Tình hình nghiên cứu đề tài
Hiện nay, nghiên cứu về thời hiệu khởi kiện trong giải quyết tranh chấp đặt cọc còn hạn chế và thiếu tính chuyên sâu Tác giả nhận thấy chưa có công trình nào toàn diện về đề tài này Các tài liệu tham khảo được sử dụng đa dạng, bao gồm giáo trình, sách chuyên khảo, bình luận án, luận văn Thạc sĩ và tạp chí Qua quá trình nghiên cứu và chọn lọc, tác giả đã phát hiện một số công trình nghiên cứu liên quan có giá trị đáng kể.
- Sách chuyên khảo, giáo trình
Đỗ Văn Đại (2017) đã xuất bản cuốn sách "Luật nghĩa vụ và bảo đảm thực hiện nghĩa vụ - Bản án và bình luận án - Tập 2" (ấn bản lần thứ ba) tại Nhà xuất bản Hồng Đức, phối hợp với Hội Luật gia Việt Nam Cuốn sách cung cấp cái nhìn sâu sắc về các quy định pháp lý liên quan đến nghĩa vụ và các biện pháp đảm bảo thực hiện nghĩa vụ trong hệ thống pháp luật Việt Nam.
Cuốn sách này bình luận về đặt cọc và thời hiệu khởi kiện tranh chấp đặt cọc, dựa trên các vụ việc thực tiễn và chỉ ra những vướng mắc trong áp dụng pháp luật Tác giả tập trung phân tích hai trường hợp chính: thời hiệu khởi kiện về tranh chấp đòi tài sản đặt cọc và đòi tiền tương đương với tài sản đặt cọc Mặc dù một số vấn đề như thời hiệu khởi kiện yêu cầu tuyên đặt cọc vô hiệu và yêu cầu trả lãi phát sinh vẫn chưa được phân tích cụ thể, đây vẫn là phần bình luận quan trọng giúp triển khai nội dung chính của đề tài.
+ Đỗ Văn Đại (2018), Luật hợp đồng Việt Nam – Bản án và bình luận án – Tập
Tài liệu "Thời hiệu khởi kiện" (xuất bản lần thứ bảy) của Nxb Hồng Đức – Hội Luật gia Việt Nam, Hà Nội, phân tích các khía cạnh liên quan đến thời hiệu khởi kiện, bao gồm yêu cầu tuyên bố vô hiệu do vi phạm điều cấm, giả tạo, và vi phạm điều kiện về chủ thể; cũng như thời hiệu yêu cầu Tòa án hủy bỏ hợp đồng và giải quyết tranh chấp hợp đồng Mặc dù chưa nghiên cứu trực tiếp về thời hiệu khởi kiện trong tranh chấp đặt cọc, tài liệu cung cấp cơ sở để tác giả phân tích và đánh giá nhằm tìm ra giải pháp phù hợp Tương tự, tác phẩm của Tưởng Duy Lượng (2008) "Xử lý các tranh chấp trong một số án dân sự" nêu bật các tranh chấp trong giao dịch dân sự thông qua các vụ án thực tế, nghiên cứu lý luận và thực tiễn của đặt cọc, thời hiệu khởi kiện, và phương hướng giải quyết các tranh chấp này, giúp làm rõ bản chất và áp dụng thời hiệu khởi kiện một cách thích hợp.
Nguyễn Thị Hoài Phương (2011) trong tác phẩm "Thủ tục khởi kiện và giải quyết tranh chấp tại Tòa án, Trọng tài - cơ chế hiện hữu bảo vệ quyền dân sự" đã phân tích sâu sắc về quy trình khởi kiện và cách thức giải quyết tranh chấp tại các cơ quan pháp lý Cuốn sách được xuất bản bởi Nxb Lao động tại TP Hồ Chí Minh, cung cấp cái nhìn toàn diện về các cơ chế pháp lý hiện có nhằm bảo vệ quyền lợi dân sự của công dân.
Tài liệu này phân tích quy phạm về thời hiệu khởi kiện tại Tòa án, bao gồm khái niệm, nguyên tắc xác định, thời gian không tính vào thời hiệu, cách bắt đầu lại thời hiệu, và các trường hợp không áp dụng thời hiệu Ngoài ra, tài liệu còn đề cập đến thời hiệu áp dụng cho một số tranh chấp cụ thể Mặc dù không đi sâu vào thời hiệu khởi kiện trong các tranh chấp đặt cọc, nhưng nội dung này giúp tác giả liên hệ và đánh giá các vấn đề liên quan trong đề tài.
Trường Đại học Luật TP Hồ Chí Minh đã xuất bản Giáo trình Những quy định chung về Luật Dân sự (tái bản lần 1, có sửa đổi, bổ sung) vào năm 2018, do Nxb Hồng Đức – Hội phát hành.
Giáo trình luật gia Việt Nam tại Hà Nội cung cấp những vấn đề lý luận cơ bản về giao dịch dân sự và thời hiệu khởi kiện, bao gồm khái niệm, điều kiện có hiệu lực của giao dịch, thời hiệu khởi kiện yêu cầu tuyên bố giao dịch vô hiệu, và hậu quả khi hết thời hiệu Tài liệu này giúp tác giả hệ thống hóa kiến thức nền tảng, làm cơ sở lý luận cho việc định hướng nội dung nghiên cứu trong đề tài.
+ Đào Thị Ngọc Thuận (2015), Đặt cọc theo quy định của Bộ luật Dân sự năm
Luận văn Thạc sĩ năm 2005 tại Trường Đại học Luật TP Hồ Chí Minh nghiên cứu về đặt cọc, tập trung vào việc đánh giá các quy phạm pháp luật và thực tiễn áp dụng trong giải quyết tranh chấp liên quan Đề tài phân tích thời hiệu khởi kiện đòi tài sản đặt cọc, chỉ ra những bất cập trong quy định hiện hành và kế thừa các giá trị nghiên cứu trước đó Nghiên cứu này tạo nền tảng cho tác giả phát triển thêm các khía cạnh khác liên quan đến đặt cọc trong tương lai.
Nguyễn Thị Thuận (2020) trong luận văn Thạc sĩ tại Trường Đại học Luật TP Hồ Chí Minh đã phân tích các vấn đề lý luận và thực tiễn liên quan đến việc đặt cọc nhằm đảm bảo mua bán nhà ở trong các dự án nhà ở thương mại tại Việt Nam Luận văn nêu rõ những đánh giá và ý kiến khoa học về giá trị pháp lý của đặt cọc, đồng thời so sánh từ góc độ pháp lý để làm sáng tỏ các vấn đề liên quan Qua đó, tác giả giúp người đọc hiểu rõ bản chất của đặt cọc, các tranh chấp có thể phát sinh, và cung cấp cơ sở cho việc lựa chọn áp dụng thời hiệu khởi kiện cho những tranh chấp này.
Đỗ Văn Đại (2011) trong bài viết “Về thời hiệu kiện đòi tài sản trong pháp luật dân sự Việt Nam” đã phân tích thời hiệu khởi kiện đòi tài sản từ góc độ quy định pháp luật, thực tiễn áp dụng và kinh nghiệm nước ngoài Bài viết so sánh các quy định của pháp luật dân sự Việt Nam và đề xuất hướng giải quyết tranh chấp liên quan Qua đó, tác giả thu thập thông tin để nghiên cứu sâu hơn về bản chất yêu cầu đòi tài sản trong đặt cọc và thời hiệu khởi kiện trong các tranh chấp liên quan đến đặt cọc.
Đặng Thanh Hoa (2017) trong bài viết “Bàn về không áp dụng thời hiệu khởi kiện đối với yêu cầu bảo vệ quyền sở hữu” trên Tạp chí Tòa án nhân dân, số 8, đã phân tích các vấn đề liên quan đến yêu cầu bảo vệ quyền sở hữu và bản chất của yêu cầu này Bài viết nhấn mạnh việc không áp dụng thời hiệu khởi kiện đối với yêu cầu bảo vệ quyền sở hữu, mặc dù không đề cập trực tiếp đến tranh chấp đặt cọc Tuy nhiên, từ nội dung bài viết, tác giả đã xác định được thời hiệu khởi kiện áp dụng cho các tranh chấp đặt cọc liên quan đến quyền sở hữu.
Bài viết của Lê Minh Hùng và Lê Khả Luận (2021) trên Tạp chí Nhà nước và pháp luật phân tích thời hiệu khởi kiện yêu cầu tuyên đặt cọc vô hiệu, nghiên cứu các quy định pháp luật và thực tiễn xét xử để chỉ ra những vướng mắc liên quan Tương tự, Đặng Phước Thông và Lê Khả Luận (2021) trong Tạp chí Luật học đã tập trung vào thời hiệu khởi kiện trong các trường hợp yêu cầu tuyên bố đặt cọc vô hiệu và trả lại tài sản đặt cọc, đồng thời kiến nghị hoàn thiện quy định pháp luật về vấn đề này Cả hai tài liệu đều thể hiện quan điểm khoa học và nội dung nghiên cứu của các tác giả về vấn đề thời hiệu khởi kiện.
Đoàn Đức Lương và Trần Ngọc Sơn (2017) trong bài viết “Thời hiệu khởi kiện các vụ án dân sự theo pháp luật Việt Nam” trên Tạp chí pháp luật và thực tiễn, số 1, đã phân tích và so sánh quy định về thời hiệu khởi kiện trong Bộ luật Dân sự và Bộ luật Tố tụng dân sự cũ với Bộ luật Dân sự hiện hành Bài viết không chỉ làm rõ những vấn đề chưa rõ ràng mà còn cung cấp thông tin quan trọng về sự thay đổi quy định thời hiệu khởi kiện và bản chất của các loại thời hiệu khởi kiện, đặc biệt trong việc giải quyết tranh chấp đặt cọc.
Mặc dù các nghiên cứu trước đây chưa giải quyết toàn diện các vấn đề pháp lý và thực tiễn liên quan đến thời hiệu khởi kiện trong các tranh chấp đặt cọc, và nhiều tài liệu chưa áp dụng đầy đủ các quy định của pháp luật hiện hành, nhưng chúng vẫn là nguồn tài liệu quý giá cho tác giả trong việc hoàn thiện Luận văn này.
Phương pháp nghiên cứu
Trong quá trình thực hiện đề tài, tác giả sẽ sử dụng một số phương pháp nghiên cứu sau:
Thứ nhất, phương pháp phân tích, được sử dụng xuyên suốt đề tài, chủ yếu tại
Chương 1 giải thích và làm rõ các quy định pháp luật hiện hành, trong khi Chương 2 và Chương 3 áp dụng phương pháp nghiên cứu để phân tích các vụ việc thực tế và các vấn đề pháp lý liên quan, từ đó cung cấp cho người đọc cái nhìn cụ thể về vấn đề nghiên cứu.
Phương pháp kết hợp lý luận với thực tiễn được tác giả áp dụng chủ yếu trong Chương 2 và Chương 3, nhằm đánh giá khả năng thực thi của các quy định pháp luật hiện hành trong việc giải quyết các tranh chấp phát sinh trong thực tế.
Phương pháp so sánh được áp dụng trong bài viết này nhằm phân tích quy định pháp luật Việt Nam và các quốc gia khác Trong các chương 1, 2 và 3, tác giả sử dụng phương pháp này để so sánh cách thức giải quyết tranh chấp đặt cọc của các Tòa án, từ đó rút ra những điểm tương đồng và khác biệt trong quy trình pháp lý.
Trong Chương 2 và Chương 3, tác giả áp dụng ba phương pháp nghiên cứu chính: (i) phương pháp bình luận nhằm đánh giá các vấn đề pháp lý trong từng vụ việc cụ thể và tính hợp lý của các quy định áp dụng trong giải quyết tranh chấp tại Tòa án; (ii) phương pháp tổng hợp để kết nối các vụ việc thực tế, từ đó phát hiện những vướng mắc và bất cập, đồng thời đưa ra kiến nghị nhằm hoàn thiện pháp luật dân sự Việt Nam về thời hiệu khởi kiện trong giải quyết tranh chấp đặt cọc.
6 Dự kiến điểm mới, các đóng góp mới của đề tài
Luận văn hoàn thành cung cấp cái nhìn tổng quát về thời hiệu khởi kiện tranh chấp đặt cọc theo pháp luật dân sự Việt Nam Những bất cập và kiến nghị được nêu ra sẽ là cơ sở quan trọng để xem xét, từ đó góp phần hoàn thiện quy định của Bộ luật Dân sự năm 2015 cùng các văn bản hướng dẫn thi hành.
Tác giả tiến hành nghiên cứu một cách có hệ thống về thời hiệu khởi kiện tranh chấp đặt cọc theo quy định của pháp luật dân sự Việt Nam Nghiên cứu này diễn ra trong bối cảnh giao dịch đặt cọc là một hình thức giao dịch phổ biến, thường xuyên phát sinh nhiều tranh chấp thực tiễn.
Tác giả chỉ ra rằng hiện nay có nhiều bản án và vụ việc chưa được giải quyết thống nhất, cùng với đó là những điểm chưa phù hợp trong việc thực thi quy định pháp luật về thời hiệu khởi kiện liên quan đến đặt cọc Các vấn đề cần xem xét bao gồm yêu cầu tuyên bố đặt cọc vô hiệu, giải quyết hậu quả pháp lý, hoàn trả tài sản đặt cọc, đòi tiền phạt và lãi phát sinh Dựa trên thực tiễn này, tác giả đề xuất các kiến nghị điều chỉnh và bổ sung nhằm hoàn thiện pháp luật về thời hiệu, đặc biệt là trong các tranh chấp liên quan đến đặt cọc, nhằm hạn chế tranh chấp phát sinh và định hướng giải quyết cho các Tòa án một cách thống nhất, nhanh chóng và hiệu quả.
7 Kết cấu của luận văn
Chương 1 Những vấn đề chung về thời hiệu khởi kiện trong giải quyết tranh chấp đặt cọc
Chương 2 Thời hiệu khởi kiện yêu cầu tuyên bố đặt cọc vô hiệu
Chương 3 Thời hiệu khởi kiện trong việc xử lý vi phạm đặt cọc
CHƯƠNG 1 NHỮNG VẤN ĐỀ CHUNG VỀ THỜI HIỆU KHỞI KIỆN
TRONG GIẢI QUYẾT TRANH CHẤP ĐẶT CỌC 1.1 Khái quát về thời hiệu khởi kiện trong giải quyết tranh chấp đặt cọc
1.1.1 Khái niệm thời hiệu khởi kiện trong giải quyết tranh chấp đặt cọc
Theo Điều 328 Bộ luật Dân sự 2015, đặt cọc là hành vi mà một bên (bên đặt cọc) giao cho bên kia (bên nhận đặt cọc) một khoản tiền hoặc tài sản có giá trị trong một thời hạn nhất định, nhằm đảm bảo việc giao kết hoặc thực hiện hợp đồng Để quan hệ đặt cọc phát sinh, cần có sự giao tài sản giữa các bên, với mục đích bảo đảm cho hợp đồng chính.
Đặt cọc có hiệu lực ngay khi hai bên đã thực hiện việc chuyển giao một khoản tiền hoặc tài sản cụ thể Từ thời điểm này, đặt cọc ràng buộc các bên về mặt pháp lý trong việc thực hiện nghĩa vụ và quản lý tài sản Mục đích của đặt cọc là đảm bảo việc giao kết và thực hiện một hợp đồng khác, đồng thời ổn định các quan hệ dân sự, ngăn chặn lừa dối và bội tín, nâng cao trách nhiệm của các bên tham gia giao dịch Đặt cọc vừa mang tính chất của một giao dịch dân sự, thường được thể hiện dưới dạng hợp đồng, vừa là biện pháp bảo đảm với chế tài thỏa thuận trước khi vi phạm Thực chất, đặt cọc là sự thỏa thuận giữa các bên và là một loại giao dịch đặc biệt trong hợp đồng dân sự.
1 Đỗ Văn Đại (chủ biên) (2019), Giải quyết tranh chấp Hợp đồng - Những điều doanh nhân cần biết, Nxb Thanh niên, Hà Nội, tr 305
Trong lĩnh vực khoa học pháp lý, hợp đồng có đặt cọc bảo đảm giao kết thường được gọi bằng nhiều tên khác nhau như hợp đồng có đặt cọc, hợp đồng bảo đảm hoặc hợp đồng chính Để đảm bảo sự thống nhất trong việc sử dụng thuật ngữ và phân biệt với hợp đồng đặt cọc, tác giả quyết định sử dụng thuật ngữ “hợp đồng chính” trong toàn bộ nội dung nghiên cứu.
3 Hoàng Thế Liên (chủ biên) (2009), Bình luận khoa học Bộ luật Dân sự năm 2005 – Tập 2, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, tr 148
4 Nguyễn Xuân Quang và Nguyễn Phước Quí Quang (2015), “Một số vấn đề pháp lý về đặt cọc”, Tạp chí Phát triển và hội nhập, số 20 (30), tr 64
5 Đỗ Văn Đại (2017), Luật nghĩa vụ và bảo đảm thực hiện nghĩa vụ Việt Nam - Bản án và bình luận bản án -
Tập 1 (xuất bản lần thứ ba), Nxb Hồng Đức – Hội Luật gia Việt Nam, Hà Nội, tr 354
6 Tưởng Duy Lượng (2008), Xử lý các tranh chấp trong một số án dân sự, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, tr
7 Trường Đại học Luật Hà Nội (2015), Giáo trình Luật dân sự Việt Nam – Tập 2, Nxb Công an nhân dân, Hà Nội, tr 101
8 Tưởng Duy Lượng, tlđd (6), tr 164 điều chỉnh của các quy định về giao dịch dân sự nói chung, quy định về hợp đồng nói riêng 9
Về tranh chấp đặt cọc, tranh chấp được giải thích theo từ điển tiếng Việt là
Tranh chấp dân sự là những bất đồng phát sinh từ quan hệ dân sự, thường liên quan đến quyền lợi giữa các bên Theo Bộ luật Dân sự năm 2015, tranh chấp này có thể liên quan đến quyền và nghĩa vụ về nhân thân, tài sản của cá nhân và pháp nhân Tranh chấp hợp đồng, theo Từ điển Luật học, là những bất đồng trong quá trình thực hiện hợp đồng do không thực hiện hoặc thực hiện không đúng nghĩa vụ Dưới góc độ pháp lý, tranh chấp đặt cọc là những bất đồng khi mục đích đặt cọc không đạt được, dẫn đến xung đột về quyền và lợi ích giữa các bên, đặc biệt khi hợp đồng bảo đảm không được giao kết hoặc thực hiện không đúng, gây thiệt hại cho một hoặc nhiều bên.
Theo khoản 3 Điều 150 BLDS năm 2015, thời hiệu khởi kiện là khoảng thời gian mà cá nhân hoặc tổ chức có quyền yêu cầu Tòa án giải quyết vụ án dân sự để bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của mình Nếu thời gian này kết thúc, họ sẽ mất quyền khởi kiện Thời hiệu khởi kiện được pháp luật quy định nhằm giúp các bên thực thi quyền lợi và lựa chọn cách xử sự phù hợp Tòa án không chủ động viện dẫn thời hiệu khởi kiện mà chỉ áp dụng khi có yêu cầu từ một hoặc cả hai bên, và yêu cầu này phải được đưa ra trước khi Tòa án cấp sơ thẩm ra bản án hoặc quyết định, tuân theo nguyên tắc tự do trong pháp luật dân sự.
9 Đỗ Văn Đại (2017), Luật nghĩa vụ và bảo đảm thực hiện nghĩa vụ Việt Nam - Bản án và bình luận bản án -
Tập 2 (xuất bản lần thứ ba), Nxb Hồng Đức – Hội Luật gia Việt Nam, Hà Nội, tr 309
10 Viện Ngôn ngữ học (2003), Từ điển tiếng Việt, Nxb Đà Nẵng - Trung tâm Từ điển học, tr 1024
11 Thái Văn Mừng (2019), “Phân biệt tranh chấp kinh doanh, thương mại với tranh chấp dân sự”, Tạp chí Kiểm sát, số 24, tr 32
12 Bộ Tư pháp - Viện Khoa học pháp lý (2006), Từ điển Luật học, Nxb Từ điển bách khoa - Nxb Tư pháp, Hà Nội, tr 805 – 806
Theo Bộ luật Dân sự năm 2015 và Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015, nguyên tắc tự nguyện và quyền tự do quyết định của cá nhân được ghi nhận tại khoản 2 Điều 3 và Điều 5, nhấn mạnh sự quan trọng của quyền tự định đoạt trong các giao dịch và thủ tục pháp lý.
Thời hiệu khởi kiện là khoảng thời gian mà các bên phải nộp đơn khởi kiện theo quy định của pháp luật, ví dụ như theo BLTTDS California Nếu quá thời hạn này, yêu cầu pháp lý sẽ không còn hiệu lực Thời gian nộp đơn kiện có thể khác nhau tùy thuộc vào từng loại yêu cầu pháp lý cụ thể.
Thời hiệu khởi kiện tại Maryland đề cập đến khoảng thời gian giới hạn mà cá nhân có thể nộp đơn kiện đối với hành vi vi phạm Theo Bộ luật Dân sự Cộng hòa Liên bang Đức, thời hiệu khởi kiện là thời gian mà một bên phải đưa ra yêu cầu kiện hoặc thông báo về yêu cầu đó cho bên kia Khi thời hiệu khởi kiện đã hết, yêu cầu khởi kiện của bên đó sẽ không còn hiệu lực.