1. Trang chủ
  2. » Giáo Dục - Đào Tạo

Định kiến giới trong ca dao việt nam

86 770 0
Tài liệu đã được kiểm tra trùng lặp

Đang tải... (xem toàn văn)

Tài liệu hạn chế xem trước, để xem đầy đủ mời bạn chọn Tải xuống

THÔNG TIN TÀI LIỆU

Thông tin cơ bản

Tiêu đề Định Kiến Giới Trong Ca Dao Việt Nam
Tác giả Phùng Thị Vân Anh
Người hướng dẫn TS. Nguyễn Thị Thúy Hằng
Trường học Trường Đại Học Hùng Vương
Chuyên ngành Sư Phạm Ngữ Văn
Thể loại Khóa Luận Tốt Nghiệp
Năm xuất bản 2020
Thành phố Phú Thọ
Định dạng
Số trang 86
Dung lượng 1,2 MB

Cấu trúc

  • 1. Tính cấp thiết đề tài (7)
  • 2. Tổng quan lịch sử nghiên cứu vấn đề (10)
  • 3. Đối tượng, phạm vi nghiên cứu (12)
  • 4. Mục đích nghiên cứu (12)
  • 5. Nhiệm vụ nghiên cứu (13)
  • 6. Phương pháp nghiên cứu (13)
  • 7. Đóng góp của khóa luận (14)
  • CHƯƠNG 1. CƠ SỞ LÝ LUẬNCỦA VẤN ĐỀ NGHIÊN CỨU (15)
    • 1.1. Khái quát về giới, định kiến, định kiến giới (15)
      • 1.1.1. Thuật ngữ giới, định kiến, định kiến giới (15)
      • 1.1.2. Đặc điểm và biểu hiện của định kiến giới (19)
    • 1.2. Nho giáo và vấn đề “định kiến” trong cái nhìn về giới nữ (23)
      • 1.2.1. Nho giáo và ảnh hưởng tích cực của Nho giáo trong xã hội Việt Nam (23)
      • 1.2.2. Từ mặt trái đến cái nhìn mang tính định kiến về giới nữ trong xã hội Việt (25)
    • 1.3. Khái quát về ca dao Việt Nam (29)
      • 1.3.1. Thuật ngữ ca dao (29)
      • 1.3.2. Những phương diện nội dung chủ yếu của ca dao (29)
      • 1.3.3. Ý nghĩa xã hội của ca dao (35)
  • CHƯƠNG 2. ĐỊNH KIẾN GIỚI TRONG CA DAO VIỆT NAM NHÌN TỪ PHƯƠNG DIỆN NỘI DUNG (45)
    • 2.1. Định kiến về dung tướng (ngoại hình) (45)
    • 2.2. Định kiến về phẩm chất người mẹ, người vợ trong gia đình (47)
      • 2.2.1. Người phụ nữ với “Tam tòng” (47)
      • 2.2.2. Người Phụ nữ với “Tứ đức” (49)
    • 2.3. Định kiến về vị thế, năng lực, vai trò xã hội của người phụ nữ (54)
      • 2.3.1. Người phụ nữ không có quyền lựa chọn, không được chủ động trong cuộc sống (54)
      • 2.3.2. Người phụ nữ tự coi mình là vật thể được cho, gả, bán (57)
  • CHƯƠNG 3. ĐỊNH KIẾN GIỚI TRONG CA DAO VIỆT NAM NHÌN TỪ PHƯƠNG DIỆN NGHỆ THUẬT (61)
    • 3.1. Định kiến giới thể hiện qua nghệ thuật so sánh (61)
      • 3.1.1. Tô đậm thân phận bé nhỏ, hẩm hiu, nổi trôi (61)
      • 3.1.2. Thể hiện bi kịch của người phụ nữ trong tình yêu (64)
      • 3.1.3. Khẳng định giá trị của bản thân (65)
    • 3.2. Định kiến giới thể hiện qua nghệ thuật ẩn dụ (66)
      • 3.2.1. Hình tượng “con cò” - ẩn dụ của những nhọc nhằn song kiêu hãnh (66)
      • 3.2.2. Hình tượng “con bống” - ẩn dụ về phẩm hạnh (69)
      • 3.2.3. Hình tượng con “con cuốc” - ẩn dụ của thân phận đắng cay (70)
    • 3.3. Định kiến giới thể hiện qua nghệ thuật Phóng đại (72)
      • 3.3.1. Lối nói phóng đại thể hiện tâm trạng đau đớn của người con gái trong tình yêu (72)
      • 3.3.2. Lối nói phóng đại để gây cười, giảm bớt áp lực định kiến cho nữ giới (74)
    • 3.4. Định kiến giới thể hiện qua ngôn từ (77)
      • 3.4.1. Hình thức sử dụng ngôn ngữ đối thoại và độc thoại (77)
      • 3.4.2. Ngôn từ ca dao mang tính khẩu ngữ (78)
    • 1. Kết luận (83)
    • 2. Kiến nghị (84)
  • TÀI LIỆU THAM KHẢO (85)

Nội dung

Tính cấp thiết đề tài

Định kiến giới và sự phân biệt giới tính đã tồn tại từ lâu trong xã hội, ảnh hưởng sâu sắc đến mọi tầng lớp dân cư và các nền văn hóa khác nhau Mặc dù xã hội đã có nhiều thay đổi, nhưng định kiến giới vẫn được truyền từ thế hệ này sang thế hệ khác, gây ra nhiều hậu quả nghiêm trọng như bất bình đẳng giới, phân biệt đối xử với phụ nữ và giảm thiểu sự tham gia của họ trong các lĩnh vực kinh tế, chính trị và xã hội Điều này không chỉ làm tổn thương tâm lý của phụ nữ mà còn tạo ra áp lực cho cả nam giới, hình thành những giới hạn khó vượt qua trong mối quan hệ giữa hai giới Sự phân công lao động cũng chịu ảnh hưởng từ định kiến giới, khi phụ nữ phải gánh vác cả công việc nội trợ lẫn lao động kiếm sống, trong khi vai trò của họ trong xã hội vẫn bị hạn chế.

Việc đấu tranh xóa bỏ định kiến giới đang được thực hiện trên toàn cầu, với sự phê chuẩn của Liên Hợp Quốc đối với Công ước CEDAW vào ngày 18/12/1979 và có hiệu lực từ 3/9/1981 Hội nghị phụ nữ Quốc tế lần thứ IV tại Bắc Kinh vào năm 1995 đã thúc đẩy quyền lực và sự tiến bộ của phụ nữ Đến tháng 6/2000, Đại hội đồng Liên Hợp Quốc tiếp tục đặt ra mục tiêu vì sự tiến bộ của phụ nữ trong thế kỷ XXI Những tư tưởng chống định kiến giới đã trở thành trách nhiệm toàn cầu vì sự tiến bộ nhân loại Tại Việt Nam, Đảng và Nhà nước đã chú trọng đến bình đẳng giới và xóa bỏ định kiến giới từ khi thành lập nước, thể hiện qua việc ban hành các luật bình đẳng trong hiến pháp đầu tiên.

Năm 1946, Việt Nam trở thành nước thứ 6 trên thế giới ký công ước CEDAW vào ngày 29/7/1980 Tuy nhiên, trong hơn 10 năm qua, vấn đề bình đẳng giới mới được chú trọng, đặc biệt sau Nghị quyết thứ 23 của Đảng vào tháng 3/2003, khi vấn đề này được đưa vào thực tiễn với ý nghĩa khoa học giới Tại hội nghị năm 2019 về tổng kết 10 năm thi hành pháp luật bình đẳng giới, Bộ Lao động – Thương binh và Xã hội đã ký kết chương trình phối hợp với Trung ương Hội Liên hiệp Phụ nữ Việt Nam, cam kết lồng ghép giới vào các hoạt động và dự án của ngành Mục tiêu là đến năm 2030 hoàn thiện hệ thống chính sách về bình đẳng giới và cung cấp dịch vụ công về bình đẳng giới trên toàn quốc.

Các cuộc đấu tranh vì bình đẳng giới đã diễn ra mạnh mẽ, tuy nhiên, Luật Bình đẳng giới vẫn bộc lộ nhiều hạn chế Các quy định trong luật còn chung chung và khó áp dụng thực tiễn, nhiều điều khoản chưa có hướng dẫn thi hành Sự thiếu thống nhất giữa Luật Bình đẳng giới và các luật chuyên ngành cũng là một vấn đề Hơn nữa, nhận thức về bình đẳng giới chưa được thấm nhuần trong mọi thế hệ, dẫn đến việc định kiến vẫn tồn tại trong xã hội Việt Nam hiện đại.

Định kiến giới là một hệ ý thức xã hội tồn tại trong ca dao Việt Nam, phản ánh xã hội Việt Nam ở một giai đoạn xa xưa và cảnh báo về những nhận thức đã tồn tại hàng nghìn năm mà chưa thay đổi Tư tưởng định kiến giới có mặt ở khắp nơi, và ca dao là một hình thức thể hiện rõ ràng nhất Là một phần của văn học dân gian, ca dao không chỉ phản ánh văn hóa dân tộc mà còn chứa đựng nhiều câu ca hàm chứa định kiến giới, thể hiện tư tưởng và ứng xử của nhân dân Những câu ca dao này đã được truyền từ thế hệ này sang thế hệ khác, vẫn hiện diện trong sách giáo khoa, tạp chí, cuộc sống hàng ngày và phương tiện truyền thông Tuy nhiên, thực tế là chúng ta thường chấp nhận những định kiến giới đó một cách tự nhiên.

Ca dao, với sự tự nhiên và gần gũi, đã trở thành một phần không thể thiếu trong tâm hồn con người và được đưa vào chương trình giáo dục ở mọi cấp học, mang lại giá trị lớn về nội dung và nghệ thuật Tuy nhiên, cần có cái nhìn tỉnh táo hơn về những định kiến giới trong ca dao, nhằm tạo ra sự đối sánh cần thiết về sự phát triển của xã hội và khẳng định tinh thần đấu tranh cho bình đẳng giới Trong bối cảnh hiện nay, khi vai trò của phụ nữ đã thay đổi, những khuôn mẫu giới truyền thống không còn phù hợp và trở thành rào cản cho nỗ lực khẳng định bản thân của phụ nữ.

Để giảm thiểu và hướng tới việc xóa bỏ định kiến giới, việc nghiên cứu và hiểu rõ về vấn đề này là rất cần thiết Chúng tôi đã chọn đề tài "Định kiến giới trong ca dao" nhằm làm nổi bật những quan niệm sai lầm và ảnh hưởng tiêu cực của định kiến giới trong văn hóa dân gian.

Việt Nam mong muốn nghiên cứu thực trạng định kiến giới thông qua ca dao, nhằm hiểu rõ hơn về giá trị văn hóa, tư tưởng và lịch sử của nó Qua đó, cần có những đánh giá khoa học về vấn đề giới và đưa ra các kiến nghị để giảm thiểu tác động tiêu cực của định kiến giới hiện nay, góp phần xây dựng một xã hội bình đẳng giới.

Tổng quan lịch sử nghiên cứu vấn đề

2.1 Khái lược những nghiên cứu về định kiến giới

Lịch sử nghiên cứu về giới và định kiến giới bắt đầu từ những năm 70, 80 của thế kỷ XX, khi các phong trào nữ quyền phát triển mạnh mẽ, thúc đẩy cuộc đấu tranh cho bình đẳng giới Các nhà khoa học đã tìm kiếm giải pháp cho các vấn đề liên quan đến định kiến giới Tại Việt Nam, mặc dù phụ nữ luôn giữ vai trò quan trọng trong gia đình và xã hội, họ vẫn phải đối mặt với định kiến và sự phân biệt đối xử.

Ngay từ thời kỳ đất nước còn bị thực dân Pháp đô hộ, tư tưởng cách mạng của Chủ tịch Hồ Chí Minh đã thể hiện sự đấu tranh cho bình đẳng giới Bác Hồ đã chỉ trích mạnh mẽ chế độ thực dân phong kiến đã chà đạp và làm nhục phụ nữ Hiến pháp đầu tiên của nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa năm 1946 đã khẳng định rõ ràng rằng “Tất cả công dân Việt Nam đều ngang quyền về mọi phương diện chính trị, kinh tế, văn hóa.”

Điều 6 và Điều 9 của hiến pháp khẳng định "Đàn bà ngang quyền với đàn ông về mọi phương diện", tuy nhiên, việc thay đổi định kiến giới vẫn là một thách thức lớn Nhà nước Việt Nam đã chú trọng đến vấn đề này và chỉ sau năm 1946, các hiến pháp mới bắt đầu đề cập đến quyền bình đẳng nam - nữ Luật bình đẳng giới chính thức được ban hành vào năm 2007, nhưng nghiên cứu về định kiến giới trong tâm lý học tại Việt Nam vẫn còn hạn chế Một số nghiên cứu lý luận và thực tiễn về vấn đề này đã được thực hiện, nhưng cần nhiều hơn nữa để hiểu rõ và giải quyết vấn đề.

Bài viết "Định kiến giới và các hình thức khắc phục" của tác giả Trần Thị Vân Anh, đăng trên báo khoa học về phụ nữ số 5/2000, đã nêu rõ khái niệm và nguyên nhân của định kiến giới, cùng các biện pháp khắc phục dựa trên lý thuyết Nghiên cứu cho thấy rằng định kiến giới đối với phụ nữ đã dẫn đến sự tự ti và đánh giá thấp khả năng của bản thân, khiến họ thường cảm thấy mình kém hơn nam giới và tự coi thường chính mình.

Bài viết "Một sự duy trì định kiến giới về vai trò của nữ và nam trên báo hiện nay" của Trần Thị Minh Đức và Đỗ Hoàng, đăng trên tạp chí Tâm lý học số 6/2004, đã phân tích các vấn đề lý luận liên quan đến định kiến giới và những biểu hiện của chúng trong thực tiễn tại Việt Nam Tác giả đã chỉ ra sự duy trì các khuôn mẫu giới truyền thống về vị trí, vai trò và năng lực của phụ nữ và nam giới trong gia đình và xã hội thông qua các ấn phẩm báo in hiện nay Đồng thời, bài viết cũng đề xuất một số giải pháp nhằm ngăn chặn việc báo in trở thành công cụ tuyên truyền cho định kiến giới.

Công trình nghiên cứu của Trần Thị Minh Đức, Hoàng Thị Xuân Dung, và Đỗ Hoàng mang tên “Định kiến giới và phân biệt đối xử theo giới” (lý thuyết và thực tiễn), xuất bản năm 2006 bởi NXB Đại học Quốc Gia Hà Nội, đã trình bày một số vấn đề lý luận liên quan đến định kiến giới Nghiên cứu này cũng đề cập đến các hình thức biểu hiện của định kiến giới từ cả phương diện lý luận và thực tiễn tại Việt Nam.

2.2 Những nghiên cứu về định kiến giới trong ca dao

Ca dao đã thu hút sự quan tâm từ cả lý luận và nghiên cứu ứng dụng, với nhiều công trình nghiên cứu đa dạng Tuy nhiên, nghiên cứu về định kiến giới trong ca dao Việt Nam vẫn còn hạn chế Một trong những công trình tiêu biểu là "Định kiến giới trong ca dao, tục ngữ, thành ngữ Việt Nam" của tác giả Nguyễn Thị Thịnh, xuất bản bởi NXB Đại học Quốc Gia Hà Nội.

Năm 2008, một công trình nghiên cứu đã chỉ ra cơ sở lý luận về định kiến giới trong ca dao, tục ngữ và thành ngữ Việt Nam Tác giả định nghĩa định kiến là "sự nhìn nhận, phán xét, đánh giá mang tính tiêu cực và bất hợp lý được hình thành trên cơ sở những nhận thức thiếu căn cứ, phiến diện." Tuy nhiên, nghiên cứu chỉ tập trung vào một số khía cạnh như ngoại hình, tính cách và năng lực của người phụ nữ, mà chưa đi sâu vào việc khám phá định kiến giới trong ca dao.

Nghiên cứu về "Định kiến giới trong ca dao Việt Nam" hiện còn hạn chế và chủ yếu dừng lại ở lý thuyết Công trình này sẽ là nền tảng cho những nghiên cứu tiếp theo Tôi mong muốn khám phá những định kiến giới đối với phụ nữ qua ca dao Việt Nam, từ đó phân tích nội dung và nghệ thuật của chúng Mục tiêu là đề xuất giải pháp và kiến nghị trong việc tuyên truyền, giáo dục học sinh, sinh viên nhằm giảm thiểu tác động của định kiến giới và thúc đẩy sự phát triển năng lực của phụ nữ.

Mục đích nghiên cứu

Thực hiện đề tài này, tôi hướng đến mục tiêu sau:

- Khai thác định kiến về giới (giới nữ) trong ca dao Việt Nam

- Thấy được giá trị của ca dao Việt Nam từ góc nhìn văn hóa

Để xóa bỏ những định kiến giới lạc hậu cản trở sự phát triển của phụ nữ trong xã hội hiện đại, cần đề xuất các giải pháp tuyên truyền và giáo dục hiệu quả Việc nâng cao nhận thức cộng đồng về bình đẳng giới và vai trò của phụ nữ là vô cùng quan trọng Cần tổ chức các chương trình giáo dục, hội thảo và chiến dịch truyền thông nhằm thay đổi quan niệm sai lầm và khuyến khích sự tham gia tích cực của phụ nữ trong mọi lĩnh vực Đồng thời, cần xây dựng các chính sách hỗ trợ và bảo vệ quyền lợi của phụ nữ, tạo điều kiện cho họ phát triển toàn diện.

Nhiệm vụ nghiên cứu

- Hệ thống hoá một số vấn đề lí luận về định kiến giới (khái niệm, đặc điểm…); Khái quát về ca dao Việt Nam

- Nghiên cứu những biểu hiện cụ thể của định kiến giới được phản ánh trong ca dao Việt Nam dưới hình thức nội dung và nghệ thuật.

Phương pháp nghiên cứu

Để giải quyết tốt những vấn đề đặt ra, tôi tiến hành nghiên cứu dựa trên sự vận dụng, kết hợp những phương pháp nghiên cứu sau:

Phương pháp văn hóa học là tập hợp các phương thức và biện pháp dùng để phân tích văn hóa, từ đó hình thành đối tượng nghiên cứu văn hóa.

Phương pháp xã hội học là cách tiếp cận chủ yếu để hiểu quan niệm xã hội về vị thế và vai trò của phụ nữ, đồng thời là công cụ để đánh giá, đối chiếu và giải thích những định kiến về phụ nữ trong một giai đoạn lịch sử cụ thể.

Phương pháp liên ngành là nghiên cứu kết hợp giữa các môn học và ngành học khác nhau, tạo ra sự tổng hợp tri thức đa dạng Quá trình này thiết lập các mối quan hệ tương tác giữa các phương pháp và quy trình của nhiều chuyên gia, khác biệt với tiếp cận chuyên ngành, nơi mà các phương pháp được sử dụng một cách riêng biệt và độc lập.

Phương pháp nghiên cứu văn học dựa trên đặc trưng thể loại đóng vai trò quan trọng trong lý thuyết và thực tiễn văn học Phương pháp này giúp phân tích và hiểu sâu sắc các tác phẩm văn học thông qua các thể loại khác nhau, từ đó làm nổi bật những đặc điểm và giá trị nghệ thuật của chúng.

Nghiên cứu quá trình hình thành và phát triển của các thể loại văn học đồng nghĩa với việc khám phá lịch sử văn học Thể loại không chỉ phản ánh diện mạo mà còn thể hiện sức sống của một giai đoạn văn học, và rộng hơn là của một nền văn học.

Phương pháp thống kê là hệ thống các kỹ thuật bao gồm thu thập, tổng hợp, trình bày số liệu và tính toán các đặc trưng của đối tượng nghiên cứu, phục vụ cho phân tích, dự đoán và ra quyết định Thống kê được chia thành hai lĩnh vực chính: thống kê mô tả và thống kê suy luận.

Các thao tác phân tích và tổng hợp là phương pháp nghiên cứu quan trọng, giúp xem xét và đánh giá các thành quả thực tiễn trong quá khứ Qua đó, chúng ta có thể rút ra những kết luận hữu ích cho thực tiễn và khoa học.

Đóng góp của khóa luận

Khóa luận này nhằm nghiên cứu và hệ thống hóa các cơ sở lý luận liên quan đến định kiến giới, đồng thời phân tích những biểu hiện của định kiến giới trong ca dao thông qua cả nội dung và nghệ thuật.

Để giảm bớt và tiến tới xóa bỏ định kiến giới trong xã hội Việt Nam, cần có những kiến nghị cụ thể đối với hoạt động giáo dục trong trường học cũng như truyền thông trong cộng đồng Những nỗ lực này sẽ góp phần phát huy vai trò và tiềm năng to lớn của phụ nữ trong sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước.

8 Bố cục của khóa luận

Ngoài phần mở đầu, kết luận, tài liệu tham khảo và phụ lục, nội dung khóa luận được kết cấu thành 3 chương:

Chương 1: Cơ sở lý luận của vấn đề nghiên cứu

Chương 2 phân tích định kiến giới trong ca dao Việt Nam qua nội dung, làm nổi bật những quan niệm và giá trị xã hội liên quan đến giới tính Chương 3 khám phá định kiến giới từ góc độ nghệ thuật, nhấn mạnh cách thức mà ngôn ngữ và hình thức biểu đạt trong ca dao phản ánh và củng cố những định kiến này.

CƠ SỞ LÝ LUẬNCỦA VẤN ĐỀ NGHIÊN CỨU

Khái quát về giới, định kiến, định kiến giới

1.1.1 Thuật ngữ giới, định kiến, định kiến giới

Giới là một chủ đề thu hút sự chú ý của nhiều nhà nghiên cứu, với nhiều khía cạnh và định nghĩa khác nhau tùy thuộc vào cách tiếp cận.

Cuốn sách "Những khái niệm cơ bản về giới và vấn đề giới ở Việt Nam" do Trần Thị Quế chủ biên, xuất bản năm 1999, định nghĩa giới là các khái niệm, hành vi, và mối quan hệ xã hội giữa phụ nữ và nam giới trong một bối cảnh cụ thể Điều này nhấn mạnh sự khác biệt giữa hai giới từ góc độ xã hội, thể hiện rõ vai trò và vị trí của phụ nữ và nam giới trong xã hội Việt Nam.

Theo các nhà xã hội học, giới tính không chỉ là khái niệm sinh học mà còn là sự phân biệt xã hội và văn hóa Các nhà nhân học xã hội nhấn mạnh rằng giới tính là sản phẩm của văn hóa, liên quan đến những quan niệm và hành vi được coi là phù hợp với từng giới.

Giới được định nghĩa là đặc điểm, vị trí và vai trò của nam và nữ trong các mối quan hệ xã hội Sự khác biệt sinh học giữa nam và nữ là cố định, trong khi những đặc điểm có thể hoán đổi cho nhau giữa hai giới thuộc về khía cạnh.

Theo Từ điển Bách khoa Toàn thư Việt Nam, định kiến là: “Xu thế tâm lí

Định kiến tiêu cực đối với một nhóm xã hội, cá nhân hay sự vật là hiện tượng khó thay đổi, thường hình thành trong bối cảnh xã hội lịch sử cụ thể và được củng cố qua trải nghiệm cá nhân, gia đình và văn hóa Các loại định kiến có thể liên quan đến chính trị, triết học, tôn giáo, văn hóa, xã hội và quan hệ cá nhân Những người dễ có định kiến thường là những người lo âu, bảo thủ, và điều này gây ra trở ngại lớn trong giao tiếp xã hội, dẫn đến mâu thuẫn không cần thiết Nhìn chung, định kiến là một vấn đề phức tạp và mang tính khái quát, không chỉ giới hạn ở một dạng cụ thể nào.

Công trình "Định kiến, những ghi chú về việc vận hành của những đặc tính bị xói mòn" của nhà xã hội học Canada Erving Goffman (1963) được xem là nền tảng cho nhiều nghiên cứu về bản chất và hệ quả của định kiến Goffman định nghĩa định kiến là những nhận thức sai lệch xã hội về một nhóm cộng đồng cụ thể, gây tổn hại sâu sắc cho nhóm đó và dẫn đến sự chuyển dịch từ nhóm bình thường sang nhóm kém vị thế và ít đáng tin cậy hơn.

Theo quan điểm liên ngành của Ainlay và các cộng sự (1986), việc hình thành định kiến không chỉ diễn ra một chiều giữa các cộng đồng có quyền lực và những cộng đồng ít quyền lực hơn, mà là một quá trình đa chiều Mỗi cộng đồng đều có định kiến về các cộng đồng khác, bất kể sự khác biệt về địa vị xã hội, kinh tế hay chính trị Điều này cho thấy rằng không chỉ "chúng ta" có định kiến về "họ", mà còn phải chịu định kiến từ chính "họ" Quan điểm này được hai anh em nhà Feagin (1996) phát triển và phân tích trong bối cảnh mối quan hệ chủng tộc và tộc người Tuy nhiên, thực tế cho thấy, khi bàn về vấn đề kỳ thị, cả trong học thuật lẫn thực tiễn, khuynh hướng chủ đạo thường được hiểu theo chiều hướng khác.

Định kiến là những quan điểm đã được hình thành trước khi có nhận thức đầy đủ về các thông tin liên quan đến một sự kiện cụ thể Thuật ngữ này thường chỉ những suy nghĩ tiêu cực và đánh giá chủ quan đối với cá nhân hoặc nhóm người dựa trên các yếu tố như giới tính, chính trị, tuổi tác, tôn giáo, chủng tộc, ngôn ngữ, quốc tịch, và ngoại hình Những định kiến này có thể dẫn đến phân biệt đối xử và thường xuất phát từ những niềm tin vô căn cứ Gordon Allport định nghĩa định kiến là cảm giác thuận lợi hoặc bất lợi đối với một người hay vật, hình thành trước khi có trải nghiệm thực tế.

Trong ngôn ngữ dân gian, định kiến và thành kiến thường được sử dụng đồng nghĩa, nhưng có thể phân biệt rõ ràng giữa chúng Định kiến là những suy nghĩ cố định về người hay vật, thường xuất phát từ cái nhìn sai lệch hoặc cảm tính, dẫn đến việc đánh giá thấp Trong khi đó, thành kiến là những định kiến đã hình thành và tồn tại lâu dài, trở thành những suy nghĩ cố chấp.

Định kiến đối với người phụ nữ là những suy nghĩ và cái nhìn sai lệch, thường mang tính cảm tính và có xu hướng đánh giá thấp giá trị của họ Những định kiến này thường hình thành từ môi trường giáo dục, môi trường sống và các mối quan hệ xã hội mà mỗi người trải qua.

Định kiến xã hội gây ra sự phân biệt xã hội, làm méo mó hình ảnh bản thân và dẫn đến những đánh giá sai lệch về chính mình và người khác Điều này tạo ra sự biện minh xã hội, giúp người mang định kiến cảm thấy an tâm và nâng cao giá trị bản thân Định kiến giới cũng vậy, ảnh hưởng đến cách mà cả nam và nữ tự đánh giá cũng như đánh giá người khác, đơn giản hóa nhận thức về giới tính và cản trở sự hiểu biết chính xác giữa các giới Định kiến giới được hiểu là những định kiến xã hội dựa trên giới tính, với sự thiên lệch rõ rệt đối với phụ nữ trong xã hội vẫn tồn tại bất bình đẳng Dưới đây là một số khái niệm về định kiến giới được ghi nhận trong các tài liệu nghiên cứu về giới.

- Định kiến giới là suy nghĩ mà mọi người có về những gì phụ nữ và nam giới có khả năng và hoạt động mà họ có thể làm

Định kiến giới là các đặc điểm mà một nhóm người hoặc cộng đồng xác định là thuộc tính của phụ nữ hoặc nam giới, như quan niệm rằng nội trợ không phải là công việc của đàn ông Những định kiến này thường không phản ánh đúng khả năng thực tế của từng giới, mà lại hạn chế những gì xã hội cho phép hoặc mong đợi từ các cá nhân.

Định kiến giới là những giả định và niềm tin không có cơ sở, thường gây hại cho cả phụ nữ và nam giới, ảnh hưởng tiêu cực đến sức khỏe thể chất và tâm lý của họ.

Định kiến giới là những quan niệm sai lầm về khả năng, tính cách và nghề nghiệp phù hợp với nam giới và nữ giới, chủ yếu ảnh hưởng tiêu cực đến cơ hội phát triển của phụ nữ Những định kiến này không chỉ gây thiệt thòi về tinh thần và vật chất cho phụ nữ mà còn góp phần vào tình trạng bạo lực gia đình Đồng thời, định kiến giới cũng tác động xấu đến nam giới, khi những nghề như giáo viên mầm non hay hộ lý bị coi là chỉ dành cho phụ nữ, từ đó hạn chế sự lựa chọn nghề nghiệp của cả hai giới Điều này được phản ánh rõ nét trong ca dao Việt Nam.

Định kiến giới là những nhận thức và thái độ tiêu cực về đặc điểm, vai trò và khả năng của nam và nữ, dẫn đến những đánh giá sai lệch về vị trí công việc và nghề nghiệp mà họ nên đảm nhận Những định kiến này không phản ánh đúng khả năng thực tế của mỗi cá nhân và hạn chế những gì xã hội cho phép Định kiến giới có thể khác nhau tùy thuộc vào điều kiện kinh tế - xã hội và văn hóa của từng vùng, từng quốc gia.

1.1.2 Đặc điểm và biểu hiện của định kiến giới

1.1.2.1 Đặc điểm của định kiến giới

Nho giáo và vấn đề “định kiến” trong cái nhìn về giới nữ

1.2.1 Nho giáo và ảnh hưởng tích cực của Nho giáo trong xã hội Việt Nam Ở nước ta, Nho giáo đã có lịch sử rất lâu đời Từ khi nước ta bị xâm lược và sáp nhập vào Trung Quốc, từ đời Hán (206 trước Công nguyên đến 220 sau Công nguyên), Nho giáo đã được du nhập vào Việt Nam Sĩ Nhiếp (thế kỷ thứ II sau công nguyên) đã được coi là An Nam học tổ, người mở đầu cho Nho học ở nước ta Trong thời kỳ tự chủ, từ thế kỷ X đến thế kỷ XIV, Nho giáo cùng với Phật giáo và Đạo giáo có vai trò quan trọng trong đời sống tinh thần nước ta Cuối thế kỷ XIV, Nho giáo giành được ưu thế so với Phật giáo, chi phối đời sống tinh thần nước ta

Tiếp nhận dòng chảy văn hóa của nhân loại, Nho giáo vào Việt Nam như một tất yếu của lịch sử Trong suốt quá trình tồn tại, nó đã có ảnh hưởng lớn đến mọi mặt của đời sống xã hội nước ta, trong đó, đạo đức Nho giáo có ảnh hưởng đến đạo đức người phụ nữ Việt Nam nói chung, người phụ nữ ở nông thôn nói riêng ở cả hai chiều cạnh tích cực và tiêu cực Nho giáo được du nhập vào nước ta và đã tồn tại trong suốt thời kỳ phong kiến Trong khoảng thời gian không ngắn đó, lịch sử tư tưởng Việt Nam đã tiếp thu nhiều tư tưởng khác như Phật giáo, Đạo giáo… Đã có thời kỳ Phật giáo giữ vai trò chính yếu, nhưng nhìn chung càng về sau Nho giáo càng chiếm ưu thế và trở thành công cụ tư tưởng cho các triều đại phong kiến Việt Nam Do có thời gian tồn tại lâu dài, do được các triều đại phong kiến tiếp thu và sử dụng có mục đích, cho nên Nho giáo có ảnh hưởng sâu rộng ở nhiều lĩnh vực Đặc biệt, tư tưởng đạo đức Nho giáo đã trở thành cơ sở cho đạo đức thời phong kiến Việt Nam và ngày nay ảnh hưởng của nó vẫn còn Đạo đức Nho giáo tác động đến người phụ nữ Việt Nam, xét từ những yếu tố tích cực, nhân văn, góp phần giáo dục lòng nhân ái, vị tha, bao dung, trọng tình nghĩa, điều này thể hiện trong các quan hệ xã hội, quan hệ giữa người với người; góp phần giáo dục ý thức tôn trọng kỷ cương, nền nếp gia đình, củng cố tinh thần trách nhiệm với gia đình, làng xóm, cộng đồng và để ổn định trật tự xã hội… Đạo đức Nho giáo góp phần giáo dục người phụ nữ hoàn thiện vẻ đẹp hình thức và nội dung với công, dung, ngôn, hạnh để đáp ứng yêu cầu phát triển của xã hội Đức Nhân, Nghĩa của Nho giáo đã làm cho con người có sự đối xử nhân ái, khoan dung, độ lượng với nhau Đức lễ, với hệ thống các qui định chặt chẽ đã giúp con người có thái độ và hành vi ứng xử với nhau theo thứ bậc, theo khuôn phép Xét theo phương diện pháp luật thì lễ của Nho giáo có tác dụng tích cực trong việc duy trì trật tự, kỷ cương của xã hội, ngày nay chúng ta có thể kế thừa Nho giáo quan niệm trong nước cần phải có pháp lễ (luật pháp) thì nước mới nghiêm; trong gia đình phải có gia pháp thì mới có trên có dưới Điều này đã tạo cho con người nếp sống trên kính dưới nhường Tư tưởng chính danh giúp cho con người xác định được nghĩa vụ và trách nhiệm của mình để từ đó suy nghĩ và xử thế đúng trong các quan hệ xã hội Nét đặc sắc của Nho giáo là chú trọng đến vấn đề tu dưỡng đạo đức cá nhân, đặc biệt là chú ý đến đạo đức người cầm quyền (những người có chức, quyền) Ở đây Nho giáo đã nhận thức được một thực tế là những người trong bộ máy nhà nước mà mất đạo đức thì không thể cai trị được nhân dân Cho nên đạo đức là một phương tiện để tranh thủ được lòng dân

Theo Nho giáo, đạo đức người cầm quyền có ảnh hưởng lớn đến sự hưng vong của một triều đại Vì vậy, Khổng Tử khuyên người cầm quyền phải “tu thân” để làm tấm gương cho người dưới Với việc đề cao tu thân, coi đây là cái gốc trong rèn luyện nhân cách, Nho giáo đã tạo nên một lớp người sống có đạo đức Trong lịch sử dân tộc Việt nam đã có nhiều tấm gương sáng ngời về đạo đức của các vị vua, của các anh hùng hào kiệt Theo các nhà kinh điển của Nho giáo, người làm quan phải có đức, phải lấy nhân nghĩa, lấy chữ tín làm mục tiêu để cảm hóa lòng người, để cai trị Muốn vậy, phải đặt lợi ích của thiên hạ lên trên lợi ích của vua quan Thiết nghĩ, ngày nay tư tưởng nêu trên vẫn còn nguyên giá trị Người cán bộ trong bộ máy nhà nước phải có đức, đó là điều kiện đầu tiên để dân tin yêu, kính phục Nho giáo coi những người làm quan mà hà hiếp dân là độc ác, để dân đói rét là nhà vua có tội Nho giáo đã đề cao việc cai trị dân bằng đạo đức, bằng nhân nghĩa, bằng lễ giáo Muốn thực hiện được đường lối đức trị, người cầm quyền phải luôn “tu, tề, trị, bình”

1.2.2 Từ mặt trái đến cái nhìn mang tính định kiến về giới nữ trong xã hội Việt 1.2.2.1 Biểu hiện của cái nhìn định kiến đối với giới nữ trong xã hội Việt xưa

Nho giáo trở thành một hệ tư tưởng thống trị một thời gian dài trong gia đình phong kiến Tuy nhiên, những luật định khá cứng nhắc của nó vô hình chung đã đẩy người phụ nữ vào bức tường không lối thoát Từ xưa đến nay người đứng đầu gia đình là người có trách nhiệm lớn lao nhất trong sự duy trì, phát triển gia đình Trong gia đình nhiều thế hệ, vị trí người gia trưởng thuộc về người cụ, người ông hay người cha thuộc ngành trưởng Tôn ti trật tự gia đình này tuân thủ các quy định về trưởng - thứ, nam - nữ, nội - ngoại hết sức chặt chẽ tạo nên chế độ gia trưởng tông tộc bền vững Chính vì vậy người đứng đầu gia đình phải có đạo đức tốt Nho giáo coi trọng nguồn gốc con người, coi gia đình gắn chặt với họ hàng, coi tuyệt tự, quên mất tổ tiên là tội lỗi với tổ tiên Do đó, việc ghi chép gia phả, cúng tế tổ tiên, họp mặt họ tộc là việc đặc biệt quan trọng, không được bỏ bễ

Nho giáo đề cao chữ Hiếu, đề cao lễ nghĩa, tiết hạnh, bảo vệ gia đình, gia tộc, tông tộc Con cái phải hiếu thảo với cha mẹ, cha mẹ mất thì phải chôn cất chu đáo, cư tang để đền đáp ân nghĩa Trong hôn nhân, Nho giáo đề cao tình nghĩa vợ chồng, không cho phép ngoại tình sau khi kết hôn Người vợ phải biết Tam tòng, tứ đức, ngược lại người chồng cũng không được lạm dụng uy quyền để hành hạ vợ (bởi như thế là hành vi "Bất nhân, bất nghĩa")

Nho giáo đưa ra chuẩn mực về người phụ nữ, người phụ nữ trước hết phải hiểu và làm theo “tam tòng”: “Tại gia tòng phu, xuất giá tòng phu, Phu tử tòng tử” Nghĩa là người phụ nữ khi còn ở nhà thì phải nghe theo cha, người cha quyết định vận mệnh và hạnh phúc của con gái, còn người mẹ luôn giữ vai trò thứ yếu, bởi chính họ cũng phải phụ thuộc vào chồng Chồng chết thì phải theo con, phải ở vậy “tòng” con suốt đời, không được đi bước nữa Suốt đời phải ghi nhớ đạo lý

“tam tòng” nên người phụ nữ luôn là người phụ thuộc vào nam giới, bất kể người đó là cha, là chồng hay là con trai mình Tư tưởng trọng nam, khinh nữ với những tàn dư của nó vẫn còn tồn tại dai dẳng, biểu hiện trong cách nghĩ và hành vi lối sống của người Việt Nam Chính điều này là rào cản đối với phụ nữ, nhất là phụ nữ ở nông thôn trong việc tham gia quản lý, hoạt động xã hội, tiếp cận và hưởng thụ các quyền trên lĩnh vực kinh tế Với việc đề cao tuyệt đối vai trò của người đàn ông, người chồng trong gia đình mà người phụ nữ tự cho mình phải phụ thuộc vào chồng, chấp nhận lép vế so với chồng Từ đó tạo ra quan niệm an phận thủ thường, sự cam chịu, thụ động, lệ thuộc vào chồng, làm cản trở sự phát triển của họ Người phụ nữ chấp nhận cách sống như vậy nên cuộc sống vất vả, toàn tâm toàn ý chăm lo vun vén gia đình, chăm sóc con cái để chồng có thời gian nghỉ ngơi mà không một lời kêu ca, trách móc Việc chia sẻ công việc trong gia đình tuyệt nhiên không có Đạo “Tam tòng” đảm bảo trật tự và thái độ ứng xử đối với các thành viên, sự nể trọng kính nhường nhau trong gia đình Từ đó giúp mở rộng quan hệ với người khác

Bên cạnh đó Nho giáo cũng đề cao về “tứ đức” gồm: Công - Dung - Ngôn

- Hạnh “Công” chỉ sự khéo léo , đảm đang trong công việc gia đình, là nữ công gia chánh, tề gia nội trợ, thêu thùa, làm cỗ bàn tiếp khách… Nói cách khác, đó là tinh thần tận tụy trong việc bếp núc, may vá để phục vụ cho sự an nhàn của người đàn ông Cao hơn nữa là biết cầm kì thi họa nhưng cầm kì thi họa cũng là để phục vụ gia đình làm giảm nhẹ mệt mỏi của chồng ở chốn quan trường về “Dung” là vẻ đẹp hình thức, từ nét mặt, dáng đi khoan thai đến cách ăn mặc và trang điểm Đó chính là yêu cầu về nhan sắc đối với người phụ nữ Khi người đàn ông lựa chọn người phụ nữ làm vợ thì dung nhan là một trong những yêu cầu không kém phần quan trọng “Ngôn” chỉ lời ăn tiếng nói trong giao tiếp, ứng xử với mọi người Điều quan trọng là lời nói phải dịu dàng, có lễ độ, biết gọi dạ bảo vâng, tuyệt đối lễ phép, phụng tùng chồng và cha mẹ chồng “Hạnh” là đức hạnh, là sự tuân theo lễ nghĩa và hiếu với cha mẹ, an hem, biết nhường người, giúp đỡ người, không cay nghiệt độc ác, không kiêu sa… điều cốt yếu là người phụ nữ phải giữ gìn trinh tiết, phải chung thủy với một người chồng duy nhất, cho dù người chồng ấy có là kẻ xấu xa, tàn nhẫn Hơn nữa, nếu chồng chết cũng không được phép tái giá mà phải chọn đời thủ tiết mới đáng được biểu dương, ca ngợi

Cùng với “tam tòng”, “tứ đức”, Nho giáo còn coi trọng trinh tiết Đạo “tiết hạnh” cũng là một sợi dây không kém phần oan nghiệt trói chặt người phụ nữ Theo tiết hạnh, người đàn ông có thể năm thê bảy thiếp nhưng người phụ nữ lại không thể lấy hai chồng Đối với việc quan hệ tình dục trước hôn nhân hoặc sống thử, đạo Nho rất phê phán, xem đó là hành động vô đạo đức, làm nhục gia quy Nhiều người thời hiện đại phê phán tư tưởng này là “cổ hủ, chà đạp quyền tự do”, nhưng nếu suy nghĩ sâu xa thì quy định này đảm bảo sự bền vững của mỗi gia đình cũng như xã hội: Con gái biết quý trọng trinh tiết nên không lo bị Sở Khanh lừa gạt, con trai thì có ý thức giữ gìn bản thân không sa đọa vào nữ sắc, nạn mại dâm không thể lan tràn, bệnh hoa liễu và nạo phá thai được giảm thiểu tối đa (điều này đặc biệt có ý nghĩa trong bối cảnh y học thời xưa còn lạc hậu)

Nho giáo, trái với quan niệm phổ biến cho rằng nó chà đạp phụ nữ, thực tế lại bảo vệ quyền lợi vật chất và tinh thần của họ trong xã hội đầy rẫy thiên tai và dịch bệnh Theo Nho giáo, đàn ông không được ngoại tình hay đánh mắng vợ vì sợ bị phê phán từ gia tộc, và những người mẹ già không phải lo lắng về việc bị con cái bỏ rơi Hơn nữa, kẻ cưỡng hiếp phụ nữ sẽ bị luật pháp trừng trị nghiêm khắc Nho giáo cũng nhấn mạnh tầm quan trọng của việc phụ nữ tu dưỡng bản thân và rèn luyện những đức tính như Công - Dung - Ngôn - Hạnh, chăm sóc gia đình và làm đẹp lòng họ tộc để gia đình được yên ấm Những giá trị tích cực này không chỉ củng cố truyền thống đạo đức mà còn nâng cao phẩm chất tốt đẹp của người phụ nữ Trong gia đình, phụ nữ thường dành thời gian chăm lo cho bố mẹ, chồng và con cái, thể hiện sự nhường nhịn, bao dung và thủy chung.

1.2.2.2 Những định kiến trong Nho giáo

Nho giáo, mặc dù có những ảnh hưởng tích cực, cũng đã để lại nhiều tác động tiêu cực, đặc biệt là trong quan niệm về đạo đức đối với phụ nữ ở Việt Nam Những định kiến này đã gây ra những hệ lụy nghiêm trọng, ảnh hưởng đến nếp nghĩ và lối sống của nhiều người, đặc biệt trong xã hội phong kiến xưa, nơi tư tưởng địa vị và tôn ti trật tự được coi trọng Các vấn đề như gia trưởng, trọng nam khinh nữ, sự coi thường phụ nữ, bạo lực gia đình, và bất bình đẳng giới đã ăn sâu vào tiềm thức của con người, cản trở sự phát triển của hôn nhân tự do và bình đẳng trong phân chia tài sản.

Sự phân biệt giới tính trong quan niệm sinh con trai và con gái vẫn còn tồn tại, ảnh hưởng lớn đến bình đẳng giới Nhiều phụ nữ phải chịu đựng sự ruồng rẫy từ chồng và gia đình chồng chỉ vì không sinh được con trai Theo lễ giáo đạo Nho, việc thờ cúng tổ tiên và nối dõi tông đường được coi là thiêng liêng, khiến cho việc không có con, không có người nối dõi trở thành nỗi khổ tâm lớn.

Trong hôn nhân, đạo đức Nho giáo thường cản trở chính sách hôn nhân tự do, khiến nhiều đôi yêu nhau không thể đến với nhau, dẫn đến sự chia ly và tuyệt vọng Nhiều cô gái phải lấy chồng mà không biết mặt, và không ít người phải chấp nhận làm lẽ do tư tưởng đa thê vẫn còn tồn tại Hệ quả là những người vợ thường bị ngược đãi, xâm hại cả về vật chất lẫn tinh thần trong gia đình.

Quan niệm an phận thủ thường và sự lệ thuộc vào chồng đã ăn sâu trong tiềm thức của nhiều phụ nữ, gây cản trở cho sự phát triển của họ Tư tưởng này cần được thay đổi để phụ nữ có thể tự tin khẳng định bản thân và đóng góp tích cực cho xã hội.

Khái quát về ca dao Việt Nam

Ca dao đã được nghiên cứu từ sớm và đạt nhiều thành tựu đáng kể Nhiều công trình đã giải thích rõ ràng về thuật ngữ và khái niệm ca dao.

Trong văn học Việt Nam, Dương Quảng Hàm định nghĩa ca dao là những bài hát ngắn, không có chương khúc, thường phản ánh tính cách và phong tục của người dân bình dân.

Việt Nam văn học sử yếu, Dương Quảng Hàm, Trung tâm học liệu Sài Gòn, 1968[

Ca dao được định nghĩa là những bài hát dân gian, có thể có hoặc không có chương khúc, được sáng tác theo thể văn vần dân tộc, chủ yếu là lục bát Nó không chỉ miêu tả và tự sự mà còn ngụ ý và diễn đạt những tình cảm sâu sắc của con người.

Ca dao, mặc dù có nhiều định nghĩa khác nhau, nhưng đều thống nhất rằng đây là những câu thơ có thể được hát hoặc ngâm theo những làn điệu dân ca Ca dao được xem là lời thơ dân gian tách biệt với điệu nhạc, trong khi dân ca là sự kết hợp giữa lời thơ và âm nhạc Tuy nhiên, lời và nhạc trong ca dao luôn gắn bó chặt chẽ với nhau, tạo nên sự hòa quyện đặc sắc trong văn hóa dân gian.

1.3.2 Những phương diện nội dung chủ yếu của ca dao

Trong văn chương, người ta đề cập tới ca dao dân ca như là thơ dân gian

Ca dao - dân ca bao gồm: Dân ca nghi lễ, dân ca lao động, ca dao - dân ca trữ tình

Ca dao và dân ca trữ tình là những bài hát thể hiện sâu sắc cảm xúc và tâm trạng của con người, phản ánh thái độ của họ đối với thực tại xung quanh Thể loại này không chỉ diễn tả đời sống tinh thần và tư tưởng của nhân dân mà còn thể hiện tình cảm trong các mối quan hệ đôi lứa, gia đình, quê hương và đất nước.

Ca dao là những lời thơ dân gian, phản ánh sự sáng tạo phong phú của nhân dân và trở thành một thể loại quan trọng trong văn học dân gian Việt Nam Nó không chỉ là những làn điệu dân ca mà còn lưu giữ nhiều giá trị tinh thần của người Việt Để hiểu rõ tình cảm sâu sắc và đa dạng của nhân dân Việt Nam, việc nghiên cứu ca dao là điều không thể thiếu.

Ca dao phản ánh đời sống tâm hồn, tư tưởng và tình cảm của nhân dân Việt Nam trong các mối quan hệ gia đình, lứa đôi và quê hương Xuất hiện trong xã hội cũ, ca dao trữ tình thể hiện những nỗi niềm than thân và phản kháng, đồng thời cũng là những lời ca yêu thương từ cuộc sống đầy xót xa nhưng ấm áp ân tình Ngoài ra, ca dao còn mang đến những bài hát hài hước thể hiện tinh thần lạc quan của người lao động Nó không chỉ phản ánh đời sống vật chất và tinh thần mà còn thể hiện ý thức lao động, sản xuất và tình hình xã hội thời xưa Ca dao bộc lộ cảm xúc chân thành và mạnh mẽ của người bình dân, đồng thời thể hiện phẩm chất của họ trong mối quan hệ với thiên nhiên và xã hội Với đặc điểm nghệ thuật riêng, ca dao thường ngắn gọn, chủ yếu theo thể lục bát, ngôn ngữ gần gũi và giàu hình ảnh, mang đậm sắc thái dân gian.

1.3.2.1 Ca dao Việt Nam là sự phản ánh về lịch sử

Ca dao là biểu hiện rõ nét của tư tưởng đấu tranh của nhân dân Việt Nam, phản ánh cuộc sống xã hội và mối quan hệ với thiên nhiên Qua các thời kỳ lịch sử, ca dao không chỉ ghi lại những bài ca về lịch sử mà còn thể hiện sự trưởng thành của tư tưởng ấy Việc xác định nội dung lịch sử trong ca dao là điều quan trọng, vì một câu ca dao có thể chứa đựng nhiều nội dung lịch sử khác nhau.

“Nước lã mà vã nên hồ, Tay không mà nổi cơ đồ mới ngoan”[11, tr.158]

Câu ca dao này phản ánh hai sự kiện lịch sử quan trọng: một là việc Lý Nam Đế nổi dậy chống lại nhà Lương sau hai bà Trưng, hai là sự hỗ trợ của Dương Vân Nga giúp Lê Hoàn chiếm ngai vàng nhà Đinh.

Ca dao lịch sử sử dụng ngôn ngữ trực tiếp để phản ánh thái độ và quan điểm của nhân dân về các sự kiện lịch sử Thay vì mô tả quá trình diễn biến của lịch sử, ca dao chỉ đề cập đến những sự kiện quan trọng, từ đó thể hiện tâm tư và cảm xúc của cộng đồng.

Nhân dân nói về sự kiện Bà Triệu khởi nghĩa chống lại ách thống trị của quân Ngô xâm lược hồi thế kỷ III:

“Ru con con ngủ cho lành, Ðể mẹ gánh nước rửa bành cho voi

Muốn con lên núi mà coi, Coi bà Triệu tướng cưỡi voi đánh cồng

Túi gấm cho lẫn túi hồng, Têm trầu cánh kiến cho chồng đi quân”[11, tr.181]

Có những câu ca dao nói đến những sự kiện phản ánh tình hình suy thoái của chính quyền phong kiến

Bài thơ "Cơm ăn mỗi bữa mỗi lưng, Bao giờ gánh đá ông Ðăng cho rồi" phản ánh nỗi khổ cực của nhân dân Thanh Hóa vào thời Hậu Lê (1600), khi họ phải lao động vất vả gánh đá để xây dựng sinh từ cho quận công Nguyễn Khải.

“Vạn Niên là Vạn Niên nào?

Thành xây xương lính, hào đào máu dân”.[11, tr.236]

Câu ca dao là lời than của nhân dân khi phải chịu cảnh phu phen tạp dịch nặng nề để xây lăng Vạn Niên cho vua Tự Ðức

1.3.2.2 Ca dao phản ánh nếp sống, phong tục, tập quán truyền thống của nhân dân

Bản sắc văn hóa là yếu tố quan trọng hình thành nên bản sắc dân tộc, thể hiện qua những phong tục, tập quán truyền thống của nhân dân trong các lĩnh vực sinh hoạt vật chất và tinh thần Những giá trị này được lưu giữ và truyền lại qua ca dao, tạo nên những phong tục tập quán có giá trị lâu dài Đặc biệt, các tập quán trong lao động nông nghiệp và ngư nghiệp đóng vai trò quan trọng trong việc gìn giữ và phát huy bản sắc văn hóa dân tộc.

“Người ta đi cấy lấy công, Còn tôi đi cấy còn trông nhiều bề.[11, tr.150]

Bên cạnh đó còn là những câu ca dao thể hiện cảnh sinh hoạt truyền thống:

“Hôm qua anh đến chơi nhà, Thấy mẹ nằm võng, thấy cha nằm giường

Thấy em nằm đất anh thương ”[11, tr.106]

Ca dao đã trở thành một phần tự nhiên và mộc mạc trong đời sống con người, không bị gò bó hay ép buộc Qua nhiều năm, những câu ca dao vẫn khắc sâu trong tâm hồn người Việt, mang lại giá trị quý báu với những ý nghĩa chân thực và sâu sắc.

1.3.2.3 Ca dao phản ánh đời sống tình cảm nhân dân

Ca dao là tiếng hát thể hiện tình yêu con người, phản ánh cảm xúc phong phú và sâu sắc Nó khắc họa vẻ đẹp thiên nhiên và các công trình văn hóa trên khắp đất nước, tạo nên bức tranh sống động về cương vực tổ quốc Qua đó, ca dao thể hiện lòng yêu mến và tự hào về quê hương, con người Việt Nam.

“Nhất cao là núi Tản Viên, Nhất sâu là vũng Thủy Tiên cửa Vường.”[11, tr.150]

“Làm trai cho đáng nên trai, Phú Xuân đã trải, Ðồng nai đã từng…”[11, tr.118]

Sự phong phú của tài nguyên thiên nhiên và các sản phẩm do con người sáng tạo đã tạo nên vẻ đẹp đặc trưng của quê hương, điều này được thể hiện rõ nét trong ca dao.

“Rủ nhau xuống bể mò cua Đem về nấu quả mơ chua trên rừng.”[11, tr.183]

“Anh đi anh nhớ quê nhà nhớ cảnh rau muốn, nhớ cà dầm tương.”[11, tr.12]

1.3.2.4 Ca dao phản ánh đời sống xã hội cũ

ĐỊNH KIẾN GIỚI TRONG CA DAO VIỆT NAM NHÌN TỪ PHƯƠNG DIỆN NỘI DUNG

ĐỊNH KIẾN GIỚI TRONG CA DAO VIỆT NAM NHÌN TỪ PHƯƠNG DIỆN NGHỆ THUẬT

Ngày đăng: 07/07/2022, 21:51

Nguồn tham khảo

Tài liệu tham khảo Loại Chi tiết
1. Nguyễn An (1998), “Truyền thống tôn trọng phụ nữ hay tập quán trọng nam khinh nữ”, Tạp chí Khoa học về phụ nữ, tr. 25- 29 Sách, tạp chí
Tiêu đề: Truyền thống tôn trọng phụ nữ hay tập quán trọng nam khinh nữ”", Tạp chí Khoa học về phụ nữ
Tác giả: Nguyễn An
Năm: 1998
3. Trần Thị Vân Anh (2000), “Định kiến giới và các hình thức khắc phục”, Tạp chí Khoa học về phụ nữ, 5, tr.3 – 10 Sách, tạp chí
Tiêu đề: Định kiến giới và các hình thức khắc phục”, "Tạp chí Khoa học về phụ nữ
Tác giả: Trần Thị Vân Anh
Năm: 2000
4. Phan Kế Bính (1990), Việt Nam phong tục, NXB Đồng Tháp Sách, tạp chí
Tiêu đề: Việt Nam phong tục
Tác giả: Phan Kế Bính
Nhà XB: NXB Đồng Tháp
Năm: 1990
5. Trần Thị Minh Đức, Đỗ Hoàng (2004), “Một sự duy trì định kiến giới về vai trò của nữ và nam trên báo in hiện nay”, Tạp chí Tâm lý học, 6, tr.14 – 18 Sách, tạp chí
Tiêu đề: Một sự duy trì định kiến giới về vai trò của nữ và nam trên báo in hiện nay”, "Tạp chí Tâm lý học
Tác giả: Trần Thị Minh Đức, Đỗ Hoàng
Năm: 2004
6. Trần Thị Minh Đức(chủ biên), Hoàng Xuân Dung, Đỗ Hoàng (2006), Định kiến và phân biệt đối xử theo giới (Lý thuyết và thực tiễn), NXB Đại học Quốc gia Hà Nội Sách, tạp chí
Tiêu đề: Định kiến và phân biệt đối xử theo giới (Lý thuyết và thực tiễn)
Tác giả: Trần Thị Minh Đức(chủ biên), Hoàng Xuân Dung, Đỗ Hoàng
Nhà XB: NXB Đại học Quốc gia Hà Nội
Năm: 2006
7. Dương Quảng Hàm (1968), Việt Nam văn học sử yếu, NXB Trung tâm học liệu Sài Gòn, tr.11 Sách, tạp chí
Tiêu đề: Việt Nam văn học sử yếu
Tác giả: Dương Quảng Hàm
Nhà XB: NXB Trung tâm học liệu Sài Gòn
Năm: 1968
8. Vũ Đình Liên (1757), Lịch sử văn học Việt Nam, NXB xây dựng, Hà Nội Sách, tạp chí
Tiêu đề: Lịch sử văn học Việt Nam
Nhà XB: NXB xây dựng
9. Nguyễn Thị Thịnh (2008), Định kiến giới trong ca dao, tục ngữ, thành ngữ, NXB Đại học Quốc Gia Hà Nội Sách, tạp chí
Tiêu đề: Định kiến giới trong ca dao, tục ngữ, thành ngữ
Tác giả: Nguyễn Thị Thịnh
Nhà XB: NXB Đại học Quốc Gia Hà Nội
Năm: 2008
10. Vũ Ngọc Phan (2017), Tục ngữ, ca dao, dân ca Việt nam, nhà xuất bản Văn học Sách, tạp chí
Tiêu đề: Tục ngữ, ca dao, dân ca Việt nam
Tác giả: Vũ Ngọc Phan
Nhà XB: nhà xuất bản Văn học
Năm: 2017
11. Dương Phong (2014), Ca dao dân ca Việt Nam chọn lọc, nhà xuất bản Văn Học Sách, tạp chí
Tiêu đề: Ca dao dân ca Việt Nam chọn lọc
Tác giả: Dương Phong
Nhà XB: nhà xuất bản Văn Học
Năm: 2014
12. Trần Thị Quế (1999 ), Những khái niệm cơ bản về giới và vấn đề giới ở Việt Nam, Trung tâm nghiên cứu về giới, môi trường và phát triển bền vững, NXB thống kê, Hà Nội Sách, tạp chí
Tiêu đề: Những khái niệm cơ bản về giới và vấn đề giới ở Việt Nam, Trung tâm nghiên cứu về giới, môi trường và phát triển bền vững
Nhà XB: NXB thống kê
13. CEDAW(2006), Thết lập lại quyền cho phụ nữ, Văn phòng khu vực Nam á Sách, tạp chí
Tiêu đề: Thết lập lại quyền cho phụ nữ
Tác giả: CEDAW
Năm: 2006

TỪ KHÓA LIÊN QUAN

TRÍCH ĐOẠN

TÀI LIỆU CÙNG NGƯỜI DÙNG

TÀI LIỆU LIÊN QUAN

w