng Anh và sử dụng công nghệ thông tin trong học tập.

Chỉ số phát triển con người (HDI)

Năm 2019, chỉ số phát triển con người (HDI) của Việt Nam đạt 0,704, xếp hạng 117 trong số 189 quốc gia và vùng lãnh thổ theo báo cáo phát triển con người toàn cầu.

Từ năm 1990 đến 2019, giá trị HDI của Việt Nam đã tăng gần 50%, từ 0,475 lên 0,704, đưa nước ta vào danh sách các quốc gia có tốc độ tăng HDI cao nhất thế giới Mặc dù chỉ số HDI năm 2019 của Việt Nam vẫn dưới mức trung bình của nhóm phát triển con người cao (0,753), nhưng lại cao hơn mức trung bình của các quốc gia đang phát triển (0,689) Trong giai đoạn 2016-2020, HDI của cả nước và hầu hết 63 tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương đều có sự gia tăng qua từng năm, với HDI quốc gia tăng từ 0,682 năm 2016 lên 0,706 năm 2020.

Quy mô và chất lượng nguồn nhân lực:

Từ năm 2010 đến 2020, quy mô và chất lượng nguồn nhân lực Việt Nam đã được cải thiện đáng kể, với lực lượng lao động tăng từ 50,4 triệu lên 56,2 triệu người Tuy nhiên, năm 2021, lực lượng lao động giảm xuống còn 50,5 triệu người, giảm 5,7 triệu so với năm trước Trong giai đoạn 2010 – 2020, tỷ lệ lao động qua đào tạo cũng tăng từ 40% lên khoảng 65% vào năm 2020 Đặc biệt, nguồn nhân lực chất lượng cao của Việt Nam đã có sự phát triển vượt bậc, với nhiều ngành như y tế, cơ khí, công nghệ và xây dựng đạt tiêu chuẩn khu vực và quốc tế.

Nhiều kỹ thuật mới và công nghệ cao đã được áp dụng, nâng cao chất lượng chuyên môn trong các cơ sở y tế Việc cải tiến chất lượng bệnh viện và thay đổi nhận thức của cán bộ y tế về thái độ phục vụ bệnh nhân đã giúp tăng tỷ lệ hài lòng của người bệnh Hầu hết các cơ sở y tế đã được đầu tư xây mới hoặc nâng cấp, cùng với việc bổ sung trang thiết bị y tế và cải thiện hệ thống xử lý chất thải Chất lượng chuyên môn của đội ngũ y bác sĩ cũng ngày càng được nâng cao, với sự cải thiện rõ rệt về cả số lượng và chất lượng qua từng năm.

2.2.1.3 Về cải thiện tiền lương và môi trường làm việc

Thông qua các chính sách của Đảng và Nhà nước, môi trường làm việc của người lao động tại Việt Nam đã được cải thiện đáng kể Các gói bảo hộ lao động và an sinh xã hội được hỗ trợ, cùng với yêu cầu bắt buộc doanh nghiệp trang bị đầy đủ cơ sở vật chất và thiết bị bảo hộ, đã góp phần nâng cao tiêu chuẩn an toàn và vệ sinh lao động.

Theo báo cáo của Bộ lao động – thương binh và xã hội: “so với giai đoạn 2011-

Từ năm 2016 đến 2021, tần suất tai nạn lao động chết người đã giảm 16,99% Đồng thời, mức lương tối thiểu theo từng vùng cũng tăng đáng kể trong giai đoạn từ 2010 đến 2021 Cụ thể, mức lương tối thiểu ở các vùng đã có sự tăng trưởng rõ rệt, phản ánh sự cải thiện trong điều kiện làm việc và an toàn lao động.

I đã tăng 351%, Vùng II tăng 345%, Vùng III tăng 322% và Vùng IV tăng 320%

2.2.2 Những hạn chế còn tồn tại

Bên cạnh những thành tựu đạt được thì thực trạng đầu tư phát triển nguồn nhân lực ở nước ta vẫn còn tồn tại nhiều hạn chế như:

2.2.2.1 Hạn chế về giáo dục – đào tạo

Việc phân bổ cơ cấu chi đầu tư cho giáo dục đào tạo hiện đang gặp nhiều bất hợp lý giữa các cấp bậc học và các nhiệm vụ, nội dung chi ở từng bậc học, ngành nghề Sự không đồng đều này thể hiện rõ qua bảng số liệu dưới đây.

Bảng 2.4: Cơ cấu chi ngân sách nhà nước cho giáo dục, đào tạo

Chi đầu tư xây dựng cơ bản trong lĩnh vực giáo dục nghề nghiệp tại Việt Nam vẫn còn thấp, không đáp ứng được nhu cầu nâng cao cơ sở vật chất và trang thiết bị Hiện có khoảng 50,7% xưởng thực hành và 31% phòng học tại các trường dạy nghề vẫn là nhà tạm, trong khi chỉ khoảng 20% trường có trang thiết bị dạy học ở mức công nghệ khá Điều này dẫn đến việc đa số các trường dạy nghề chưa đủ điều kiện để trở thành cơ sở đào tạo chất lượng cao.

Tỷ lệ phân bổ ngân sách cho dạy nghề tại Việt Nam hiện chỉ chiếm gần 10% tổng chi ngân sách nhà nước cho các cấp học, với mức chi thực hành và cho giáo viên/học sinh chưa sát thực tế Theo Bộ Lao động – Thương binh và Xã hội, mức chi cho mỗi học sinh học nghề là 4,3 triệu đồng, nhưng chỉ khoảng 50% đến 60% học sinh tại các cơ sở đào tạo nghề nhận được mức chi này Hơn nữa, ngân sách nhà nước không đầu tư cho hệ đào tạo nghề ngắn hạn, dẫn đến việc các trường nghề ít được nâng cấp và chất lượng đào tạo không đáp ứng yêu cầu tuyển dụng của doanh nghiệp Hiệu quả sử dụng vốn đầu tư cho đào tạo nghề còn thấp, với giáo trình và cơ cấu đào tạo chưa phù hợp với nhu cầu thực tế của doanh nghiệp, khiến học viên khi ra trường không đáp ứng đầy đủ yêu cầu của nhà tuyển dụng.

Tình trạng thiếu lao động có trình độ tay nghề cao và thừa lao động thủ công chưa qua đào tạo vẫn tiếp diễn trong vi mô, với chất lượng đào tạo nghề chưa đạt yêu cầu Cơ cấu phân bổ ngành nghề chưa hợp lý và tỷ lệ lao động chưa qua đào tạo vẫn còn lớn Bên cạnh đó, còn thiếu đội ngũ lãnh đạo, quản lý và điều hành doanh nghiệp có chất lượng cao, cũng như đội ngũ chuyên gia, bao gồm công nhân kinh tế, kỹ thuật và tay nghề cao.

2.2.2.2 Hạn chế đầu tư trong lĩnh vực y tế

Hiện nay, lĩnh vực y tế vẫn gặp nhiều khó khăn do ngân sách đầu tư chưa đủ mạnh, dẫn đến tình trạng thiếu hụt đội ngũ y bác sĩ, không đáp ứng được nhu cầu thực tế của các bệnh viện Điều này gây ra sự quá tải tại các cơ sở y tế công Bên cạnh đó, cơ sở vật chất và số giường bệnh vẫn chưa đủ để phục vụ nhu cầu, khiến hiện tượng nằm ghép 2-3 bệnh nhân trên một giường bệnh vẫn diễn ra phổ biến.

Quan điểm phát triển nguồn nhân lực của Việt Nam trong thời gian tới 50 3.2 Một số kiến nghị cho đầu tư phát triển nguồn nhân lực tại Việt Nam

Mục tiêu phát triển nguồn nhân lực của Việt Nam trong thời gian tới được mô tả trong các văn bản pháp luật sau được Nhà nước ban hành:

Quyết định số 579/QĐ-TTg ngày 19/4/2011 của Thủ tướng Chính phủ phê duyệt chiến lược phát triển nhân lực Việt Nam giai đoạn 2011-2020, nhằm mục tiêu biến nhân lực Việt Nam thành nền tảng và lợi thế quan trọng cho sự phát triển bền vững, hội nhập quốc tế và ổn định xã hội Chiến lược này hướng đến nâng cao năng lực cạnh tranh của nhân lực Việt Nam, đạt trình độ tương đương với các nước tiên tiến trong khu vực, đồng thời phấn đấu tiếp cận trình độ của các quốc gia phát triển trên thế giới.

Nguồn nhân lực Việt Nam sở hữu thể lực tốt và tầm vóc cường tráng, phát triển toàn diện về trí tuệ, ý chí và năng lực Họ có khả năng tự học, tự nghiên cứu, thể hiện nghị lực và sự chủ động trong công việc Với trình độ chuyên môn cao và kiến thức vững vàng, lực lượng lao động này có khả năng thích ứng nhanh chóng, tạo ra lợi thế trong môi trường sống và làm việc.

Nhân lực quản lý hành chính nhà nước chuyên nghiệp là yếu tố then chốt để đáp ứng yêu cầu của Nhà nước pháp quyền XHCN trong bối cảnh thế giới đang hội nhập và thay đổi nhanh chóng.

Xây dựng đội ngũ nhân tài khoa học và công nghệ, đặc biệt là các chuyên gia đầu ngành có trình độ kỹ thuật tương đương với các nước tiên tiến trong khu vực, nhằm nghiên cứu, tiếp nhận và chuyển giao các giải pháp khoa học và công nghệ Đội ngũ này sẽ góp phần giải quyết các vấn đề phát triển của đất nước và hội nhập với các xu hướng phát triển khoa học tự nhiên, khoa học xã hội và công nghệ toàn cầu.

Xây dựng đội ngũ cán bộ và chuyên gia quản trị kinh doanh chuyên nghiệp, có bản lĩnh và thành thạo nghề nghiệp là cần thiết để nâng cao khả năng cạnh tranh cho doanh nghiệp và nền kinh tế Việt Nam trong bối cảnh toàn cầu hóa.

Nguồn nhân lực Việt Nam sở hữu đầy đủ các yếu tố cần thiết như thái độ nghề nghiệp, năng lực ứng xử, đạo đức, lương tâm nghề nghiệp, và tinh thần hợp tác Với tính năng động và tự lực cao, lực lượng lao động này đáp ứng tốt các yêu cầu trong xã hội công nghiệp hiện đại.

Xây dựng xã hội học tập nhằm đảm bảo mọi công dân Việt Nam đều có cơ hội học tập bình đẳng Mục tiêu là học để trở thành công dân Việt Nam trong thời kỳ hội nhập, học để có nghề nghiệp và việc làm hiệu quả, học để mang lại hạnh phúc cho bản thân và người khác, cũng như học để góp phần vào sự phát triển của đất nước và nhân loại.

Xây dựng một hệ thống cơ sở đào tạo nguồn nhân lực hiện đại, đa dạng và chuyên nghiệp, với cấu trúc đồng bộ và đa cấp, liên kết các ngành đào tạo trong và ngoài nước Mục tiêu là hình thành một xã hội học tập, đáp ứng nhu cầu học tập suốt đời của cộng đồng.

Quyết định số 1216/QĐ-TTg ngày 22/7/2011 của Thủ tướng Chính phủ phê duyệt quy hoạch phát triển nhân lực Việt Nam giai đoạn 2011-2020 nhằm đáp ứng nhu cầu về số lượng, cơ cấu và trình độ nhân lực, phục vụ cho công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước và bảo vệ Tổ quốc Mục tiêu là phát triển nhanh các ngành, lĩnh vực mà Việt Nam có lợi thế so sánh quốc tế, đồng thời đề ra các giải pháp để hình thành đội ngũ nhân lực chất lượng cao theo chuẩn khu vực và tiến tới chuẩn quốc tế Cụ thể, cần tăng nhanh tỷ lệ nhân lực qua đào tạo trong nền kinh tế, phấn đấu từ mức 40,0% vào năm 2011.

Từ năm 2010 đến năm 2020, tỷ lệ nhân lực qua đào tạo tại Việt Nam đã tăng lên 70,0%, với sự gia tăng đáng kể trong các ngành: nông, lâm, ngư nghiệp từ 15,5% lên 50,0%; công nghiệp từ 78,0% lên 92,0%; xây dựng từ 41,0% lên 56,0%; và dịch vụ từ 67,0% lên 88,0% Điều này cho thấy sự phát triển đồng bộ của đội ngũ nhân lực với chất lượng ngày càng cao, đáp ứng nhu cầu ở mọi lĩnh vực, đồng thời ưu tiên cho những ngành mà Việt Nam có lợi thế cạnh tranh Đặc biệt, việc xây dựng đội ngũ giáo viên chất lượng cao là yếu tố then chốt để đào tạo nhân lực có trình độ cho đất nước.

Quyết định số 21/QĐ-TTg ngày 6/1/2021 của Thủ tướng chính phủ phê duyệt đề án Đào tạo và phát triển nguồn nhân lực an toàn thông tin giai đoạn 2021-2025

Mục tiêu tổng quát của chương trình là đào tạo và nâng cao kiến thức, kỹ năng về an toàn thông tin (ATTT) cho cán bộ, công chức, viên chức và người lao động trong các cơ quan Nhà nước Chương trình hỗ trợ các tổ chức Đảng và chính trị - xã hội trong việc đào tạo và tập huấn ATTT theo yêu cầu Đồng thời, xây dựng đội ngũ chuyên gia ATTT nhằm bảo vệ hệ thống thông tin của Đảng và Nhà nước Ngoài ra, chương trình còn đào tạo giảng viên, nghiên cứu viên về ATTT ở nước ngoài cho các cơ sở giáo dục đại học, cũng như cung cấp đào tạo thạc sĩ, kỹ sư, cử nhân ATTT trong nước Cuối cùng, chương trình cũng chú trọng đào tạo kiến thức và kỹ năng ATTT cho cá nhân, tổ chức và thực hiện đào tạo ATTT theo cơ chế xã hội hóa.

Quyết định số 146/QĐ-TTg ngày 28/1/2022 của Thủ tướng Chính phủ phê duyệt đề án nâng cao nhận thức và phát triển nguồn nhân lực chuyển đổi số quốc gia đến năm 2025, với định hướng đến năm 2030 Mục tiêu chung của đề án là tạo sự chuyển biến mạnh mẽ trong nhận thức và hành động của lãnh đạo, cán bộ các cơ quan, tổ chức, doanh nghiệp nhằm thúc đẩy thực hiện chuyển đổi số Đề án cũng nhấn mạnh việc phổ cập kỹ năng số cho các đối tượng tham gia vào quá trình này, đồng thời nâng cao chất lượng và hiệu quả đào tạo nguồn nhân lực chuyển đổi số ở từng ngành, lĩnh vực và địa phương.

Nhà nước Việt Nam đang chú trọng phát triển nguồn nhân lực quốc gia, với sự quan tâm đặc biệt từ Đảng và Nhà nước trong việc xây dựng và đổi mới các chiến lược phát triển nhân lực, nhằm đáp ứng yêu cầu phát triển của đất nước.

3.2 Một số kiến nghị cho đầu tư phát triển nguồn nhân lực tại Việt Nam

Để nâng cao chất lượng nguồn nhân lực Việt Nam, cần bổ sung các chính sách đầu tư phát triển trong các lĩnh vực giáo dục, y tế, tiền lương và cải thiện môi trường làm việc Nhà nước cần thiết lập công việc hợp lý và áp dụng các chính sách đãi ngộ vật chất và tinh thần nhằm thu hút và giữ chân nhân tài, đảm bảo đội ngũ lao động giỏi được phát huy tối đa năng lực.

- Cần có thêm nhiều chính sách ưu đãi về thuế và chính sách giúp đỡ các doanh nghiệp trong việc tuyển dụng lao động

Để nâng cao chất lượng nguồn nhân lực tại doanh nghiệp, cần thiết lập một kế hoạch phát triển rõ ràng Việc xây dựng các mục tiêu chiến lược về đào tạo và phát triển nguồn nhân lực cho tương lai sẽ giúp doanh nghiệp đạt được hiệu quả cao hơn trong hoạt động.

Một số giải pháp nâng cao đầu tư phát triển nguồn nhân lực tại Việt

3.3.1 Giải pháp cho đầu tư phát triển giáo dục đào tạo

Hiện nay, việc chuyển đổi từ mô hình giáo dục truyền thống sang mô hình giáo dục mở và xã hội học tập là rất cần thiết Điều này đòi hỏi đầu tư mạnh mẽ vào hệ thống học tập suốt đời, liên thông giữa các cấp học và ngành học Cần đẩy mạnh phát triển các hình thức đào tạo khoa học, nhằm tạo ra sự linh hoạt trong thực hiện chính sách, đáp ứng nhu cầu học tập thường xuyên của mọi người.

Để đáp ứng nhu cầu của doanh nghiệp và nhà tuyển dụng, các chương trình giảng dạy đại học cần được cải cách, không chỉ tập trung vào kiến thức cơ bản mà còn bổ sung các kỹ năng nghề nghiệp thiết yếu Sự chuẩn bị và đầu tư từ phía nhà nước vào giáo dục đại học là rất cần thiết, nhằm cân đối ngân sách quốc gia và duy trì các chính sách hỗ trợ sinh viên Các biện pháp như học bổng, miễn giảm học phí cho sinh viên có hoàn cảnh khó khăn, và hỗ trợ cho sinh viên xuất sắc cần được thực hiện để khuyến khích học tập và phát triển tài năng.

Đầu tư phát triển đội ngũ giáo viên và cán bộ quản lý giáo dục là cần thiết, bao gồm việc đổi mới kiểm tra và đánh giá cho tất cả giáo viên ở các bậc học phổ thông Cần thực hiện kế hoạch xây dựng nhà ở công vụ cho giáo viên trong ngân sách quốc gia và huy động sự tham gia của xã hội Theo nghị định của chính phủ, giáo viên sẽ luân phiên làm việc ở những vùng khó khăn Đồng thời, cần đầu tư vào chiến dịch nâng cao đạo đức nhà giáo thông qua bộ quy tắc ứng xử và tiêu chuẩn đánh giá, cũng như chống bạo lực trong trường học Việc thí điểm đánh giá giảng viên đại học và cao đẳng qua đầu vào của sinh viên cũng rất quan trọng Cuối cùng, xây dựng chương trình chuẩn quản lý giáo dục cho hiệu trưởng các cấp học là một bước đi cần thiết để nâng cao chất lượng giáo dục.

Để nâng cao chất lượng giáo dục và đào tạo, cần đầu tư đổi mới cơ chế tài chính thông qua việc thực hiện kế hoạch ngân sách trung hạn từ 3-5 năm, tăng chi ngân sách nhà nước cho giáo dục Cần triển khai nền giáo dục quốc dân và các mục tiêu đào tạo hiệu quả, bao gồm xây dựng trường học, trang bị phòng thí nghiệm và thiết bị nghiên cứu khoa học, đồng thời quản lý bằng công nghệ thông tin Việc phân bổ kinh phí cần tuân thủ nguyên tắc công khai, hiệu quả và cạnh tranh, kết hợp với các dự án hỗ trợ phát triển chính thức và khuyến khích doanh nghiệp, chính quyền địa phương tham gia Đặc biệt, cần tập trung đầu tư cho các tỉnh Tây Bắc, Tây Nguyên, Tây Nam Bộ và những vùng xã nghèo khó khăn.

Các chế độ cho vay ưu đãi cho các trường đại học, dạy nghề và trung học chuyên nghiệp cần được triển khai và giám sát nghiêm túc Việc xã hội hóa giáo dục, huy động nguồn lực vật chất và trí tuệ của toàn xã hội là rất quan trọng để cải thiện sự nghiệp giáo dục Ngành giáo dục cần phối hợp chặt chẽ với các ban, ngành và tổ chức chính trị - xã hội để phát triển giáo dục và đào tạo, tạo điều kiện và cải thiện môi trường học tập cho mọi thành viên trong xã hội Đồng thời, cần tăng cường công tác kiểm tra, giám sát và đánh giá các hoạt động giáo dục.

Để thúc đẩy đầu tư cho giáo dục và đào tạo (GDĐT), cần hoàn thiện các chính sách ưu đãi về đất đai, tín dụng, thuế và hỗ trợ đào tạo giáo viên với cơ sở pháp lý rõ ràng Đồng thời, khuyến khích mở rộng các trường tư thục thông qua việc ban hành hướng dẫn cụ thể cho việc chuyển đổi loại hình trường học Hợp tác quốc tế trong GDĐT cũng cần được chú trọng, nhất là trong bối cảnh Việt Nam hội nhập quốc tế, nhằm nâng cao chất lượng nguồn nhân lực và khẳng định vị thế trong khu vực và thế giới.

Tiếp tục đổi mới quản lý giáo dục bằng cách tăng cường phân cấp, cải cách hành chính và cơ chế phối hợp Điều này nhằm phát huy quyền tự chủ và nâng cao hiệu quả hoạt động của học sinh, địa phương và các cơ sở giáo dục.

Để hoàn thiện hệ thống và chính sách đối với cán bộ quản lý và giáo viên, cần chuẩn hóa và nâng cao chất lượng đội ngũ giáo viên và quản lý giáo dục, đảm bảo số lượng và cơ cấu đồng bộ Cần có cơ chế, chính sách ưu đãi cho giáo viên, đặc biệt là ở vùng nông thôn và miền núi Đồng thời, cần quan tâm đến sự phát triển đồng đều của giáo viên ở tất cả các bộ môn, khơi dậy lòng nhiệt tình làm việc của họ Các chính sách cần đảm bảo tính thiết thực, hiệu quả và phù hợp với đặc điểm dân cư, vùng miền, đồng thời chú trọng phát triển giáo dục cơ bản cho các nhóm yếu thế, bao gồm cả đối tượng chính sách, người tàn tật và người nghèo, để họ được hưởng thành quả giáo dục và trình độ đào tạo ngày càng cao.

Để nâng cao hiệu quả quản lý và giảng dạy trong giáo dục, cần đẩy mạnh ứng dụng công nghệ thông tin thông qua việc đổi mới mục tiêu, phương pháp và nội dung chương trình dạy học Tăng cường quyền tự chủ và thực hiện trách nhiệm xã hội tại các cơ sở giáo dục là rất quan trọng, đồng thời cần phát huy tính chủ động và tích cực trong hoạt động giáo dục Việc hiện đại hóa các hệ thống giáo dục cũng cần được chú trọng để đảm bảo các cơ sở giáo dục đáp ứng được các yêu cầu cơ bản Hơn nữa, cần đầu tư mạnh mẽ vào phần mềm hỗ trợ quản lý giáo dục và phát triển cơ sở hạ tầng công nghệ thông tin.

Để nâng cao hiệu quả hợp tác quốc tế trong giáo dục - đào tạo, cần cải thiện các chính sách hợp lý nhằm thu hút đầu tư trí tuệ và khoa học – công nghệ từ các tổ chức, cá nhân nước ngoài Việc khai thác các nguồn học bổng quốc tế cho cán bộ giáo viên, giảng viên đi học tập và nghiên cứu ở nước ngoài là rất quan trọng Đồng thời, tạo môi trường đào tạo quốc tế cũng đòi hỏi chính sách khuyến khích thu hút giảng viên và nhà khoa học trong và ngoài nước đến giảng dạy và nghiên cứu tại các trường học.

Đào tạo người lao động trong doanh nghiệp là một hoạt động đầu tư cho tương lai, đóng vai trò quan trọng trong sự phát triển bền vững của doanh nghiệp Các giải pháp thúc đẩy hoạt động đào tạo này bao gồm việc xây dựng chương trình đào tạo phù hợp, tạo môi trường học tập tích cực và khuyến khích sự tham gia của nhân viên.

Để nâng cao chất lượng đào tạo, cần tích cực tổ chức các hoạt động liên kết giữa các trường đại học, trường đào tạo nghề và doanh nghiệp Các nhà tuyển dụng có thể nêu rõ kỹ năng và trình độ mà họ cần, trong khi các cơ sở giáo dục cam kết đào tạo ứng viên đáp ứng yêu cầu đó Đổi lại, doanh nghiệp sẽ đầu tư vào trang thiết bị dạy học và cải thiện cơ sở vật chất tại trường.

Để đáp ứng nhu cầu lao động hiện nay, việc dạy nghề và đào tạo lại cho công nhân mới là rất cần thiết, mặc dù đây chỉ là giải pháp tạm thời Giáo dục tại Việt Nam chưa đáp ứng đủ yêu cầu của thị trường lao động, do đó, các doanh nghiệp cần đầu tư vào vốn và đội ngũ giảng dạy để tổ chức các khóa đào tạo Bên cạnh đó, việc hợp tác với các trường đại học và trường đào tạo nghề cũng là một phương án hiệu quả để nâng cao chất lượng đào tạo cho người lao động.

Đầu tư vào các quỹ hỗ trợ và khen thưởng cho sinh viên, học viên tại các trường đại học và đào tạo nghề là rất cần thiết Cần có các chính sách hỗ trợ như học bổng cho sinh viên xuất sắc và sinh viên nghèo vượt khó Đồng thời, tổ chức các hội thảo, workshop hướng nghiệp và dự án đào tạo sẽ giúp tiếp cận gần gũi hơn với những sinh viên tài năng, từ đó phát hiện và phát triển nguồn nhân lực tiềm năng chất lượng cao cho doanh nghiệp trong tương lai.

Doanh nghiệp nên tận dụng các tiến bộ khoa học và công nghệ từ nước ngoài bằng cách tổ chức cho người lao động đi du học để nâng cao trình độ và tay nghề Điều này giúp người lao động có thêm kiến thức và khả năng áp dụng các tiến bộ quốc tế khi trở về Tuy nhiên, doanh nghiệp cần thiết lập các quy định ràng buộc về hợp đồng tiền lương và xây dựng chính sách hỗ trợ, tạo điều kiện làm việc hấp dẫn để khuyến khích người lao động quay trở lại sau khi du học, tránh tình trạng họ không trở về nước.

3.3.2 Giải pháp đầu tư cho y tế

Ngày đăng: 13/07/2022, 17:36

HÌNH ẢNH LIÊN QUAN

Bảng  2.1  Thống  kê  tình  hình - ĐỀ ÁN MÔN HỌC: ĐẦU TƯ PHÁT TRIỂN NGUỒN NHÂN LỰC TẠI VIỆT NAM GIAI ĐOẠN NĂM 2010 – 2021
ng 2.1 Thống kê tình hình (Trang 6)
Hình 2.1: Tỷ lệ chi ngân sách nhà nước cho giáo dục đào tạo từ năm 2010 – - ĐỀ ÁN MÔN HỌC: ĐẦU TƯ PHÁT TRIỂN NGUỒN NHÂN LỰC TẠI VIỆT NAM GIAI ĐOẠN NĂM 2010 – 2021
Hình 2.1 Tỷ lệ chi ngân sách nhà nước cho giáo dục đào tạo từ năm 2010 – (Trang 27)
Hình 2.2: Tổng chi ngân sách nhà nước cho y tế giai đoạn 2013-2020 - ĐỀ ÁN MÔN HỌC: ĐẦU TƯ PHÁT TRIỂN NGUỒN NHÂN LỰC TẠI VIỆT NAM GIAI ĐOẠN NĂM 2010 – 2021
Hình 2.2 Tổng chi ngân sách nhà nước cho y tế giai đoạn 2013-2020 (Trang 33)
Bảng 2.4: Cơ cấu chi ngân sách nhà nước cho giáo dục, đào tạo - ĐỀ ÁN MÔN HỌC: ĐẦU TƯ PHÁT TRIỂN NGUỒN NHÂN LỰC TẠI VIỆT NAM GIAI ĐOẠN NĂM 2010 – 2021
Bảng 2.4 Cơ cấu chi ngân sách nhà nước cho giáo dục, đào tạo (Trang 46)

TỪ KHÓA LIÊN QUAN

TRÍCH ĐOẠN

TÀI LIỆU CÙNG NGƯỜI DÙNG

TÀI LIỆU LIÊN QUAN

w