Quan điểm và mục tiêu về nguồn nhân lực chất lượng cao trong chiến lược phát triển nguồn nhân lực
Quan điểm về nguồn nhân lực chất lượng cao
Quan điểm chỉ đạo thực hiện mục tiêu phát triển nhân lực chất lượng cao của nước ta thời kỳ 2011-2020:
Phát triển nhân lực chất lượng cao trên cơ sở Chiến lược phát triển kinh tế
Trong giai đoạn 2011-2020, xã hội đã chú trọng vai trò quan trọng của yếu tố con người, coi phát triển nhân lực là bước đột phá cần thiết để thực hiện thành công Chiến lược phát triển kinh tế - xã hội.
Để phát triển nguồn nhân lực chất lượng cao, cần phải dựa trên nhu cầu thực tế của các ngành và địa phương Việc quy hoạch phát triển nhân lực cho giai đoạn 2011-2020 là cần thiết nhằm tạo nền tảng cân đối nguồn nhân lực, phục vụ cho sự phát triển kinh tế - xã hội của các địa phương và toàn quốc.
Phát triển nhân lực chất lượng cao toàn diện là yếu tố then chốt để nâng cao thể lực, tri thức, kỹ năng, hành vi và ý thức chính trị, xã hội, nhằm đáp ứng yêu cầu phát triển bền vững của con người và đất nước Để đạt được điều này, cần tập trung vào phát triển nhân tài và xây dựng đội ngũ chuyên gia hàng đầu Trong từng giai đoạn, cần giải quyết những vấn đề cốt yếu ảnh hưởng đến sự phát triển nhân lực và kinh tế - xã hội, phù hợp với bối cảnh quốc tế và nhu cầu phát triển trong nước.
Nhân lực Việt Nam cần phải đáp ứng yêu cầu thời đại, với trình độ kiến thức và kỹ năng làm việc đạt tiêu chuẩn tương đương với các nước tiên tiến trong khu vực và một số lĩnh vực đạt chuẩn quốc tế.
Phát triển nguồn nhân lực chất lượng cao cần kết hợp hài hòa giữa công bằng xã hội và lợi ích quốc gia, đồng thời áp dụng các cơ chế của kinh tế thị trường Đặc biệt, cần nhanh chóng chuyển đổi hệ thống đào tạo nhân lực sang mô hình đào tạo đáp ứng nhu cầu của xã hội và thị trường lao động, đặc biệt là trong các ngành trọng điểm.
Phát triển nhân lực chất lượng cao là trách nhiệm chung của toàn xã hội, yêu cầu sự tham gia tích cực từ mỗi công dân và tổ chức kinh tế, xã hội Nhà nước cần thúc đẩy xã hội hóa trong các lĩnh vực giáo dục, y tế, văn hóa và thể dục thể thao, đồng thời thực hiện quản lý vĩ mô thông qua khung pháp lý và chính sách khuyến khích phát triển nhân lực Các chương trình phổ cập giáo dục bắt buộc và hỗ trợ bồi dưỡng nhân tài cần được triển khai, đặc biệt chú trọng đến công bằng xã hội và phát triển các nhóm nhân lực đặc thù như người tàn tật, người nghèo, cận nghèo, và đồng bào dân tộc thiểu số Việc thu hút doanh nghiệp tham gia mạnh mẽ vào phát triển nhân lực chất lượng cao cũng là một yếu tố quan trọng.
Để phát triển nhân lực chất lượng cao, cần tăng cường và mở rộng hợp tác quốc tế, đặc biệt là trong việc xây dựng các cơ sở đào tạo đạt tiêu chuẩn quốc tế Đồng thời, cần chú trọng đào tạo đội ngũ chuyên gia đầu ngành và các nhóm nhân lực trình độ cao trong các lĩnh vực trọng điểm, nhằm đạt được trình độ tương đương với các nước tiên tiến.
1.1.1 Khái niệm nguồn nhân lực chất lượng cao
Nguồn nhân lực chất lượng cao được định nghĩa là những lao động đã qua đào tạo, sở hữu bằng cấp và chứng chỉ phù hợp, có khả năng đáp ứng nhu cầu công việc phức tạp Những lao động này đóng góp vào năng suất và hiệu quả làm việc, từ đó thúc đẩy sự tăng trưởng và phát triển của cả đơn vị và xã hội Để hiểu rõ hơn về nguồn nhân lực chất lượng cao, cần thiết phải xây dựng các tiêu chí cụ thể nhằm thống kê, phân tích và đánh giá lực lượng lao động này một cách hiệu quả.
1.1.2 Các tiêu chí xác định nguồn nhân lực chất lượng cao
Trên phương diện tổng thể, các tiêu chí xác định nguồn nhân lực chất lượng cao bao gồm các nội dung sau:
Nguồn nhân lực chất lượng cao không chỉ là lực lượng lao động có đạo đức nghề nghiệp mà còn thể hiện lòng yêu nghề, sự say mê với công việc, tính kỷ luật và trách nhiệm Hơn nữa, họ còn mong muốn đóng góp tài năng và công sức vào sự phát triển chung của dân tộc Đây là tiêu chí nền tảng trong việc xác định nguồn nhân lực chất lượng cao.
Nguồn nhân lực chất lượng cao là lực lượng lao động có khả năng thích ứng với công nghệ mới và linh hoạt trong công việc chuyên môn Để đáp ứng tiêu chí này, nguồn nhân lực cần có trình độ chuyên môn và kỹ thuật cao, giúp họ xử lý những công việc phức tạp và luôn thay đổi trong thời đại hiện nay Điều này cũng nhấn mạnh rằng nguồn nhân lực chất lượng cao phải có bản lĩnh nghề nghiệp vững vàng để không bị động trước những biến đổi nhanh chóng trong nội dung và phương thức làm việc trong bối cảnh toàn cầu hóa và nền kinh tế tri thức.
Nguồn nhân lực chất lượng cao đóng vai trò quan trọng trong việc thúc đẩy sự sáng tạo, điều này là động lực chính cho sự phát triển Trong bối cảnh hiện đại, những gì mới mẻ hôm qua nhanh chóng trở nên lỗi thời hôm nay (Tony Buzan, 2006) Do đó, việc không ngừng đưa ra những ý tưởng sáng tạo sẽ giúp các tổ chức và cả dân tộc tránh khỏi sự trì trệ.
Nguồn nhân lực chất lượng cao tập trung vào những cá nhân xuất sắc, bao gồm lãnh đạo, doanh nhân và nhà khoa học, được gọi là nhân tài Những người này cần có nhân cách vững vàng, trí tuệ phát triển cùng với những phẩm chất nổi bật hiếm có Họ cũng phải sở hữu tính sáng tạo, khả năng tư duy độc lập và khả năng giải quyết công việc nhanh chóng, chính xác, mang lại hiệu quả cao.
Mục tiêu nguồn nhân lực chất lượng cao trong chiến lược phát triển NNL
Mục tiêu phát triển nhân lực chất lượng cao của Việt Nam giai đoạn 2011-2020 là biến nhân lực thành nền tảng và lợi thế quan trọng cho sự phát triển bền vững, hội nhập quốc tế và ổn định xã hội Đặc biệt, Việt Nam hướng tới nâng cao năng lực cạnh tranh của nhân lực, đạt trình độ tương đương với các nước tiên tiến trong khu vực, đồng thời tiếp cận một số lĩnh vực với trình độ của các nước phát triển trên thế giới.
Nhân lực Việt Nam sở hữu thể lực tốt và tầm vóc cường tráng, phát triển toàn diện về trí tuệ, ý chí và đạo đức Họ có khả năng tự học, tự đào tạo và thể hiện sự năng động, chủ động, sáng tạo Với tri thức và kỹ năng nghề nghiệp cao, nhân lực Việt Nam có khả năng thích ứng nhanh chóng, tạo ra thế chủ động trong môi trường sống và làm việc.
Nguồn nhân lực chất lượng cao trong quản lý hành chính nhà nước chuyên nghiệp là yếu tố then chốt để đáp ứng các yêu cầu của Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa, đặc biệt trong bối cảnh hội nhập toàn cầu và sự biến đổi nhanh chóng của môi trường.
Xây dựng đội ngũ nhân lực chất lượng cao trong lĩnh vực khoa học và công nghệ, đặc biệt là nhóm chuyên gia hàng đầu với trình độ chuyên môn tương đương các nước tiên tiến, có khả năng nghiên cứu, tiếp nhận và chuyển giao công nghệ Đội ngũ này sẽ đề xuất các giải pháp khoa học và công nghệ nhằm giải quyết các vấn đề phát triển của đất nước, đồng thời hội nhập với các xu hướng phát triển khoa học tự nhiên, khoa học xã hội và công nghệ toàn cầu.
Xây dựng đội ngũ doanh nhân và chuyên gia quản trị doanh nghiệp chuyên nghiệp, có bản lĩnh và am hiểu sâu sắc về kinh doanh trong nước và quốc tế là yếu tố then chốt Điều này giúp nâng cao năng lực cạnh tranh cho các doanh nghiệp Việt Nam, từ đó góp phần tăng cường sức mạnh cho nền kinh tế Việt Nam trên trường quốc tế.
Nhân lực Việt Nam sở hữu thái độ nghề nghiệp tích cực và năng lực ứng xử tốt, bao gồm đạo đức, lương tâm nghề nghiệp, tác phong làm việc, kỷ luật lao động, tinh thần hợp tác, tinh thần trách nhiệm và ý thức công dân Họ cũng thể hiện tính năng động và tự lực cao, đáp ứng đầy đủ các yêu cầu của người lao động trong xã hội công nghiệp hiện nay.
Quy hoạch phát triển nguồn nhân lực chất lượng cao của Việt Nam giai đoạn 2011-2020 nhằm xây dựng một lực lượng lao động có cơ cấu trình độ, ngành nghề và vùng miền hợp lý Mục tiêu là phát triển nhân lực trình độ cao đạt tiêu chuẩn quốc tế, đồng thời nâng cao chất lượng nhân lực ở các cấp độ để đáp ứng nhu cầu phát triển của từng vùng, miền và địa phương.
Xây dựng xã hội học tập tại Việt Nam nhằm đảm bảo mọi công dân đều có cơ hội bình đẳng trong giáo dục và đào tạo Mục tiêu là học để trở thành công dân Việt Nam trong thời kỳ hội nhập, học để có nghề và việc làm hiệu quả, học để mang lại hạnh phúc cho bản thân và người khác, cũng như học để góp phần phát triển đất nước và nhân loại.
Xây dựng một hệ thống cơ sở đào tạo nhân lực hiện đại và đa dạng, với cơ cấu ngành nghề đồng bộ và năng động, liên thông giữa các cấp và ngành đào tạo trong nước và quốc tế Hệ thống này cần được phân bố rộng khắp cả nước, góp phần hình thành xã hội học tập và đáp ứng nhu cầu học tập suốt đời của người dân.
1.2.3 Các chỉ tiêu cụ thể
Phấn đấu đến năm 2020 đạt được một số chỉ tiêu chủ yếu phát triển nhân lực chất lượng cao như sau:
Bảng 1: Một số chỉ tiêu chủ yếu phát triển nhân lực thời kỳ 2011-2020
I Nâng cao trí lực và kỹ năng lao động
1 Tỷ lệ lao động qua đào tạo (%) 40,0 55,0 70,0
2 Tỷ lệ lao động qua đào tạo nghề (%) 25,0 40,0 55,0
3 Số sinh viên đại học - cao đẳng trên 10.000 dân
4 Số trường dạy nghề đạt đẳng cấp quốc tế (trường) - 5 > 10
5 Số trường đại học xuất sắc trình độ quốc tế
6 Nhân lực có trình độ cao trong các lĩnh vực đột phá (người)
- Quản lý nhà nước, hoạch định chính sách và luật quốc tế
- Giảng viên đại học, cao đẳng 77.500 100.000 160.000
- Y tế, chăm sóc sức khỏe 60.000 70.000 80.000
II Nâng cao thể lực nhân lực
1 Tuổi thọ trung bình (năm) 73 74 75
2 Chiều cao trung bình thanh niên (mét) > 1,61 > 1,63 > 1,65
3 Tỷ lệ suy dinh dưỡng trẻ em dưới 5 tuổi (%) 17,5 < 10,0 < 5,0
Thực trạng đầu tư phát triển NNL chất lượng cao ở Việt Nam
Thực trạng đầu tư phát triển nguồn nhân lực chất lượng cao ở Việt Nam
2.1.1 Thực trạng đầu tư phát triển nguồn nhân lực chất lượng cao
2.1.1.1 Quy mô vốn đầu tư qua các năm
Bảng 2: Quy mô vốn đầu tư cho đào tạo nguồn nhân lực chất lượng cao
Tổng vốn nguồn nhân lực chất lượng cao trong
Tổng vốn cho nguồn nhân lực chất lượng cao (% so với tổng vốn đầu tư toàn xã hội
Vốn chi thường xuyên (% so với tổng vốn cho đào tạo nguồn nhân lực chất lượng cao)
Vốn chi chương trình MTQG (% so với tổng vốn đầu tư)
Chi đầu tư mới (% so với tổng chi về ĐT)
Nguồn: Số liệu thống kê giáo dục: Vụ kế hoạch – Tài chính, Bộ GD&ĐT
Theo bảng 2 ta thấy: Tổng vốn đầu tư toàn xã hội hàng năm từ năm 2002-
Từ năm 2004 đến 2005, vốn đầu tư toàn xã hội có sự biến động không rõ rệt, nhưng từ năm 2005 trở đi, nền kinh tế đã phục hồi và đạt tốc độ tăng trưởng ổn định Đặc biệt, tổng vốn đầu tư cho đào tạo nguồn nhân lực đã tăng đều qua các năm, với tỷ lệ đạt 18,1% vào năm 2007 và 18,4% vào năm 2008.
Năm 2010, tỷ lệ đầu tư phát triển nguồn nhân lực (ĐTPT NNL) đạt 4765,2 tỷ đồng, tương ứng với 19,2%, cho thấy sự quan tâm mạnh mẽ của Đảng, nhà nước và xã hội đối với vấn đề này Sự gia tăng này phản ánh xu hướng toàn cầu, khi các quốc gia đều hướng đến tăng trưởng bền vững và chú trọng hơn đến ĐTPT NNL Ngoài ra, trong những năm gần đây, vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài (FDI) vào Việt Nam đã tăng lên nhờ việc cân đối các nguồn vốn ưu tiên giữa các lĩnh vực, mặc dù tỷ lệ tăng trưởng vẫn chưa rõ nét.
2.1.1.2 Cơ cấu nguồn vốn đầu tư a, Nguồn vốn đầu tư từ NSNN
Bảng 3: Nguồn và cơ cấu chi NSNN đâu tư cho ĐT NNL thời kỳ 2003-2011
Năm Chi cho ĐT NNL Chi XDCB Chi thường xuyên
Nguồn số liệu: Tạp chí “kinh tế và dự báo”
Bảng 4: Vốn đầu tư cho phát triển NNL thời kỳ 2005-2010 Đơn vị:1000 tỷ đồng , giá năm 2005
- Vốn tín dụng ĐTPT của nhà nước
-Vốn tự có của DNNN
Nguồn: Bộ GD- ĐT Thời kỳ 2005-2010, Nhà nước đã đầu tư cho ĐT NNL trong 5 năm là
23150 tỷ đồng, chiếm 11,84% chi NSNN Tốc độ chi cho ĐT NNL bình quân hàng năm khoảng 157,1% trong khi đó tốc độ chi cho NSNN khoảng 146%.
Giai đoạn 2005-2010 so với 2000-2005 NSNN chi cho ĐT NNL tăng gấp 12,76 lần Nguồn NSNN đầu tư cho ĐT NNL trong những năm tiếp theo 2008, 2009,
Từ năm 2003 đến 2010, ngân sách nhà nước (NSNN) chi cho đầu tư phát triển nguồn nhân lực (ĐTPT NNL) đã tăng từ 10,7% lên 16% tổng chi NSNN, với mức chi cụ thể đạt từ 10.970 tỷ đồng đến 13.250 tỷ đồng.
Trong giai đoạn 2005-2010, tổng vốn đầu tư của Ngân sách Nhà nước (NSNN) cho phát triển nguồn nhân lực (NNL) đạt 28,5 nghìn tỷ đồng, chiếm 13,3% tổng vốn đầu tư từ NSNN Nghiên cứu cho thấy rằng việc phân bổ vốn đầu tư cho NNL là một phần quan trọng trong chiến lược phát triển kinh tế xã hội của đất nước.
Tình hình đầu tư cho ĐT NNL thông qua một số năm để thầy được tình hình ĐT cho NNL:
Bảng 5: Nguồn vốn đầu tư của nhà nước và của người dân cho đào tạo nguồn nhân lực giai đoạn 2004 - 2010 Đơn vị: Tỉ đồng
Nguồn vốn cho đào tạo nguồn nhân lực 18.386 22.601 34.872 54.798
Nguồn vốn của người dân cho đào tạo nguồn nhân lực
Vốn Nhà nước và người dân cho ĐTNNL 25.701 33.203 49.727 79.186
Tỷ trọng vốn của dân/ tổng chi cho đào tạo nguồn nhân lực (%)
(Nguồn: - Niên giám thống kê 2010;
- Kết quả điều tra mức sống hộ gia đình các năm 2006, 2008, 2010)
- Thời kỳ 2004-2006 tỷ lệ đầu tư so với GDP ở mức trung bình 4,2%/năm.
- Thời kỳ 2006-2008 tỷ lệ đầu tư so với GDP cũng đạt mức trung bình nhưng có lớn hơn thời kỳ trước là 4,9%/năm.
- Đến năm 2011 đầu tư cho giáo dục từ NSNN sẽ đạt 18% tổng chi NSNN, so với GDP đạt trên 5,6%
Từ năm 2006 đến đầu 2010, cuộc khủng hoảng tài chính tiền tệ đã làm giảm tốc độ tăng trưởng kinh tế của Việt Nam Mặc dù nhà nước đã duy trì và tăng cường đầu tư cho đào tạo nguồn nhân lực, tỷ lệ đầu tư so với GDP trong giai đoạn 2000-2010 đã tăng gấp đôi, nhưng vẫn còn thấp so với các nước phát triển trong khu vực và trên thế giới.
Hàng năm NSNN chi cho GD-ĐT bình quân 11,2$/người dân tỷ lệ này là thấp hơn so với các nước trong khu vực.
Khoản viện trợ chính thức (ODA) là khoản có vai trò quan trọng đối với NSNN được phân bổ qua một số năm như sau:
Bảng 6: tổng số vốn ODA cấp cho ĐT NNL
Tổng vốn ODA dành cho đầu tư phát triển nông nghiệp và nông thôn (NNL) đã có sự biến động qua các năm, với xu hướng tăng dần Cụ thể, năm 2006 đạt 57.427 nghìn USD, giảm xuống còn 39.650 nghìn USD vào năm 2008, nhưng lại tăng lên 45.990 nghìn USD vào năm 2010 Nhờ vào nguồn vốn ODA này, nhiều chương trình đầu tư lớn trong lĩnh vực nông nghiệp và nông thôn đã được triển khai hiệu quả Bên cạnh đó, vốn đầu tư từ các nguồn ngoài ngân sách nhà nước cũng đóng góp quan trọng cho sự phát triển này.
Đóng góp của các doanh nghiệp, cơ quan có sử dụng lao động được đào tạo:
Các doanh nghiệp lớn và uy tín thường dành một phần lợi nhuận để trao tặng học bổng cho những học sinh, sinh viên xuất sắc trong học tập Hành động này không chỉ khuyến khích tinh thần học tập mà còn thể hiện trách nhiệm xã hội của doanh nghiệp đối với cộng đồng.
Trong giai đoạn 2005-2010, vốn tự có của doanh nghiệp nhà nước cho giáo dục đào tạo đạt 1,3 nghìn tỷ đồng, chủ yếu đầu tư vào chương trình đào tạo nguồn nhân lực Tuy nhiên, trong ba năm qua, mức thực tế chỉ đạt gần 0,36 nghìn tỷ đồng mỗi năm, và dự kiến trong hai năm tới cũng sẽ giữ nguyên tỷ lệ này, cho thấy sự thay đổi không đáng kể trong vốn tự có của doanh nghiệp nhà nước dành cho đầu tư đào tạo nguồn nhân lực.
Hiện nay, nhiều công ty và cơ quan sử dụng lao động ở Việt Nam chưa thể hiện trách nhiệm đối với nhà nước, thường ỷ lại vào sự hỗ trợ của chính phủ Họ chỉ chú trọng đến lợi ích ngắn hạn mà không quan tâm đến phát triển bền vững Tình trạng này dẫn đến việc kinh doanh chụp giật, thiếu chiến lược dài hạn và mục tiêu rõ ràng, khiến doanh nghiệp khó có thể duy trì vị thế vững chắc trên thị trường, đặc biệt trong bối cảnh toàn cầu hóa và mở cửa kinh tế hiện nay.
Doanh nghiệp Việt Nam đang gặp khó khăn so với các doanh nghiệp nước ngoài, điều này thể hiện rõ qua việc các trường đại học thường nhắc đến học bổng từ các công ty Nhật Bản, Pháp, Canada, v.v Những học bổng này không chỉ nâng cao uy tín cho các công ty nước ngoài mà còn quảng bá thương hiệu của họ trên toàn cầu, tạo niềm tin trong thị trường Việt Nam và gia tăng lợi nhuận Các doanh nghiệp Việt Nam nên học hỏi từ những ưu điểm này để phát triển bền vững hơn Nếu áp dụng rộng rãi, điều này sẽ góp phần quan trọng vào quỹ phát triển đào tạo nguồn nhân lực tại Việt Nam.
Hiện nay, nhiều lao động trình độ cao tại Việt Nam ưu tiên làm việc cho các công ty nước ngoài, dẫn đến tình trạng "chảy máu chất xám" khi mà nhà nước đã đầu tư nhiều vào đào tạo nhưng không thu được lợi ích Các tổ chức nước ngoài không tốn công sức đào tạo lại được hưởng lợi, trong khi nhiều sinh viên được cấp học phí đi du học nhưng không trở về phục vụ đất nước Điều này giải thích tại sao hiệu quả từ nguồn lực đào tạo nhân lực không cao, mặc dù lao động là yếu tố quyết định đến hiệu quả sản xuất kinh doanh.
Nguồn vốn hợp tác quốc tế trong lĩnh vực ĐT NNL:
Việt Nam hiện đang mở rộng quan hệ hợp tác quốc tế trong lĩnh vực đào tạo nguồn nhân lực (ĐT NNL), tuy nhiên nền giáo dục nước ta vẫn còn lạc hậu so với nhiều quốc gia khác Cơ sở vật chất kỹ thuật yếu kém, điều kiện học tập thô sơ và sự thiếu hụt thực hành khiến cho sinh viên tốt nghiệp không thể ứng dụng kiến thức lý thuyết vào thực tiễn Mặc dù trình độ giáo viên không thấp, nhưng họ cũng thiếu cơ hội để nâng cao kiến thức thực tiễn Hệ quả là nhiều sinh viên phải đầu tư thêm thời gian và nguồn lực để đào tạo lại hoặc làm việc không đúng chuyên ngành, gây lãng phí nguồn lực Tình trạng này đang trở thành một vấn đề nghiêm trọng, vì vậy việc hợp tác quốc tế để học hỏi phương pháp đào tạo chất lượng cao và cải thiện cơ sở vật chất cho ĐT NNL là rất cần thiết.
Trong những năm qua, Việt Nam đã tạo ra môi trường thuận lợi để thu hút đầu tư trực tiếp nước ngoài (FDI) vào lĩnh vực đào tạo nguồn nhân lực (ĐT NNL) Nhiều dự án FDI đã được triển khai, mang lại những thành tựu đáng kể trong phát triển nguồn nhân lực Kết quả của những nỗ lực này được thể hiện rõ qua bảng 7 và bảng 8.
Bảng 7: Đầu tư trực tiếp nước ngoài (FDI) được cấp giấy phép 2008 - 2010 phân theo ngành kinh tế Tiêu chí
Số dự án Tổng vốn đăng ký
Nguồn số liệu: Niên giám thống kê 2010
Bảng 8: Đầu tư FDI được cấp giấy phép năm 2010 phân theo ngành kinh tế Tiêu chí Số dự án vốn đăng ký
Vốn pháp định (triệu USD)
Theo Niên giám thống kê 2010, trong giai đoạn 2008 - 2010, có tổng cộng 64 dự án đầu tư vào lĩnh vực ĐT NNL, chiếm 0,92% tổng số dự án FDI Đặc biệt, năm 2010 ghi nhận 20 dự án FDI, tương đương 2,61% tổng dự án cả nước Điều này cho thấy lượng FDI trong năm 2010 cao hơn đáng kể so với trung bình hàng năm của giai đoạn trước đó, phản ánh sự quan tâm ngày càng tăng của các nhà đầu tư nước ngoài đối với lĩnh vực ĐT NNL.
Vốn pháp định nước ta quy định trong lĩnh vực ĐT NNL thời kỳ 2008 -
Năm 2010, vốn đầu tư nước ngoài vào lĩnh vực đầu tư năng lượng đạt 56,5 triệu USD, chiếm 0,41% tổng vốn pháp định, trong khi tổng vốn đăng ký lên tới 97,4 triệu USD, gấp gần đôi vốn pháp định và chiếm 0,39% tổng vốn đăng ký Đặc biệt, trong năm 2010, tỷ lệ vốn đăng ký tăng lên 9,7 triệu USD, chiếm 0,75%, trong khi vốn pháp định đạt 5,5 triệu USD, chiếm 0,47% Với xu hướng này, triển vọng thu hút FDI vào lĩnh vực đầu tư năng lượng trong các năm 2011, 2012 và tiếp theo có khả năng gia tăng đáng kể.
Đánh giá kết quả và những vấn đề còn tồn tại trong đầu tư phát triển nguồn nhân lực chất lượng cao ở Việt Nam
2.2.1 Những kết quả đạt được
Với sự nỗ lực của Đảng, Nhà nước, các tổ chức, cá nhân quá trình ĐTPT NNL của nước ta đã được những thành tựu đáng kể:
Vốn đầu tư cho đào tạo nguồn nhân lực ngày càng tăng, giúp củng cố và mở rộng quy mô hệ thống các cấp bậc học Nhờ đó, chất lượng đào tạo cũng được cải thiện đáng kể.
Hệ thống đào tạo quốc dân tại Việt Nam đã phát triển hoàn chỉnh và đa dạng, bao gồm đầy đủ các cấp học từ mầm non đến sau đại học Mạng lưới trường phổ thông được xây dựng rộng khắp, cùng với sự phát triển mạnh mẽ của các trung tâm dạy nghề và lớp học ngắn hạn Các trường đại học và cao đẳng đã được thành lập tại hầu hết các khu dân cư lớn trên toàn quốc Cơ sở vật chất của các trường ngày càng được nâng cấp, với số lượng trường mới xây dựng đạt tiêu chuẩn quốc gia ngày càng tăng.
Hệ thống đào tạo nguồn nhân lực (ĐT NNL) đã trải qua sự đa dạng hóa đáng kể về loại hình, phương thức và nguồn lực, từng bước hòa nhập với xu thế toàn cầu Từ một hệ thống chủ yếu gồm các trường công lập và loại hình chính quy, hiện nay đã xuất hiện nhiều trường ngoài công lập, các loại hình đào tạo không chính quy, trường mở, cũng như phương thức đào tạo từ xa và liên kết với nước ngoài.
Quy mô đào tạo tại Việt Nam đã tăng nhanh chóng, bước đầu đáp ứng nhu cầu học tập của xã hội Từ năm 2005 đến 2010, có gần 40 triệu học sinh phổ thông, 1,2 triệu học sinh học nghề (trong đó 300.000 học sinh học nghề dài hạn) và 5 triệu sinh viên theo học tại các trường cao đẳng, đại học.
Số sinh viên trên vạn dân đạt 225, vượt chỉ tiêu định hướng cho cả năm 2010 đã đề ra Quy mô đào tạo nghề từ năm 2008 đến năm 2010 tăng 2,5 lần.
Lực lượng lao động được đào tạo với các loại hình và trình độ khác nhau hiện chiếm 30% tổng số lao động trên cả nước, đạt được mục tiêu định hướng đã đề ra.
Công tác xã hội hóa giáo dục và đào tạo đã đạt được những kết quả khả quan, với sự tham gia tích cực của các lực lượng xã hội trong việc huy động trẻ em đến trường và xây dựng cơ sở vật chất cho các trường học Nhiều hình thức đầu tư và đóng góp kinh phí cho giáo dục đã được thực hiện, dẫn đến tỷ trọng nguồn kinh phí xã hội trong tổng kinh phí giáo dục ngày càng tăng, đạt khoảng 45% vào năm 2010.
Hiệu quả sử dụng vốn đầu tư cho phát triển đào tạo nguồn nhân lực ngày càng được cải thiện, thể hiện qua sự nâng cao chất lượng đào tạo Trình độ hiểu biết và năng lực tiếp cận tri thức mới của học sinh, sinh viên đã được cải thiện, với giáo dục THPT chuyên đạt trình độ cao trong khu vực và thế giới Số lượng học sinh đạt giải quốc gia và quốc tế ngày càng tăng Đặc biệt, nhiều sinh viên tốt nghiệp đại học, cao đẳng có hoài bão lập thân, lập nghiệp, thể hiện tinh thần tự lập và năng động Chất lượng đào tạo trong các ngành khoa học cơ bản và khoa học công nghệ cũng đã được nâng cao Giáo dục đại học đã phát triển, đào tạo đội ngũ cán bộ khoa học kỹ thuật từ cử nhân đến tiến sỹ, đóng góp quan trọng cho các lĩnh vực kinh tế xã hội.
Nhờ có những thành tựu trên và các lĩnh vực xã hội khác mà thế giới đã xếp trình độ GD-ĐT nước ta đứng thứ 70/126 nước.
2.2.2 Những vấn đề còn tồn tại
Về quy mô: quy mô phát triển ĐT NNL còn bất cập, chưa đáp ứng được nhu cầu phát triển kinh tế xã hội.
Cơ cấu giáo dục hiện tại vẫn còn mất cân đối, đặc biệt là ở bậc học, với sự tập trung quá mức vào đào tạo đại học mà chưa chú trọng đúng mức đến đào tạo nghề, nhất là nghề trình độ cao Mặc dù quy mô đào tạo đã tăng trong những năm gần đây, tỷ lệ học sinh, sinh viên ở các bậc cao đẳng kỹ thuật, công nghệ và trung học chuyên nghiệp vẫn còn thấp và tăng chậm Công tác dự báo và quy hoạch ngành nghề đào tạo chưa hiệu quả, dẫn đến việc học sinh, sinh viên chưa được hướng dẫn đầy đủ về nghề nghiệp và thiếu khả năng tự lập nghiệp.
Giáo dục đại học và giáo dục nghề nghiệp hiện nay chủ yếu tập trung vào các thành phố lớn và khu công nghiệp, trong khi đó, những vùng sâu, vùng xa và khu vực đồng bào dân tộc thiểu số vẫn đang đối mặt với nhiều khó khăn trong việc tiếp cận giáo dục.
Chưa chú trọng đúng mức các hình thức đào tạo không chính quy, đào tạo bên ngoài nhà trường, đặc biệt cho những người đang lao động.
Chất lượng đào tạo nguồn nhân lực hiện nay còn thấp, chưa đạt tiêu chuẩn khu vực và quốc tế, đồng thời chưa đáp ứng nhu cầu của các ngành nghề trong xã hội Học sinh, sinh viên sau khi tốt nghiệp gặp khó khăn về tư duy sáng tạo, kỹ năng thực hành và khả năng thích ứng với nghề nghiệp Ngoài ra, tinh thần hợp tác, cạnh tranh lành mạnh và khả năng tự lập nghiệp của họ cũng còn hạn chế.
Hoạt động đào tạo nguồn nhân lực hiện nay chưa đạt hiệu quả cao, thể hiện qua tỷ lệ lao động đã qua đào tạo còn thấp Nhiều học sinh và sinh viên sau khi tốt nghiệp vẫn gặp khó khăn trong việc tìm kiếm việc làm.
Hội nghị Trung ương đã kết luận: “ĐT NNL chưa kết hợp chặt chẽ với lao động sản xuất, nhà trường chưa gắn với gia đình và xã hội”.
Cơ sở vật chất của nhà trường đang gặp nhiều khó khăn với thư viện và trang thiết bị giảng dạy còn thiếu và lạc hậu Đội ngũ giáo viên không chỉ thiếu về số lượng mà còn yếu về chất lượng, không đáp ứng được yêu cầu mở rộng quy mô trong khi vẫn phải nâng cao hiệu quả đào tạo Đặc biệt, giảng viên tại các trường đại học thường thiếu cơ hội để cập nhật kiến thức và những thành tựu khoa học công nghệ mới trên thế giới.
Chương trình và giáo trình hiện tại vẫn chậm đổi mới và hiện đại hóa, mang tính hàn lâm và thiên về thi cử, chưa đáp ứng tốt nhu cầu thực tiễn của phát triển kinh tế xã hội và nhu cầu của người học Hệ thống giáo dục cần gắn kết chặt chẽ hơn với nghiên cứu khoa học - công nghệ và triển khai ứng dụng để nâng cao hiệu quả đào tạo.
Công tác quản lý đào tạo hiện nay gặp nhiều khó khăn và chưa đạt hiệu quả cao Các hiện tượng như "thương mại hoá giáo dục" thông qua việc mua bằng, bán điểm, tuyển sinh vượt chỉ tiêu và thu chi sai nguyên tắc đang làm giảm uy tín của nhà trường và giáo viên Ngoài ra, tình trạng gian lận trong kiểm tra của học sinh, sinh viên cũng ảnh hưởng tiêu cực đến nhân cách và thái độ của người học trong tương lai.